Bài 26 (Thứ Tư 11/10/2000)

 

THÁNH THỂ LÀ HY TẾ CHÚC TỤNG TUYỆT HẢO

1.         “Nhờ Người, với Người và trong Người mà mọi chúc tụng và vinh quang đều qui về Chúa là Cha toàn năng cùng với Chúa Thánh Thần”. Lời tuyên tụng Ba Ngôi này kết  thúc lời cầu của Kinh Nguyện Thánh Thể mỗi lần cử hành Thánh Lễ. Thật vậy, Thánh Thể là “hy tế chúc tụng” tuyệt hảo, là việc tôn vinh cao cả nhất từ đất dâng lên trời, là “nguồn mạch và là tột đỉnh của đời sống Kitô hữu, thành phần hiến dâng tế vật thần linh nơi Thánh Thể (lên Chúa Cha) cùng với chính bản thân mình nữa” (Hiến Chế Lumen Gentium, 11). Trong Tân Ước, Thư gửi giáo đoàn Do Thái dạy chúng ta rằng phụng vụ Kitô Giáo được hiến dâng bởi “một thượng tế thánh thiện, liêm chính, vẹn tuyền, không dính dáng với tội nhân, vượt trên các tầng trời”, Đấng thực hiện một hy tế chuyên nhất một lần vĩnh viễn bằng “việc dâng hiến bản thân mình” (x Heb 7:26-27). Bức Thư viết: “Thế nên, nhờ Người, chúng ta hãy tiếp tục hiến dâng lên Thiên Chúa hy tế chúc tụng” (Heb 13:15). Hôm nay, chúng ta hãy vắn tắt nhắc lại hai đề tài hy tế và chúc tụng, sacrificium laudis, nơi Thánh Thể.

2.         Trước hết, hy tế của Chúa Kitô hiện diện nơi Thánh Thể. Chúa Giêsu thực sự hiện diện dưới hình bánh và rượu, như chính Người đã bảo đảm với chúng ta rằng: “Đây là mình Thày... đây là máu Thày” (Mt 26:26, 28). Thế nhưng, Chúa Kitô hiện diện nơi Thánh Thể là một Chúa Kitô hiện đang được vinh quang, Đấng đã hiến mình trên thập giá vào Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Đó là những gì được nhấn mạnh bởi những lời Người phán trên chén rượu: “Đây là máu giao ước đổ ra cho nhiều người” (Mt 26:28; x Mk 14:24; Lk 22:20). Nếu những lời này được khảo sát theo chiều hướng xuất phát từ Thánh Kinh thì có hai liên quan đáng chú ý. Liên quan thứ nhất là kiểu nói “máu đổ ra”, một kiểu nói, như ngôn ngữ Thánh Kinh chứng thực, cho thấy đồng nghĩa với cái chết dữ dằn (x Gen 9:6). Liên quan thứ hai là ở nơi câu phát biểu đích xác “cho nhiều người”, ám chỉ thành phần được máu này đổ ra cho. Việc gián tiếp ám chỉ ở đây đưa chúng ta về với đoạn văn nền tảng đối với việc giải thích Thánh Kinh của Kitô Giáo, đó là bài ca thứ bốn của tiên tri Isaia: bằng hy tế của mình, Người Tôi Tớ Chúa “đã thí mạng sống mình” và “mang lấy tội lỗi của nhiều người” (Is 53:12; x Heb 9:28; 1Pt 2:24).

3.         Khía cạnh vừa hy tế lẫn cứu chuộc của Thánh Thể được thể hiện nơi những lời Chúa Giêsu phán trên bánh trong Bữa Tiệc Ly, những lời theo truyền thống được Thánh Luca và Phaolô thuật lại: “Đây là mình Thày sẽ bị nộp vì các con” (Lk 22:19; x 1Cor 11:24). Cả ở đây nữa cũng liên quan đến việc tự hy hiến bản thân mình của Người Tôi Tớ Chúa, hợp với đoạn sách tiên tri Isaia vừa được đề cập đến (53:12). “Người đã thí mạng sống mình...; Người đã mang lấy tội lỗi của nhiều người, và đã cầu bầu cho các phạm nhân”. “Thánh Thể không phải là gì khác ngoài chính hy tế. Chính hy tế Cứu Chuộc cũng là hy tế Tân Ước, như chúng ta tin tưởng và Giáo Hội Đông Phương minh nhiên tuyên xưng. “Hy tế của ngày hôm nay, Giáo Hội Hy Lạp đã nói từ nhiều thế kỷ trước đây (ở Công Đồng Contantinôpôli phi bác Sotericus vào năm 1156-1157), giống như hy tế được hiến dâng một lần bởi Lời Nhập Thể; hy tế đó được Người dâng hiến (hiện nay cũng như bấy giờ), vì hy tế ấy cũng là một hy tế duy nhất” (Tông Thư Dominicae Cenae, 9).

4.         Thánh Thể, như một hy tế của Tân Ước, là việc phát triển và hoàn tất giao ước được cử hành trên núi Sinai, khi Moisen đổ một nửa máu của các tế vật hy sinh trên bàn thờ, biểu hiệu cho Thiên Chúa, và một nửa trên cộng đồng con cái Yến Duyên (x Ex 24:5-8). “Máu giao ước” này gắn bó Thiên Chúa với loài người lại với nhau một cách chặt chẽ bằng một mối giây liên kết. Mối thân mật trở nên trọn vẹn nơi Thánh Thể; việc Thiên Chúa và loài người gắn bó với nhau đạt đến tột đỉnh của mình. Đó là việc hoàn tất của “tân ước” được tiên tri Giêrêmia tiên báo (x 31:31-34): một giao ước trong tinh thần và trong tâm can, một giao ước được Thư gửi giáo đoàn Do Thái hết sức ca ngợi, khi trích lại lời của vị tiên tri này mà đem ghép nó với hy tế tối hậu duy nhất của Chúa Kitô (x Heb 10:14-17).

5.         Đến đây, chúng ta có thể dẫn chứng một xác nhận khác về Thánh Thể là một hy tế chúc tụng. Thực sự hướng đến việc hiệp thông trọn vẹn giữa Thiên Chúa và con người, “hy tế Thánh Thể là nguồn mạch và là tột đỉnh cho tất cả việc phụng thờ của Giáo Hội cũng như của đời sống Kitô hữu. Tín hữu tham dự trọn vẹn hơn vào bí tích tạ ơn, đền bồi, nguyện xin và chúc tụng, chẳng những lúc họ cùng với vị linh mục hết lòng hiến dâng tế vật linh thánh cũng như chính mình với tế vật này lên Chúa Cha, mà còn cả lúc họ lãnh nhận tế vật này trong bí tích nữa” (Thánh Bộ Lễ Nghi, Eucharisticum Mysterium, 3e).

Như chính nguyên ngữ Hy Lạp thì Thánh Thể nghĩa là “tạ ơn”; nơi Thánh Thể Con của Thiên Chúa liên kết nhân loại được cứu chuộc với chính mình trong bản thánh ca tạ ơn và chúc tụng. Chúng ta hãy nhớ rằng tiếng todah của Do Thái, được phiên dịch là “chúc tụng”, cũng có nghĩa là “tạ ơn” nữa. Hy tế chúc tụng là một hy tế tạ ơn (x Ps 50 [49]: 14, 23). Trong Bữa Tiệc Ly, để thiết lập bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu đã tạ ơn Cha Người (x Mt 26:26-27 và những đoạn Phúc Âm Nhất Lãm tương đương); đó là nguồn gốc cho tên gọi của bí tích này.

6.         “Nơi hy tế Thánh Thể, toàn thể tạo vật Thiên Chúa yêu thương được hiến dâng lên Chúa Cha qua cuộc tử nạn và Phục Sinh của Chúa Kitô” (Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, số 1359). Hiệp nhất mình với hy tế của Chúa Kitô, Giáo Hội, qua bí tích Thánh Thể, vang lên lời chúc tụng của tất cả mọi tạo vật. Việc mọi tín hữu quyết tâm hiến dâng cuộc sống của mình, “thân xác” của mình, như Thánh Phaolô nói, như một “hy tế sống động, thánh hảo, đáng Thiên Chúa chấp nhận” (Rm 12:1), trong niềm hiệp thông trọn vẹn với Chúa Kitô, phải hợp với điều này. Như thế, chỉ có một sự sống duy nhất hiệp nhất Thiên Chúa với con người, đó là Chúa Kitô tử giá và phục sinh vì tất cả chúng ta với người môn đệ được kêu gọi hoàn toàn hiến mình cho Người.

Thi sĩ người Pháp Paul Claudel đã ca lên bản hát về mối hiệp thông yêu thương, khi đặt những lời sau đây vào môi miệng của Chúa Kitô: “Hãy đến với Ta, nơi Ta Hiện Hữu, ở trong bản thân con,/ và Ta sẽ trao cho con chìa khóa vào sự sống./ Nơi nào Ta Hiện Hữu, ở nơi đó có bí mật đời đời về nguồn gốc của con.../ ... Đôi tay của con ở đâu mà không phải là của Ta? Và đôi chân của con lại không bị đóng đanh vào cùng một thập giá với Ta hay sao? Ta đã chết và sống lại một lần vĩnh viễn! Chúng ta rất gần gũi với nhau/... Con làm sao lại có thể tách lìa khỏi Ta/ mà không làm tan nát trái tim Ta?” (La Messe là-bas).

                         (Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 11/10/2000)