Con Người: Tiến Trình Phá Sản Luân Lý

với ĐTC GPII

 

 

 

Chưa bao giờ Lời Chúa trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XIV tuần này ứng nghiệm một cách chí lý và xác thực cho bằng lúc này. Thành phần “hiền triết và khôn ngoan” được Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm, thành phần nói chung được gọi là trí thức đây không hiểu gì về những điều Thiên Chúa tỏ ra cho loài người biết qua Chúa Giêsu Kitô Con Ngài. Phải chăng đó là lý do, thành phần trí thức này, mang danh là các khoa học gia, hay những nhà lập pháp ở các quốc hội, hoặc các vị thẩm phán thuộc ngành tư pháp v.v., đã có những thí nghiệm phi nhân bản, như tạo sinh ống nghiệm và tạo sinh sao bản, đã ban bố những đạo luật phi đạo lý, như cho phép phá thai và đồng tính hôn nhân, đã thực hiện những án quyết phản công lý, như cho đốt cờ quốc gia, cho ly dị đơn phương, hay cho triệt sinh bức tử con người, như vụ Terry Schiavo ở Florida cuối tháng 3/2005 vừa rồi. Tại sao con người thời đại càng văn minh lại càng bị phá sản về luân lý như thế, chẳng khác gì như một anh hề “đóng khố đi giầy tây” trên khấu trường lịch sử như thế? Chúng ta chỉ tìm thấy câu trả lời đích đáng cho hiện tượng khủng hoảng về tâm linh và đạo lý của con người ngày nay nơi tác phẩm “Hồi Niệm và Căn Tính” của ĐTC GPII, tác phẩm cuối cùng ngài để lại cho nhân loại trước khi ngài vĩnh viễn ra đi 2 tháng, với những nhận định của ngài về lịch sử con người và phương thể để lấy lại căn tính con người. 

 

Qua những nhận định của Vị Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trên đây, kể cả trong Thông Điệp “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần” ngày 4/3/1979, lẫn trong tác phẩm “Hồi Niệm và Căn Tính” vào thời điểm tháng 3/2005, thì thế giới đã sống trong “một thời điểm của mối đe dọa đối với con người bằng nhiều hình thức… của những hủy hoại lớn lao đối với con người, của những tàn phá vĩ đại, chẳng những về vật chất mà còn cả về luân lý, thực sự là thế, có lẽ trên hết là về mặt luân lý”. Cũng chính vì “những tàn phá vĩ đại trên hết là về mặt luân lý” như thế mà thế giới hiện nay (hơn bao giờ hết) đã tiến đến một cuộc “diệt chủng về pháp lý”, được thực hiện bởi một thứ chủ nghĩa độc tài chuyên chế được che đậy một cách tinh khéo dưới những dạng thức dân chủ”.

 

Tại sao lại xẩy ra một hiện tượng ngược đời như thế, ở chỗ, chính lúc con người văn minh không còn ăn lông ở lỗ, lại là lúc con người sống theo luật rừng “jungle law” mạnh được yếu thua hơn bao giờ hết: nhân danh tự do để phạm đến nhân quyền và luân lý (như phá thai và hôn nhân đồng tính), nhân danh tiến bộ khoa học hay nhân đạo để tàn sát sự sống (như tạo sinh sao bản phôi bào con người và triệt sinh an tử), thậm chí nhân danh Thiên Chúa để khủng bố tấn công tiệu diệt đồng loại v.v.?

 

Lịch sử đã hiển nhiên cho thấy, cuộc khủng hoảng này cùng với những ý hệ sự dữ của nó đều xuất phát từ chung Tây Phương (kể cả Bắc Mỹ) và riêng Âu Châu (cách riêng Tây Âu), một châu lục chẳng những mở màn cho ý thức triết học (từ Hy Lạp trước Công Nguyên) mà còn cho cả văn minh vật chất (khoa học và kỹ thuật) lẫn văn minh nhân bản (nhân phẩm và nhân quyền), một châu lục có thể gọi là thế giới Kitô giáo và theo văn minh Kitô giáo, một châu lục chẳng những đã truyền bá văn minh vật chất và nhân bản khắp thế giới mà cả Kitô giáo nữa. Thế mà, trong thế kỷ 20 cũng là thế kỷ kết thúc hai ngàn năm Kitô giáo của họ, hai Thế Chiến chính yếu đã xẩy ra ở châu lục này, và hai chủ nghĩa độc tài sắt máu Nazi và Cộng sản cũng bắt nguồn từ châu lục này, để rồi, cho đến nay, châu lục này, trong nội bộ, đang bị phá sản văn hóa và đức tin hơn bao giờ hết, và đang cần phải được cấp thời tái truyền bá phúc âm hóa.

 

Tại sao thế? Phải chăng vì Kitô giáo là căn gốc chung của châu lục này không có khả năng cứu độ, không có tác dụng gì vào thời điểm con người văn minh? Hay vì châu lục văn mình này đã hoàn toàn chối bỏ căn tính Kitô giáo của mình, (như bản dự thảo của Khối Hiệp Nhất Âu Châu cho thấy), mà nó đã chẳng những đi đến chỗ mất gốc mà còn đang bị bật gốc nữa? (xin xem cùng một tác giả, “Giới Trẻ Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng”, Cao-Bùi 1996, trang 10-11; “Ý Thức Kitô Giáo”, Cao-Bùi 1998, trang 3-5; “Ánh Sáng Thế Gian”, Trung Tâm Mục Vụ Việt Nam Tại Hoa Kỳ, 2000, trang 7-8):

 

·        “Như thế, hiện tượng thụt lùi của đạo (về luân thường tín lý) trước đà lấn át của đời (về tiện nghi vật chất) không phải là một bằng cớ phủ nhận chính đáng và hiển nhiên nhất bản chất chân thật và thiện hảo đích thực của Kitô Giáo sao??

 

“Ngược lại, cũng có thể đặt vấn đề như thế này, sở dĩ lịch sử, ở vào thế kỷ 20 nói chung và hậu bán thế kỷ này nói riêng, đang thoi thóp như hấp hối chết trong mùa đông ‘văn hóa tử vong’ (‘culture of death’ - thành ngữ của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II) như thế, chính là vì con người đã lìa bỏ văn hóa Kitô Giáo, một văn hóa đã làm nên ‘văn minh yêu thương’ (‘civilization of love’ - thành ngữ của Đức Thánh Cha Phaolô VI) cho cả 20 thế kỷ qua”.

 

Theo Vị Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, sở dĩ Âu Châu (và từ Âu Châu lan đến toàn thế giới) đã đi đến thảm trạng này là vì châu lục này đã phủ nhận căn tính Kitô giáo của mình, phủ nhận Ơn Cứu Chuộc, bằng việc chấp nhận và sống theo ý hệ duy nhân bản sai lầm về con người, một ý hệ phát xuất từ Thời Minh Tri hay Chủ Nghĩa Minh Tri (Enlightenment) chủ trương duy lý, một thời đã bị ảnh hưởng bởi cuộc cách mạng triết học trước đó của một triết gia người Pháp là Descartes.

Đúng thế, trong tác phẩm “Hồi Niệm và Căn Tính” 2005, (Chương 2 về “Những Ý Hệ của Sự Dữ”, trang 7-12), vị giáo hoàng từng dạy triết lý ở Balan đã viết :

 ·        Qua năm tháng, tôi càng ngày càng thâm tín rằng các thứ ý hệ sự dữ được cắm rễ sâu trong lịch sử tư tưởng triết học Âu Châu. Ở đây tôi cần phải đề cập tới một số khía cạnh của lịch sử Âu Châu, nhất là các xu hướng văn hóa chủ chốt của nó. Khi bức thông điệp về Chúa Thánh Thần được ban hành (biệt chú của người dịch: bức thông điệp được ngài ký ngày 18/5/1986), đã xẩy ra một số phản ứng tiêu cực từ một số thành phần ở Tây Phương. Cái gì đã thúc động những phản ứng ấy? Chúng xuất phát từ cùng nguồn mạch được gọi là chủ nghĩa Minh Tri Âu Châu trên hai thế kỷ trước đó, nhất là Minh Tri Pháp quốc, mặc dù không nói đến các kiểu Minh Tri khác như Anh, Đức, Tây Ban Nha và Ý. Chủ nghĩa Minh Tri ở Balan theo đường lối riêng của mình. Tuy nhiên, Nga hoàn toàn thoát khỏi cuộc đột biến Minh Tri này. Ở Nga, cuộc khủng hoảng của truyền thống Kitô giáo xuất phát từ một hướng khác, được bùng lên vào đầu thế kỷ 20 một cách mãnh liệt hơn nữa nơi hình thức của cuộc cách mạng Mat-xít vô thần cực đoan.

 “Để hiểu rõ hơn về hiện tượng này, chúng ta cần phải trở về với giai đoạn trước Thời Minh Tri, nhất là với cuộc cách mạng gây ra bởi tư tưởng triết lý của Descartes. Câu cogito, ergo sum (tôi nghĩ nên tôi là) là những gì đã làm biến đổi tận gốc rễ đường lối thể hiện triết học. Vào giai đoạn trước Descartes thì triết lý, vấn đề phải nói là cogito (nghĩ tưởng) hay nói cách khác là cognosco (ý nghĩ), yếu tố thấp hơn esse (yếu tính) là yếu tố được coi là phải có trước. Thế nhưng, đối với Descartes, yếu tính lại là những gì thứ yếu, và ông cho cogito (nghĩ tưởng) là tiền hữu. Điều này chẳng những làm thay đổi chiều hướng triết lý hóa mà còn đánh dấu một cuộc dứt khoát loại trừ những gì triết lý vẫn có cho tới bấy giờ, nhất là triết lý của Thánh Tôma Aquinas được gọi là triết lý về esse (yếu tính). Trước đó, mọi sự đều được giải thích theo quan điểm yếu tính và việc giải thích mọi sự đều được căn cứ vào quan điểm này. Thiên Chúa, một Hữu Thể Toàn Mãn (Ens subsistens) được tin là căn nguyên thiết yếu của hết mọi ens non subsistens, ens participatum, tức là của tất cả mọi vật được tạo thành, bao gồm cả con người. Câu cogito, ergo sum đã đánh dấu một cuộc thoát ly từ chính giới tuyến suy nghĩ ấy. Giờ đây ens cogitans (vật nghĩ tưởng) đã chiếm phần ưu thế. Sau Descartes, triết lý trở thành một khoa học thuần nghĩ tưởng: tất cả esse (yếu tính) – nơi cả thế giới tạo sinh lẫn Hóa Công – đều ở trong phạm vi của cogito (nghĩ tưởng), như những gì được chất chứa nơi tâm thức con người. Triết học bấy giờ tự cho mình là các hữu thể qua (như) nội dung của tâm thức, chứ không phải các hữu thể qua (như) những gì hiện hữu tách biệt khỏi nó.

 “… Những diễn tiến về triết lý xẩy ra ở Tây Âu sau Thời Minh Tri. Trong các điều được nói tới, người ta nói về vấn đề ‘suy thoái của chủ nghĩa thực thể Tôma’, và vấn đề này được hiểu là bao gồm cả việc loại bỏ đi Kitô giáo là một thứ nguồn mạch cho việc triết lý hóa. Đặc biệt là ngay cả vấn đề có thể đạt tới Thiên Chúa cũng được xét lại. Theo lý lẽ của cogito, ergo sum thì Thiên Chúa trở thành một yếu tố trong tâm thức của con người; Ngài không còn được coi là ý nghĩa tối hậu cho cái sum (là) của con người nữa. Ngài cũng chẳng còn là Ens subsistens hay ‘Hữu Thể Toàn Mãn’ nữa, không còn là Đấng Hóa Công, là Đấng làm cho mọi sự hiện hữu, tệ nhất là Ngài không còn là Đấng ban mình nơi mầu nhiệm Nhập Thể, mầu nhiệm Cứu Chuộc và mầu nhiệm ân sủng nữa. Vị Thiên Chúa của Mạc Khải không còn hiện hữu như  ‘Thiên Chúa của các triết gia’ nữa. Tất cả những gì còn lại chỉ là ý tưởng về Thiên Chúa mà thôi, một đề tài tùy tâm tưởng con người khám phá.

 “Như thế, các nền tảng về ‘triết lý sự dữ’ cũng bị sụp đổ theo. Sự dữ, theo ý nghĩa thực thể thì nó chỉ hiện hữu trong tương quan với sự thiện, nhất là với Thiên Chúa, Sự Thiện tối cao. Đó là sự dữ được Sách Khởi Nguyên nói tới. Chính từ quan điểm này mới có thể hiểu được nguyên tội, cũng thế, mới có thể hiểu được tất cả mọi cá tội. Sự dữ này đã được Chúa Kitô cứu chuộc trên Thập Tự Giá. Nói một cách chính xác thì con người được cứu chuộc và thông phần vào sự sống của Thiên Chúa nhờ việc cứu độ của Chúa Kitô. Tất cả những điều ấy, toàn thể thảm kịch của lịch sử cứu độ ấy đã biến mất đối với chủ nghĩa Minh Tri. Chỉ còn lại một mình con người mà thôi: một mình con người đóng vai như là một tay làm nên lịch sử của họ cùng với văn minh của họ; một mình con người đóng vai như là một kẻ quyết định điều thiện sự ác, như là một kẻ muốn hiện hữu và tác hành như thể không có Thiên Chúa etsi Deus non daretur.

 “Nếu con người có thể tự mình quyết định, không cần Thiên Chúa, những gì là thiện và những gì là ác, thì họ cũng có thể quyết định hủy diệt cả một nhóm người. Những quyết định kiểu ấy đã được thực hiện, chẳng hạn, bởi những kẻ cầm quyền Third Reich (biệt chú của người dịch: tức Chế Độ Nazi ở Đức 1933-1945, sau hai đế quốc trước đó là Đế Quốc Đức 1871-1918 và Đế Quốc Rôma Thánh 962-1806) bằng đường lối dân chủ, trong việc chỉ lạm dụng quyền bính của mình để thực hiện những dự án gian ác của ý hệ Xã Hội Quốc Gia theo các nguyên tắc duy chủng tộc. Những quyết định tương tự cũng được thực hiện bởi đảng Cộng sản ở Nga Sô cũng như ở các xứ sở khác theo ý hệ Mát Xít. Đó là cái lý lẽ giành để diệt chủng người Do Thái, cùng các nhóm khác như nhân dân Romania, thành phần dân quê xứ Ukraine, và hàng giáo sĩ Chính Thống lẫn Công Giáo ở Nga, ở Belarus và cả ở bên ngoài rặng núi Urals (biệt chú của người dịch: một rặng núi ở Nga thường được coi là lằn biên phân chia ranh giới giữa Âu Châu và Á Châu). Cũng thế, tất cả những ai ‘không thuận lợi’ cho chế độ đều bị bách hại; chẳng hạn, thành phần không còn là chiến binh Tháng Chín 1939, những người lính thuộc Quân Đội Quốc Gia ở Balan sau Thế Chiến Thứ Hai, và những người thuộc thành phần trí thức không chấp nhận ý hệ Mát Xít hay Nazi. Bình thường cuộc bách hại này là việc bị loại trừ về thể lý, nhưng đôi khi bị loại trừ về luân lý nữa, ở chỗ, con người không nhiều thì ít bị cấm đoán hành sử các quyền lợi của mình…”

Trong tác phẩm “Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” của mình được xuất bản vào năm 1994 (ở chương ‘What Has Become of The ‘History of Salvation’, ấn bản Anh ngữ, trang 50-53), vị giáo hoàng triết gia nhân bản Kitô giáo Gioan Phaolô II còn cho thấy căn nguyên của cuộc khủng hoảng văn hóa, của tình trạng phá sản đạo nghĩa ở riêng Tây Phương và chung thế giới hiện đại, để rồi từ đó, ngài đã mở đường máu cho con người như sau:

·        Tại sao tất những điều ấy xẩy ra? Căn nguyên của những ý hệ hậu Chủ Nghĩa Minh Tri này là gì? Câu trả lời dễ thôi, ở chỗ: nó xẩy ra là vì việc phủ nhận Thiên Chúa qua (như) Vị Hóa Công, từ đó phủ nhận Ngài qua (như) nguồn mạch quyết định lành dữ. Nó xẩy ra là vì việc phủ nhận những gì tối hậu tạo nên chúng ta là con người, tức là loại trừ quan niệm bản tính con người là một ‘thực tại được ban tặng’; vị trí của quan niệm này đã bị thay thế bằng một ‘sản phẩm tư tưởng’ được tư do hình thành và tự do khả hoán theo hoàn cảnh. Tôi tin rằng nếu tìm hiểu kỹ lưỡng hơn nữa về vấn đề này chúng ta có thể vượt ra ngoài biên giới Descartes nữa. Nếu chúng ta muốn nói một cách hợp tình hợp lý về thiện ác, chúng ta cần phải trở về với Thánh Tôma Aquinas, tức là trở về với loại triết lý hiện thể. Chẳng hạn, với phương pháp hiện tượng học, chúng ta có thể học hỏi những kinh nghiệm về luân lý, tôn giáo, hay đơn giản như việc làm người ra sao, để nhờ những kinh nghiệm ấy kiến thức của chúng ta càng thêm phong phú. Tuy nhiên, chúng ta không được quên rằng, tất cả những phân tích này đã mặc nhiên nhận thức thực tại về Hữu Thể Tối Cao cũng như thực tại về con người là một tạo sinh. Nếu chúng ta không bắt đầu từ những nhận thức theo ‘chủ nghĩa thực thể’ ấy chúng ta sẽ đi đến chỗ trống rỗng mà thôi”.

 Tóm lại, theo ĐTC GPII, sở dĩ con người văn minh ngày nay nói chung và thế giới Tây Phương Kitô giáo nói riêng đi đến tình trạng bị khủng hoảng về văn hóa và đạo lý, đến nỗi đã thực hiện những hành động gian ác chưa từng thấy, như ra tay diệt chủng bởi cả hận thù lẫn luật pháp dân chủ trong thế kỷ 20, là vì con người đã trở thành vô thần, đã sống như không có Thiên Chúa, đã cho mình là chúa tể muốn làm gì thì làm, bởi thế, xã hội loài người càng băng hoại, cho đến khi con người, nhờ “hồi niệm” mà nhận ra “căn tính” của mình, và sống căn tính của mình, với sự thật làm người của mình trước nhan Thiên Chúa.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL