HUẤN TỪ TRUYỀN TIN / NỮ VƯƠNG 2007
Chúa Nhật Bát Nhật Giáng Sinh 30/12/2007 Về Thánh Gia và Cuộc Họp Gia Đình ở Tây Ban Nha
Chúa Nhật Thứ 4 Mùa Vọng 23/12/2007 về Giáng Sinh và Việc Truyền Bá Phúc Âm Hóa
Chúa Nhật Thứ 3 Mùa Vọng 16/12/2007 về Niềm Vui Giáng Sinh Kitô Giáo
Chúa Nhật Thứ 2 Mùa Vọng 9/12/2007 về Thánh Gioan Tẩy Giả
Thứ Bảy 8/12/2007 về Việc Hoài Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội
Chúa Nhật Thứ 1 Mùa Vọng 2/12/2007 về Niềm Hy Vọng.
Chúa Nhật 25/11/2007 về Ngày Cầu Nguyện Cho Trung Đông
Chúa Nhật 18/11/2007 về Lòng Tin Tưởng nơi Thiên Chúa
Chúa Nhật 11/11/2007 Thánh Martin Thành Tours
Chúa Nhật 4/11/2007 về Viên Thu Thuế Giakêu và Thánh Charles Borromeo
Lễ Chư Thánh Thứ Năm 1/11/2007 về Ngày Chư Thánh
Chúa Nhật 28/10/2007 về Tiếng Gọi Tử Đạo
Chúa Nhật 14/10/2007 về việc chữa lành thực sự
Chúa Nhật 7/10/2007 về Tháng Mân Côi và Ngày Truyền Giáo Thế Giới
Chúa Nhật 30/9/2007 về Lazarô và Tình Hình Đói Khổ Thế Giới
Chúa Nhật 23/9/2007 về Giầu Nghèo
Chúa Nhật 16/9/2007 về Các Dụ Ngôn Lòng Thương Xót
Chúa Nhật 9/9 tại Quảng Trường trước Vương Cung Thánh Đường Thánh Stêphanô
Chúa Nhật 2/9/2007 ở Plain of Montorso về Nhà Đức Mẹ ở Loreto
Chúa Nhật 26/8/2007 về Việc Qua Cửa Hẹp theo ý nghĩa của bài Phúc Âm
Chúa Nhật 19/8/2007 về ý nghĩa bài Phúc Âm
Chúa Nhật 12/8/2007 về ý nghĩa Phúc Âm
Chúa Nhật 5/8/2007 hướng về Lễ Biến Hình
Chúa Nhật 29/7/2007 ở Castel Gandolfo về Kỹ Thuật Nguyên Tử
Chúa Nhật 22/7/2007 ở Piaozza Calvi of Lorenzago di Cadore gần nơi ngài nghỉ hè về chiến tranh
Chúa Nhật XV TN 15/7/2007 về “Yêu Thương là Tâm Điểm của Đời Sống Kitô Giáo”
Chúa Nhật 8/7/2007 về sứ vụ truyền giáo
Chúa Nhật XIII Thường Niên 1/7/2007 về việc sống trong tự do của tình yêu thương.
Chúa Nhật Lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả 24/6/2007
Chúa Nhật Lễ Mình Máu Thánh Chúa 10/6/2007
Chúa Nhật Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống 27/5/2007
Chúa Nhật VII Mùa Phục Sinh 20/5/2007 về Ngày Thế Giới Truyền Thông và Bạo Động ở Thánh Địa
CN VI Phục Sinh 13/5 xin xem Tông Du Ba Tây
Chúa Nhật V Mùa Phục Sinh 6/5/2007 về Tháng Hoa Đức Mẹ và Chuyến Tông Du Ba Tây sắp tới
Chúa Nhật IV Mùa Phục Sinh 29/4/2007 về Ngày Thế Giới Nguyện Cầu Cho Ơn Thiên Triệu
Chúa Nhật II Mùa Phục Sinh 15/4/2007 về Lòng Thương Xót Chúa
Thứ Hai Mùa Phục Sinh 9/4/2007 ở Castel Gandolfo về Bình An Phục Sinh
Chúa Nhật V Mùa Chay 25/3/2007 về Biến Cố Truyền Tin và Các Vị Tử Đạo Thừa Sai
Chúa Nhật IV Mùa Chay 11/3/2007 về Thánh Thể
Chúa Nhật II Mùa Chay 4/3/2007 về Biến Cố Chúa Giêsu Biến Hình với Việc Cầu Nguyện của Người
Chúa Nhật I Mùa Chay 25/2/2007 về việc “chiêm ngưỡng Đấng Tử Giá bằng con mắt đức tin”
Chúa Nhật VII Thường Niên 18/2/2007 về Cuộc Cách Mạng của Tình Yêu
Chúa Nhật VI Thường Niên 11/2/2007 về Ngày Thế Giới Bệnh Nhân
Chúa Nhật V Thường Niên 4/2/2007 về Ngày Phò Sự Sống ở Ý
Chúa Nhật IV Thường Niên 28/1/2007 về Thánh Tôma Tiến Sĩ với Vấn Đề Tổng Luận Lý Trí và Đức Tin
Chúa Nhật III Thường Niên 21/1/2007 về Đại Kết Kitô Giáo
Chúa Nhật II Mùa Thường Niên 14/1/2007 về Ngày Thế Giới của Thành Phần Di Dân và Tị Nạn
Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa 7/1/2007
Lễ Hiển Linh 6/1/2007 về Ba Vua
Lễ Mẹ Thiên Chúa Thứ Hai 1/1/2007
Chúa Nhật Bát Nhật Giáng Sinh 30/12/2007 Về Thánh Gia và Cuộc Họp Gia Đình ở Tây Ban Nha
Anh Chị Em thân mến:
Hôm nay chúng ta cử hành lễ Thánh Gia. Theo trình thuật của các Phúc Âm Thánh Mathêu và Thánh Luca, chúng ta không còn nhìn vào Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse nữa, mà là tôn thờ nhìn đến mầu nhiệm của một Vị Thiên Chúa đã chọn được hạ sinh bởi một người phụ nữ, bởi một Đức Trinh Nữ, để vào đời bằng cùng một con đường như tất cả mọi người. Nhờ đó Người đã thánh hóa thực tại gia đình, làm cho gia đình tràn đầy ân sủng thần linh và hoàn toàn làm sáng tỏ ơn gọi cùng sứ vụ của gia đình.
Công Đồng Chung Vaticanô II đã đặc biệt chú trọng tới gia đình. Công Đồng đã khẳng định là đôi phối ngẫu là chứng nhân đức tin và tình yêu Chúa Kitô đối với nhau và đối với con cái của họ (x Ánh Sáng Muôn Dân, 35). Bởi thế, gia đình Kitô hữu tham dự vào ơn gọi ngôn sứ của Giáo Hội, ở chỗ, bằng cách thức sống của mình, “gia đình Kitô hữu lớn tiếng loan báo cả về những giá trị hiện tại của vương quốc Thiên Chúa lẫn niềm hy vọng của một cuộc sống phúc lộc trong tương lai” (ibid).
Vị tiền nhiệm khả kính của tôi không ngừng lập lại rằng thiện ích của con người và của xã hội là những gì sâu xa liên kết với “sức khỏe tốt đẹp” của gia đình (cf. Vui Mừng và Hy Vọng, 47). Vì đó là những lời của Công Đồng, Giáo Hội đã dấn thân bênh vực và cổ võ “phẩm vị tự nhiên c ủa bậc hôn nhân và giá trị tuyệt đối” của hôn nhân và gia đình (ibid). Theo chiều hướng này, đang diễn ra một sáng kiến quan trọng vào ngày hôm nay ở Ma Ní Tây Ban Nha. Giờ đây tôi muốn ngỏ lời cùng những ai tham dự bằng tiếng Tây Ban Nha.
Tôi gửi chào đến các tham dự viên trong cuộc hội ngộ gia đình đang diễn ra vào Chúa Nhật này ở Ma Ní, cũng như các vị hồng y, giám mục và linh mục đồng hành với họ.
Khi chiêm ngưỡng mầu nhiệm Con Thiên Chúa đã đến thế gian được Mẹ Maria và Thánh Giuse quấn quít yêu thương, tôi mời gọi tất cả mọi gia đình Kitô hữu hãy cảm nghiệm được sự hiện diện yêu thương của vị Chúa này trong đời sống của họ. Tôi khuyến khích họ, được tác động bởi tình yêu Chúa Kitô đối với tất cả loài người, hãy làm chứng trước thế giới về vẻ đẹp của tình yêu con người, hôn nhân và gia đình. Vẻ đẹp này, được dựa vào mối hiệp nhất bất khả phân ly giữa một người nam và người nữ, cấu tạo nên một môi trường đặc biệt làm cho sự sống con người được đón nhận và bảo vệ, ngay từ khi bắt đầu cho đến lúc tự nhiên qua đi.
Bởi thế, cha mẹ có quyền và có trách nhiệm cốt yếu trong việc giáo dục con cái của mình theo đức tin và các giá trị xứng đáng với cuộc sống của con người. Việc hoạt động cho gia đình và hôn nhân là việc xứng đáng vì là việc hoạt động cho nhân loại là hữu thể sáng giá nhất được Thiên Chúa dựng nên.
Tôi đặc biệt hướng về thành phần trẻ em, xin họ hãy mến yêu và nguyện cầu cho cha mẹ của mình cũng như anh chị em của họ; về giới trẻ, để nhờ được thúc đẩy bởi tình yêu mến mẹ cha của mình, họ quảng đại theo đuổi ơn gọi của họ đối với đời sống hôn nhân, linh mục và tu sĩ; về thành phần lão thành và đau yếu, để họ tìm được sự hỗ trợ và thông cảm cần thiết. Và về anh chị em, hỡi những cặp phối ngẫu thân mến, hãy cậy dựa vào ơn của Chúa luôn luôn, nhờ đó tình yêu của anh chị em sẽ mãi mãi sinh hoa kết trái và thủy chung mỗi ngày một hơn.
Trong bàn tay Mẹ Maria, “vị nhờ tiếng ‘xin vâng’ của mình đã mở cửa thế giới của chúng ta ra cho Thiên Chúa” (Spe Salvi), tôi ký thác những hoa trái của việc cử hành này. Cám ơn anh chị em rất nhiều và chúc anh chị em những ngày lễ vui vẻ hạnh phúc.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 1/1/2008
Chúa Nhật Thứ 4 Mùa Vọng 23/12/2007 về Giáng Sinh và Việc Truyền Bá Phúc Âm Hóa
Anh Chị Em thân mến,
Chỉ còn một ngày nữa sau Chúa Nhật Thứ Tư Mùa Vọng là tới Lễ Giáng Sinh. Đêm ngày mai chúng ta sẽ qui tụ lại để cử hành mầu nhiệm yêu thương cao cả đã không ngừng khiến cho chúng ta cảm thấy sửng sốt. Thiên Chúa đã trở nên Con Người để chúng ta có thể trở thành con cái của Thiên Chúa. Trong Mùa Vọng, lời nguyện cầu thường xuất phát từ lòng Giáo Hội là: “Lạy Chúa, xin hãy đến viếng thăm chúng con bằng hòa bình của Chúa, bằng việc Chúa hiện diện làm cho chúng con tràn đầy hân hoan”.
Sứ vụ truyền bá phúc âm hóa của Giáo Hội là việc đáp ứng tiếng kêu “Lạy Chúa Giêsu Kitô xin hãy đến”, một tiếng kêu vang khắp lịch sử cứu độ và tiếp tục thốt ra từ môi miệng của các tín hữu. “Lạy Chúa, xin hãy đến biến đổi tâm can của chúng con để công lý và hòa bình được tràn lan khắp thế giới”. Điều này gợi nhớ tới bản ghi chú tín lý về vấn đề truyền bá phúc âm hóa vừa được Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin phổ biến. Bản văn kiện này thực sự được soạn thảo để nhắn nhở tất cả mọi Kitô hữu – trong trường hợp mà thường không còn rõ ràng về vấn đề lý do truyền bá phúc âm hóa – rằng chính việc đón nhận tin mừng đức tin thúc đẩy chúng ta truyền đạt ơn cứu độ chúng ta đã lãnh nhận như một tặng ân.
Thực sự chân lý là những gì cứu vãn sự sống, một chân lý đã hóa thành nhục thể nơi Chúa Giêsu, làm bùng lên nơi thành phần lãnh nhận một thứ tình yêu thương tha nhân thúc đẩy tự do của chúng ta ban tặng như là một tặng ân mà chúng ta đã nhưng không nhận lãnh. Được đạt tới bởi sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng đã đến gần chúng ta bằng việc Giáng Sinh, là một tặng ân khôn sánh, một tặng ân có thể làm cho chúng ta sống trong tình thân thiết phổ quát của những người bạn bè của Thiên Chúa, trong mối liên kết thân hữu với Chúa Kitô gắn liền trời với đất, mối liên kết thân hữu hướng tự do của con người đến chỗ ciên trọn của nó, và nếu sống trong chân lý, nó sẽ triển nở nơi một tình yêu vô tư cũng như nơi mối quan tâm về thiện ích của tất cả mọi người.
Không gì tuyệt vời hơn, khẩn trương hơn và quan trọng hơn là tự nguyện cống hiến cho dân chúng những gì chúng ta nhưng không lãnh nhận từ Thiên Chúa. Không gì có thể châm chước hay tha cho chúng ta khỏi thi hành nhiệm vụ lôi cuốn này. Niềm vui Giáng Sinh chúng ta đã được tiên hưởng, khi chúng ta tràn đầy hy vọng, đồng thời cũng thúc đẩy chúng ta loan truyền cho tất cả mọi người sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa chúng ta.
Mẹ Maria là mẫu gương khôn sánh của việc truyền bá phúc âm hóa, Mẹ là vị đã không truyền đạt một tư tưởng cho thế giới mà là Chúa Giêsu, Lời nhập thể. Chúng ta hãy tin tưởng kêu cầu Mẹ để cả Gioáo Hội trong thời đại của chúng ta cũng loan truyền Đức Kitô Chúa Cứu Thế. Hết mọi Kitô hữu và hết mọi cộng đồng đều cảm thấy niềm vui của việc chia sẻ với kẻ khác tin mừng là Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đã ban Người Con duy nhất của Ngài nhờ đó thế gian được cứu bởi Người. Đó là ý nghĩa đích thực của Giáng Sinh, mà chúng ta luôn cần phải khám phá ra và thiết tha sống.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 23/12/2007
Chúa Nhật Thứ 3 Mùa Vọng 16/12/2007 về Niềm Vui Giáng Sinh Kitô Giáo
Anh Chị Em thân mến!
"Gaudete in Domino semper" – Hãy luôn hân hoan trong Chúa" (Philippians 4:4). Bằng những lời ấy của Thánh Phaolô, Thánh Lễ của Chúa Nhật Thứ Ba được bắt đầu và vì lý do này chúng ta gọi nó là “Gaudete”. Vị tông đồ này khuyên dụ các Kitô hữu hãy hân hoan vì việc Chúa đến, tức là việc Người trở lại trong vinh quang, và một điều chắc chắn và Người sẽ không trì hoãn. Giáo Hội thực sự chấp nhận lời mời gọi này khi Giáo Hội sửa soạn mừng Giáng Sinh và luốn hướng mắt của mình về Bêlem. Thật vậy, chúng ta đang đợi chờ cuộc đến lần thứ hai của Chúa với niềm hy vọng chắc chắn vì chúng ta đã biết được Người đã đến lần thứ nhất.
Mầu nhiệm Belem cho chún g ta thấy Thiên Chúa ở với chúng ta, Thiên Chúa gần gũi chúng ta, không phải chỉ về không gian và thời gian mà thôi; Người gần gũi chúng ta vì có thể nói rằng Người đã cưới lấy nhân tính của chúng ta; Người đã đích thân mặc lấy thân phận của chúng ta, đã muốn hoàn toàn giống như chúng ta ngoại trừ tội lỗi, muốn làm cho chúng ta nên giống như Người. Bởi thế, niềm vui của Kitô Giáo được xuất phát từ niềm tin tưởng rằng Thiên Chúa gần gũi chúng ta, Người ở với tôi, Người ở với chúng ta, trong hân hoan cũng như trong đau khổ, trong mạnh khỏe cũng như trong đau yếu, như thân hữu và như vị phu quân thủy chung. Và niềm vui này thận chí còn tồn tại nơi cả những cơn thử thách, nơi chính đau thương, và vẫn không phải là những gì hời hợt song sâu xa trong con người nào hiến mình cho Thiên Chúa và tin tưởng phó thác cho Người.
Một số người tự hỏi mình rằng: Thế nhưng ngày nay có thể nào có được niềm vui này hay chăng? Câu trả lời được cống hiến bởi những con người nam nữ thuộc đủ mọi lứa tuổi và thân phận trong xã hội, hân hoan hiến đời mình cho kẻ khác! Trong thời đại của chúng ta không phải có Chân Phước Têrêsa Calcutta, một chứng nhân không thể nào quên được cho thấy niềm vui của phúc âm này hay sao? Mẹ đã sống hằng ngày giao tiếp với cảnh khốn cùng, với tình trạng hèn hạ của con người, với chết chóc tang thương. Linh hồn của Mẹ gặp thử thách tối tăm về đức tin nhưng Mẹ vẫn trao ban nụ cười của Thiên Chúa đến cho tất cả mọi người.
Chúng ta đọc thấy trong một bản văn của Mẹ rằng: “Chúng ta nóng lòng sốt ruột trông đợi thiên đàng, nơi Thiên Chúa ngự trị, thế nhưng, chính chúng ta có thể ở thiên đàng ngay trong tầm tay của mình bắt đầu ở dưới thế đây và từ lúc này đây. Hân hoan ở với Thiên Chúa nghĩa là yêu thương như Người, giúp đáp như Người, trao ban như Người, phục vụ như Người” ("La gioia di darsi agli altri," Ed. Paoline, 1987, 43).
Phải, niềm vui thấm nhập vào tâm hồn của những ai dấn thân phục vụ thành phần hèn mọn nhất. Trong những ai yêu thương như thế thì Thiên Chúa cư ngụ nơi họ và linh hồn cảm thấy hân hoan. Tuy nhiên, nếu hạnh phúc trở thành một thứ ngẫu tượng thì con đường sai lạc sẽ được tiến bước và thật sự là khó lòng mà thấy được Chúa Giêsu. Tiếc thay, đó lại là những gì tính toán của những thứ văn hóa lấy hạnh phúc cá nhân thay thế cho Thiên Chúa; nó là một thứ tâm thức tìm kiếm thỏa mãn bằng mọi giá để đạt được những hiệu quả tiêu biểu của nó, nơi việc lan truyền việc sử dụng nghiện hút như là một thứ ly thoát, như là một thứ nương náu nơi thiên đàng nhân tạo mà sau đó cho thấy chúng hoàn toàn chỉ là ảo tưởng.
Anh chị em thân mến, ngay cả trong thời điểm Giáng Sinh này con người ta vẫn có thể đi vào con đường sai lầm, vẫn có thể trao đổi niềm vui thực sự với niềm vui không biết cởi mở tâm hồn cho Chúa Kitô. Chớ gì Trin h Nữ Maria giúp cho tất cả mọi Kitô hữu, cũng như thành phần tìm kiếm Thiên Chúa, tiến đến với Belem, để gặp gỡ Con Trẻ được sinh ra cho chúng ta, cho phần rỗi và hạnh phúc của tất cả mọi người.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 16/12/2007
Chúa Nhật Thứ 2 Mùa Vọng 9/12/2007 về Thánh Gioan Tẩy Giả
Anh Chị Em thân mến trong Chúa Kitô!
Hôm qua, nhân Lễ Trọng Kính Ơn Hoài Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội, phụng vụ đã mời gọi chúng ta hãy hướng ánh mắt về Mẹ Maria, Mẹ của Chúa Giêsu và là Mẹ của chúng ta, Ngôi Sao của Niềm Hy Vọng cho hết mọi người. Hôm nay, Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng, phụng vụ cho chúng ta thấy một hình ảnh khổ hạnh của vị tiền hô, vị được Thánh Ký Mathêu giới thiệu như thế này: “Gioan Tẩy Giả đã xuất hiện, giảng dạy trong miền sa mạc xứ Giuđêa mà nói rằng ‘Hãy ăn năn hối cải, vì nước trời đã gần đến” (3:1-2).
Sứ vụ của ngài là để làm thẳng thắn đường đi nước bước cho Đấng Thiên Sai, bằng việc kêu gọi dân chúng Yến Duyên hãy thống hối tội lỗi của họ và sửa lại hết mọi lỗi lầm. Thánh Gioan Tẩy Giả đã loan báo một phán quyết s8áp sửa xẩy đến bằng những lời lẽ gay gắt là: “Cây nào không sinh trái tốt sẽ bị chặt xuống mà quăng vào lửa” (Mt 3:10). Ngài thách đố cái giả hình của những ai cảm thấy an tâm chỉ vì họ thuộc về thành phần dân được tuyển chọn: Ngài nói, trước nhan Thiên Chúa thì không có ai được quyền huyênh hoang mà phải sinh “hoa trái như chứng cớ ăn năn cải hối” (Mt 3:8).
Trong khi chúng ta đang theo đuổi cuộc hành trình Mùa Vọng, trong lúc chúng ta sửa soạn cử hành Chúa Kitô giáng sinh, thì lời kêu gọi cải hối của Thánh Gioan Tẩy Giả vang lên trong các cộng đồng của chúng ta. Nó là một lời mời gọi khẩn trương trong việc chúng ta mở lòng mình ra để nghênh đón Người Con của Thiên Chúa là Đấng đã đến giữa chúng ta để biểu tỏ phán quyết thần linh.
Thánh Ký Gioan viết rằng Chúa Cha không phán xét ai hết song ban cho Con Người quyền phán xét (5:22,27). Chính hôm nay đây, vào lúc này đây, định mệnh mai hậu của chúng ta được quyết định; chính đường lối cụ thể tự chúng ta theo đuổi trong cuộc đời này là những gì quyết định sự sống đời đời của chúng ta. Vào lúc xế chiều của những ngày chúng ta sống trên trái đất, vào giây phút lâm chung, chung ta sẽ được thẩm định xem chúng ta có giống Con Trẻ sắp được hạ sinh trong hang thấp hèn ở Bêlem, vì Người là chuẩn đích được Thiên Chúa sử dụng để đo lường nhân loại.
Người Cha trên trời này, Đấng nơi việc hạ sinh của Người Con Duy Nhất của mình, đã tỏ ra cho chúng ta thấy tình yêu nhân hậu của Ngài đối với chúng ta, kêu gọi chúng ta hãy noi theo gót chân của Người, bằng cách làm cho việc hiện hữu của chúng ta, như Người đã làm, trở thành một tặng ân yêu thương. Và “các hoa trái” của tình yêu là “những hoa trái tốt lành của việc hoán cải” được Thánh Gioan Tẩy Giả nói tới, khi ngài nhắm những lời đanh thép của mình tới thành phần Pharisiêu và Sadducee bấy giờ đang có mặt trong đám đông dân chúng vào lúc Chúa Kitô lãnh nhận phép rửa.
Qua Phúc Âm, Thánh Gioan Tẩy Giả tiếp tục nói qua các thế kỷ cho hết mọi thế hệ. Những lời nói rõ ràng và khó khăn của ngài là những gì có lợi hơn bao giờ hết cho con người nam nữ ngày nay, thành phần mà nơi họ ngay cả cách thức sống và nhận định Lễ Giáng Sinh, tiếc thay, rất thường bị chi phối bởi một thứ tâm thức duy vật.
“Tiếng” của vị đại tiên tri này yêu cầu chúng ta hãy dọn đường cho Chúa là Đấng đến trong những thứ sa mạc ngày nay, những thứ sa mạc trong ngoài, khao khát nước hằng sống là Chúa Kitô.
Xin Trinh Nữ Maria hướng dẫn chúng ta tiến đến một cuộc thực sự hoán cải tâm can, để chúng ta có thể thực hiện những chọn lựa cần thiết khiến cho những tâm thức của chúng ta hợp với Phúc Âm.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 9/12/2007
Thứ Bảy 8/12/2007 về Việc Hoài Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội
Anh Chị Em thân mến!
Ngôi sao Maria Vô Nhiễm chiếu xuống con đường Mùa Vọng. Mẹ là “dấu hiệu của niềm hy vọng vững chắc và là niềm ủi an cho dân Thiên Chúa trong cuộc lữ hành trần thế của họ” (Lumen Gentium, 68). Để tiến đến với Chúa Giêsu là ánh sáng thật, là mặt trời xua tan tất cả mọi tối tăm nơi lịch sử, chúng ta cần những con người gần chúng ta để phản ảnh ánh sáng của Chúa Kitô, nhờ đó chiếu soi đạo lộ cần phải tiến bước. Còn ai sáng ngời hơn Mẹ Maria? Đối với chúng ta còn ai hơn Mẹ là ngôi sao của niềm hy vọng, là rạng đông loan báo ngày cứu độ (x, Spe Salvi, 49).
Đó là lý do phụng vụ khiến chúng ta cử hành hôm nay đây, khi chúng ta đang tiến tới Lễ Giáng Sinh, lễ trọng kính Việc Hoài Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ Maria: Mầu nhiệm ân sủng của Thiên Chúa, ngay từ giây phút đầu tiên của cuộc sống Mẹ, bao phủ tạo vật được ấn định làm Mẹ của Đấng Cứu Chuộc này, khi gìn giữ Mẹ khỏi nhiễm lây nguyên tội. Ngước mắt lên Mẹ, chúng ta thấy được cái cao cả và mỹ diệu nơi dự án của Thiên Chúa đối với hết mọi người, đó là nên thánh và vô nhiễm trong yêu thương (x Eph 1:4), theo hình ảnh của Đấng Hóa Công chúng ta.
Thật là một đại ân khi được Mẹ MaRia Vô Nhiễm làm mẹ! Một người mẹ mỹ miều chiếu tỏa cái, phản ảnh đích thực tình yêu của Thiên Chúa. Tôi nghĩ đến giới trẻ ngày nay, lớn lên trong một môi trường đầy giẫy những sứ điệp chất chứa những mẫu thức sai lầm về hạnh phúc. Những con người nam nữ trẻ trung này liều mình bị mất đi niềm hy vọng, vì họ thường thấy những đứa bé côi cút tình yêu chân thực, một thứ tình yêu làm cho đời sống đầy ý nghĩa và niềm vui. Đó là đề tài thân thương đối với vị tiền nhiệm khả kính của tôi là Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, vị nhiều lần đề cao Mẹ Maria là “Mẹ của Tình Yêu” đối với giới trẻ của thời đại chúng ta.
Không ít kinh nghiệm cho chúng ta thấy rằng giới trẻ, thanh thiếu niên và ngay cả trẻ em đang trở thành mồi ngon cho tình trạng băng hoại yêu thương, bị đánh lừa bịp bợm bởi những người lớn bất hảo, thành phần, dối trá với họ và với chính bản thân mình, đã lôi kéo họ đến đường cùng ngỏ cụt của hưởng thụ; và điều này xẩy ra càng ngày càng sớm hơn, ngay vào cả thời tiền dậy thì nữa. Buồn thảm biết bao khi người trẻ đánh mất đi cái ngỡ ngàng, yêu thích của những thứ cảm tình tốt đẹp nhất, cái giá trị của viện tôn trọng xác thân là những gì biểu lộ ngôi vị cùng với mầu nhiệm khôn dò của họ!
Mẹ Maria, Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đấng chúng ta chiêm ngưỡng vẻ đẹp và thánh đức của Mẹ, đang kêu gọi chúng ta trở về với tất cả những điều ấy. Trên cây thập tự giá, Chúa Giêsu đã ký thác Mẹ cho Thánh Gioan cũng như cho tất cả thành phần môn đệ (x Jn 19:27), và từ lúc ấy, Mẹ đã trở nên Mẹ đối với toàn thể nhân loại, Mẹ của Niềm Hy Vọng. Chúng ta tin tưởng dâng Mẹ lời nguyện cầu của chúng ta khi lòng chúng ta hành hương tới Lộ Đức, nơi mà vào chính ngày này, một cuộc mừng kỷ niệm đặc biệt được bắt đầu nhân dịp 150 năm viện Mẹ hiện ra ở hang Massabielle. Lạy Mẹ Maria Vô Nhiễm, “ngôi sao biển, xin chiếu tỏa trên chúng con và hướng dẫn đường đi nước bước cho chúng con!” (Spe Salvi, 50).
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 9/12/2007
Chúa Nhật Thứ 1 Mùa Vọng 2/12/2007 về Niềm Hy Vọng.
Anh Chị Em thân mến!
Một phụng niên mới được bắt đầu vào Chúa Nhật Thứ Nhất này: Dân Chúa lại bắt đầu cuộc hành trình của mình trong việc sống mầu nhiệm Chúa Kitô trong lịch sử. Chúa Kitô chỉ là một hôm qua, hôm nay và muôn đời (x Heb. 13:8); tuy nhiên, lịch sử đổi thay và cần phải được truyền bá phúc âm hóa liên lỉ; nó cần phải được canh tân từ bên trong và sự mới mẻ chân thật duy nhất là Chúa Kitô: Người là tầm vóc viên mãn của lịc h sử, là tương lai rạng ngời của con người và thế giớị
Phục sinh từ cõi chết, Chúa Giêsu là Chúa mà Thiên Chúa sẽ làm cho tất cả mọi thù địch của Người phải thuận phục, bao gồm cả chính tử thần (x 1Cor 15:25-28). Bởi thế, Mùa Vọng là thời điểm thuận lợi để tái nhận thức trong tâm hồn chúng ta niềm trông đợi Người là “Đấng đang có, đã có và sẽ đến” (Rev 1:8). Con Thiên Chúa đã đến Bêlem 20 thế kỷ trước đây, Người đang đến từng giây từng phút nơi tâm hồn và cộng đồng sẵn sàng tiếp nhận Người, và Người sẽ lại đến vào lúc tận cùng thời gian “để phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Bởi thế, người tín hữu bao giờ cũng phải tỉnh thức, sống động bởi niềm hy vọng sâu xa đối với cuộc gặp gỡ Chúa ấy, như bài thánh vịnh nói: “Tôi hy vọng nơi Chúa, linh hồn tôi hy vọng ở lời Ngàị Linh hồn tôi đợi trông Chúa hơn lính canh mong đợi hừng đông” (129:5-6).
Bởi thế, Chúa Nhật này là ngày thuận tiện nhất để cống hiến cho toàn thể Giáo Hội và tất cả mọi con người thành tâm thiện chí bức thông điệp thứ hai của tôi, bức thông điệp tôi muốn chú trọng tới đề tài về niềm hy vọng Kitô Giáọ Nó mang tựa đề là “Spe Salvi”, vì nó được mở đầu theo ý hướng của Thánh Phaolô, “Spe salvi facti sumus”, tức là “chúng ta đã được cứu độ trong niềm hy vọng” (Rm 8:24).
Trong câu này, cũng như trong các câu khác của Tân Ước, chữ “hy vọng” được liên kết chặt chẽ với chữ “đức tin”. Nó là một tặng ân làm thay đổi đời sống của những ai lãnh nhận nó, như cảm nghiệm của rất nhiều vị thánh đã chứng tỏ cho thấỵ Niềm hy vọng này bao gồm những gì cao cả và “đáng tin tưởng” đến độ khiến cho chúng ta nói rằng “trong nó” chúng ta lãnh nhận “ơn cứu độ”?
Tự bản chất thì nó bao gồm việc nhận biết Thiên Chúa, việc khám phá ra tấm lòng của Ngài như là một Người Cha tốt lành và nhân hậụ Chúa Giêsu, bằng cái chết của mình trên thập tự giá và bằng cuộc phục sinh của mình, đã mạc khải cho chúng ta thấy dun g nhan của Ngài, dung nhan của một Vị Thiên Chúa yêu thương đến nỗi đã muốn thông đạt cho chúng ta một niềm hy vọng bất khả hủy diệt, một niềm hy vọng cho dù chết chóc cũng không làm sứt mẻ, vì sự sống của những ai tín thác cho Người Cha này bao giờ cũng hướng đến một chân trời phúc hạnh trường sinh.
Việc phát triển của khoa học tân tiến đã càng ngày càng hạn hẹp hóa niềm tin và niềm hy vọng vào lãnh vực tư riêng và cá thể, đến nỗi ngày nay vấn đề đã trở thành hiển nhiên, đôi khi lại thảm thương, đến nỗi thế giới cần đến Thiên Chúa – vị Thiên Chúa chân thật! – bằng không nó vẫn bị hụt hẫng niềm hy vọng. Khoa học góp phần nhiều cho thiện ích của nhân loại – điều này không thể chối cãi được – thế nhưng nó không thể nào cứu chuộc được nhân loạị
Con người được cứu chuộc bởi tình yêu, một tình yêu mang đến cho đời sống xã hội thiện hảo và mỹ lệ. Vì thế mà niềm hy vọng cao cả này, một niềm hy vọng trọn vẹn và vĩnh viễn, được bảo đảm bởi Thiên Chúa, bởi vị Thiên Chúa là tình yêu, Đấng đã đến viếng thăm chúng ta nơi Chúa Giêsu và đã ban sự sống của Người cho chúng ta, và nơi Chúa Giêsu, Ngài sẽ trở lại vào ngày cùng tháng tận.
Chính ở nơi Chúa Kitô mà chúng ta hy vọng và chúng ta đợi trông Người! Cùng với Mẹ Maria, Mẹ của Người, Giáo Hội tiến lên nghênh đón vị Lang Quân: Giáo Hội làm như thế bằng các hoạt động bác ái, vì niềm hy vọng, như đức tin, được chứng tỏ qua yêu thương. Chúc tất cả anh chị em một Mùa Vọng tốt đẹp!
Đaminh Maria Cao
Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 2/12/2007
Chúa Nhật 25/11/2007 về Ngày Cầu Nguyện Cho Trung Đông
Anh Chị Em thân mến!
Vào ngày Thứ Ba, ở Annapolis Hoa Kỳ, những người Do Thái và Palestina, với sự hỗ trợ của cộng đồng thế giới, muốn tài tấu tiến trình thương thảo để tìm một giải pháp chính đáng và dứt khoát cho cuộc xung đột đã từng làm đẫm máu Thánh Địa 60 năm và lam tuôn trào quá nhiều nước mắt cùng với nhiều khổ đau nơi hai dân tộc này. Tôi xin a nh chị em hãy cùng hợp nhau với ngày cầu nguyện được hội đồng Giám Mục Hoa Kỳ tuyên bố hôm nay để van nài Thần Linh Thiên Chúa ban hòa bình cho vùng đất rất thân thương với chúng ta cùng ban khôn ngoan v à can đảm cho tất cả những người đóng vai chính trong cuộc họp quan trọng này.
(cuối cùng ĐTC ngỏ lời cám ơn mọi người liên hệ)
Hai bài tiếp theo dưới đây là hai bài phát biểu của 2 vị thủ lãnh chính quyền từ đầu năm 2005, thế nhưng, tất cả đều đã trở thành thuần túy chữ nghĩa hơn là cụ thể thực hiện. Hội Nghị năm 2007 này cũng đầy hứa hẹn trên giấy tờ và thiện chí, nhưng không biết sẽ đi về đâu? Đó là lý do chúng ta cần phải cầu nguyện để chính Chúa mới là Đấng ban hòa bình cho miền Thánh Địa này.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 25/11/2007
Chúa Nhật 18/11/2007 về Lòng Tin Tưởng nơi Thiên Chúa
Anh Chị Em thân mến!
Trong đoạn Phúc Âm hôm nay, Thánh Luca đã tái đề lên nhãn quan của Thánh Kinh về lịch sử để chúng ta suy niệm và trình thuật những lời Chúa Giêsu kêu gọi thành phần môn đệ đừng lo sợ mà phải đương đầu với những khó khăn, hiểu lầm và thậm chí bách hại với một lòng tin tưởng, kiên trì tin tưởng nơi Người.
Chúa Giêsu nói: “Khi các con nghe thấy chiến tranh và loạn lạc thì đừng tỏ ra kinh hoảng; vì những điều như thế c ần phải xẩy ra trước đã, song chưa phải là tận cùng ngay đâu” (Lk 21:9). Ghi nhớ lời khuyên răn này, ngay từ ban đầu Giáo Hội đã sống trong niềm mong đợi nguyện cầu Chúa trở lại, nhận thức rõ ràng các dấu chỉ thời đại và cảnh báo tín hữu hãy tỉnh táo trước những trào lưu cứu tinh tái diện từ thời này sang thời khác cho rằng tận thế đến nơi rồi.
Thật ra, lịch sử cần phải trôi theo giòng của nó, một lịch sử cũng bao gồm cả các thứ thảm kịch của nhân loại cùng với những tai ương về thiên nhiên. Dự án cứu độ được Chúa Kitô thực hiện nơi cuộc nhập thể, tử nạn và phục sinh của Người là những gì đang triển khai trong lịch sử. Giáo Hội tiếp tục loan báo và hiện thực mầu nhiệm này bằng việc rao giảng, cử hành các bí tích và chứng từ bác ái.
Anh chị em thân mến, chúng ta hãy đón n hận lời mời gọi của Chúa Kitô trong việc đối diện với các biến cố thường nhật bằng lòng tin tưởng nơi tình yêu thương quan phòng của Người. Chúng ta đừng sợ tương lai, ngay cả khi nó xuất hiện cách ảm đạm trước mắt chúng ta, vì vị Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã làm cho lịch sử hướng về tình trạng viên trọn siêu việt của nó, là alpha và omega của nó, là nguyên thủy và là cùng đích (x Rev 1:8). Ngài bảo đảm là nơi hết mọi tác động yêu thương nhỏ bé nhưng chân thực đều chất chứa ý nghĩa của cả vũ trụ này trong đó, và những ai không n gần ngại đánh mất mạng sống mình vì Ngài thì sẽ lại gặp được nó cách viên trọn (x Mt 16:25).
Thành phần sống đời tận hiến, những con người đã không ngần ngại hiến đời mình phục vụ cho vương quốc của Thiên Chúa, mời gọi chúng ta một cách tác động là hãy giữ lấy cái nhãn quan ấy cho sống động. Trong số thành phần sống đời tận hiến này, tôi đặc biệt muốn chú ý tới những ai được kêu gọi sống đời chiêm niệm trong các đan viện kín cổng cao tường. Giáo Hội giành một ngày đặc biệt cho họ vào hôm Thứ Tư 21/11, lễ nhớ Đức Trinh Nữ Maria Dâng Mình vào đền thờ. Chúng ta mắc nợ nhiều đối với những con người này, những con người sống bởi những gì sự quan phòng lo liệu cho họ bằng lòng quản g đại của tín hữu.
“Như là một ốc đảo thiêng liêng, đan viện nhắc nhở cho thế giới ngày nay về điều quan trọng nhất, và thực sự là điều quyết liệt duy nhất, đó là chỉ có một lý do tối hậu để đáng sống – Thiên Chúa và tình yêu khôn thấu của Ngài” (Diễm Từ ở Heiligenkreuz, ngày 9/9/2007). Đức tin hoạt động qua đức bác ái thực sự là chất giải độc cho tâm thức không tưởng, một tâm thức trong thời đại của chúng ta đây đang gây ảnh hưởng mỗi ngày một mãnh liệt trên khắp thế giới.
Chớ gì Mẹ Maria, Mẹ của Lời Nhập Thể, đồng hành với chúng ta trong cuộc hành trình trần thế. Chúng tax in Mẹ hãy nâng đỡ chứng từ của tất cả mọi Kitô hữu, để nó luôn được đặt nền móng tr ên một niềm tin vững chắc và trung kiên.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến
ngày 18/11/2007
Chúa Nhật 11/11/2007 Thánh Martin Thành Tours
Anh Chị Em thân mến!
Hôm nay, 11/11, Giáo Hội tưởng nhớ Thánh Martin, giám mục thành Tours, một trong những vị thánh được mừng kính nhất ở Âu Châu. Được sinh ra vào khoảng năm 316 từ một cha mẹ ngoại giáo ở Pannonia, hiện là Hung Gia Lợi, ngài đã được thân phụ hướng dẫn vào binh nghiệp.
Khi còn là một thiếu niên, Martin đã gặp được Kitô Giáo và, nhờ thắng vượt được nhiều khó khăn, ngài đã ghi danh vào số thành phần dự tòng để dọn mình lãnh nhận phép rửa. Ngài đã lãnh nhận bí tích này vào khoảng lứa tuổi 20 nhưng vẫn còn trong đời lính ít lâu nữa, một môi trường ngài đã minh chứng cho lối sống mới của ngài, ở chỗ, tỏ ra tôn trọng và thông cảm với tất cả mọi người, ngài đã đối sử với bề dưới của ngài như huynh đệ và tránh lành những thứ vui chơi thô tục.
Rời bỏ quân vụ, ngài đã đến ở với vị Giám Mục thánh là Hilary thành Poitiers nước Pháp. Được thụ phong tế và linh mục bởi Thánh Hilary, Thánh Martin bắt đầu một đan viện ở Liguge với một vài người môn đệ. Thánh Martin là người xưa nhất được tiếng là thành lập đời sống đan tu ở Âu Châu. Khoảng 10 năm sau, các Kitô hữu ở thành Tours, vì không có chủ chăn, đã tuyên bố Thánh Martin là giám mục. Từ bấy giờ, Thánh Martin đã nhiệt tình dấn thân cho việc truyền bá phúc âm hóa ở miền quê và huấn luyện hàng giáo sĩ.
Mặc dù có nhiều phép lạ được qui cho ngài, nhưng trên hết, Thánh Martin nổi tiếng về hành động bác ái huynh đệ. Khi còn là một người lính trẻ, ngài đã gặp một người nghèo trên đường đang bị lạnh cóng và run ray. Thánh Martin đã lấy chiếc áo khoác của mình, dùng gươm cắt làm đôi, đưa cho người ấy một nửa. Đêm hôm ấy, Chúa Giêsu đã hiện ra với Thánh Martin trong giấc chiêm bao, mỉm cười với thân mình mặc chiếc áo khoác ấy.
Anh chị em thân mến, cử chỉ bác ái của Thánh Martin đã phản ảnh cùng một lý lẽ đã thôi thúc Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều cho đám đông đói ăn, thế nhưng, trước hết trao mình làm lương thực cho nhân loại trong Thánh Thể, dấu hiệu cao cả c ủa tình yêu Thiên Chúa, "sacramentum caritatis." Chính vì lý lẽ chia sẻ này mà tình yêu thương tha nhân mới được cụ thể hiện tỏ. Chớ gì Thánh Martin giúp chúng ta hiểu rằng chỉ bằng việc dấn thân chia sẻ chung mới có thể đáp ứng thách đố lớn lao của thời đại chúng ta, đó là thách đố của việc xây dựng một thế giới hóa bình và công lý, trong đó hết mọi người có thể sống xứng với phẩm vị của mình. Điều này có thể xẩy ra nếu mẫu thức của tình đoàn kết chân thực trên hoàn vũ trở nên thắng thế, một tình đoàn kết có thể bảo đảm tất cả mọi dân cư trên trái đấy này lương thực, nước nôi, các thuốc men cần thiết, cũng như việc làm cùng với các nguồn năng lượng, và các thứ sản vật về văn hóa v ới kiến thức v ề khoa học và kỹ thuật.
Giờ đây chúng ta hướng về Trinh Nữ Maria để nài xin Mẹ giúp cho tất cả mọi Kitô hữu, như Thánh Martino, trở thành những chứng nhân quảng đại của Phúc Âm bác ái và thành những con người không ngừng xây dựng tình đoàn kết chia sẻ ấy.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến
ngày 11/11/2007
Chúa Nhật 4/11/2007 về Viên Thu Thuế Giakêu và Thánh Charles Borromeo
Anh Chị Em thân mến!
Hôm nay, phụng vụ cho chúng ta thấy một đoạn Phúc Âm quá quen thuộc về cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với Giakêu thành Giêrico. Giakêu là ai? Một “người publicano” giầu có, tức là một người thu thuế cho thẩm quyền Rôma, và chính vì thế mà anh ta bị coi là một tội nhân công khai.
Biết rằng Chúa Giêsu đi ngang qua Giêrico, con người này cảm thấy hết sức muốn thấy được Người, song vì nhỏ con, anh đã trèo lên một cái cây. Chúa Giêsu đã dừng lại dưới cây đó và ngước lên gọi tên ông: “Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay tôi cần phải ở lại nhà ông” (Lk 19:5).
Ý nghĩa biết bao trong câu nói ngắn ngủi này! “Giakêu”: Chúa Giêsu đã gọi tên một con người bị mọi người khinh dể. “Hôm nay”: Phải, giây phút cứu độ của anh ta là lúc bấy giờ. “Tôi cần phải ở”: Tại sao lại “cần phải”? Vì Cha, Đấng giầu tình thương, muốn Chúa Giêsu đến để “tìm kiếm và cứu vớt những gì đã trầm hư” (Lk 19:10).
Ân sủng của giây phút bất ngờ đó đến nỗi đã hoàn toàn biến đổi đời sống của Giakêu, ở chỗ, như anh ta thú với Chúa Giêsu rằng “Này đây một nửa sở hữu tôi có, Lạy Chúa, tôi sẽ bố thí cho kẻ nghèo, và nếu tôi có biển thủ bất cứ điều gì của ai thì tôi sẽ đền trả gấp 4 lần” (19:8). Một lần nữa, Phúc Âm nói với chúng ta rằng tình yêu thương, tuôn ra từ trái tim của Thiên Chúa và hoạt động qua tâm can của con người, là quyền lực canh tân thế giới này.
Sự thật này chiếu rạng cách đặc biệt nơi chứng từ của vị thánh được kính lễ hôm nay, đó là Thánh Charles Borromeo, tổng giám mục thành Milan. Hình ảnh của Thánh Charles nổi lên vào thế kỷ 16 như là mộ mô phạm mục tử qua gương mẫu về đức bác ái, về giáo huấn, về lòng nhiệt thành và nhất là về việc cầu nguyện của ngài. Ngài nói: “Chúng ta chiếm được các linh hồn khi chúng ta quì xuống”.
Được tấn phong giám mục khi mới 25 tuổi, ngài mang ra thực hành sắc lệnh của Công Đồng Triđentinô là sắc lệnh đòi các vị giám mục ở trong giáo phận của mình, và ngài hoàn toàn dấn thân cho giáo hội Ambrosio: 3 lần ngài đã viếng thăm toàn thể giáo phận; ngài đã triệu tập 6 công đồng giáo tỉnh và 11 công đồng giáo phận; ngài đã thành lập các chủng viện để đào tạo một thế hệ linh mục mới; ngài đã xây cất các bệnh viện và cống hiến sự giầu sang của gia đình ngài cho việc phục vụ người nghèo; ngài đã bênh vực các quyền lợi của Giáo Hội chống lại thành phần quyền thế; ngài đã canh tân đời sống tu trì và đã thiết lập một hội dòng mới cho các vị linh mục là Dòng Oblates.
Vào năm 1576, khi bệnh dịch dữ dội tấn công thành Milan, ngài đã viếng thăm và an ủi người bệnh và cống hiến tất cả mọi sản vật của mình cho họ. Châm ngôn của ngài là một chữ duy nhất: “Humilitas”. Đức khiêm nhượng đã tác động ngài, như đã làm nơi Chúa Giêsu Kitô, trong việc bỏ mình để trở nên tôi tớ của tất cả mọi người.
Nhớ tới vị tiền nhiệm Đức Gioan Phaolô II đáng kính của tôi, vị sùng mộ mang tên Thánh Charles, chúng ta hãy ký thác cho việc chuyển cầu của Thánh Charles tất cả mọi vị giám mục trên thế giới, những vị chúng ta luôn kêu cầu việc bảo vệ thiên đình của Rất Thánh Maria, Mẹ Giáo Hội.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 4/11/2007
Lễ Chư Thánh Thứ Năm 1/11/2007 về Ngày Chư Thánh
Anh Chị Em thân mến:
Vào lễ trọng Ngày Chư Thánh này, lòng chúng ta vượt lên trên giới hạn thời gian và không gian và hướng về cái bao la vĩ đại của trời cao. Trong những ngày đầu của Kitô Giáo, các phần tử của Giáo Hội cũng được gọi là “chư thánh”. Trong Thư đầu tiên gửi Giuáo Đoàn Corintô chẳng hạn, Thánh Phaolô đã ngỏ lời cùng “anh chị em, những người đã được thánh hóa trong Chúa Giêsu Kitô, được kêu gọi để nên thánh, với tất cả những ai ở khắp mọi nơi kêu cầu danh của Chúa Giêsu Kitô, Chúa của họ cũng là của chúng ta” (1Cor 1:2). Thật vậy, Kitô hữu đã là thánh, vì phép rửa đã liên kết họ với Chúa Giêsu và với mầu nhiệm Vượt Qua của, song đồng thời họ phải n ên thánh, hòa hợp mình với Chúa Giêsu cách thân tình hơn bao giờ hết.
Đôi khi vai trò làm thánh được cho là một đặc ân giành riêng cho một ít người được tuyển chọn. Thật sự làm thánh là công việc của hết mọi Kitô hữu, thậm chí chúng ta còn có thể nói là công việc của hết mọi người! Thánh Tông Đồ đã viết rằng Thiên Chúa đã chúc lành cho chúng ta từ đời đời và đã chọn chúng ta trong Chúa Kitô “để nên thánh hảo và vô tì tích trước nhan Ngài” (Eph 1:3-4). Bởi thế, tất cả mọi người đều được kêu gọi làm thánh là việc thật sự là ở chỗ sống như con cái Thiên Chúa, ở chỗ “nên giống” Ngài như nhân loại đã được dựng nên.
Tất cả nhân loại đều là con cái của Thiên Chúa, và tất cả họ đều phải trở nên những gì họ là bằng con đường cần thiết của tự do. Thiên Chúa kêu gọi hết mọi người hãy trở thành phần tử của dân thánh Ngài. “Đường lối” này là Chúa Kitô, là người con, là Đấng Thánh của Thiên Chúa: Không ai tiến được đến với Cha mà không qua Người (x Jn 14:6).
Giáo Hội đã khôn ngoan đặt sát với lễ của Ngày Chư Thánh này là việc tưởng nhớ đến Tất Cả Mọi Tín Hữu Đã Ra Đi. Chớ gì những lời chúng ta nguyện cầu chúc tụng Thiên Chúa và tôn kính các linh hồn hưởng kiến được phụng vụ hôm nay cho chúng ta thấy như “một đám rất đông không ai đếm xuể, từ mọi quốc gia, chủng tộc, dân chúng và ngôn ngữ” (Rev 7:9), liên kết với những lời nguyện chuyển cầu của chúng ta cho những ai đã ra đi trước chúng ta từ đời này vào đời hằng sống. Chúng ta sẽ dâng hiến đặc biệt những lời nguyện cầu của chúng ta cho họ ngày mai, và cử hành hy tế Thánh Thể. Thật vậy, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy nguyện cầu cho họ hằng ngày, dâng lên những khổ đau và rã rời mệt nhọc hằng ngày của chúng ta, để nhờ hoàn toàn được thanh tẩy, họ được muôn đời hoan hưởng ánh sáng và an bình của Chúa.
Từ tâm điểm của cộng đồng thánh nhân rạng ngời là Trinh Nữ Maria, “khiêm tốn và được tôn vinh hơn bất cứ một tạo vật nào (Dante, Paradise, XXXIII, 2). Khi đặt bàn tay của chúng ta nơi bàn tay của Mẹ, chúng ta cảm thấy sẵn sàng bước đi một cách nhiệt tình hơn trên con đường làm thánh. Chúng ta hãy ký thác các công việc hằng ngày của chúng ta cho Mẹ, và chúng ta hôm nay cầu cùng Mẹ cho thành phần yêu dấu của chúng ta ra đi với niềm hy vọng sâu xa, và chúng ta hôm nay đây cầu cùng Mẹ cho người ra đi yêu dấu của chúng ta, với niềm hy vọng sâu xa là một ngày kia tìm thấy bản thân mình cùng với họ cộng đồng thánh nhân hiển vinh.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 2/11/2007
Chúa Nhật 28/10/2007 về Tiếng Gọi Tử Đạo
Anh Chị Em thân mến:
Sáng hôm nay, ở nơi đây, tại Quảng Trường Thánh Phêrô này, có 498 vị tử đạo được phong chân phước, những vị bị sát hại ở Tây Ban Nha trong thập niên 1930 thuộc thế kỷ vừa qua. Tôi cám ơn ĐHY José Saraiva Martins, tổng trưởng Thánh Bộ Án Phong Thánh, vị đã chủ sự cuộc cử hành này, và tôi thân ái chào những người hành hương qui tụ lại nơi đây nhân dịp vui mừng này.
Việc thêm một con số lớn các vị tử đạo vào danh sách những con người được phong chân phước là những gì cho thấy rằng chứng từ tối hậu trong việc đổ máu không phải là một ngoại lệ chỉ giành cho một số cá nhân, mà là một khả thể thực tế đối với toàn thể dân Kitô Giáo. Nó bao gồm những con người nam nữ thuộc các lứa tuổi khác nhau, ơn gọi và điều kiện xã hội khác nhau, thành phần đánh đổi mạng sống của mình để trung thành với Chúa Kitô và Giáo Hội của Người.
Lời phát biểu của Thánh Phaolô trong phụng vụ hôm nay thật là thích hợp cho trường hợp của các vị: “Con yêu dấu: Cha đã dốc hết sức lực, và thời điểm ra đi của cha đã gần. Cha đã giỏi chiến đấu; cha đã hoàn tất cuộc đua; cha đã giữ được đức tin” (2Tim 4:6-7). Thánh Phaolô, người bị giam cầm ở Rôma, đã thấy cái chết tiến đến và cân bằng cái ý thức và niềm hy vọng ấy. An tâm trước nhan Thiên Chúa và với bản thân mình, ngài đã thản nhiên đối đầu với tử thần, nhận thức rằng ngài đã hoàn toàn hiến mình cho việc phục vụ Phúc Âm, không tiếc xót bất cứ sự gì.
Tháng mười, tháng đặc biệt được giành cho việc dấn thân truyền giáo, được kết thúc bằng chứng từ rạng ngời của các vị tử đạo Tây Ban Nha, những vị hợp với các vị tử đạo Albertina Berkenbrock, Emmanuel Gómez Gonzáles và Adilio Daronch, và Franz Jagerstatter, những vị mời đây được phong chân phước ở Ba Tây và Áo Quốc.
Gương sáng của các vị làm chứng cho sự kiện là phép rửa thúc đẩy Kitô hữu hiên ngang tham dự vào việc lan truyền Vương Quốc của Thiên Chúa, hợp tác, nếu cần, bằng việc hy sinh mạng sống của mình. Chắc chắn là không phải hết mọi người được kêu gọi để tử đạo bằng máu. Cũng có một “cuộc tử đạo” không đổ máu, một cuộc tử đạo không kém quan trọng, như cuộc tử đạo của Celina Chludzinska Borzecka, một người vợ, người mẹ, góa phụ và tu sĩ, đã được phong chân phước hôm qua ở Rôma: Đó là một chứng từ thầm lặng và hào hùng của nhiều Kitô hữu dứt khoát sống Phúc Âm, trong việc hoàn thành nhiệm vụ của mình và quảng đại dấn thân phục vụ người nghèo.
Cuộc tử đạo của cuộc sống thường nhật này là một chứng từ đặc biệt quan trọng trong những xã hội đã bị tục hóa của thời đại chúng ta. Nó là một trận chiến bình lặng của một tình yêu thương mà tất cả mọi Kitô hữu, như Thánh Phaolô, đã phải liên lỉ chiến đấu; cuộc đua làm lan truyền Phúc Âm thúc đấy chúng ta cho tới chết. Xin Mẹ Maria là Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo và là Ngôi Sao Truyền Bá Phúc Âm Hóa, phù giúp chúng ta và hỗ trợ chúng ta trong việc làm chứng hằng ngày của chúng ta.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 28/10/2007
Anh Chị Em thân mến,
Vào lúc kết thúc cuộc cử hành long trọng này, hỡi quí bạn Naples, tôi muốn lập lại lời chào của tôi với anh chị em và lời tri ân cảm tạ của tôi về việc thân tình tiếp đón được anh chị em giành cho tôi. Tôi đặc biệt ngở lời chào tới các vị đại biểu đến từ khác phần đất khác nhau trên thế giới để tham dự vào Cuộc Ga95p Gỡ Quốc Tế về Hòa Bình được bảo trở bởi Cộng Đồng Sant’Egidio. Đề tài cho cuộc gặp gỡ này là “Hướng Về Một Thế Giới Phi Bạo Động: Chư Tôn Giáo và Các Văn Hóa Đối Thoại Với Nhau”. Chớ gì sáng kiến quan trọng về văn hóa và tôn giáo này góp phần vào việc củng cố hòa bình trên thế giới.
Chúng ta hãy nguyện cầu cho điều ấy. Thế nhưng, hôm nay chúng ta cũng hãy đặc biệt nguyện cầu cho các vị thừa sai. Thật vậy, hôm nay, chúng ta cử hành Chúa Nhật Truyền Giáo Thế Giới với một đề tài rất ý nghĩa đó là “Tất cả mọi Giáo Hội cho toàn thế giới”. Hết mọi Giáo Hội riêng đều có trách nhiệm với với truyền bá phúc âm hóa cho tất cả loài người, và việc hợp tác này giữa chư Giáo Hội đã được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI gia tăng 50 năm trước đây với bức thông điệp “Fidei Donum”. Chúng ta đừng quên cống hiến việc nâng đỡ về thiêng liêng cũng như vật chất cho những ai đang hoạt động ở tiền tuyến của sứ mệnh truyền giáo, đó là các vị linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân, những vị thừa sai thường gặp phải những khó khăn nặng nề trong hoạt động của mình, thậm chí còn bị bách hại. Chúng ta hãy dâng những ý nguyện cầu lên Mẹ Maria Rất Thánh, Vị mà vào tháng 10, chúng ta thích kêu cầu Mẹ bằng tước hiệu Mẹ được tôn kính ở đền thánh Pompeii, cách đây không bao xa, đó là Nữ Vương Mân Côi. Chúng ta ký thác nhiều khách hàn h hương đến từ Caserta cho Mẹ.
Chớ gì Vị Trinh Nữ Thánh cũng bảo vệ những ai tùy theo những cách thức khác nhau dấn thân cho công ích và trật tự chính đáng của xã hội, như đã được đề cao trong Tuần Lễ thứ 45 về Xã Hội của Người Công Giáo Ý Quốc. Biến cố này đã được tổ chức trong những ngày này ở Pistoia và Pisa, 100 năm sau một Tuần Lễ như vậy, được phát động trước hết bởi Giuseppe Toniolo, một nhân vật nổi tiếng trong các kinh tế gia Kitô Giáo.
Ngày nay chúng ta phải đương đầu với nhiều vấn đề và thách đố. Tất cả mọi người cần phải mạnh mẽ cố gắng, nhất là thành phần giáo dân làm việc trong lãnh vực xã hội và chính trị, để bảo đảm rằng hết mọi người, nhất là giới trẻ, chắc chắn có được những điều kiện bất khả thiếu để phát triển những tài n ăng tự nhiên của họ và vun trồng những quyết tâm quảng đại phục vụ gia đình mình và toàn thể cộng đồng.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 21/10/2007
Chúa Nhật 14/10/2007 về việc chữa lành thực sự
Anh chị em thân mến!
Phúc Âm theo Chúa Nhật hôm nay cho thấy Chúa Giêsu chữa cho 10 người phong cùi, trong số đó, chỉ có một người duy nhất là người Samaritanô và là một người ngoại lai trở lại dâng lời tạ ơn (x Lk 17:11-19). Chúa Giêsu phán: “Hãy đứng dạy mà đi; đức tin của con đã cứu con” (Lk 17:19).
Đoạn Phúc Âm này kêu gọi chúng ta hãy suy niệm nước đôi. Trước hết nó làm cho chúng ta nghĩ đến hai lãnh vực của việc chữa lành: một lãnh vực bề ngoài, liên quan tới thân xác; một lãnh vực sâu xa hơn chạm đến thâm cung của con người được Thánh Kinh gọi là “con tim”, và từ đó chiếu tỏa toàn thể đời sống.
Việc chữa lành hoàn toàn và thực sự là “việc cứu độ”. Thậm chí ngay cả theo ngôn ngữ chung chung thì việc phân biệt giữa “sức khỏe” và “việc cứu độ” cũng giúp cho chúng ta hiểu rằng việc cứu độ là những gì hơn hẳn sức khỏe. Thật vậy, nó là một đời sống mới, trọn vẹn và vĩnh viễn. Hơn nữa, ở trường hợp này, cũng như ở những trường hợp khác, Chúa Giêsu sử dụng lời phát biểu: “Đức tin của con đã chữa con”. Đức tin cứu con người, tái thiết lập họ vào mối liên hệ sâu xa giữa họ với Thiên Chúa, chính chính bản thân họ cũng như với người khác. Và đức tin được bày tỏ bằng việc cảm nhận tri ân. Người nào, như người Samaritanô được chữa lành, biết dâng lời tạ ơn, thì chứng tỏ rằng họ không coi mọi sự như là một cái gì đó do công lao mà có song là một tặng ân, cho dù nó xuất phát qua con người ta hay qua thiên nhiên, mà thực sự là từ Thiên Chúa. Bởi thế, đức tin bao gồm việc cởi mở của con người trước ân sủng của Chúa; nhận biết rằng tất cả đều là tặng ân, tất cả đều là ân sủng. Thật là cả một khi tàng được chất chứa nơi cụm từ ngắn ngủi “cám ơn!”
Chúa Giêsu chữa lành cho 10 người bị tật phong, một thứ bệnh vào thời đó được coi như là một “thứ ô uế lây nhiễm”, cần đến một nghi thức thanh tẩy (x Lev 14:1-37). Thực ra, chứng phong cùi thật sự làm biến dạng con người và xã hội là tội lỗi; lòng kiêu hãnh và cái duy ngã làm phát sinh ra về tinh thần tình trạng lạnh lùng dửng dưng, ghen ghét và bạo động. Chỉ có Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu, mới có thể chữa bệnh cùi này về tinh thần, một thứ cùi làm biến dạng nhân loại. Nhờ mở lòng mình ra trước Thiên Chúa mà con người hoán cải được chữa lành khỏi sự dữ trong nội tâm của mình.
“Hãy ăn năn hối cải và tin vào Phúc Âm” (Mk 1:15). Chúa Giêsu đã lên tiếng kêu gọi như thế vào lúc khai mở cho cuộc sống công khai của Người, và lời mời gọi này tiếp tục âm vang trong Giáo Hội, cho đến độ thậm chí Đức Trinh Nữ, qua những cuộc hiện ra của mình, nhất là trong những lần gần đây, đã lập lại lời kêu gọi ấy.
Hôm nay chúng ta đặc biệt nghĩ đến Fatima là nơi đúng 90 năm trước, từ 13 tháng 5 đến 13 tháng 10 năm 1917, Vị Trinh Nữ đã hiện ra với 3 mục đồng nhỏ bé là Lucia, Giaxinta và Phanxicô. Nhờ việc liên nối truyền hình tôi muốn hiện diện bằng tinh thần ở đền Thánh Mẫu ấy, nơi Đức Hồng Y Tarcisio Bertone, quốc vụ khanh của Tòa Thánh, thay tôi để chủ tọa những nghi thức bế mạc cho một cuộc mừng kỷ niệm quan trọng như thế.
Tôi thân ái chào ngài cũng như các vị hồng y và giám mục khác hiện diện ở đó, các vị linh mục đang làm việc ở đền thánh này cùng khách hành hương đến từ khắp nơi trên thế giới vào dịp này. Chúng ta xin Đức Trinh Nữ ơn hoán cải cho tất cả mọi Kitô hữu, để họ có thể loan báo và cống hiến một chứng từ vững vàng trung thực cho sứ điệp Phúc Âm trường tồn là sứ điệp vạch ra cho nhân loại con đường tiến tới một nền hòa bình đích thực”.
Đaminh Maria Cao
Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 15/10/2007
Chúa Nhật 7/10/2007 về Tháng Mân Côi và Ngày Truyền Giáo Thế Giới
Anh Chị Em thân mến,
Chúa Nhật đầu tiên của Tháng 10 này hiến cho chúng ta 2 lý do để cầu nguyện và suy niệm: lý do thứ nhất là việc tưởng niệm Đức Mẹ Mân Côi hôm nay, và việc dấn thân truyền giáo là việc được nhắm đặc biệt đến trong tháng này.
Hình ảnh truyền thống về Đức Bá Mân Côi vẽ Mẹ Maria đang ẵm con trẻ Giêsu trong cánh tay và trao chuỗi kinh mân côi cho Thánh Đa Minh. Hình ảnh ý nghĩa này cho thấy kinh mân côi là một phương tiện được Vị Trinh Nữ này cống hiến để chiêm ngưỡng Chúa Giêsu, và nhờ suy niệm về đời sống của Người mà luôn trung thành hơn trong việc mến yêu Người và theo chân Người.
Đó cũng là điều được Mẹ Maria cũng đã cống hiến trong một số lần hiện ra khác nhau. Tôi đang đặc biệt nghĩ đến những lần Mẹ hiện ra ở Fatima là biến cố xẩy ra 90 năm trước đây. Khi xưng mình là “Đức Bà Mân Côi” với 3 em nhỏ mục đồng Lucia, Giaxinta và Phanxicô, Mẹ liên lỉ nhắc nhở cầu kinh mân côi hằng ngày để chấm dứt chiến tranh.
Chúng ta cũng muốn đón nhận lời yêu cầu từ mẫu này của Vị Trinh Nữ, dấn thân cho việc tin tưởng đọc kinh mân côi cho hòa bình trong gia đình của chúng ta, nơi xứ sở và trên khắp thế giới.
Dù sao chúng ta cũng biết rằng hòa bình lan tràn ở những nơi con người ta và các tổ chức cơ cấu cởi mở trước Phúc Âm. Tháng Mười giúp chúng ta nhớ lại sự thật nồng cốt này, bằng cuộc vận động để tìm cách cổ võ động lực truyền giáo đích thực ở mỗi một cộng đồng, cũng như để nâng đỡ hoạt động của các vị linh mục, tu sĩ và giáo dân đang hoạt động ở những tuyến đầu truyền giáo của Giáo Hội.
Chúng ta đặc biệt dọn mình cử hành Ngày Truyền Giáo Thế Giới 21/10, một ngày nhắm đến chủ đề “Tất cả mọi Giáo Hội cho Toàn Thế Giới”.
Việc loan báo Phúc Âm vẫn là việc phục vụ chính yếu Giáo Hội mắc nợ với nhân loại, trong vấn đề cống hiến ơn cứu độ của Chúa Kitô cho con người của thời đại chúng ta, thành phần bằng nhiều cách đang bị hạ nhục và đàn áp, cũng như trong vấn đề hướng dẫn theo đường lối Kitô giáo những cuộc biến đổi về văn hóa, xã hội và đạo lý đang tỏ hiện trên thế giới này.
Năm nay chúng ta đang tiến tới chỗ canh tân quyết tâm truyền giáo còn vì một lý do khác nữa, đó là kỷ niệm 50 năm thông điệp “Fidei Donum” của Vị Giáo Hoàng Tôi Tớ Chúa Piô XII, bức thông điệp đã phát động và phấn khích việc Chư Giáo Hội cùng nhau hợp tác để làm việc truyền giáo “ad gentes – cho muôn dân”.
Tôi hân hoan cũng xin nhắc lại là 150 năm trước đây có 5 vị linh mục và 1 giáo dân thuộc Tổ Chức Don Maoãa ở Verona đã lên đường đến Phi Châu, đến Sudan ngày nay. Trong số họ có Thánh Daniel Comboni, vị sau làm giám mục của trung Phi và quan thày của dân chúng ở miền đó, được phụng vụ tưởng nhớ vào ngày 10/10.
Chúng ta ký thác tất cả mọi vị thừa sai cho việc chuyển cầu của những nhà mạo hiểm dấn thân cho Phúc Âm ấy cũng như cho nhiều vị thừa sai đã được phong chân phước hay hiển thánh, nhất là cho việc bảo vệ từ mẫu của Vị Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi.
Ôi Maria, xin giúp chúng con nhờ rằng hết mọi Kitô hữu đều được kêu gọi để trở thành một người loan báo Phúc Âm bằng lời nói và bằng cuộc sống của họ.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 7/10/2007
Chúa Nhật 30/9/2007 về Lazarô và Tình Hình Đói Khổ Thế Giới
Anh Chị Em thân mến!
Hôm nay, Phúc Âm Thánh Luca trình thuật dụ ngôn người giầu có và Lazarô nghèo khổ (16:19-31). Người giầu có ở đây là hiện thân của việc tiêu xài bất chính sự giầu sang nơi những con người sử dụng nó một cách xả xỉ phung phí buông thả và vị kỷ, chỉ nghĩ đến việc thỏa mãn bản thân mình, chẳng lưu tâm gì tới người nghèo khổ ở cửa ngõ nhà họ.
Còn người nghèo khổ thì tượng trưng cho con người chỉ có Chúa chăm sóc cho, và không như người giầu có, họ có một tên gọi là Lazarô, chữ tắt của Eleazar, tức là “Thiên Chúa giúp họ”. Họ là kẻ bị tất cả quên lãng nhưng Thiên Chúa không lãnh quên họ; họ là kẻ chẳng là gì trước mắt loài người nhưng lại quí hóa trước mắt Thiên Chúa.
Câu truyện này cho thấy rằng những gì bất chính trên trần gian này đều bị công lý thần linh lật ngược, ở chỗ, sau khi chết, Lazarô được đón nhận “vào lòng Abraham”, tức là được vào hưởng vinh phúc ngàn thu, trong khi đó người giầu có kết liễu đời mình “quằn quại trong hỏa ngục”. Nó là một tình trạng mới mẻ, vĩnh viễn và không kháng án gì được nữa. Bởi thế, trong cuộc đời này con người cần phải thống hối; về sau có làm như vậy cũng vô dụng thôi.
Dụ ngôn này cũng giúp vào việc dẫn giải về xã hội. Bức thông điệp “Phát Triển Các Dân Tộc - Populorum Progressio”, được viết 40 năm trước đây, vẫn còn đáng tưởng nhớ. Khi nói đến việc chiến đấu chống đói khổ, ngài viết: “nó bao gồm việc xây dựng một cộng đồng nhân loại là nơi con người có thể thực sự sống cuộc sống làm người…. Nơi Lazarô thiếu thốn có thể ngồi với người giầu ở cùng một bàn tiệc” (khoản 47).
Theo bức thông điệp này thì nguyên nhân của nhiều trường hợp cùng khổ đó một đàng là vì “tình trạng làm tôi mọi cho những người khác”, đàng khác là vì “những quyền lực tự nhiên họ không thể nào hoàn toàn kiểm soát nổi” (cùng nguồn).
Tiếc thay, một số người lại phải trải qua cả hai thứ áp lực ấy. Làm sao chúng ta, đặc biệt vào lúc này đây, không nghĩ đến các xứ sở ở vùng hạ mạc Saharan Phi Châu, đang khốn khổ bởi lụt lội trầm trọng trong mấy ngày vừa qua?
Thế nhưng, chúng ta không được quên những trường hợp khẩn trương về nhân đạo khác ở những miền đất khác trên trái đất này, nơi xẩy ra những trận chiến tranh về quyền lực chính trị dẫn tới chỗ làm tệ hại hơn cho những vấn đề về môi trường đã từng gây nhức nhối cho dân chúng. Lời Đức Phaolô VI kêu gọi từ hồi đó rằng “các quốc gia đói khổ trên thế giới đang kêu tới những dân tộc được may mắn thịnh vượng” (cùng nguồn, 3) vẫn còn là những gì khẩn trương hôm nay đây.
Chúng ta không thể nói rằng chúng ta không biết đi đường lối nào: Chúng ta có lề luật và các tiên tri, Chúa Kitô đã nói với chúng ta trong Phúc Âm. Bất cứ ai không muốn nghe thì cũng không muốn thay đổi, cho dù là người chết có trở về cảnh giác họ đi chăng nữa.
Xin Trinh Nữ Maria giúp chúng ta lợi dụng thời điểm hiện nay để lắng nghe và thực hành lời này của Thiên Chúa. Xin Mẹ giúp chúng ta biết chú ý tới anh chị em thiếu thốn của chúng ta, biết chia sẻ với họ những gì chúng ta có dồi dào hay ít ỏi, và biết góp phầ, bắt đầu từ chúng ta, vào việc truyền bá thứ lý lẽ và lối sống doàn kết chân thực.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 30/9/2007
Chúa Nhật 23/9/2007 về Giầu Nghèo
Anh chị em thân mến!
Sáng nay, tôi đã viếng thăm Giáo Phận Velletri là nơi tôi đã từng là một vị hồng y hiệu tòa mấy năm. Đó là một gặp gỡ thân thương gia đình, một cuộc gặp gỡ giúp tôi sống lại những giây phút quá khứ với đầy những cảm nghiệm thiêng liêng và mục vụ. Trong việc long trọng cử hành Thánh Thể, khi nói về các bài đọc của phụng vụ, tôi đã chia sẻ về việc sử dụng đúng đắn các thứ sản vật trần gian, một đề tài được Thánh ký Luca, qua những cách thức khác nhau, đã khiến chúng ta phải chú ý tới trong mấy Chúa Nhật vừa qua.
Trong dụ ngôn về người quản lý bất trung nhưng khôn lanh, Chúa Kitô dạy các môn đệ của mình cách thức hay nhất để dùng tiền bạc và những sự dồi dào về vật chất; biết chia sẻ chúng với người nghèo nhờ đó chiếm được tình bằng hữu theo chiều hướng Nước trời. “Chúa Giêsu phán: “các con hãy dùng tiền bạc phi nghĩa mà mua chuộc bạn bè, để khi sa cơ họ sẽ đón nhận các con vào cõi trường sinh” (Lk 16:9).
Tiền bạc tự nó không phải là những gì “bất trung”, nhưng hơn bất cứ một cái gì khác, nó có thể làm cho con người sống trong một cái tôi mù quáng. Bởi thế, những gì cần thiết là một thứ “biến đổi” những sản vật về kinh tế, ở chỗ, thay vì sử dụng nó cho lợi lộc riêng tư của mình, chúng ta cũng cần nghĩ tới các nhu cầu của người nghèo, theo gương chính Chúa Kitô, Đấng được Thánh Phaolô cảm nhận “Mặc dù giầu có song đã trở nên nghèo khó vì anh chị em, nhờ đó, nhờ sự nghèo khó của Người, anh chị em trở nên giầu có” (2Cor 8:9). Vấn đề dường như mâu thuẫn ở đây: Chúa Kitô không làm cho chúng ta nên giầu có bằng sự giầu có của Người mà bằng sự nghèo khổ của Người, tức là bằng tình yêu đã thôi thúc Người hoàn toàn ban mình cho chúng ta.
Điều này có thể mở ra cả một lãnh vực bao rộng và phức tạp về đề tài giầu có và nghèo khổ, thậm chí trên khấu trường thế giới, nơi có hai lý lẽ liên quan tới kinh tế đang đối đầu với nhau, đó là lý lẽ về lợi lộc và lý lẽ về việc phân phối đồng đều các sản vật, và lý lẽ này không nghịch với lý lẽ kia nếu có một mối liên hệ tốt đẹp. Giáo huấn về xã hội của Công Giáo bao giờ cũng chủ trương ưu tiên vấn đề phân phối đồng đều sản vật. Lợi lộc là cái gì hợp lý theo tự nhiên, và ở một mức độ chính đáng lại cần thiết cho việc phát triển về kinh tế nữa.
Đức Gioan Phaolô II đã viết trong Thông Điệp “Bách Niên – Centesimus Annus” rằng: “Nền kinh tế thị trường tân tiến có những khía cạnh tích cực. Căn bản của nó là vấn đề hành sử quyền tự do của con người trong lãnh vực kinh tế, như nó được thực hiện ở nhiều lãnh vực khác” (số 32). Tuy nhiên, ngài thêm rằng, chủ nghĩa tư bản không được coi là mẫu thức giá trị duy nhất của việc tổ chức về kinh tế (số 35). Những cuộc khủng hoảng về đói khổ và môi trường là những gì đang tố giác, mỗi ngày một hiển nhiên hơn, rằng lý lẽ về lợi lộc, một khi thắng thế, sẽ gia tăng vấn đề chênh lệch giữa giầu và nghèo cũng như gia tăng vấn đề khai thác tai hại đối với trái đất này. Trái lại, một khi lý lẽ chia sẻ và kết đoàn thắng thế thì nó mới có thể điều chỉnh tiến trình tác hành và mới hướng nó tới việc phát triển tương hợp và tồn tại.
Mẹ Maria Rất Thánh, Đấng trong ca vịnh Ngợi Khen đã lên tiếng rằng Chúa “đã cho người đói khó no đầy những sự thiện hảo còn người giầu có Ngài cho về tay không” (Lk 1:53), giúp cho tất cả mọi Kitô hữu biết sử dụng một cách khôn khéo theo phúc âm, tức là, một cách quảng đại đoàn kết, và soi động các chính quyền và những kinh tế gia có được những chính sách nhìn xa trông rộng hướng tới vấn đề phát triển thực sự tất cả mọi dân tộc.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến
ngày 23/9/2007
Chúa Nhật 16/9/2007 về Các Dụ Ngôn Lòng Thương Xót
Anh Chị Em thân mến!
Hôm nay, phụng vụ lại đề ra cho chúng ta một lần nữa để suy niệm đoạn 15 của Phúc Âm Thánh Luca, một trong những cao điểm và là một trong những đoạn cảm kích nhất trong tất cả các trang Thánh Kinh. Thật là tuyệt vời khiu nghĩ rằng bất cứ ở đâu trên khắp thế giới này cộng đồng Kitô hữu qui tụ lại với nhau để cử hành Thánh Thể Chúa Nhật thì vào ngày nay âm vang tin mừng về sự thật và về ơn cứu độ ấy: Thiên Chúa là tình yêu nhân hậu. Thánh ký Luca đã gom góp lại với nhau 3 dụ ngôn về lòng thương xót Chúa nơi đoạn này. Hai đoạn ngắn cũng được thấy nơi Thánh Mathêu và Marcô là những dụ ngôn về con chiên lạc và đồng bạc cắc bị mất; dụ ngôn thứ ba – dài, chi tiết và đặc thù nơi Phúc Âm Thánh Luca – là bài dụ ngôn nổi tiếng về Người Cha nhân hậu, thường được nói là “dụ ngôn người con trai hoang đàng”.
Nơi trang Phúc Âm này chúng ta hầu như có thể nghe thấy tiếng của Chúa Giêsu, Đấng đã mạc khải dung nhan Cha của Người cũng là Cha của chúng ta. Tựu kỳ trung thì đó là những gì Người đã đến thế gian, đó là nói cho chúng ta biết về Cha; là làm cho Ngài được nhận biết đối với chúng ta là những đứa con lạc đường, và làm bừng lên trong tâm can chúng ta niềm vui được thuộc về Ngài, niềm hy vọng được thứ tha và được phục hồi phẩm vị, niềm ước vọng được muôn đời sống trong nhà của Ngài, một ngôi nhà cũng là nhà của chúng ta.
Chúa Giêsu thuật lại 3 dụ ngôn về tình thương ấy là vì thành phần Pharisiêu và luật sĩ nói xấu về Người, khi thấy rằng Người để cho đám tội nhân đến gần Người, thậm chí Người lại ngồn ăn uống với họ (x Lk 15:1-3). Bởi vậy, Người đã giải thích, bằng ngôn ngữ thông thường của mình, rằng Thiên Chúa không muốn thậm chí một trong những người con nào của Ngài bị hư đi và linh hồn của Người cảm thấy tràn đầy niềm vui khi một tội nhân hoán cải. Bởi thế, tôn giáo đích thực là ở chỗ có cùng một tâm tình “giầu lòng xót thương” của trái tim ấy, một trái tim xin chúng ta hãy yêu thương hết mọi người, thậm chí là những ai xa cách và những ai là thù địch của chúng ta, bắt chước Cha trên trời là Đấng tôn trọng tự do của mọi người và kèo tất cả mọi người đến cùng Ngài bằng một quyền năng vô địch của lòng Ngài thủy chung. Đó là con đường Chúa Giêsu đã tỏ cho những ai muốn làm môn đệ của Người: “Đừng xét đoán… đừng kết án… hãy thứ tha để các con cũng được tha thứ; hãy cho đi thì các con sẽ được nhận lãnh… hãy xót thương như Cha các con trên trời là Đấng xót thương” (Lk 6:36-38). Nơi những dụ ngôn này chúng ta thấy được chính những dấu hiệu cụ thể cho tác hành hằng ngày của chúng ta là thành phần tín hữu.
Trong thời đại của chúng ta đây, nhân loại cần thấy được lòng thương xót của Thiên Chúa được hiên ngang loan truyền và làm chứng cho. Đức Gioan Phaolô II yêu dấu, vị đã là một đại tông đồ của lòng thương xót Chúa, đã trực giác cảm thấy được cái khẩn trương mục vụ này. Ngài đã giành hẳn bức thông điệp thứ hai của ngài cho Người Cha nhân hậu và suốt cả giáo triều của ngài ngài đã là một vị thừa sai của lòng xót thương cho tất cả mọi quốc gia. Sau biến cố thế thảm của ngày 11/9/2001, một biến cố đã làm lu mờ đi bình minh của thiên kỷ thứ ba, ngài đã mời gọi Kitô hữu và những con người thiên tâm hãy tin tưởng rằng tình thương của Thiên Chúa mạnh hơn hết mọi sự dữ và nơi thập giá của Chúa Kitô thế giới mới tìm được ơn cứu độ. Chớ gì Trinh Nữ Maria, Mẹ Tình Thương, Vị chúng ta đã chiêm ngưỡng hôm qua như là vị sầu bi dưới chân thập tự giá, xin cho chúng ta tặng ân hằng tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa, và xin Mẹ giúp chúng ta biết xót thương như Cha của chúng ta ở trên trời.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 16/9/2007
“Trong việc cử hành Thánh Thể hôm nay, Con Thiên Chúa cũng được ban tặng cho chúng ta”
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI - Tông Du Áo Quốc 7-9/9/2007: Huấn Từ Truyền Tin sau Thánh Lễ Chúa Nhật 9/9 tại Quảng Trường trước Vương Cung Thánh Đường Thánh Stêphanô
Anh Chị Em thân mến!
Thật là một cảm nghiệm đặc biệt tuyệt vời vào buổi sáng hôm nay khi có thể cử hành Ngày của Chúa với tất cả anh chị em một cách xứng đáng và long trọng trong Vương Cung Thánh Đường Thánh Stêphanô đây. Việc cử hành Thánh Thể, được cử hành một cách xứng đáng, giúp chúng ta hiện thực sự cao cả khôn lường của tặng ân Thiên Chúa ban cho chúng ta trong Thánh Lễ. Nhờ đó, chúng ta có thể xích lại gần nhau và cảm thấy được niềm vui của Thiên Chúa. Bởi vậy tôi xin cám ơn tất cả những ai, bằng việc chủ động góp phần vào việc sửa soạn cho phụng vụ hay bằng việc ý thức tham dự vào các mầu nhiệm linh thánh, đã tạo nên một bầu không khí làm cho chúng ta thực sự cảm thấy sự hiện diện của Thiên Chúa. Xin chân thành đa tạ và Vergelt’s Gott cho tất cả mọi người!
Trong bài giảng của mình, tôi đã muốn nói tới một chút về ý nghĩa của Chúa Nhật và về Phúc Âm hôm nay, và tôi nghĩ rằng điều này dẫn chúng ta đến chỗ nhận thức được rằng tình yêu của Thiên Chúa, Đấng đã phó chính mình vào bàn tay của chúng ta vì phần rỗi của chúng ta, ban cho chúng ta niềm tự do nội tâm để chúng ta sống cuộc đời của mình, để tìm được sự sống chân thực. Việc tham dự của Mẹ Maria vào tình yêu này đã cống hiến cho Mẹ sức mạnh để thưa “xin vâng” một cách vô tư. Trong việc Mẹ gặp gỡ tình yêu dịu dàng trân trọng của tình yêu Thiên Chúa, Đấng đời chờ sự hợp tác tự do nơi tạo vật của mình để thực hiện dự án cứu độ của Ngài, Đức Trinh Nữ mới có thể thắng vượt được tất cả những e ngại, và trước dự án cao cả chưa từng có ấy, đã phó mình cho bàn tay của Ngài. Bằng việc hoàn toàn sẵn sàng, bằng việc cởi mở và tự do nội tâm, Mẹ đã để cho Thiên Chúa làm cho Mẹ được tràn đầy yêu thương, tràn đầy Thánh Thần của Ngài. Mẹ Maria, một người đàn bà tầm thường, nhờ đó đã có thể lãnh nhận nơi mình Con Thiên Chúa, và ban cho thế giới Đấng Cứu Độ là Đấng trước tiên đã ban mình cho Mẹ.
Trong việc cử hành Thánh Thể hôm nay, Con Thiên Chúa cũng được ban tặng cho chúng ta. Những ai Hiệp Lễ cách đặc biệt, đều mang vị Chúa Phục Sinh này trong bản thân họ. Như Mẹ Maria đã cưu mang Người trong cung dạ của Mẹ thế nào – một con trẻ bé nhỏ bất lực, hoàn toàn lệ thuộc vào tình yêu của Mẹ mình – Chúa Giêsu Kitô cũng thế, dưới hình bánh, cũng phó mình cho chúng ta, hỡi anh chị em thân mến. Chúng ta hãy yêu mến Chúa Giêsu này, Đấng đã hiến mình một cách hết sức trọn vẹn cho bàn tay của chúng ta! Chúng ta hãy mến yêu Người như Mẹ Maria đã yêu mến Người! Và chúng ta hãy mang Người đến cho kẻ khác, như Mẹ Maria đã mang Người đến cho bà Isave như là một mạch nguồn hân hoan vui thú! Vị Trinh Nữ này đã hiến ban cho Lời Thiên Chúa một xác thân loài người, nhờ đó, giúp cho Người có thể đến thế gian như là một con người. Chúng ta hãy hiến dâng thân xác của chúng ta cho Chúa, và hãy để cho thân xác của mình trở nên những dụng cụ trọn vẹn hơn bao giờ hết của tình yêu của Thiên Chúa, trở nên đền thờ của Chúa Thánh Thần! Chúng ta hãy mang Chúa Nhật cùng với tặng ân bao la của Chúa Nhật đến cho thế giới!
Chúng ta hãy xin Mẹ Maria dạy cho chúng ta làm sao được tự do nội tâm như Mẹ, để với sự cởi mở trước Thiên Chúa, chúng ta có thể cảm nghiệm thấy được tự do thực sự, sự sống thực sự, niềm vui đích thực và lâu bền.
Angelus Domini…
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh
"Sau Nazarét, Loreto là nơi lý tưởng để nguyện cầu khi suy niệm về mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa"
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Huấn Từ Nguyện Kinh Truyền Tin Chúa Nhật 2/9/2007 ở Plain of Montorso về Nhà Đức Mẹ ở Loreto
Giới trẻ thân mến, kết thúc việc long trọng cử hành Thánh Thể, chúng ta hãy cùng nhau nguyện Kinh Truyền Tin trong mối hiệp thông thiêng liêng với tất cả những ai liên kết với chúng ta qua truyền thanh và truyền hình.
Loreto, sau Nazarét, là nơi lý tưởng để nguyện cầu khi suy niệm về mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa.
Bởi thế, vào lúc này đây, tôi xin mời gọi hãy cùng nhau tiến vào, bằng tâm trí, Đền Thờ của Ngôi Nhà Thánh, nơi mà trong những bức tường, theo truyền thống, từ Nazarét mà đến, chất chứa vị trí vị Trinh Nữ đã thưa “vâng” với Thiên Chúa và đã thụ thai trong lòng dạ của mình Lời Nhập Thể hằng hữu.
Trước khi chấm dứt cuộc họp của chúng ta đây, chúng ta hãy rời bỏ “agora” này, quảng trường này, một chút và trong tinh thần hãy tiến vào Ngôi Nhà Thánh đây. Giữa quảng trường ấy và ngôi nhà này có một mối liên hệ hỗ tương.
Khu quảng trường ấy rộng rãi, ngoài trời, là nơi để gặp gỡ những người khác, nơi đối thoại, nơi đối chất.
Ngôi nhà này, trái lại, là nơi trầm tư và thinh lặng nội tâm, nơi Lời được sâu xa lãnh nhận.
Để mang Thiên Chúa đến với khu quảng trường ấy thì trước hết người ta cần phải nội tâm hóa trong ngôi nhà này, như Mẹ Maria vào lúc Truyền Tin.
Ngược lại, ngôi nhà này hướng về khu quảng trường ấy. Điều này cũng được gợi lên bởi sự kiện là Ngôi Nhà Thánh ở Loreto có 3 bức tường, chứ không phải là 4: nó là một Ngôi Nhà mở, mở ra trước thế giới, trước sự sống, thậm chí trước Agora của giới trẻ Ý quốc đây.
Các bạn thân mến, thật là một đại hồng ân cho Ý quốc có được Đền Thờ của Ngôi Nhà Thánh này ở nơi cái góc đẹp đẽ này của tỉnh Marches đây. Hãy thành thực hãnh diện về điều này và tận dụng nó!
Vào những lúc quan trọng nhất của cuộc đời mình, anh chị em hãy đến đây, ít là bằng tâm can của mình, để hồi tưởng thiêng liêng trong các bức tường của Ngôi Nhà Thánh đây.
Hãy nguyện cầu cùng Trinh Nữ Maria để Mẹ xin cho anh chị em ánh sáng và sức mạnh của Chúa Thánh Thần, nhờ đó anh chị em có thể hoàn toàn quảng đại đáp ứng tiếng của Thiên Chúa.
Để rồi anh chị em sẽ trở nên những chứng nhân đích thực ở “quảng trường” này, trong xã hội, thành những người mang một thứ Phúc Âm không trừu tượng mà hiện thực trong đời sống của anh chị em.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh
Chúa Nhật 26/8/2007 về Việc Qua Cửa Hẹp theo ý nghĩa của bài Phúc Âm
Anh Chị Em thân mến!
Phụng vụ hôm nay thậm chí còn nêu lên chúng ta một câu tỏ tường và rắc rối của Chúa Kitô. Trong chuyến hành trình của Người lên Gia Liêm, có kẻ hỏi Người rằng: “Lạy Thày, phải chăng có ít kẻ được cứu độ?” Và Chúa Giêsu đã trả lời là: “Hãy cố mà vào qua cử hẹp; Thày bảo cho các con hay, vì nhiều người sẽ tìm cách vào mà không được” (Lk 13:23-24). “Cửa hẹp” ở đây có nghĩa là gì? Tại sao nhiều người không vào qua được cửa hẹp này? Phải chăng có lẽ nó là cuộc vượt qua được giành cho một số ít người được tuyển chọn?
Khi chúng ta để ý thì cách lập luận tác hiệu này của thành phần đối thoại với Chúa Giêsu bao giờ cũng ở nơi chúng ta, ở chỗ, khuynh hướng nghĩ về việc hành đạo như là mạch nguồn của các thứ đặc ân và là những gì vững chắc luôn rình chực để phục kích chúng ta. Thật thế, sứ điệp của Chúa Kitô thực sự là đi ngược chiều, ở chỗ hết mọi người đều có thể vào hưởng sự sống, thế nhưng cửa sự sống thì “hẹp hòi” đối với hết mọi người. Không có một nhóm nào là đặc biệt cả. Con đường dẫn tới sự sống đời đời là những gì rộng mở trước tất cả mọi người, thế nhưng nó lại “chật hẹp” vì nó là những gì gắt gao đòi hỏi, nó cần phải dấn thân, từ mình và diệt cái tôi của mình.
Một lần nữa, như chúng ta đã thấy ở các Chúa Nhật vừa qua, bài Phúc Âm kêu mời chúng ta hãy coi tương lai ở trước mặt chúng ta và là tương lai chúng ta cần phải sửa soạn trong cuộc hành trình trần thế của mình. Ơn cứu độ Chúa Giêsu chiếm đạt qua cuộc tử nạn và phục sinh của Người là một ơn cứu độ phổ quát. Người là Đấng Cứu Chuộc duy nhất và Người mời hết mọi người đến bàn tiệc trường sinh. Thế nhưng, với cùng một điều kiện duy nhất, đó là nỗ lực theo Người và bắt chước Người, vác lấy thập giá của mình, như Người đã làm, và hiến cuộc sống mình để phục vụ anh chị em. Bởi thế, điều kiện để được vào sự sống thiên đình là điều kiện duy nhất và phổ quát.
Trong ngày sau hết – Chúa Giêsu nhận định trong Phúc Âm – chúng ta không bị phán xét căn cứ vào những đặc ân lãnh nhận mà là vào các c ông việc của chúng ta. “Những công nhân lầm lỗi” sẽ thấy mình bị loại trừ, trong khi những kẻ làm điều thiện và tìm kiếm công lý, với giá hy sinh phải trả, sẽ được đón nhận. Vì lý do ấy, việc cho rằng mình là “bạn” của Chúa Kitô vẫn chưa đủ, khi khoe khoang về những công lênh sai lạc rằng: “Chúng tôi đã ăn uống trước nhan Ngài và Ngài đã giảng dạy chúng tôi nơi phố xá của chúng tôi” (Lk 13:26).
Tình bạn chân thực với Chúa Kitô được thể hiện qua lối sống của con người: nó được thể hiện qua tâm hồn lành thánh, khiêm tốn, hiền lành và xót thương, yêu chuộng công lý và chân lý, chân thành và thành tín dấn thân cho hòa bình và hòa giải. Chúng ta có thể nói rằng đó là cái “thẻ căn cước” công nhận chúng ta là thành phần “bạn bè” chân thực; đó là “tờ giấy thông hành” cho phép chúng ta tiến vào sự sống đời đời.
Anh chị em thân mến, nếu chúng ta cũng muốn qua cửa hẹp chúng ta cần phải quyết tâm trở nên bé nhỏ, tức là khiêm nhượng trong lòng, như Chúa Giêsu. Như Mẹ Maria, Mẹ của Người và là Mẹ của chúng ta. Mẹ là con người đầu tiên theo Người Con này, hành trình con đường thập giá và Mẹ đã được hưởng vinh quang thiên đình, như chúng ta tưởng niệm mấy ngày vừa qua. Thành phần Kitô hữu gọi Mẹ là “launa Caele”, Cửa Thiên Đàng. Chúng ta hãy xin Mẹ hướng dẫn chúng ta, trong những chọn lựa hằng ngày, biết đi theo con đường dẫn chúng ta tới “Cửa Thiên Đàng”.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 26/8/2007
Chúa Nhật 19/8/2007 về ý nghĩa bài Phúc Âm
Anh Chị Em thân mến,
Bài Phúc Âm của Chúa Nhật này có một diễn tả về Chúa Giêsu đã luôn làm cho chúng ta thắc mắc và cần phải được hiểu cho đúng.
Trong khi Người đang trên đường lên Giêrusalem, nơi cái chết trên thập tự giá đang đợi chờ Người, thì Chúa Kitô hỏi các môn đệ của Người rằng: “Các con có nghĩ rằng Thày đến để mang lại bình an trên thế gian này hay chăng? Thày bảo cho các con hay, không phải thế, mà là chia rẽ”. Rồi Người thêm rằng: “Bởi thế, trong một nhà có 5 người thì ba chống lại hai và hai chống lại ba; họ sẽ bị chia rẽ, cha nghịch lại con và con nghịch lại cha, mẹ nghịch lại con gái và con gái nghịch lại mẹ mình, mẹ chồng nghịch lại con dâu và con dâu nghịch lại mẹ chồng” (Lk 12:51-53).
Bất cứ ai, cho dù là người có ít kiến thức nhất về Phúc Âm của Chúa Kitô, đều biết rằng đây là một đệ nhất sứ điệp hòa bình; như Thánh Phaolô đã viết chính Chúa Giêsu “là hòa bình của chúng ta” (Eph 2:14), Đấng đã chết đi và sống lại để phá đổ bức tường hận thù và khai mở Vương Quốc của Thiên Chúa là yêu thương, hân hoan và an bình.
Thế thì giải thích thế nào về những lời lẽ của Người đây? Chúa muốn nói gì đây khi Người phán rằng Người đến – theo trình thật của Thánh Luca – là để mang “chia rẽ” hay – theo trình thuật của Thánh Mathêu – là để mang “gươm giáo” (Mt 10:34)?
Những lời của Chúa Kitô có nghĩa là hòa bình được Người đến mang lại cho chúng ta thì không đồng nghĩa với tình trạng thuần túy vắng bóng các cuộc xung đột. Trái lại, hòa bình của Chúa Giêsu là thành quả của một cuộc chiến đấu liên lỉ chống lại sự dữ. Cuộc chiến đấu được Chúa Giêsu cương quyết hỗ trợ không phải là cuộc chiến đấu chống lại con người hay quyền lực con người mà là Satan, kẻ thù của Thiên Chúa và loài người.
Bất cứ ai muốn chống lại kẻ thù này để trung thành với Thiên Chúa và với sự thiện đều cần phải noon g đầu với những thứ hiểu lầm và đôi khi với những cuộc bách hại thực sự nữa.
Bởi thế, tất cả những ai có ý định theo Chúa Giêsu và dấn thân dứt khoát cho chân lý, đều phải biết rằng họ sẽ gặp phải chống đối và bất chấp bản thân mình, họ sẽ trở nên một dấu hiệu chia rẽ giữa dân chúng, thậm chí ngay nơi gia đình của họ. Thật vậy, tình yêu mến đối với cha mẹ là một giới luật thánh, thế nhưng việc sống giới răn này một cách đích thực cũng không bao giờ được vượt trên tình yêu mến đối với Thiên Chúa cũng như đối với Chúa Kitô.
Bởi vậy, việc bước theo chân Chúa Giêsu, theo những lời của Thánh Phanxicô Assisi thì Kitô hữu trở thành “khí cụ bình an”; không phải là một thứ bình an bất nhất và chỉ hời hợt song là một thứ bình an thực sự, được theo đuổi một cách can đảm và kiên trì trong việc dấn thân hằng ngày để thắng vượt sự dữ bằng sự lành (x Rm 12:21) và đích thân phải trả giá cho những gì đòi hỏi bởi đó mà ra.
Trinh Nữ Maria, Vị Nữ Vương Hòa Bình, đã thông dự vào cuộc chiến đấu với Ma Quỉ của Chúa Giêsu Con Mẹ cho đến khi Người tử đạo và tiếp tục tham dự vào cuộc chiến đấu này cho tới tận cùng thời gian. Chúng ta hãy kêu cầu việc chuyển cầu từ mẫu của Mẹ để Mẹ giúp chúng ta luôn luôn là những chứng nhân cho hòa bình của Chúa Kitô và đừng bao giờ chịu giao hảo với sự dữ.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh
Anh Chị Em thân mến,
Hôm nay, chúng ta cử hành Lễ Trọng Mông Triệu của Đức Trinh Nữ Maria. Đây là một lễ cổ kính được sâu xa bắt nguồn từ Thánh Kinh: thật vậy, nó cho thấy Trinh Nữ Maria gắn bó chặt chẽ với Người Con thần linh của Mẹ và hằng được Người hỗ trợ.
Người Mẹ và Người Con này tỏ ra rất liên kết với nhau trong trận chiến đấu chống lại với kẻ thù hỏa ngục cho đến khi các Ngài hoàn toàn chiến thắng hắn. Cuộc chiến thắng này được thể hiện đặc biệt trong cuộc chế ngự tội lỗi và sự chết, tức là cuộc chiến thắng các kẻ thù liên hệ được Thánh Phaolô luôn cho thấy (cf. Rom 5: 12, 15-21; I Cor 15: 21-26).
Bởi thế, như Cuộc Phục Sinh vinh hiển của Chúa Kitô là dấu hiệu tối hậu cho cuộc chiến thắng này thế nào thì cuộc hiển vinh của Mẹ Maria nơi thân xác trinh nguyên của Mẹ cũng là một xác quyết tối hậu cho việc Mẹ hoàn toàn liên kết với Người Con này, cả trong cuộc chiến đấu cũng như trong cuộc chiến thắng.
Người Giáo Hoàng Tôi Tớ Chúa Piô XII đã giải thích ý nghĩa thần học sâu xa của mầu nhiệm này vào ngày 1/11/1950 khi ngài công bố Tín Điều trọng đại về đặc ân Thánh Mẫu này.
Ngài đã tuyên bố rằng: “Bởi thế, Người Mẹ đáng kính này của Thiên Chúa, từ đời đời đã liên kết một cách âm thầm với Chúa Giêsu Kitô trong cùng một nhiệm ý tiền định duy nhất, vô nhiễm từ lúc hoài thai, một trinh nữ trọn hảo nhất nơi vai trò thiên mẫu của mình, một cộng sự viên cao cả của Đấng Cứu Thế thần linh là vị đã hoàn toàn chiến thắng tội lỗi cùng các hậu quả của nó, sau cùng đã đạt đến chỗ, như là những gì tối hậu của các đặc ân nhận được, Mẹ cần phải được gìn giữ cho khỏi bị hủy hoại trong mồ, và, như Con Mẹ, chiến thắng sự chết, Mẹ cần phải được đem cả xác lẫn hồn vào vinh quang Thiên Quốc là nơi, với tư cách làm Nữ Vương, Mẹ hiển vinh ngồi bên hữu Con của Mẹ, Vị Vua bất tử Muôn Đời” (Apostolic Constitution Munificentissimus Deus: AAS 42, [1 November 1950]).
Anh Chị Em thân mến, sau khi được đưa về Trời, Mẹ Maria đã không tách mình khỏi chúng ta song vẫn tiếp tục gần gũi chúng ta còn hơn nữa, và ánh sáng của Mẹ chiếu tỏa trên đời sống của chúng ta cũng như trên lịch sử của toàn thể nhân loại. Được thu hút bởi ánh quang thiên đình này của Mẹ Đấng Cứu Thế, chúng ta hãy tin tưởng hướng về Đấng nhìn xuống chúng ta và bảo vệ chúng ta từ trên cao.
Tất cả chúng ta cần đến sự giúp đỡ và an ủi của Mẹ để đương đầu với những gian nan khốn khó của cuộc sống hằng ngày; chúng ta cần cảm thấy rằng Mẹ là Mẹ của chúng ta và là người chị của chúng ta trong những trường hợp cụ thể của đời sống chúng ta.
Đểù một ngày kia cả chúng ta nữa có thể được thông phần với số phận của Mẹ, chúng ta giờ đây hãy bắt chước Mẹ trong việc khiêm tốn theo Chúa Kitô và quảng đạo phục vụ anh em mình. Đó là con đường duy nhất để nếm hưởng trước, ngay trong cuộc hành trình trần thế của chúng ta, niềm vui và an bình mà những ai tiến tới đích điểm vĩnh cửu Thiên Đàng được trọn vẹn hoan hưởng.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh
Chúa Nhật 12/8/2007 về ý nghĩa Phúc Âm
Anh Chị Em thân mến,
Phụng Vụ cho ngày Chúa Nhật 19 Thường Niên giúp chúng ta sửa soạn một cách nào đó cho Lễ Trọng Đức Mẹ Mông Triệu, một lễ chúng ta sẽ cử hành vào ngày 15 tháng 8. Thật vậy, nó hoàn toàn hướng về tương lai, về Trời, nơi Đức Trinh Nữ Maria đã đi trước chúng ta trong niềm vui Thiên Đình.
Đặc biệt là đoạn Phúc Âm, tiếp tục sứ điệp của Chúa Nhật tuần trước, đã xin Kitô hữu đừng dính bén với của cải vật chất là những gì hầu như là hão huyền, và hãy trung thành thực hiện nhiệm vụ của mình, liên lỉ khát vọng Trời Cao. Chớ gì người tín hữu biết tỉnh táo và canh chừng để sẵn sàng nghênh đón Chúa Giêsu khi Người đến trong vinh quang của Người.
Bằng những tỉ dụ trong đời sống hằng ngày, Chúa Giêsu đã huấn dụ các môn đệ của Người, tức là chúng ta, hãy sống với cung cách nội tâm ấy, như những người đầy tớ trong dụ ngôn chờ đợi chủ mình trở về. Người phán: “Phúc cho những người đầy tớ ấy, thành phần mà chủ thấy tỉnh thức khi ông đến” (Lk 12:37). Bởi thế chúng ta cần phải canh chừng, bằng việc nguyện cầu và làm lành.
Thật vậy, tất cả chúng ta đều là lữ khách trên trái đất này, như Bài Đọc Thứ Hai của phụng vụ hôm nay trích từ Thư gửi giáo đoàn Do Thái thích đáng nhắc nhở chúng ta. Bài đọc này cho chúng ta thấy Abraham trong bộ y phục lữ hành, như một người dân du mục sống trong một cái lều và tạm trú ở nơi một mảnh đất xa lạ. Ông được đức tin hướng dẫn cho.
Tác giả sách thánh viết: “Nhờ đức tin, Abraham đã tuân phục khi ông được kêu gọi ra đi đến một nơi ông sẽ lãnh nhận làm gia sản; và ông đã lên đường, không biết rằng mình sẽ đi đâu” (Heb 11:8).
Thật vậy, đích điểm thực sự của Abraham đó là “thành đô có nền tảng được Thiên Chúa là kiến tạo gia và thực hiện gia thiết dựng” (11:10). Thành đô này mà ông hướng về đó không phải ở trên đời này mà là Gia Liêm thiên quốc, là Thiên Đàng.
Điều này là những gì đã quá rõ đối với cộng đồng Kitô hữu sơ khai, một cộng đồng coi mình là “kẻ xa lạ” ở dưới thế này và đã gọi những trung tâm có dân chúng định cư trong các thành phố là “giáo xứ”, có nghĩa thực sự là tập đoàn của thành phần ngoại quốc (theo tiếng Hy Lạp là pároikoi) (x 1Pt 2:11). Như thế, những Kitô hữu tiên khởi đã thể hiện được đặc tính quan trọng nhất của Giáo Hội, đó chính là tình trạng sống vươn lên trên đời này trong ánh sáng của Trời Cao.
Bởi thế, Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay muốn mời gọi chúng ta hãy nghĩ về “sự sống đời sau”, như chúng ta lập lại mỗi lần chúng ta tuyên xưng đức tin bằng Kinh Tin Kính. Nó là một lời mời gọi hãy sống khôn ngoan và nhìn xa trông rộng, hãy chú ý tới đích điểm của chúng ta, tức là tới những thực tại chúng ta gọi là cùng tận đó là sự chết, phán xét, vĩnh hằng, hỏa ngục và Thiên Đàng. Và chính vì thế mà chúng ta mới đảm nhận trách nhiệm đối với thế giới và xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.
Xin Trinh Nữ Maria, vị từ Trời Cao coi sóc chúng ta, giúp chúng ta đừng quên rằng ở dưới thế này chúng ta chỉ đi ngang qua thôi, và chớ gì Mẹ dạy cho chúng ta biết dọn mình gặp gỡ Chúa Giêsu, Đấng “ngự bên hữu Cha. Đấng sẽ đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết”.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh
Chúa Nhật 5/8/2007 hướng về Lễ Biến Hình
Anh Chị Em thân mến,
Hôm nay, Chúa Nhật 18 Thường Niên, Lời Chúa thôi thúc chúng ta suy nghĩ về mối liên hệ cần phải ra sao giữa chúng ta với những thứ vật chất.
Mặc dù giầu có tự nó là điều tốt, nó cũng không được coi như là một sự thiện tuyệt đối. Trước hết, nó không bảo đảm cho phần rỗi; trái lại, nó thậm chí còn trầm trọng nguy hiểm đến phần rỗi nữa.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu thực sự đã cảnh giác các môn đệ của Người về mối nguy cơ này. Khôn ngoan và nhân đức là ở chỗ đừng để lòng mình quyến luyến các thứ sản vật trên đời này, vì tất cả mọi sự đều là những gì chuyển biến, tất cả mọi sự đều có thể đột nhiên tận kết.
Đối với Kitô hữu chúng ta thì kho tàng thực sự chúng ta không ngừng tìm kiếm là ở “những sự trên cao… nơi Chúa Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa”; Thánh Phaolô hôm nay nhắc nhở chúng ta về điều này trong Thư gửi giáo đoàn Colôsê, còn thêm rằng sự sống của chúng ta “được ẩn dấu với Chúa Kitô trong Thiên Chúa” (x 3:1-3).
Lễ trọng Chúa Biến Hình chúng ta sẽ cử hành ngày mai, kêu gọi chúng ta hãy hướng mắt mình “lên cao”, lên Trời. Trong trình thuật Phúc Âm về biến cố Biến Hình trên núi, chúng ta thấy được một dấu báo khiến chúng ta thoáng thấy được Vương Quốc của Chư Thánh, nơi mà cả chúng ta nữa, vào lúc kết thúc cuộc sống trần gian của mình, sẽ được thông phần vào vinh quang của Chúa Kitô, một thứ vinh quang trọn vẹn, hoàn toàn và cuối cùng. Toàn thể vũ trụ bấy giờ sẽ được biến hình và dự án thần linh cứu độ cuối cùng được nên trọn.
Ngày Lễ Trọng Biến Hình vẫn là những gì liên quan tới việc tưởng niệm về vị Tiền Nhiệm của tôi là Người Tôi Tớ Chúa Phaolô VI, vị mà vào năm 1978 đã hoàn tất sứ vụ của mình ở ngay tại chốn này, tại Castel Gandolfo, và được gọi về Nhà Cha Trên Trời. Chớ gì việc tưởng nhớ đến ngài là một lời mời gọi chúng ta hãy nhìn lên cao và trung thành phụng sự Chúa và Giáo Hội, như ngài đã làm trong những năm không dễ dàng gì của thế kỷ vừa qua.
Xin Trinh Nữ Maria, vị chúng ta hôm nay đặc biệt tưởng nhớ khi chúng ta cử hành Lễ Nhớ Đền Thờ Đức Bà Cả, xin cho chúng ta ơn này. Như đã quá rõ, đây là Đền Thờ đầu tiên ở Tây phương được xây lên để tôn kính Mẹ Maria; nó được Đức Giáo Hoàng Sixtus III xây vào năm 432 để mừng vai trò thiên mẫu của vị Trinh Nữ này, một Tín Điều đã được long trọng tuyên bố vào năm trước đó ở Công Đồng Chung Êphêsô.
Chớ gì vị Trinh Nữ này, vị đã được tham dự một cách chặt chẽ vào mầu nhiệm của Chúa Kitô hơn bất cứ một tạo vật nào, bảo trì chúng ta trong cu65c hành trình đức tin của chúng ta, nhờ đó, như phụng vụ kêu mời chúng ta cầu nguyện hôm nay, “chúng ta đừng để mình bị chi phối bởi tham lam hay vị kỷ khi chúng ta vất vả nỗ lực làm chủ trái đất, song luôn luôn tìm kiếm những gì xứng đáng trước nhan Thiên Chúa” (x Ca Nhập Lễ)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh
Chúa Nhật 29/7/2007 ở Castel Gandolfo về Kỹ Thuật Nguyên Tử
Anh Chị Em thân mến!
Từ Lorenzago di Cadore về đây từ mấy hôm trước, tôi cảm thấy vui mừng ở Castel Gandolfo đây, trong một môi trường quen thuộc của phố thị nhỏ mỹ miều này, nơi tôi muốn ở lại, nếu Chúa muốn, cho tới hết mùa hè. Tôi cảm thấy mạnh mẽ muốn tạ ơn Chúa một lần nữa vì đã có thể sống những ngày trầm lặng ở day núi Cadore và tôi lấy làm biết ơn tất cả những ai tổ chức một cách tốt đẹp cho việc tôi lưu ngụ ở đó và ân cần chăm sóc đến việc trú ngụ này của tôi.
Cũng với lòng cảm mến như thế, tôi xin gửi lời chào và bày tỏ niềm tri cảm của tôi đối với anh chị em, hỡi anh chị em hành hương thân mến, và nhất là với anh chị em, những người công dân thân yếu của Castel Gandolfo, những người nghênh đón tôi bằng niềm thân ái quen thuộc, và luôn hỗ trợ tôi bằng việc thận trọng trong những thời gian tôi tạm lưu trú với anh chị em.
Chúa Nhật vừa rồi, khi nhắc lại Ghi Chú được phổ biến 90 năm trước đây vào ngày 1/8 của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XV nhắm tới các quốc gia chiến tranh trong Thế Chiến Thứ Nhất, tôi đã chia sẻ về đề tài hòa bình. Giờ đây một cơ hội mới kêu gọi tôi chia sẻ về một vấn đề quan trọng khác liên quan tới đề tài này. Thật vậy, chính ngày hôm nay là ngày kỷ niệm 50 năm thành lập Cơ Quan Nguyên Tử Năng Quốc Tế IAEA (International Atomic Energy Agency), một cơ quan được thiết lập với sứ vụ “để tím cách gia tăng và mở rộng việc đóng góp của nguyên tử năng cho nền hòa bình, sức khỏe và thịnh vượng khắp thế giới” (IAEA "Statute," No. II).
Tòa Thánh, hoàn toàn ủng hộ mục tiêu của IAEA, đã là phần tử của nó ngay từ ban đầu và tiếp tục hỗ trợ hoạt động của nó. Những đổi thay theo thời đoạn của 50 năm qua là chứng cớ cho thấy làm thế nào, trong những lúc nan giải nhân loại gặp phải, bao giờ cũng thích đáng và khẩn trương cho vấn đề dấn thân khuyến khích đừng leo thang các thứ vũ khí nguyên tử, trong việc cổ võ vấn đề gia tăng và đồng ý giải giới nguyên tử, cũng như trong việc ủng hộ vấn đề sử dụng an lành và an toàn kỹ thuật nguyên tử cho việc phát triển chân thực – tôn trọng môi trường và luôn chú trọng tới thành phần kém may mắn nhất.
Vì lý do này, tôi tha thiết hy vọng thấy được sự thành đạt của các nỗ lực của những ai hoạt động theo đuổi một cách dứt khoát 3 mục tiêu này cũng như có ý làm cho các sự vật mà “các nguồn lợi được gìn giữ để có thể được sử dụng cho các dự án phát triển có khả năng mưu ích cho tất cả mọi người dân của mình, nhất là thành phần nghèo khổ” ("Message for the World Day of Peace 2006," No. 13).
Đúng thế, thật là thích hợp để tái nhấn mạnh vào dịp này về cách thức thay thế cho “cuộc thi đua các thứ vũ khí là một nỗ lực chung trong việc vận động các nguồn lợi cho các mục tiêu của vấn đề phát triển về luân lý, văn hóa và kinh tế, ‘tái xác định những thứ ưu tiên và cấp độ của các thứ giá trị’” (Catechism of the Catholic Church, No. 2438).
Một lần nữa chúng ta ký thác cho việc chuyển cầu của Mẹ Maria Rất Thánh lời c hung ta nguyện cầu cho hòa bình, đặc biệt cho kiến thức khoa học và kỹ thuật được sử dụng theo chiều hướng trách nhiệm cũng như cho công ích, hoàn toàn tôn trọng luật lệ quốc tế. Chúng ta hãy nguyện cầu để cho con người sống trong an bình và tất cả đều cảm thấy nhau là huynh đệ, con cái của người Cha duy nhất là Thiên Chúa.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 29/7/2007
Chúa Nhật 22/7/2007 ở Piaoãa Calvi of Lorenzago di Cadore gần nơi ngài nghỉ hè về chiến tranh
Anh Chị Em thân mến!
Trong những ngày nghỉ ngơi này, tạ ơn Chúa, tôi đang sống ở Cadore này, tôi cảm thấy càng cảm thấy gia tăng sầu đau về tin tức nhận được liên quan tới những cuộc cãi nhau đổ máu và những cuộc bạo động đang xẩy ra ở rất nhiều phần đất trên thế giới. Điều này khiến tôi suy tư một lần nữa về thảm kịch tự do của nhân loại trên thế giới này. Vẻ đẹp của thiên nhiên nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta đã được Thiên Chúa đưa vào trần gian này “để vun trồng và gìn giữ ngôi vườn” là trái đất đây (cf. Genesis 2:8-17).
Nếu con người sống hòa bình với Thiên Chúa và với nhau, thì trái đất này thực sự giống như một “địa đường”. Tiếc thay, tội lỗi đã làm tàn rụi dự án thần linh này, gây ra chia rẽ và mang đến cho thế gian sự chết. Đó là lý do tại sao con người nhượng bộ cho các chước cám dỗ của tên gian ác và gây chiến với nhau. Kết quả đó là trong cái “vườn” kỳ diệu này là thế giới hiện lên cái vòng lẩn quẩn hỏa ngục.
Chiến tranh, với những sầu thương và hủy hoại do nó gây ra, bao giờ cũng đáng được coi là một thứ tai họa phản khắc với dự án của Thiên Chúa. Ngài đã tạo dựng nên mọi sự cho hiện hữu, và đặc biệt, muốn làm cho nhân loại trở thành một gia đình. Trong lúc này đây, tôi không thể nào không trở về với một ngày quan trọng trong lịch sử, đó là ngày 1/8/1917 – gần 90 năm trước – vị tiền nhiệm đáng kính của tôi là Biển Đức XV đã ban hành văn kiện nổi tiếng là “Nota Alle Potenze Belligeranti” (Ghi Chú cho Các Quyền Lực Chiến Tranh), xin họ hãy chấm dứt Thế Chiến I (cf. ASS 9 [1917], 417-420).
Khi cuộc xung đột lớn lao này thì vị Giáo Hoàng này đã can đảm xác nhận rằng nó là một cuộc tắm máu vô dụng”. Lời bày tỏ này của ngài đã đánh dấu trên lịch sử. Nó là một nhận định được chứng thực bằng tình hình cụ thể vào mùa hè năm 1917, nhất là ở tiền chiến thuộc phần bắc Ý đây. Thế nhưng, những lời ấy, “cuộc tắm máu vô ích”, có một áp dụng bao rộng có tính cách tiên tri cho các cuộc xung khắc khác đã từng hủy hoại vô vàn mạng sống con người.
Chính những mảnh đất chúng ta hiện đang ở đây, những mảnh đất tự chúng nói về hòa bình và hòa hợp, đã trở thành một khấu trường trong Thế Chiến Thứ Nhất, như nhiều chứng từ và một số bài hát cảm động về Núi Alps vẫn còn nhắc nhở. Những biến cố này là những gì không thể quên được!
Cần phải làm biến một kho tàng của những kinh nghiệm tiêu cực mà cha ông chúng ta đã bất hạnh trải qua, để chúng không còn tái diễn nữa. “Điều Ghi Nhận” của Đức Biển Đức V không chỉ lên án chiến tranh; nó cho thấy, ở lãnh vực về pháp lý, những đường lối kiến tạo nên một nền hòa bình hợp tình hợp lý và bền bỉ, đó là quyền năng về luật lệ luân lý, là việc giải giới cách quân bình và điều hòa, là việc phân xử những vụ tranh cãi, là quyền tự do về biển cả, là việc tha cho nhau những thứ nợ nần về chiến tranh, là việc trả lại các khu vực chiếm đóng, và những cuộc thương thảo công bằng để giải quyết các vấn đề.
Dự án của Tòa Thánh là những gì nhắm tới tương lai của Âu Châu cũng như của thế giới, theo dự án có tính cách Kitô nhưng được tất cả mọi người đồng ý vì nó được thấy nơi luật lệ của các quốc gia. Nó cũng là chương trình được các Người Tôi Tớ Chúa Phaolô VI và Gioan Phaolô II theo đuổi nơi những bài diễn từ đáng nhớ của các vị ở Liên Hiệp Quốc, khi nhân danh Giáo Hội lập lại rằng: “Đứng xẩy ra chiến tranh nữa!”.
Từ nơi chốn của an bình này thuộc bắc Ý, nơi người ta càng cảm thấy một cách sống động hơn nữa là không thể chấp nhận được “những cuộc tắm máu vô ích”. Tôi muốn lập lại lời kêu gọi hãy kiên cường theo đuổi đường lối luật lệ, hãy mạnh mẽ từ bỏ việc chạy đua vũ khí, hãy phủ nhận tổng quan khuynh hướng đương đầu với các thực trạng mới bằng các hệ thống cũ.
Qua những tư tưởng và ước muốn này, giờ đây chúng ta hãy hiến dâng một lời nguyện đặc biệt cho hòa bình thế giới, ký thác nó cho Mẹ Maria Rất Thánh, Nữ Vương hoàn toàn.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 22/7/2007
Chúa Nhật 15/7/2007 về “Yêu Thương là Tâm Điểm của Đời Sống Kitô Giáo”
Anh Chị Em thân mến,
Tôi cám ơn Chúa vì cả năm nay nữa Ngài ban cho tôi cơ hội sống những ngày nghỉ ngơi ở miền núi, và tôi cảm ơn những ai nghênh đón tôi ở Lorenzago, ở một phong cảnh hùng vĩ trước đỉnh Núi Cadore và là nơi vị tiền nhiệm yếu dấu của tôi đã viếng thăm một số lần.
Tôi xin đặc biệt cám ơn đức giám mục giáo phận Treviso và đức giám mục giáo phận Belluno-Feltre, cũng như tất cả mọi người bằng cách này hay cách khác góp phần vào việc giúp cho tôi được thanh thơi lưu trú một cách hữu ích. Trước phong cảnh bao gồm những đồng cỏ, những cánh rừng, những đỉnh trời, linh hồn tự nhiên muốn ca ngợi chúc tụng Thiên Chúa về kỳ công của các công việc Ngài làm và dễ dàng biến ước muốn này thành lời cầu nguyện.
Hết mọi người Kitô hữu tốt lành đều biết rằng việc nghỉ hè là một thời điểm thuận lợi để thư giãn thân thể của mình và để bồi bổ tinh thần bằng nhiều giờ cầu nguyện và suy niệm hơn, hầu tăng trưởng mối liên hệ tư riêng với Chúa Kitô, và tuân hợp mỗi ngày một hơn với các giáo huấn của Người. Chẳng hạn, hôm nay, phụng vụ mời gọi chúng ta hãy suy niệm dụ ngôn nổi tiếng về người Samaritanô Nhân Lành (x Lk 10:25-37), một dụ ngôn đem tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân vào tâm điểm của sứ điệp phúc âm.
Thế nhưng, ai là tha nhân của tôi? Đối thoại viên của Chúa Giêsu đặt vấn đề. Và Chúa trả lời, lật ngược lại vấn nạn, cho thấy qua câu truyện của người Samaritanô NHân Lành rằng mỗi một người trong chúng ta cần phải là tha nhân của từng người chúng ta gặp: “Hãy đi mà làm như thế!” (Lk 10:37). Chúa Giêsu phán yêu thương là tỏ ra tác hành như người Samaritanô Nhân Lành. Chúng ta biết rằng Chúa Giêsu chính là Người Samaritanô Nhân Lành này: Cho dù là Thiên Chúa, Người vẫn không ngần ngại hạ mình xuống tới độ trở thành con người và ban sự sống cho chúng ta.
Bởi thế, yêu thương là ‘tâm điểm’ của đời sống Kitô Giáo; thật vậy, chỉ có tình yêu được Thánh Linh làm bừng lên trong chúng ta mới khiến chúng ta trở thành chứng nhân của Chúa Kitô.
Tôi đã có ý lập lại chân lý thiêng liêng quan trọng này trong sứ điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới 23, một sứ điệp sẽ được phổ biến vào Thứ Sáu tới đây, 20/7: “Các con sẽ lãnh nhận được Thánh Linh là Đấng sẽ xuống trên các con” (Acts 1:8).
Giới trẻ thân mến, đó là những gì tôi mời gọi các bạn hãy suy tư trong các tháng tới đây để sửa soạn cho cuộc gặp gỡ đông đảo của chúng ta ở Sydney, Úc Đại Lợi, một cuộc gặp gỡ, chính vào những ngày Tháng Bảy này, sẽ xẩy ra cách đây một năm nữa. Các cộng đồng Kitô hữu của quốc gia thân yêu ấy đang chủ động thực hiện việc nghênh đón các bạn và tôi xin cám ơn họ về việc họ nỗ lực thực hiện việc tổ chức ấy.
Chúng ta hãy ký thác cho Mẹ Maria, Vị mà ngày mai chúng ta sẽ c ầu khẩn như là một Trinh Nữ Núi Carmêlô, cho việc sửa soạn và thể hiện cuộc họp với giới trẻ trên khắp thế giới tới đây, một cuộc họp tôi mời gọi các bạn tới, hỡi các bạn thuộc hết mọi lục địa.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 15/7/2007
Chúa Nhật 8/7/2007 về sứ vụ truyền giáo
Anh Chị Em thân mến,
Phúc Âm hôm nay (x Lk 10:1-2,17-20) cho thấy Chúa Giêsu sai 72 môn đệ ra đi đến các làng mạc Người sắp sửa viếng thăm để dọn đường. Đây là một đặc tính của Thánh Ký Luca, vị nhấn mạnh rằng sứ mệnh này không chỉ giành riêng cho 12 Tông Đồ mà còn bao gồm cả các môn đệ khác nữa. Thật vậy, Chúa Giêsu đã phán: ‘Mùa màng thì phì nhiêu mà thợ điền lại ít ỏi’ (Lk 10:2). Tất cả chúng ta đều có việc làm trong ruộng vườn của Chúa. Tuy nhiên , Chúa Kitô không chỉ biết sai thành phần thừa sai của mình đi, Người còn cống hiến cho họ những lời hướng dẫn rõ ràng và xác đáng về tác hành. Trước hết Người sai các vị đi “từng cặp một” để họ có thể giúp đỡ lẫn nhau và làm chứng về tình yêu thương huynh đệ. Người cảnh giác các vị rằng các vị sẽ như ‘chiên giữa sói rừng’. Các vị cần phải bình an bất chấp mọi sự, và cần phải cống hiến một sứ điệp an bình trong mọi trạng huống; các vị không được mang theo quần áo hay tiền bạc để sống nhờ vào những gì được Đấng Quan Phòng cung cấp cho; các vị cần phải chữa trị cho các bệnh nhân như một dấu hiệu cho thấy tình thương xót của Thiên Chúa; bất cứ nơi nào dân chúng ruồng rẫy mình, các vị cần phải ra đi, không làm gì hơn ngoài việc cảnh báo cho họ biết trách nhiệm của họ đối với việc ruồng bỏ Vương Quốc của Thiên Chúa. Thánh Luca đã nhấn mạnh tới thái độ hào hứng của các môn đệ trước những thành quả tốt đẹp nơi sứ vụ của các vị, và đã ghi lại lời diễn tả tuyệt vời của Chúa Giêsu là: “Các con chớ hớn hở về điều ấy, về các thần phải tùng phục các con; song hãy hân hoan vì tên của các con được ghi ở trên trời” (Lk 10:20). Chớ gì bài Phúc Âm này làm tái b ừng lên trong tất cả thành phần lãnh nhận phép rửa niềm ý thức rằng họ là thành phần thừa sai của Chúa Kitô, được kêu gọi để dọn đường cho Người bằng lời nói cũng như bằng chứng từ cuộc đời của họ.
Đã đến thời gian nghỉ hè, và ngày mai tôi đi Lorenzago di Cadore, nơi tôi sẽ trở thành khách của Đức Giám Mục giáo phận Treviso tại một ngôi nhà thường được Đức Gioan Phaolô II khả kính trú ngụ. Không khí núi sẽ có lợi cho tôi và tôi sẽ có thể – tôi hy vọng thế – hiến mình thanh thoát hơn nữa cho việc suy tư và nguyện cầu. Tôi hy vọng mọi người, nhất là những ai cần nhất, có thể thực hiện một chút nghỉ hè để phục hồi nghị lực thể lý và tinh thần, cũng như để lấy lại một liên hệ lành mạnh với thiên nhiên. Núi non đặc biệt nhắc nhở cho tâm trí về việc hướng tinh thần về trời cao, việc nó hướng tới “một tiêu chuẩn cao” của nhân tính chúng ta, một nhân tính tiếc thay bị cuộc sống hằng ngày có khuynh hướng làm suy giảm. Về vấn đề này, tôi xin nhắc lại cuộc hành hương lần thứ năm của giới trẻ đến với Cây Thánh Giá trên Núi Adamello, nơi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đến viếng thăm hai lần . Cuộc hành hương này đã diễn ra vào những ngày này và đã lên tới tột đỉnh của mình nơi Thánh Lễ, được cử hành ở một cao độ 3 ngàn mét trên mặt biển. Trong khi tôi gửi lời chào đến Đức Tổng Giám Mục Trent và vị Tổng Thư Ký của Hội Đồng Giám Mục Ý, cũng như các v ị Thẩm Quyền ở Trent, tôi muốn nhắc nhở tất cả giới trẻ Ý quốc về cuộc hẹn hò của họ ở Loreto vào ngày 1-2/9.
Xin Đức Trinh Nữ Maria luôn bảo vệ chúng ta, cả trong khi chúng ta thi hành sứ vụ cũng như khi chúng ta nghỉ ngơi thoải mái, để chúng ta có thể hần hoan và hiệu quả thi hành công việc của chúng ta trong vườn nho của Chúa.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/angelus/2007/documents/hf_ben-xvi_ang_20070708_en.html
Chúa Nhật XIII Thường Niên 1/7/2007 về việc sống trong tự do của tình yêu thương.
Anh Chị Em thân mến!
Các bài đọc Thánh Kinh của Thánh Lễ Chúa Nhật này mời gọi chúng ta hãy suy niệm về một đề tài hấp dẫn có thể được tóm lại như thế này: niềm tự do và việc tuân phục của Chúa Kitô. Thánh ký Luca thuật lại rằng Chúa Giêsu, “vì đến ngày sắp ra khỏi trần gian, Người đã dứt khoát quyết định đi Giêrusalem” (Lk 9:51).
Bằng lời diễn tả “dứt khoát” n ày chún g ta có thể thấy được một cái gì đó về quyền tự do của Chúa Kitô. Người thật sự biết rằng cái chết trên thập tự giá đang đợi chờ Người ở Giêrusalem, thế nhưng vì vâng lời ý muốn của Cha Người đã hiến mình vì yêu. Chính trong việc Người vâng lời Cha mà Chúa Giêsu hiện thực tự do của Người như là một chọn lựa ý thức được tác động bởi tình yêu. Còn ai tự do hơn Người là Đấng toàn năng chứ?
Tuy nhiên, Người đã không sống tự do của Người như là một thứ quyền phép hay thống trị. Người đã sống nó như là việc phục vụ. Nhờ đó Người đã vui lòng làm “trọn đầy” một thứ tự do mà những gì còn lại là một cơ hội “trống rỗng” trong việc thực hiện hay không thực hiện một điều gì đó. Như chính sự sống của con người, ý nghĩa của tự do xuất phát từ yêu thương. Ai là người tự do hơn? Phải chăng họ là người bám víu lấy tất cả mọi cơ hội vì sợ rằng mất chúng, hay kẻ “dứt khoát” hiến mình phục vụ nhờ đó tìm lại chính mình tràn đầy sự sống vì tình yêu họ đã hiến ban và lãnh nhận?
Tông đồ Phaolô, khi viết cho Kitô hữu Galata, ở Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay, đã nói rằng: “Anh chị em ơi, anh chị em được kêu gọi sống tự do. Thế nhưng đừng sử dụng tư do này như là một cơ hội sống xác thịt; trái lại, hãy vì yêu thương mà phục vụ nhau” (5:13).
Sống theo xác thịt nghĩa là theo những khuynh hướng vị kỷ của bản tính con người. Trái lại, sống theo Thần Linh tức là để mình được hướng dẫn nơi ý hướng cũng như hành động bởi tình yêu của Thiên Chúa được Chúa Kitô ban cho chúng ta. Bởi thế, tự do Kitô Giáo hoàn toàn khác với những gì là tùy ý độc đoán ; nó là việc theo Chúa Kitô hy hiến bản thân mình, cho đến độ hy sinh trên thập tự giá.
Nó có vẻ nghịch thường đó, song Chúa Kitô đã sống đến tận tuyệt cái tự do của Người trên thập tự giá, như là tột đỉnh của tình yêu thương. Trên Đồi Canvê khi người ta hô hoán rằng: “Nếu ngươi là Con Thiên Chúa thì hãy xuống khỏi thập tự giá!” thì Người đã tỏ ra quyền tự do của mình như Người Con Thiên Chúa chính là ở chỗ vẫn cứ phơi thây để trọn vẹn hoàn tất ý muốn nhân hậu của Cha. Nhiều chứng nhân khác trước chân lý đã chia sẻ cảm nghiệm này: đó là những con người nam nữ vẫn còn tự do ngay cả trong ngục tù và bị đe dọa hành hạ. “Sự thâä sẽ giải phóng quí vị tư do”. Những ai thuộc về sự thật sẽ không bao giờ trở thành nô lệ cho bất cứ quyền lực nào, nhưng bao giờ cũng biết làm sao để tự do trở thành người tôi tớ phục vụ của anh chị em mình.
Chúng ta hãy nhìn lên Mẹ Maria Rất Thánh. Người nữ tỳ khiêm hạ này của Chúa, Đức Nữ Trinh này là mô phạm của con người thiêng liêng, hoàn toàn tự do vì Mẹ là con người vô nhiễm, được miễn nhiễm khỏi tội lỗi, và hoàn toàn thánh đức, đã dấn thân phục vụ Thiên Chúa và tha nhân. Bằng việc chăm sóc từ mẫu của mình, xin Mẹ giúp chúng ta theo Chúa Giêsu, nhận biết chân lý, và sống trong tự do của tình yêu thương.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 1/7/2007
Chúa Nhật Lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả 24/6/2007
Anh Chị Em thân mến,
Hôm nay, 24/6, phụng vụ mời gọi chúng ta cử hành trọng thể Sinh Nhật của Thánh Gioan Tẩy Giả, vị có một đời sống hoàn toàn hướng về Chúa Kitô, như đời sống của Mẹ Maria, Mẹ Chúa Kitô.
Thánh Gioan Tẩy Giả là vị tiền hô, là “tiếng nói” vang lên loan báo Lời Nhập Thể. Đó là lý do việc tưởng niệm sinh nhật của Thánh Gioan Tẩy Giả thực sự nhắm đến Chúa Kitô, Đấng là tất cả những gì hoàn trọn của lời được tất cả các vị tiên tri hứa hẹn, trong đó Thánh Gioan là đệ nhất tiên tri, được kêu gọi đến “dọn đường” trước Đức Kitô (cf Mt 11:9-10).
Tất cả các cuốn Phúc Âm bắt đầu trình thuật về đời sống công khai của Chúa Giêsu bằng việc kể lại việc Chúa Giêsu lãnh nhận phép rửa của Thánh Gioan ở Sông Dược Đăng. Thánh Luca tả việc xuất hiện của Thánh Gioan ở một hoàn cảnh thuộc bối cảnh lịch sử trang trọng. Cuốn sách “Giêsu Nazarét” của tôi cũng căn cứ vào việc Chúa Giêsu chịu phép rửa ở Sông Dược Đăng, một biến cố có một tác dụng rất nhiều vào lúc bấy giờ.
Từ GiaLiêm và từ khắp nơi ở Giuđêa dân chúng đến nghe Thánh Gioan Tẩy Giả và xin ngài làm phép rửa cho ở con sông ấy, bằng việc xưng thú tội lỗi của họ (x Mk 1:5). Danh tiếng của vị tâåy giả gia tăng đến độ nhiều người đã đặt vấn đề rằng hoặc ngài là Đấng Thiên Sai. Thế nhưng, Thánh Gioan – thánh ký Phúc Âm nhấn mạnh – hoàn toàn phủ nhận mà rằng: “Tôi không phải là Đức Kitô” (Jn 1:20).
Tuy nhiên, ngài vẫn là “chứng nhân” đầu tiên của Chúa Giêsu, khi lãnh nhận hướng dẫn về Người từ trên cao: “Con người mà ngươi thấy Thần Linh đậu xuống đỗ thì đó là Đấng làm phép rửa trong Thần Linh” (Jn 1:33). Điều này xẩy ra chính vào lúc Chúa Giêsu, sau khi lãnh nhận phép rửa, lên khỏi nước: Thánh Gioan đã trông thấy Thần Linh xuống trên Người như một chim câu.
Bấy giờ ngài “biết được” tất cả sự thật về Chúa Giêsu Nazarét và bắt đầu “làm cho dân Yến Duyên nhận thức” (Jn 1:31), gọi Người là Con Thiên Chúa và đấng cứu độ nhân loại: “Kia là Con Chiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (1:29).
Là vị tiên tri thực sự, Thánh Gioan cương quyết làm chứng cho chân lý. Ngài đã bái bác những gì xúc phạm đến các mệnh lệnh của Thiên Chúa, cho dù thành phần đóng vai chủ yếu là thành phần có quyền thế. Bởi vậy, khi ngài tố giác Hêrôđê với Herodius phạm tội ngoại tình, ngài phải trả giá bằng chính mạng sống của mình, được đóng ấn bằng việc tử đạo việc ngài phục vụ Chúa Kitô Đấng bản thân là chân lý.
Chúng ta hãy nguyện xin ngài chuyển cầu với lời chuyển cầu của Mẹ Maria Rất Thánh, nhờ đó Giáo Hội ở thời đại chúng ta sẽ biết cách trung thành hơn bao giờ hết với Chúa Kitô và can đảm làm chứng cho sự thật của Người và tình yêu của Người đối với tất cả mọi người.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 24/6/2007
Anh chị em thân mến,
Tám thế kỷ trước đây, thành Assisi đã khó mà nghĩ rằng nó được ủy thác cho một vai trò đã làm cho thành phố này trở thành nổi tiếng khắp thế giới, đã làm cho nó thực sự thành một “nơi của linh hồn”. Một biến cố đã xẩy ra ở nơi đây đã đã in đậm nét bất khả phai nhoà nơi thành phố này. Tôi muốn nói tới cuộc hoán cải của con người trẻ Phanxicô. Sau 25 năm sống vô định và tầm thường chỉ nhắm tới việc tìm kiếm những khoái lạc và thành đạt trần gian, trong một lúc phản tỉnh nội tâm, ngài đã cởi mở trước ân sủng và dần dần nhận thấy lý tưởng sống trong Chúa Kitô. Cuộc hành hương của tôi đến Assisi hôm nay là để tìm cách nhắc lại biến cố này, tìm cách sống cái ý nghĩa của nó một cách hết sức trọn vẹn.
Tôi đã đặc biệt cảm kích khi dừng lại ở ngôi nhà thờ nhỏ San Damiano là nơi Thánh Phanxicô đã nghe thấy từ cây thập tự giá lời hướng dẫn là “Phanxicô, hãy đi mà tái thiết Giáo Hội của Ta” (2 Cel 1,6,10). Đó là sứ vụ đã được mở màn bằng việc hoàn toàn hoán cải của tâm hồn ngài, một cuộc hoán cải trở thành men Phúc Âm làm nẩy sinh phong phú cho Giáo Hội và nhân loại.
Tôi đã đến viếng thăm địa điểm ở Rivotorto, là nơi theo truyền thống, đã lưu trú các người bị tật phong cùi hủi được Thánh Phanxicô cảm thương đến, nhờ đó bắt đầu cuộc đời thống hối của ngài. Tôi cũng viếng thăm nơi cư trú nghèo hèn mà thánh nhân đã sống với những người an hem đầu tiên của mình.
Tôi đã ở tại Đền Thờ Thánh Nữ Clara, “một cây nhỏ” của ngài, và chiều hôm nay, sau khi viếng thăm Vương Cung Thánh Đường Assisi, tôi sẽ dừng chân ở Porziuncola là nơi Thánh Phanxicô, dưới bóng của Mẹ Maria, đã chỉ thị hãy bành trướng tình huynh đệ của ngài và cũng là nơi ngài thở hơi cuối cùng. Ở đó, tôi sẽ gặp gỡ giới trẻ để thanh niên Phanxicô, một con người đã trở lại với Chúa Kitô, có thể nói với tâm hồn của họ.
Vào lúc này đây, từ Đền Thờ Thánh Phanxicô, nơi còn lưu giữ hài cốt của ngài, tôi muốn sử dụng lời cầu nguyện của ngài rằng: “Ôi Đấng Tối Cao, Thiên Chúa Toàn Năng, Chúa nhân lành, con ca ngợi, tôn vinh và chúc tụng Chúa” (Ca Vịnh Anh Mặt Trời, 1). Thánh Phanxicô Assisi là một đại sư phụ về niềm tin và việc ca ngợi của chúng ta. Khi ngài phải lòng Chúa Giêsu Kitô, ngài đã thấy được dung nhan của Vị Thiên Chúa Tình Yêu; ngài đã trở thành một ca sĩ say mê và thực sự là một “du ca viên của Thiên Chúa”. Theo ý nghĩa của các mối phúc đức, chúng ta hiểu được sự hiền lành và khiêm nhượng ngài đã tỏ ra với kẻ khác, trở thành một chứng nhân và là một tác nhân của hòa bình.
Từ thành phố hòa bình này, tôi xin gửi lời chào đến các vị đại diện thuộc những cộng đồng Kitô hữu và các tôn giáo khác, những vị m à vào năm 1986, đã chấp nhận lời mời của vị tiền nhiệm khả kích của tôi đến nơi đây, đến quê hương của Thánh Phanxicô, tham dự Ngày Thế Giới Nguyện Cầu Cho Hòa Bình. Tôi cảm thấy có nhiệm vụ lên tiếng khẩn trương và chân thành kêu gọi từ nơi đây hãy chấm dứt tất cả mọi cuộc xung đột võ trang đang nhuộm máu trái đất này. Chớ gì các thứ vũ khí im tiếng đi và hận thù nhường bước cho yêu thương, v I phạm cho tha thứ và bất hòa cho hiệp nhất!
Ở nơi đây, chúng tôi cảm thấy được sự hiện diện linh thiêng của tất cả những ai than khóc, khổ đau và chết chóc vì chiến tranh hay vì những hậu qủa thê thảm của chiến tranh ở bất cứ phần đất nào trên thế giới. Chúng tôi đặc biệt nghĩ đến Thánh Địa, một địa điểm được Thánh Phanxicô hết sức yêu chuộng, đến Iraq, đến Lebanon và đến toàn thể vùng Trung Đông.
Dân chúng ở những nơi này đã trải qua quá dài những tình trạng kin h hoàng của chiến tranh, khủng bố, cuồng loạn, ảo tưởng rằng bạo lực là những gì giải quyết những c ái xung khắc, và chối từ lắng nghe lý lẽ của nhau và thực hiện công lý với nhau. Chỉ bao giờ biết hữu trách và chân tình đối thoại, một cuộc đối thoại được thiết tha hỗ trợ bởi cộng động quốc tế, mới có thể chấm dứt tình trạng quá nhiều khổ đau và man g lại đời sống mới cùng phẩm vị cho cá nhân, cơ cấu và dân chúng mà thôi.
Chớ gì Thánh Phanxicô, con người hòa bình, xin Chúa ban cho chúng ta ơn gia tăng số người muốn trở thành “khí cụ bình an” bằng hằng ngàn cử chỉ nhỏ nhặt trong cuộc sống hằng ngày của họ. Chớ gì nhữn g ai đang nắm trong tay quyền bính được lòng thiết tha yêu chuộng hòa bình tác động, một ý muốn bất khuất thực hiện nó và chớ gì họ biết chọn lấy những phương tiện thích đáng để đạt được nó.
Chớ gì Vị Trinh Nữ Thánh, vị được “người anh em hèn mọn” mến yêu bằng một con tim êm ái và là vị được người anh em hèn mọn này say sưa ca tụng, giúp chún g ta biết khám phá ra cái b í mật của hòa bình nơi phép lạ của tình yêu thương đã xẩy ra nơi cung lòng của Người qua việc nhập thể của Con Thiên Chúa.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 17/6/2007
Chúa Nhật Lễ Mình Máu Thánh Chúa 10/6/2007
Anh Chị Em thân mến,
Lễ Trọng Mình Máu Thánh Chúa Kitô hôm nay, một lễ được cử hành hôm Thứ Năm vừa rồi ở Vatican cũng như ở các Quốc Gia khác nhau, kêu gọi chúng ta hãy chiêm ngưỡng Mầu Nhiệm cao cả của đức tin chúng ta, đó là Bí Tich Thánh Thể, Sự Hiện Diện Thực Sự của Chúa Giêsu Kitô trong Bí Tích Bàn Thờ. Mỗi lần vị linh mục lập lại hy tế Thánh Thể, là ngài, qua lời truyền phép, lập lại: “Này là Mình Thày… này là Máu Thày”.
Ngài đọc lên lời ấy khi ngài cho Chúa Kitô mượn tiếng nói, bàn tay và trái tim của mình, Đấng muốn ở lại với chúng ta và là con tim thổn thức của Giáo Hội. Thế nhưng, ngay cả sau khi cử hành các mầu nhiệm thánh, Chúa Giêsu vẫn sống động trong nhà tạm, và vì lý do này mới có một hình thức đặc biệt chúc tụng Người là việc tôn thờ Thánh Thể, như tôi đã nhắc nhở trong Tông Huấn Hậu Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới mới đây Sacramentum Caritatis (x các số 66-69).
Thật vậy, có một liên hệ sâu xa giữa việc cử hành và việc tôn thờ. Đúng vậy, Thán h Lễ tự mình là tác động tôn thờ cao cả nhất của việc tôn thờ: Thánh Âu Quốc Tinh viết rằng “không ai ăn thịt này mà trước hết không tôn thờ thịt ấy” (Enarr. in Ps. 98,9: CCL XXXIX, 1385). Việc tôn thờ ngoài Thánh Lễ kéo dài và gia tăng những biến cố của việc cử hành phụng vụ, và làm cho việc cử hành này trở thành dịp đón nhận Chúa Kitô một cách thực sự và sâu xa bao nhiêu có thể.
Bởi vậy, hôm nay đây, nơi tất cả mọi cộng đồng Kitô hữu trên thế giới, diễn ra một cuộc rước kiệu Thánh Thể. Nó là một hình thức đặc biệt của việc công khai tôn thờ Thánh Thể, được phong phú hóa bởi những việc bày tỏ tuyệt vời và theo truyền thống của lòng sùng kính phổ thông. Tôi muốn lợi dụng cơ hội của Ngày Lễ Trọng này để khuyến khích việc thực hành tôn thờ Thánh Thể với các vị chủ chiên và tín hữu
Tôi xin cảm ơn các Tổ Chức sống đời tận hiến cũng như các hiệp hội và đoàn thể đặc biệt dấn thân thực hiện việc làm này; họ nhắc nhở hết mọi người về vị thế tâm điểm của Chúa Kitô trong đời sống cá nhân cũng như giáo hội.
Bởi vậy tôi hân hoan ghi nhận là nhiều giới trẻ đang khám phá ra vẻ đẹp của việc tôn thờ, cả riêng cũng như chung. Tôi mời gọi các vị linh mục hãy khuyến khích các nhóm giới trẻ thực hiện mục đích ấy, thế nhưng cũng đi kèm theo họ để bảo đảm rằng việc tôn sùng cộng đồng bao giờ cũng thích đáng và xứng hợp, với những giây phút thích hợp lặng thinh và lắng nghe Lời Chúa.
Trong cuộc sống tân tiến, rất thường bị ồn ào và phân tâm, hơn bao giờ hết cần phải tái phục hồi khả năng thinh lặng nội tâm và nguyện cầu. Việc tôn thờ Thánh Thể có thể giúp thực hiện điều ấy, chẳng những chỉ riêng ‘tôi’, mà còn cùng với ‘Người’ là Chúa Giêsu Kitô, ‘Thiên Chúa gần gũi chúng ta’.
Chớ gì Trinh Nữ Maria là Người Nữ Thán h Thể, dẫn chúng ta vào cái bí quyết của việc tôn thờ chân thực. Con tim khiêm nhượng và chân thành của Mẹ hằng chiêm ngắm mầu nhiệm Chúa Giêsu, là Đấng Mẹ tôn thờ sự hiện diện của Thiên Chúa và của tình yêu cứu chuộc của Ngài. Chớ gì niềm tin tưởng vào Mầu Nhiệm Thánh Thể, niềm hân hoan nơi việc tham dự Thánh Lễ, nhất là vào các Chúa Nhật, và nhiệt tình làm chứng cho tìn h yêu bao la của Chúa Kitô gia tăng khắp Giáo Hội qua việc chuyển cầu của Giáo Hội”.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 10/6/2007
Chúa Nhật Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống 27/5/2007
Anh Chị Em thân mến!
Hôm nay chúng ta cử hành đại lễ Hiện Xuống. Và qua phụng vụ hôm nay, chúng ta sống lại việc hạ sinh của Giáo Hội như được Thánh Luca trình thuật trong Sách Tông Vụ (2:1-13). Năm mươi ngày sai Phục Sinh, Thánh Thần đã ngự xuống trên cộng đồng môn đệ – “đồng tâm kiên trì cầu nguyện” – cùng nhau với Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu” và với 12 vị tông đồ (x Acts 1:14;2:1).
Bởi thế, chúng ta có thể nói rằng Giáo Hội đã được long trọng bắt đầu bằng việc hiện xuống của Thánh Thần. Trong biến cố đặc biệt này chúng ta thấy những dấu hiệu chính yếu và nổi bật của Giáo Hội: Giáo Hội là một, như cộng đồng Hiện Xuống, một cộng đồng được hiệp nhất trong lời cầu nguyện và “nhất trí”: “chỉ một tấm lòng và một linh hồn” (Acts 4:32).
Giáo Hội là thánh, chẳng những vì công nghiệp của riêng mình, mà vì, được tác động bởi Thánh Thần, Giáo Hội gắn mắt nhìn lên Chúa Kitô để trở nên giống Người và tình yêu của Người. Giáo Hội là công giáo vì Phúc Âm giành cho tất cả mọi dân nước, bởi thế, ngay từ ban đầu, Thánh Linh ban cho Giáo Hội khả năng nói các tiếng khác nhau. Giáo Hội là tông truyền vì, xây dựng trên nền tảng các vị tông đồ, Giáo Hội trung thành bảo trì giáo huấn của các ngài qua mối giây liên tục của việc thừa kế tông đồ.
Ngoài ra, Giáo Hội tự bản chất còn là truyền giáo, và từ ngày Hiện Xuống của Thánh Thần, không ngừng tiến bước trên các con đường thế giới cho đến tận cùng trái đất và cho đến tận cùng thời gian. Thực tại này, một thực tại chúng ta có thể chứng thực được ở hết mọi giai đoạn của nó, đã được báo trước trong Sách Tông Vụ, một cuốn sách diễn tả việc chuyển Phúc Âm từ người Do Thái cho các dân ngoại, từ Gia Liên tới Rôma.
Rôma tiêu biểu cho thế giới dân ngoại, bởi thế, cho tất cả mọi dân tộc ở ngoài dân Chúa xưa kia. Thật vậy, Sách Tông Vụ kết thúc bằng việc Phúc Âm tiến đến Rôma. Bởi thế chúng ta có thể nói rằng Rôma là danh xưng cụ thể của công giáo tính và của tinh thần Giáo Hội truyền giáo; nó diễn tả lòng trung thành với nguồn gốc, với Giáo Hội qua mọi thời gian, với một Giáo Hội nói tất cả mọi ngôn ngữ và tiến đến việc gặp gỡ hết mọi nền văn hóa.
Anh chị em thân mến, Lễ Hiện Xuống đầu tiên đã xẩy ra khi Mẹ Maria Rất Thánh hiện diện giữa các môn đệ tại nhà tiệc ly ở Gia Liêm và đã nguyện cầu. Ngày nay cũng thế, chúng ta ký thác bản thân mình cho việc chuyển cầu từ mẫu của Mẹ để xin Thánh Thần dồi dồi xuống trên Giáo Hội trong thời đại của chúng ta và làm tràn đầy lòng mọi tín hữu mà đốt lên trong họ – trong chúng ta – ngọn lửa yêu thương.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 27/5/2007
Chúa Nhật VII Mùa Phục Sinh 20/5/2007 về Ngày Thế Giới Truyền Thông và Bạo Động ở Thánh Địa
Anh Chị Em thân mến,
Trước hết tôi muốn lập lại lời cám ơn Chúa của tôi về chuyến tông du Ba Tây xẩy ra vào những ngày 9-14/5, đồng thời tôi cũng cám ơn tất cả những ai hỗ trợ tôi bằng lời nguyện cầu. Như anh chị em biết, tôi đi tới Ba Tây để khai mở Đệ Ngủ Tổng Nghị Hàng Giáo Phẩm Mỹ Châu La Tinh và Caribbean. Thế nhưng, trước biến cố quan trọng trong Giáo Hội ấy, tôi đã có dịp để gặp gỡ cộng đồng Công Giáo Ba Tây. Nhiều tín hữu đã đến thành phố São Paolo nhân dịp này và nhất là dịp phong thánh đầu tiên cho một người bản xứ Ba Tây là Cha Antơnio de Santa'Ana Galvão. Tôi dự định nói về chuyến tông du này dài hơn vào hôm Thứ Tư trong buổi triều kiến chung. Trong khi chờ đợi, tôi mời gọi anh chị em hãy tiếp tục nguyện cầu để cuộc hội nghị này đang xẩy ra ở Aparecida, Ba Tây cũng như cho cuộc hành trình của dân Chúa sống ở Mỹ Châu La Tinh.
Ngày Thế Giới Truyền Thông cống hiến một động cơ khác để nguyện cầu và suy tư hôm nay. Năm nay đề tài là “Trẻ Em và Truyền Thông: Một Thách Đố cho Việc Giáo Dục”. Những thách đố về giáo dục ngày nay thường liên hệ tới ảnh hưởng của truyền thông đại chúng là những gì tranh đấu với nhà trường, Giáo Hội và thậm chí gia đình. Về vấn đề này thật là cần thiết thực hiện một việc huấn luyện thích đáng trong việc sử dụng đúng đắn truyền thông: Cha mẹ, thày cô, và cộng đồng giáo hội được kêu gọi để hợp tác trong vấn đề giáo dục trẻ em và giới trẻ liên quan tới việc chọn lựa và phát triển một thái độ cẩn trọng, vun trồng một cảm quan về những gì là giá trị về thẩm mỹ và luân lý.
Thế nhưng, cả truyền thông nữa cũng phải đóng góp phần của mình vào công việc giáo dục này, bằng việc cổ võ phẩm vị con người, hôn nhân và gia đình, cùng những thành tựu và mục đích của văn minh. Các chương trình đậm nét bạo động và hành vị chống xã hội hoặc làm tầm thường hóa tính dục của con người đều là những gì bất khả chấp, lại càng bất khả chấp hơn nữa khi chúng nhắm tới giới trẻ. Bởi vậy tôi lập lại lời kêu gọi cùng các vị lãnh đạo truyền thông và những nhân viên trong ngành truyền thông xã hội hãy bảo toàn công ích, hãy tôn trọng sự thật và bảo vệ phẩm giá của con người cùng gia đình.
Anh chị em thân mến, Lễ Trọng Kính Chúa Kitô Thăng Thiên là lễ được phụng vụ cử hành vào Thứ Năm vừa rồi, ở một số quốc gia cử hành vào hôm nay đây. Chúa Giêsu phục sinh trở về cùng Cha. Nhờ đó Người mở đường cho chúng ta vào cuộc sống trường sinh và làm cho tặng ân Thánh Linh trở thành khả dĩ. Bởi vậy, cả chúng ta nữa, như các vị Tông Đồ đã làm sau khi Chúa Giêsu Thăng Thiên, hãy cùng nhau qui tụ lại trong nguyện cầu để nài xin ơn tuôn đổ Thần Linh, bằng việc hiệp nhất thiêng liêng với Trinh Nữ Maria (x Acts 1:12-14). Chớ gì Mẹ chuyển cầu cho toàn thể Giáo Hội được một Lễ Hiện Xuống mới.
(Sau Kinh Lạy Nữ Vương, ngài nói tiếp:)
Cuộc đánh nhau giữa các lực lượng Palestine ở Giải Gaza và các cuộc tấn công bằng tên đạn vào thành phần cư dân ở gần các thành của người Do Thái đưa đến việc can thiệp bằng quân đội, là những gì đang gây ra một tình trạng suy thoái đẫm máu làm mất tinh thần.
Một lần nữa, nhân danh Chúa, tôi xin hãy chấm dứt cuộc bạo lực thê thảm này, và đồng thời tôi cũng bày tỏ sự gắn bó và hứa nguyện cầu cho thành phần dân chúng Palestine và Do Thái đang chịu khổ đau.
Tôi kêu gọi cảm quan trách nhiệm của tất cả mọi thẩm quyền Palestine, để bằng việc đối thoại và cương quyết, họ tiếp tục con đường thông cảm, bằng việc giải hóa bạo lực. Tôi kêu gọi chính quyền Do Thái hãy tiết chế và kêu gọi cộng đồng quốc tế hãy gia tăng nỗ lực để thực hiện việc tái diễn các cuộc thương thảo. Xin Chúa sai đến và nâng đỡ thành phần xây dựng hòa bình!
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 20/5/2007
Chúa Nhật V Mùa Phục Sinh 6/5/2007 về Tháng Hoa Đức Mẹ và Chuyến Tông Du Ba Tây sắp tới
Anh Chị Em thân mến!
Thánh Năm được bắt đầu mấy ngày trước đây. Đối với nhiều cộng đồng Kitô hữu thì đây là một tháng Thánh Mẫu tuyệt nhất. Bởi thế, theo giòng lịch sử, nó đã trở nên một trong những việc tôn sùng ưu ái nhất của dân chúng, và đã được các vị chủ chăn trân quí như là một cơ hội thuận lợi để giảng dạy, giáo lý và cầu nguyện cộng đồng.
Sau Công Đồng Chung Vaticanô II, một công đồng nhấn mạn h đến vai trò của Mẹ Maria rất thánh trong Giáo Hội cũng như trong lịch sử cứu độ, việc tôn sùng Thánh Mẫu đã trải qua một cuộc canh tân sâu xa. Và tháng Năm, trùng hợp một phần tối thiểu nào đó với Mùa Phục Sinh, là thời điểm rất thuận lợi để chứng tỏ cho thấy hình ảnh của Mẹ Maria như là Người Mẹ hỗ trợ cộng đồng các môn đệ trong việc liên kết nguyện cầu để trông đợi Chúa Thánh Thần (x Acts 1:12-14).
Bởi thế, tháng này có thể trở thành một cơ hội để trở về với niềm tin của Giáo Hội sơ khai, và hiệp với Mẹ Maria, để hiểu được rằng sứ vụ của chúng ta, cho dù vào ngày hôm nay đây, đó là loan báo và can đảm hân hoan làm chứng cho Chúa Kitô tử giá và phục sinh, niềm hy vọng của nhân loại.
Tôi xin ký thác cho vị Thánh Trinh Nữ, Mẹ của Giáo Hội, chuyến tông du của tôi ở Ba Tây vào thời khoảng 9-14/5. Như các v ị tiền nhiệm khả kính của tôi là Đức Phaolô VI và Gioan Phaolô II đã thực hiện, tôi sẽ chủ tọa buổi khai mạc Tổng Nghị Hội Đồng Giám Mục Mỹ Châu La-Tinh và Caribbean.
Cuộc tổng nghị lần thứ năm này sẽ được bắt đầu vào Chúa Nhật tuần tới ở đại đền thờ quốc gia Đức Mẹ Aparecida, trong thành phố mang cùng danh xưng. Tuy nhiên, trước cuộc khai mạc này, tôi sẽ đến thủ đô São Paulo là nơi tôi sẽ gặp gỡ giới trẻ và các vị giám mục Ba Tây, và hân hoan ghi vào danh sách các thánh nhân chân phước Frei Antonio thành Sant’Anna Galvão.
Đây là chuyến tông du đầu tiên của tôi tới Mỹ Châu Latinh và tôi đang sửa soạn về phần thiêng liêng để viếng thăm châu lục chiếm gần nửa dân số Công Giáo trên toàn thế giới này, mà nhiều người trong họ là giới trẻ, đang sống. Chính vì lý do này mà Mỹ Châu La Tinh đã được tặng cho danh xưng là “châu lục của niềm hy vọng”: Nó là một niềm hy vọng chẳng những đối với Giáo Hội mà còn với toàn thể Châu Mỹ và tất cả thế giới nữa.
Anh chị em thân mến, tôi kêu gọi anh chị em hãy cầu cùng Mẹ Maria rất thánh cho chuyến tông du này, đặc biệt là Tổng Nghị thứ năm của Hàng Giáo Phẩm Mỹ Châu La Tinh và Caribbean, nhờ đó tất cả mọi Kitô hữu ở miền đất này có thể coi mình là thành phần môn đệ và thừa sai của Chúa Kitô là đường, là sự thật và là sự sống. Các thứ thách đố của lúc này đây thì nhiều và muôn vàn: Đó là lý do tại sao Kitô hữu cần phải trở nên một thứ ‘men’ của sự thiện và ‘ánh sáng’ của thánh đức trong thế giới của chúng ta.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 6/5/2007
Chúa Nhật IV Mùa Phục Sinh 29/4/2007 về Ngày Thế Giới Nguyện Cầu Cho Ơn Thiên Triệu
Anh Chị Em thân mến,
Hôm nay, Chúa Nhật Thứ Tư Phục Sinh, Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, là Ngày Thế Giới Nguyện Cầu Cho Ơn Thiên Triệu. Tất cả mọi tín hữu đều được kêu gọi cách đặc biệt nguyện cầu cho c ác ơn gọi làm linh mục và sống đời tận hiến.
Sáng nay, tại Đền Thờ Thánh Phêrô, tôi đã hân hoan truyền chức cho 22 tân linh mục. Tôi thân ái gửi lời chào tới những nam nhân tân chức này cùng gia đình và thân hữu này, tôi đồng thời cũng kêu gọi anh chị em trong khi cầu nguyện hãy nhớ đến những ai được Chúa tiếp tục gọi đích danh – như Người đã từng làm với các tông đồ trên bờ Biển Galilêa – để họ trở thành ‘những kẻ đánh cá người’, tức là, trở nên thành phần cộng sự viên trực tiếp hơn của Người trong việc loan báo Phúc Âm và phục vụ Vương Quốc của Thiên Chúa trong thời đại của chúng ta.
Chúng ta hãy cầu xin ơn kiên trì cho tất cả mọi vị linh mục: để các vị trung thành cầu nguyện, để các vị cử hành Thánh Lể một cách luôn sốt sắng mới mẻ, để cuộc đời của các vị luôn là một cuộc lắng nghe lời Chúa và ngày ngày có cùng những cảm quan và thái độ như của Chúa Giêsu là Vị Mục Tử Nhân Lành.
Thế rồi chúng ta cũng hãy nguyện cho những ai đang dọn mình làm linh mục cũng như cho các vị hướng dẫn viên trong các chủng viện ở Rôma, Ý quốc, cũng như trên khắp thế giới; chúng ta hãy nguyện cầu cho các gia đình, để họ tiếp tục tạo cơ hội cho ‘hạt giống’ ơn gọi làm linh mục thừa tác được chín mùi và nẩy nở.
Năm nay đề tài cho Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Ơn Thiên Triệu là ‘Ơn Gọi Phục Vụ Giáo Hội Hiệp Thông’. Công Đồng Chung Vaticanô II, trong việc trình bày cho thấy mầu nhiệm của Giáo Hội trong thời đại của chúng ta, đã chú trọng tới thể loại ‘hiệp thông” này. Theo chiều hướng ấy, tính cách khác nhau sâu xa của các tặng ân và vai trò của dân Chúa đã được nhấn mạnh. Tất cả mọi mọi phần tử đã lãnh nhận phép rửa đều được kêu gọi để góp phần vào công cuộc cứu độ. Tuy nhiên, trong Giáo Hội, có một số ơn gọi đặc biệt được giành riêng cho việc phục vụ mối hiệp thông này.
Vị chín h yếu có trách nhiệm đối với mối hiệp thông Công Giáo là Giáo Hoàng, vị Thừa Kế Thánh Phêrô và là vị Giám Mục Rôma; cùng với ngài là các đức giám mục, thành phần thừa kế các vị tông đồ, là thành phần coi sóc và thày dạy của mối hiệp nhất. Các vị giám mục được trợ giúp bởi những vị linh mục. Thế nhưng, những con người sống đời tận hiến c ùng với tất cả mọi tín hữu cũng phục vụ mối hiệp thông ấy nữa. Thánh Thể ở tâm điểm của Giáo Hội hiệp thông: Từ bí tích cả thể nhất này, các ơn gọi khác nhau rút lấy được sức mạnh để tiếp tục xây dựng thân thể giáo hội trong đức ái.
Giờ đây chúng ta hãy hướng về Mẹ Maria, Mẹ của Vị Mục Tử Nhân Lành. Xin Mẹ là vị sẵn sàng đáp ứng tiếng gọi của Chúa, khi thưa ‘này tôi là nữ tỳ Chúa’ (Lk 1:38), giúp chúng ta hân hoan và sẵn sàng đón nhận lời mời gọi của Chúa Kitô trong việc trở thành môn đệ của Người, thành phần môn đệ luôn được tác động bởi ước vọng làm nên ‘một tâm hồn và một linh hồn’ (Acts 4:32).
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 29/4/2007
Chúa Nhật II Mùa Phục Sinh 15/4/2007 về Lòng Thương Xót Chúa
Anh Chị Em thân mến,
Tôi xin lập lại cùng tất cả anh chị em lời chúc mừng Phục Sinh, vào Chúa Nhật kết thúc tuần bát nhật Phục Sinh và là ngày theo truyền thống được gọi là Chúa Nhật ‘in Albis’. Chúa Nhật này cũng được gọi là Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa theo ý muốn của vị tiền nhiệm đáng kính của tôi là Người Đầy Tớ Chúa Gioan Phaolô II, vị đã chết ngay sau kinh thần vụ tối áp lễ này.
Vào dịp đặc biệt này, sáng nay, tôi đã cử hành, ở Quảng Trường Thánh Phêrô, một Thánh Lễ, có các vị hồng y, giám mục và linh mục, cùng tín hữu Rôma và nhiều khách hành hương muốn kề cận với vị Giáo Hoàng này vào ngày áp sinh nhật 80 của ngài. Tận đáy lòng mình, tôi xin lập lại lời cám ơn chân tình nhất của tôi, lời cám ơn tôi xin được gửi đến toàn Giáo Hội, một giáo hội, như một gia đình thực sự, nhất là trong những ngày này, qui tụ lại chung quanh tôi với lòng quí mến.
Chúa nhật này, - như tôi đã nói – kết thúc tuền lễ, hay chín h xác hơn, tuần ‘bát nhật’ Phục Sinh, được phụng vụ coi là một ngày duy nhất: ‘Ngày Chúa đã lập nên’ (Ps 117:24). Nó không phải là một thời gian theo niên lịch mà là thiêng liêng được Thiên Chúa mở ra trong khuôn khổ của những ngày Ngài làm cho Đức Kitô sống lại từ trong kẻ chết. Vị Thần Linh Sáng Tạo, khi thở hơi sự sống mới và vĩnh hằng vào thân xác được chôn táng của Đức Giêsu Nazarét, đã làm cho công cuộc tạo dựng nên hoàn trọn, làm phát sinh ra ‘hoa trái đầu mùa’; một hoa trái đầu mùa của một tân nhân loại đồng thời cũng là hoa trái đầu mùa của một tân thế giới và một tân kỷ nguyên.
Cuộc canh tân thế giới này có thể được tóm gọn trong một lời: cũng cùng lời được Chúa Giêsu phục sinh thốt ra như một lời chào, nhất là như một lời loan báo cho các môn đệ của ngài về cuộc chiến thắng của Người: ‘Bình an cho các con!’ (Lk 24:36; Jn 20:19,21,26). Bình an là tặng ân được Chúa Giêsu để lại cho thành phần bạn hữu của Người (x Jn 14:27) như là một phép lành nhắm đến tất cả mọi dân tộc cũng như tất cả mọi quốc gia.
Đó không phải là một thứ bình an theo tâm thức của ‘thế giới’, như là một thứ cân bằng về quyền lực, mà là một thực tại mới, hoa trái của tình yêu Thiên Chúa, của lòng Người xót thương. Đó là thứ bình an được Chúa Giêsu Kitô chiếm được bằng giá máu của Người và được Người thông ban cho những ai tin tưởng nơi Người. ‘Ôi Giêsu, con tin nơi Chúa’: đức tin của Kitô hữu được tóm gọn nơi những lời ấy, một đức tin vào quyền toàn năng của tình yêu nhân hậu Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến, trong khi tôi cám ơn anh chị em một lần nữa về việc anh chị em gần gũi với tôi một cách thiêng liêng vào dịp sinh nhật của tôi cũng như dịp kỷ niệm tôi được bầu làm vị Thừa Kế Thánh Phêrô, tôi phó thác tất cả mọi anh chị em cho Mẹ Maria là ‘Mẹ Tình Thương’, Mẹ của Chúa Giêsu, Đấng là hiện thân của Lòng Thương Xót Chúa.
Với sự giúp đỡ
của Mẹ, xin Thần Linh canh tân chúng ta trong việc hợp tác vào công cuộc hòa
bình được Thiên Chúa đang hoàn thành trên thế giới và là công cuộc hòa bình
không ồn ào song được hiện thực nơi vô vàn hành động bác ái của tất cả mọi người
con cái Ngài.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 15/4/2007
Thứ Hai Mùa Phục Sinh 9/4/2007 ở Castel Gandolfo về Bình An Phục Sinh
Anh Chị Em thân mến,
Chúng ta vẫn còn tràn đầy niềm hân hoan thiêng liêng được các cuộc cử hành long trọng Lễ Phục Sinh thực sự mang lại cho tâm hồn của thành phần Kitô hữu. Chúa Kitô đã phục sinh! Phụng vụ giành cho mầu nhiệm cao cả này không phải chỉ một ngày duy nhất – vì quá ít ỏi đối với một niềm vui như thế, mà ít là 50 ngày, tức là tất cả Mùa Phục Sinh, được kết thúc vào Lễ Hiện Xuống. Ngoài ra, Chúa Nhật Phục Sinh là một ngày đặc biệt trên hết, bao gồm cả uần lễ này cho đến Chúa N hật tuần tới, làm nên một Tuần Bát Nhật Phục Sinh.
Trong bầu không khí của niềm vui Phục Sinh, phụng vụ hôm nay đưa chúng ta trở về với mồ thánh là nơi, theo trình thuật của Thánh Mathêu, được tình yêu Người thúc đẩy, Maria Mai Đệ Liên và Maria khác đã đến ‘viếng’ mộ Chúa Giêsu. Vị Thánh Ký này nói cho chúng ta hay rằng Người đã đến để gặp gỡ họ mà nói: ‘Đừng sợ; hãy đi nói với anh em của Thày đến Gialilê, ở đó họ sẽ thấy Thày’ (Mt 28:10).
Niềm vui họ cảm được khi thấy Chúa của họ thật là khôn tả, và đầy nhật huyết, họ đã chạy về nói với các vị môn đệ.
Đấng Phục Sinh cũng lập lại cùng chúng ta hôm nay, như với các người phụ nữ đã ở với Chúa Giêsu trong cuộc Khổ Nạn, là đừng sợ trở thành các sứ giả loan báo việc Phục Sinh của Người. Những ai gặp gỡ Chúa Giêsu Phục Sinh và ngoan ngoãn ký thác bản thân mình cho Người thì chẳng sợ hãi gì. Đó là sứ điệp Kitô hữu được kêu gọi để loan truyền cho đến tận cùng trái đất.
Như chúng ta biết, đức tin của Kitô hữu, không được phát sinh từ việc chấp nhận một thứ tín lý mà từ một cuộc gặp gỡ với một con người, với Chúa Kitô, Đấng tử nạn và phục sinh.
Các bạn thân mến, trong ngày sống hằng ngày của chúng ta, có rất là nhiều cơ hội để loan truyền niềm tin này của chúng ta cho người khác một cách chân thành đầy xác tín, nhờ đó mà đức tin của họ được phát triển nhờ cuộc gặp gỡ của chúng ta.
Càng khẩn trương hơn bao giờ hết con người nam nữ thuộc thời đại của chúng ta nhận biết và gặp gỡ Chúa Giêsu, và cũng nhờ gương sáng của chúng ta, mà họ được Người chiếm đoạt.
Phúc Âm không nói gì đến Người Mẹ của Chúa cả, về Mẹ Maria, thế nhưng truyền thống Kitô Giáo có lý để thích chiến ngắm Mẹ khi Mẹ gắn bó với Người Con thần linh của Mẹ bằng một niềm vui lớn lao hơn ai hết, Đấng mà Mẹ đã ôm ấp khi Người được hạ xác xuống khỏi Thập Giá. Bấy giờ, sau cuộc Phục Sinh, Người Mẹ của Đấng Cứu Thế hân hoan với thành phần ‘bạn hữu’ của Chúa Giêsu, thành phần làm nên Giáo Hội mới sinh.
Trong lúc tôi lập lại những lời chào chúc Phục Sinh của mình, tôi xin Mẹ là Nữ Vương Thiên Đàng - Regina Caeli, để Mẹ giữ cho tồn tại nơi mỗi người chúng ta niềm tin tưởng vào cuộc Phục Sinh và làm cho chúng ta thành sứ giả cho niềm hy vọng và mến yêu Chúa Giêsu Kitô.
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày
15/4/2007
Chúa Nhật V Mùa Chay 25/3/2007 về Biến Cố Truyền Tin và Các Vị Tử Đạo Thừa Sai
Anh Chị Em thân mến!
Ngày 25/3 là lễ trọng Truyền Tin cho Đức Trinh Nữ Maria. Năm nay trùng hợp với Ngày Chúa Nhật Mùa Chay và vì thế sẽ được cử hành vào ngày mai. Dù sao tôi cũng muốn đề cập tới mầu nhiệm đức tin diệu kỳ này mà chúng ta chiêm ngưỡng hằng ngày khi nguyện Kinh Truyền Tin.
Biến cố truyền tin, một biến cố được thuật lại ở đầu Phúc Âm Thánh Luca, là một biến cố khiêm hạ của loài người, một biến cố âm thầm – không ai thấy nó, không ai biết về nó, ngoài Mẹ Maria – thế nhưng, đồng thời nó lại là một biến cố quyết liệt đối với lịch sử nhân loại. Khi vị Trinh Nữ này thưa tiếng ‘xin vâng’ với lời loan báo của thiên thần, thì Chúa Giêsu được thụ thai và cùng với Người cả một kỷ nguyên lịch sử được mở màn, một kỷ nguyên được biến cố Phục Sinh làm nên như là ‘một giao ước mới và vĩnh viễn’.
Thật vậy, tiếng ‘xin vâng’ của Mẹ Maria là phản ảnh tiếng ‘xin vâng’ của Chúa Kitô khi Người vào trần gian, như được ghi nhận trong Bức Thư gửi Giáo Đoàn Do Thái ở đoạn giải thích về bài Thánh Vịnh 39: ‘Như đã viết về tôi trong sách, Ôi Thiên Chúa, này tôi xin đến để thực thi ý Chúa’ (Heb 10:7). Đức vâng phục của Người Con được phản ảnh nơi đức vâng lời của Người Mẹ, nhờ đó, nhờ cuộc gặp gỡ giữa hai tiếng ‘xin vâng’ ấy, mà Thiên Chúa đã có thể mặc lấy dung nhan con người. Đó là lý do tại sao biến cố truyền tin cũng là một lễ có tính cách Kitô học, vì nó cử hành một mầu nhiệm chính yếu của Chúa Kitô, đó là mầu nhiệm nhập thể của Người.
‘Này tôi là nữ tỳ Chúa, xin hãy thực hiện nơi tôi như Lời của ngài’. Lời đáp ứng của Mẹ Maria với thiên thần là những gì được vươn tới Giáo Hội, một Giáo Hội được kêu gọi để làm cho Chúa Kitô hiện diện trong lịch sử, cống hiến tính cách thuận lợi của mình để Thiên Chúa tiếp tục viếng thăm nhân loại bằng tình thương của Ngài. Tiếng ‘xin vâng’ của Chúa Giêsu và Mẹ Maria như thế được lập lại nơi tiếng ‘xin vâng’ của các thánh nhân, nhất là những vị tử đạo, những vị bị sát hại vì Phúc Âm.
Tôi nhấn mạnh đến điều này bởi vì hôm qua, ngày 24/3, ngày kỷ niệm ĐTGM Oscar Romero ở San Salvador bị ám sát chết, chúng ta cử hành Ngày Cầu Nguyện và Chay Tịnh cho Các Vị Tử Đạo Thừa Sai là các vị giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân, những vị ngăn chặn khi các vị thi hành sứ vụ của mình trong việc truyền bá phúc âm hóa và cải tiến nhân loại.
Những vị tử đạo này, như chủ đề của năm nay viết là ‘hy vọng cho thế giới’, vì các vị làm chứng rằng tình yêu của Chúa Kitô mạnh hơn bạo lực và hận thù. Các vị không tìm kiếm việc tử đạo, nhưng các vị sẵn sàng hiến mạng sống mình để trung thành với Phúc Âm. Việc tử đạo của Kitô giáo chỉ chính đáng khi nó là một tác động yêu thương cao cả đối với Thiên Chúa cũng như với anh chị em của chúng ta.
Trong mùa Chay này, chúng ta thường chiêm ngưỡng Đức Mẹ lúc Mẹ ở trên Đồi Canvê hoàn tất tiếng ‘xin vâng’ Mẹ đã thưa ở Nazarét. Liên kết với Chúa Kitô, chúng từ của tình Cha yêu thương, Mẹ Maria đã sống cuộc tử đạo trong tâm hồn Mẹ. Chúng ta hãy tin tưởng kêu xin Mẹ chuyển cầu để Giáo Hội, trung thành với sứ vụ của mình, can đảm làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa trước toàn thể thế giới.
(Sau khi nguyện Kinh Truyền Tin, ĐTC nói tiếp về Ngày Giới Trẻ Thế Giới XXII như sau:)
Chúa Nhật tuần tới, chúng ta cử hành trọng thể phụng vụ Lễ Lá để bắt đầu Tuần Thánh. Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 22 sẽ được diễn ra trong khung cảnh ấy.
Đề tài năm nay dựa theo giới răn của Chúa Giêsu, đó là ‘Thày đã yêu thương các con thế nào, các con cũng hãy yêu thương nhau như thế’ (Jn 13:34). Để chúng ta sửa soạn cho ngày này và cử hành Lễ Phục Sinh, tôi mời gọi giới trẻ của Giáo Phận Rôma hãy tham dự phụng vụ thống hối do tôi chủ sự vào chiều Thứ Năm, 29/3, tại Đền Thớ Thánh Phêrô. Những ai muốn đến với bí tích xưng tội, một cuộc thực sự gặp gỡ tình yêu thương của Thiên Chúa, một tình yêu thương mà hết mọi người cần đến để sống trong hân hoan và an bình.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 25/3/2007
Chúa Nhật IV Mùa Chay 11/3/2007 về Thánh Thể
Anh Chị Em thân mến!
Tôi vừa trở về từ Trung Tâm Giam Giữ Thanh Thiếu Niên ở Casal di Marmo Rôma. Tôi đến đó để viếng thăm vào Chúa Nhật Thứ Tư Mùa Chay này, một Chúa Nhật được gọi theo tiếng Latinh là ‘Laetare’ (hân hoan), một tiếng được trích từ lời đầu tiên của ca nhập lễ cho phụng vụ Thánh Lễ hôm nay.
Hôm nay, phụng vụ mời gọi chúng ta hãy hân hoan vì Phục Sinh gần tới, ngày Chúa Kitô vinh thắng trên tội lỗi và sự chết. Thế nhưng chúng ta tìm thấy nguồn vui Kitô Giáo ở đâu nếu không phải ở Thánh Thể được Chúa Kitô để lại cho chúng ta như lương thực thiêng liêng trong khi chúng ta đang lữ hành trên thế gian này? Ở mọi thời đại Thánh Thể nuôi dưỡng niềm vui sâu xa ấy nơi tín hữu là niềm vui làm cho tất cả chúng ta trở thành duy nhất trong yêu thương và an bình. Niềm vui này bắt nguồn từ việc chúng ta hiệp thông với Thiên Chúa cũng như với anh chị em của chúng ta.
Hôm Thứ Ba vừa rồi, bức tông huấn hậu thượng nghị giám mục thế giới là tông huấn ‘Bí Tích Yêu Thương’ được ra mắt. Bản văn kiện này lấy đề tài Thánh Thể là nguồn mạch và là tuyệt đỉnh của đời sống và sứ vụ của Giáo Hội. Tôi đã diễn giải đề tài này, thu góp các hoa trái của Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới lần thứ 11 đã diễn ra ở Vatican vào Tháng 10/2005.
Tôi có dự định trở lại với bản văn quan trọng này, thế nhưng, vào lúc này đây tôi muốn nhấn mạnh rằng nó là việc bày tỏ niềm tin tưởng của Giáo Hội vào mầu nhiệm thánh thể, và nó tiếp tục chiều hướng của Công Đồng Chung Vaticanô II cũng như giáo huấn của các vị tiền nhiệm tôi là Đức Phaolô VI và Gioan Phaolô II.
Nơi bản văn kiện này, trong nhiều điều khác, tôi muốn đề cao mối liên hệ của nó với bức thông điệp ‘Thiên Chúa là Tình Yêu’: Đó là lý do tại sao tôi đã chọn tên gọi cho nó là ‘Bí Tích Yêu Thương’, trích lại định nghĩa tuyệt vời của Thánh Tôma về Thánh Thể (cf. Summa Theologiae III, q. 73, a. 3, ad 3) là ‘bí tích yêu thương’.
Phải, nơi Thánh Thể, Chúa Kitô muốn ban cho chúng ta tình yêu của Người, một tình yêu dẫn Người đến chỗ hiến mạng sống mình vì chúng ta trên thập giá.
Trong bữa Tiệc Ly, khi rửa chân cho các môn đệ, Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta giới luật yêu thương: ‘Các con hãy yêu thương nhau như Thày đã thương yêu các con’ (Jn 13:34). Thế nhưng, vì điều này chỉ có thể xẩy ra chỉ bao lâu chúng ta vẫn liên kết với Người, như ngành nho (Jn 15:1-8), Người đã chọn ở với chúng ta trong Thánh Thể, và điều này là những gì làm cho chúng ta có thể ở lại trong Người.
Bởi thế, khi chúng ta tin tưởng nuôi dưỡng mình bằng Mình Máu của Người, thì tình yêu của Người chuyển vào chúng ta và làm cho chúng ta có thể hiến cuộc đời của mình cho anh chị em (x 1Jn 3:16). Từ đó xuất phát ra niềm vui Kitô Giáo, niềm vui yêu thương.
‘Người nữ Thánh Thể’ trên hết là Mẹ Maria, một kiệt tác của ân sủng thần linh, ở chỗ, tình yêu của Thiên Chúa đã làm cho Mẹ nên vô nhiễm tội, và sống ‘trước nhan Ngài trong đức ái’ (Eph 1:4). Thiên Chúa đã đặt Thánh Giuse – vị chúng ta sẽ long trọng cử hành thánh lễ vào ngày mai – bên Mẹ, để hướng dẫn Đấng Cứu Thế.
Tôi đặc biệt cầu cùng vị đại thánh này để nhờ tin tưởng, cử hành, vàtin tưởng sống mầu nhiệm Thánh Thể, dân Chúa sẽ được thấm nhiễm tình yêu Chúa Kitô và sẽ làm lan truyền hoa trái hân hoan và an bình cho toàn thể nhân loại.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 18/3/2007
Chúa Nhật II Mùa Chay 4/3/2007 về Biến Cố Chúa Giêsu Biến Hình với Việc Cầu Nguyện của Người
Anh Chị Em thân mến,
Vào Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Chay này, Thánh Ký Luca nhấn mạnh rằng Chúa Giêsu lên núi “cầu nguyện” (9:28) cùng với các vị tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan, và “khi Người đang nguyện cầu” (9:29) thì xẩy ra mầu nhiệm biến hình sáng láng của Người.
Đối với 3 vị tông đồ này thì việc lên núi cầu nguyện có nghĩa là được tham dự vào việc nguyện cầu của Chúa Giêsu, Đấng thường ẩn mình cầu nguyện, nhất là vào lúc rạng đông hay sau khi chiều xuống, và đôi khi suốt đêm. Tuy nhiên, chỉ duy vào dịp ấy, ở trên núi, Người muốn tỏ cho các người bạn hữu này của Người thấy được ánh sáng nội tâm bao chiếm Người khi Người cầu nguyện: Mặt Người – như chúng ta đọc thấy trong Phúc Âm – dung nhan của Người được biến đổi và y phục của Người chói lọi, phản ánh quang ngôi vị thần linh của Lời Nhập Thể (x Lk 9:29).
Có một chi tiết khác trong trình thuật của Thánh Luca cũng đáng chú ý, đó là chi tiết về đối tượng nơi cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với Moisen và Elia, những vị đã hiện ra với Người khi Người biến hình. Thánh Ký Luca thuật lại rằng các vị ấy “đã nói về cuộc ra đi (tiếng Hy Lạp là ‘exodos’), một cuộc ra đi mà Người cần phải hoàn thành ở Giêrusalem” (9:31).
Bởi thế, Chúa Giêsu nghe thấy Lề Luật và các tiên tri nói với Người về cái chết và cuộc phục sinh của Người. Trong cuộc trao đổi thân mật với Cha của mình, Người vẫn không xa rời lịch sử, Người vẫn không tẩu thoát khỏi sứ mệnh khiến Người vào thế gian, mặc dù Người biết rằng để đạt vinh quang Người sẽ phải trải qua thập giá. Ngoài ra, Chúa Kitô đã chấp nhận sứ vụ của Người một cách sâu xa hơn, liên kết tất cả bản thân Người với ý muốn của Cha, và Người tỏ cho chúng ta thấy rằng việc cầu nguyện đích thực thực sự là ở chỗ liên kết ý muốn của mình với ý muốn của Cha.
Do đó, đối với một người Kitô hữu, thì cầu nguyện không phải là xa tránh thực tại và những trách nhiệm kèm theo, mà là đảm trách chúng cho tới cùng, tin tưởng vào tình yêu thần hiệu và vô tận của Chúa. Đó là lý do, cái chứng cớ Biến Hình, ngược đời thay, là cái khổ não Vườn Nhiệt (x Lk 22:39-46). Khi cuộc khổ nạn sắp xẩy ra, Chúa Giêsu cảm thấy nỗi đau buồn đến chết được và Người phó mình cho ý muốn thần linh; váo lúc ấy, lời nguyện cầu của Người là bảo chứng cứu độ cho tất cả chúng ta. Thật vậy, Chúa Kitô van xin Cha trên trời là hãy “cứu lấy Người khỏi chết”, và, như tác giả của Bức Thư gửi Giáo Đoàn Do Thái viết, “Người đã được nhận lời vì lòng kính sợ Chúa của Người” (5:7). Cuộc Phục Sinh là chứng cớ cho thấy Người đã được nhận lời.
Anh Chị Em thân mến: Cầu nguyện không phải là một điều gì đó phụ thuộc, nó không phải là những gì ‘tùy ý’, mà là một vấn đề sống chết. Chỉ có ai nguyện cầu, tức là những ai phó mình cho Thiên Chúa bằng tấm lòng yêu mến thảo hiếu, mới có thể tiến vào sự sống đời đời là chính Thiên Chúa. Trong mùa Chay này, chúng ta hãy cầu cùng Mẹ Maria, mẹ của Lời Nhập Thể và là thày dạy đời sống thiêng liêng, hãy dạy cho chúng ta biết cầu nguyện như Con Mẹ, nhờ đó, đời sống của chúng ta được ánh sáng hiện diện của Người biến đổi.
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày
4/3/2007
Chúa Nhật I Mùa Chay 25/2/2007 về việc “chiêm ngưỡng Đấng Tử Giá bằng con mắt đức tin”
Anh Chị Em thân mến,
Năm nay, sứ điệp Mùa Chay được gợi lên theo một câu của Phúc Âm Thánh Gioan, một câu nhắc lại lời tiên tri về Đấng Thiên Sai của tiên tri Zechariah: ‘Họ sẽ nhìn xem Đấng họ đâm thâu qua’ (Jn 19:37).
Người môn đệ yêu dấu này, hiện diện cùng với Mẹ Maria, Mẹ của Chúa Giêsu, và các người đàn bà khác ở trên đồi Canvê, là một nhân chứng thấy lưỡi đòng đâm thâu qua cạnh sườn của Chúa Kitô, làm cho máu cùng nước chảy ra (x Jn 19:31-34). Cử chỉ không ngờ này của người lính Rôma, tưởng là đã bị rơi vào lãng quên, đã cắm sâu vào ánh mắt và cõi lòng của người môn đệ này, vị đã thuật lại nó trong Phúc Âm của mình. Trong giòng thời gian qua các thế kỷ, biết bao nhiêu là những cuộc hoán cải đã xẩy ra chính là nhờ ở sứ điệp yêu thương hùng hồn mà con người chiêm ngưỡng Chúa Giêsu tử giá lãnh nhận được!
Bởi thế, chúng ta tiến vào mùa Chay bằng ánh mắt gắn chặt vào cạnh sườn của Chúa Kitô. Trong bức thông điệp ‘Thiên Chúa là Tình Yêu’ (x đoạn 12), tôi muốn nhấn mạnh rằng chỉ khi nào nhìn lên Chúa Giêsu, Đấng đã chết trên cây thập tự giá vì chúng ta, chúng ta mới có thể biết được và chiêm nghiệm được sự thật sâu xa này: ‘Thiên Chúa là tình yêu’ (1Jn 4:8,16). ‘Nơi việc chiêm ngưỡng này, Kitô hữu khám phá ra con đường mà cuộc sống và tình yêu của họ cần phải nương theo’ (Thông Điệp Thiên Chúa là Tình Yêu, 12).
Khi chiêm ngưỡng Đấng Tử Giá bằng con mắt đức tin, chúng ta mới có thể sâu xa hiểu được tội lỗi như thế nào, tính cách trầm trọng thê thảm của nó, và đồng thời cả cái quyền năng bất khả khôn sánh của việc Chúa thứ tha và thương xót. Trong những ngày Mùa Chay này, chúng ta đừng làm cho tâm can của chúng ta xa cách với mầu nhiệm nhân loại sâu xa này và linh đạo cao quí ấy.
Về việc chiêm ngưỡng Chúa Kitô, chúng ta đồng thời cũng hãy cảm thấy rằng chúng ta được Người ngắm nhìn. Người là Đấng chúng ta đã đâm thâu qua bằng những lỗi lầm của chúng ta đã không ngừng đổ trên thế giới một trào lưu vô tận của tình yêu nhân hậu. Chớ gì nhân loại hiểu rằng chỉ có từ nguồn mạch này mới có thể kín múc được nghị lực linh thiêng bất khả thiếu cho việc xây dựng một nền hòa bình và hạnh phúc được mọi người không ngừng tìm kiếm.
Chúng ta hãy nguyện cầu cùng Mẹ Maria Đồng Trinh, vị mà linh hồn đã bị đâm thâu khi đứng kề bên thập giá Con Mẹ, xin cho chúng ta tặng ân mạnh mẽ đức tin. Trong việc hướng dẫn chúng ta trong cuộc hành trình Mùa Chay, xin Mẹ giúp chúng ta biết loại bỏ hết những gì làm chúng ta bị ngăn trở trong việc lắng nghe Chúa Kitô và lời cứu độ của Người.
Đặc biệt chúng ta hãy ký thác cho Mẹ Maria Đồng Trinh tuần lễ Tĩnh Tâm sẽ được bắt đầu chiều hôm nay ở Vatican, mà tôi và thành phần cộng tác viên của tôi thuộc Giáo Triều Rôma sẽ tham dự.
Anh chị em thân mến: Xin hỗ trợ tôi bằng lời c ầu nguyện và tôi cũng sẽ làm như thế trong khi trầm lắng tĩnh tâm, xin quyền lực thần linh cho từng người trong anh chị em, cho gia đình của anh chị em và cho các cộng đồng của anh chị em.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 25/2/2007
Chúa Nhật VII Thường Niên 18/2/2007 về Cuộc Cách Mạng của Tình Yêu
Anh Chị Em thân mến!
Bài Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay chất chứa một trong những giáo huấn tiêu biểu nhất song cũng khó khăn nhất trong các giáo huấn của Chúa Giêsu, đó là yêu thương kẻ thù địch của các người (Lk 6:27).
Giáo huấn này được trích từ Phúc Âm Thánh Luca song cũng được thấy cả trong Phúc Âm Thánh Mathêu (5:44), trong bối cảnh của bài diễn từ hành động được bắt đầu bằng các Mối Phúc Đức nổi tiếng. Chúa Giêsu đã nói bài diễn từ này ở Galilêa, vào lúc mở màn cho thừa tác vụ công khai của Người: Nó là vấn đề của một thứ ‘hiến chương’ được bày tỏ cùng hết mọi người, một hiến chương Người yêu cầu thành phần môn đệ của Người chấp nhận, khi dứt khoát đề ra cho họ một mô phạm cho đời sống của họ.
Thế nhưng, ý nghĩa của giáo huấn Người dạy là gì? Tại sao Chúa Giêsu xin chúng ta hãy yêu thương chính các kẻ thù địch của chúng ta, tức là đòi hỏi một tình yêu thương vượt quá khả năng của loài người? Việc đề xướng này của Chúa Kitô có chắc chắn là thực tế hay chăng, vì vấn đề là ở chỗ thế giới này có quá nhiều bạo động, có quá nhiều bất công, và tình trạng ấy không thể nào khắc phục nếu không tỏ ra yêu thương hơn, nhân nghĩa hơn. Cái “hơn” này xuất phát từ Thiên Chúa: Chính tình thương của Ngài đã hóa thành nhục thể nơi Chúa Giêsu và chỉ có một mình tình thương này mới có thể sửa lại từ ác đến thiện cho cân đối thế giới này, bắt đầu từ “thế giới” nhỏ bé và quyết liệt là tâm can của con người.
Đoạn Phúc Âm này đáng được coi là “bản đại hiến chương” của tính chất bất bạo động Kitô Giáo; nó không chất chứa việc đầu hàng sự dữ – theo kiểu dẫn giải sai lầm v ề việc ‘đưa cả cho vá kia nữa’ (Lk 6:29) – thế nhưng ở việc đáp lại sự dữ bằng sự lành (Rm 12:17-21), nhờ đó bẻ gẫy xiềng xích bất công. Bởi vậy, đối với Kitô hữu, vấn đề bất bạo động được hiểu khôn g phải chỉ là hành vi thuần khéo léo mà là một loan sống của con người, một thái độ của con người tin tưởng vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa, Đấng không sợ đương đầu với sự dữ bằng nguyên các thứ khí giới yêu thương và chân lý. Việc yêu thương kẻ thù mình là cốt lõi của “cuộc cách mạng Kitô Giáo”, một cuộc cách mạng không cậy dựa vào những sách lược của quyền lực kinh tế, chính trị hay truyền thông. Cuộc cách mạng này của tình yêu, một tình yêu không hoàn toàn dựa vào các phương tiện nhân loại mà là vào tặng ân của Thiên Chúa, một tình yêu chỉ chiếm đạt được một cách trọn vẹn nơi sự thiện hảo nhân hậu của Ngài. Ở đây chất chứa tính chất mới mẻ của Phúc Âm, một tính chất biến đổi thế giới một cách không ồn ào ầm ĩ. Ở đây chất chứa tính chất anh hùng của ‘thành phần bé mọn’, thành phần tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa và truyền bá tình yêu này ra cho dù có phải trả bằng giá mạng sống của họ.
Anh chị em thân mến: Mùa Chay, được bắt đầu vào Thứ Tư này, bằng lễ nghi xức tro, là một thời điểm thuận lợi mời gọi tất cả mọi Kitô hữu hãy hoán cải trở về với tình yêu thương của Chúa Kitô một cách sâu xa hơn bao giờ hết.
Chúng ta hãy xin Trinh Nữ Maria, người môn đệ dễ dạy của Chúa Cứu Thế, giúp chúng ta biết làm sao cho mình được tình yêu ấy dứt khoát chiếm đoạt, biết yêu thương như Người đã thương yêu chúng ta, biết nhân hậu như Cha trên trời của chúng ta nhân hậu từ b ị thương xót (Lk 6:36)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh,
BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 18/2/2007
Chúa Nhật VI Thường Niên 11/2/2007 về Ngày Thế Giới Bệnh Nhân
Anh Chị Em thân mến,
Hôm nay Giáo Hội tưởng nhớ lần thứ nhất Trinh Nữ Maria hiện ra với Thánh Bernadette vào ngày 11/2/1858 tại hang động Massabielle Lộ Đức, một biến cố lạ lùng đã làm cho tỉnh lỵ thuộc rặng núi Pyrenees Pháp quốc trở thành một trung tâm thế giới cho khách hành hương cũng như cho lòng mạnh mẽ tôn sùng Thánh Mẫu.
Ở địa điểm này, đến nay đã gần 150 năm trước, lời kêu gọi nguyện cầu và thống hối của vị Trinh Nữ này đang vang vọng mãnh liệt, là một tiếng vang hầu như thường xuyên về lời kêu mời được Chúa Giêsu mở màn cho cuộc hành trình ở Galilêa của Người: ‘Thời gian đã trọn, vương quốc Thiên Chúa đã đến; hãy ăn năn thống hối và tin vào Phúc Âm’ (Mk 1:15).
Ngoài ra, đền thánh mẫu này đã trở thành mục tiêu cho nhiều thành phần hành hương bệnh nhân, những người nhờ lắng nghe Mẹ Maria Rất Thánh, đã được thêm can đảm để chấp nhận những nỗi khổ đau của mình và dâng hiến những khổ đau ấy vì phần rỗi của thế giới, khi liên kết chúng với những đau khổ của Chúa Kitô tử giá.
Vì mối liên hệ giữa Lộ Đức và nỗi đớn đau của con người mà 15 năm trước đay, Đức Gioan Phaolô II thân yêu của chúng ta đã muốn Ngày Thế Giới Bệnh Nhân được cử hành vào ngày Lễ Mẹ Lộ Đức.
Năm nay, tâm điểm của việc cử hành này sẽ diễn ra ở thành phố Seoul, thủ đô của Nam Hàn, nơi tôi đã phái đến vị đại diện của tôi là ĐHY Javier Lozano Barragán, chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh Đặc Trách Thừa Tác Vụ Chăm Sóc Sức Khỏe. Tôi xin gửi lời chào thân ái tới ngài cũng như tới tất cả mọi tụ họp ở đó.
Tôi xin gửi lời chào tới cả những cán sự sức khỏe trên khắp thế giới, ý thức được tầm quan trọng của việc họ phục vụ trong xã hội của chúng ta đối với người bệnh, nhất là tôi muốn bày tỏ việc gắn bó thiêng liêng và lòng cảm mến của tôi đối với anh chị em bệnh nhân, đặc biệt nhớ tới những người mắc phải những chứng bệnh trầm trọng hay đớn đau: Chúng ta quan tâm đặc biệt tới họ trong ngày này.
Cần phải ủng hộ việc phát triển những thứ chữa trị giảm đau giúp vào việc chăm sóc và cung cấpmột cách toàn vẹn cho thành phần bệnh nhân bất trị rất cần đến việc nâng đỡ về nhân bản và hỗ trợ về tinh thần.
Chiều hôm nay, tại Đền Thờ Thánh Phêrô, nhiều người bệnh và khách hành hương tập trung lại với ĐHY Camillo Ruini là vị sẽ chủ sự Thánh Lễ. Vào cuối Thánh Lễ, tôi sẽ như năm ngoái hân hoan gặp gỡ họ, để làm sống lại bầu khí linh thiêng ở Động Massabielle. Cầu nguyện bằng Kinh Truyền Tin, giờ đây tôi xin ký thác cho việc chở che của Vị Trinh Nữ Vô Nhiễm thành phần bệnh nhân và những ai khổ đau nơi xác thân cũng như trong tinh thần trên khắp thế giới.
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày
11/2/2007
Chúa Nhật V Thường Niên 4/2/2007 về Ngày Phò Sự Sống ở Ý
Anh Chị Em thân mến:
Hôm nay là Ngày Phò Sự Sống ở Ý, được hội đồng giám mục phát động với đề tài ‘Yêu Thương và Mong Muốn Sự Sống’.
Tôi thân ái chào tất cả những ai qui tụ lại Quảng Trường Thánh Phêrô đây để minh chứng cho việc dấn thân của mình cho sự sống từ khi nó được thụ thai cho tới khi tự nhiên qua đi. Tôi hợp cùng các v ị giám mục Ý để lập lại lời kêu gọi đã được vang lên mấy lần bởi các vị tiền nhiệm khả kín h của tôi với tất cả mọi con người nam nữ thiện tâm trong việc lãnh nhận tặng ân sự sống cao cả và nhiệm mầu.
Sự sống, công việc Thiên Chúa làm, không ai được chối bỏ, ngay cả là trẻ sơ sinh bé mọn nhất và yếu đuối nhất, lại càng không được chối bỏ khi họ bị những khuyết tật trầm trọng. Đồng thời, âm vang những vị mục tử của Giáo Hội ở Ý, tôi thiết tha kêu gọi anh chị em đừng để mình chiều theo cái lừa bịp của ý nghĩ cho rằng người ta có thể hủy hoại sự sống ở chỗ ‘hợp thức hóa vấn đề triệt sinh nó bằng việc an tử, che đậy bằng tấm khăn che mặt là lòng thương xót con người’.
‘Tuần Lễ Sự Sống và Gia Đình’ được bắt đầu hôm nay ở Giáo Phận Rôma, một dịp quan trọng để nguyện cầu và suy tư về gia đình là ‘cái nôi’ của sự sống và của hết mọi ơn gọi.
Chúng ta quá rõ là gia đình, đặt trên căn bản hôn nhân, là những gì cấu tạo nên môi trường tự nhiên cho việc sinh sản và giáo dục con cái, nhờ đó bảo đảm tương lai của toàn thể nhân loại.
Tuy nhiên, chúng ta cũng biết rằng nó đang trải qua một cuộc khủng hoảng nặng nề và nó cần phải đương đầu với nhiều thứ thách đố.
Thế nên, cần phải bênh vực, bảo vệ và trân quí tính chất đặc thù và bất khả thay thế của nó. Nếu quyết tâm này trước hết là nhiệm vụ của vợ chồng thì nó cũng là nhiệm vụ ưu tiên của Giáo Hội cũng như của tất cả mọi cơ cấu dân sự trong việc hỗ trợ gia đình bằng những hoạt động mục vụ và chính trị, những gì quan tâm tới những nhu cầu thực sự của các cặp vợ chồng, của thành phần lão thành và của những thế hệ mới.
Một bầu không khí gia đình bìn h an, được soi sáng bởi đức tin và lòng kính sợ Thiên Chúa, cũng là môi trường thuận lợi cho việc nẩy sinh và phát triển các ơn gọi phục vụ Phúc Âm. Tôi muốn đặc biệt nói tới chẳng những thành phần được kêu gọi theo Chúa Kitô trên con đường làm linh mục mà còn làm tu sĩ nam nữ, làm những con người tận hiến, những người chúng ta nhớ tới vào Thứ Sáu vừa rồi trong dịp Ngày Thế Giới Đời Tận Hiến.
Anh Chị Em thân mến, chúng ta hãy cầu nguyện để nhờ liên lỉ nỗ lực cho sự sống và gia đình, các cộng đồng của chúng ta trở thành những nơi hiệp thông và hy vọng, những cộng đồng, bất chấp nhiều khó khăn, tái diễn v iệc ‘chấp nhận’ cao cả tình yêu chân thực đối với thực tại về con người và về gia đình, theo dự án nguyên thủy của Thiên Chúa.
Chúng ta hãy xin Chúa, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria Rất Thánh, làm gia tăng việc tôn trọng tính chất linh thánh của sự sống, ý thức hơn các nhu cầu thực sự của gia đình, và tăng thêm con số những ai góp phần vào việc mang lại cho thế giới này một thứ văn minh yêu thương.
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày
4/2/2007
Chúa Nhật IV Thường Niên 28/1/2007 về Thánh Tôma Tiến Sĩ với Vấn Đề Tổng Luận Lý Trí và Đức Tin
Anh Chị Em thân mến,
Lịch phụng vụ hôm nay tưởng nhớ Thánh Tôma Aquinas, vị đại tiến sĩ của Giáo Hội. Bằng đặc sủng của một triết gia và thần học gia, ngài đã cống hiến một mẫu thức hòa hợp vững chắc giữa lý trí và đức tin, những chiều kích của tinh thần con người, những chiều kích được hoàn toàn hiện thực khi chúng gặp gỡ và trao đổi với nhau.
Theo ý nghĩ của Thánh Tôma thì lý trí con người, có thể nói là, ‘hít thở’, tức là nó chuyển động ở một chân trời rộng mở làm cho nó có thể cảm thấy khả năng tối đa của mình. Tuy nhiên, khi con người chỉ biết nghĩ về n hững đối tượng vật chất và thí nghiệm, thì họ cảm thấy bí trước những câu hỏi về đời sống, về chính mình và về Thiên Chúa, biến mình trở thành bần cùng.
Mối liên hệ giữa đức tin và lý trí là một thách đố nghiêm trọng đối với văn hóa hiện đang chi phối thế giới Tây phương, và chín h vì lý do ấy mà Đức Gioan Phaolô II của chún g ta đã viết một bức thông điệp, mang tựađề chính là ‘Đức Tin và Lý Trí’. Tôi cũng đã tiếp tục luận đề này mới đây, trong bài diễn từ cho Đại Học Đường ở Regensburg.
Thực ra vấn đề phát triển tân tiến của các khoa học mang lại vô vàn hiệu quả tích cực là những gì luôn cần được nhìn nhận. Tuy nhiên, đồng thời cũng cần phải công nhận rằng cái khuynh hướng chỉ coi những gì cảm nghiệm thấy mới là xác thực đã khiến cho lý trí của con người bị giới hạn lại và gây ra một thứ tâm bệnh bất nhất đáng sợ, hiển nhiên trước mắt mọi người, bởi việc đồng hiện hữu giữa chủ nghĩa duy lý với chủ nghĩa duy vật, và giữa siêu đẳng kỹ thuật với những thứ bản năng buông thả.
Bởi thế, cần phải làm sao tái khám phá một cách mới mẻ cái lý sự của con người hướng về ánh sáng của ‘Lời’ thần linh cũng như về mạc khải tuyệt hạo của nó là Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Một khi đức tin Kitô giáo là những gì đích thực thì nó không làm triệt tiêu tự do hay lý trí của con người; vậy thì tại sao đức tin và lý trí lại sợ hãi nhau, nếu nhờ gặp gỡ nhau và trao đổi với nhau chúng có thể thể hiện chính bản thân mình một cách tốt đẹp nhất chứ?
Đức tin bao gồm lý trí và làm hoàn hảo lý trí, và lý trí, nhờ được soi sáng bởi đức tin, tìm thấy sức mạnh để tiến tới chỗ nhận biết Thiên Chúa và những thực tại linh thiêng. Lý trí con người chẳng mất đi một sự gì khi nó cởi mở trước những nội tại của đức tin; trái lại, đức tin cần đến việc tư do và ý thức gắn bó của lý trí.
Bằng một đức khôn ngoan bao trùm vươn rộng, Thánh Tôma Aquina đã gây nên một cuộc đối chọi phong phú đối với tư tưởng Ả Rập và Do Thái trong thời đại của ngài, đến nỗi ngài được coi như là một bậc thày muôn thuở của việc đối thoại với các nền văn hóa và tôn giáo khác. Ngài đã biết giới thiệu cái tổng luận Kitô Giáo giữa lý trí và đức tin này, cái tổng luận tiêu biểu cho một gia sản quí báu của văn minh Tây phương, cái tổng luận mà cả ngày nay cũng cần phải được sử dụng đến để đối thoại một cách hiệu nghiệm với các truyền thống văn hóa và tôn giáo lớn ở Đông phương và Nam phương trên thế giới này.
Chúng ta hãy nguyện cầu để Kitô hữu, nhất là những ai thuộc lãnh giới hàn lâm và văn hóa, làm sao có thể bày tỏ cho thấy hơn nữa cái tính chất hữu lý nơi niềm tin của họ và làm chứng cho niềm tin này bằng một cuộc đối thoại được tác động bởi yêu thương. Chúng ta xin tặng ân này của Chúa nhờ lời chuyển cầu của Thánh Tôma Aquinas, nhất là của Mẹ Maria là Tòa Đức Khôn Ngoan.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 28/1/2007
Chúa Nhật III Thường Niên 21/1/2007 về Đại Kết Kitô Giáo
Anh Chị Em thân mến,
Chúa Nhật này diễn ra trong Tuần Cầu Nguyện Cho Mối Hiệp Nhất Kitô Giáo mà, như chúng ta biết, được cử hành hằng năm ở bán cầu của chúng ta vào thời khoảng 18-25/1. Đề tài cho năm 2007 là một câu từ Phúc Âm Thánh Marcô, nói về sự ngỡ ngàng của dân chúng về việc Chúa Giêsu chữa lành cho một người câm điếc: ‘Người thậm chí làm cho kẻ điếc nghe thấy và người câm nói được’ (Mk 7:37).
Tôi có ý định quảng diễn dài hơn nữa đề tài thánh kinh này vào ngày 25/1 tới, lễ kính Thánh Phaolô Trở Lại, thời điểm nhân dịp kết thúc tuần cầu nguyện này, tôi chủ sự vào lúc 5 giờ 30 chiều buổi kinh tối ở Đền Thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành. Tôi mong anh chị em thm dự cuộc qui tụ phụng vụ này, vì mối hiệp nhất trước hết xuất phát từ lời cầu nguyện, mà cáng nhất trí nguyện cầu thì càng đẹp lòng Chúa.
Năm nay, bản thảo nguyên khởi cho tuần lễ này, sau đó được Ủy Ban Hỗn Hợp Quốc Tế chấp nhận, được soạn dọn bởi thành phần tín hữu ở Umlazi, Nam Phi, một thành phố rất nghèo, nơi Hội Chứng Liệt Kháng đã trở thành nạn dịch và là nơi niềm hy vọng ở con người chẳng có là bao nhiêu.
Thế nhưng, Chúa Kitô phục sinh là niềm hy vọng cho tất cả mọi người. Người đặc biệt là niềm hy vọng cho Kitô hữu. Thành phần thừa hưởng cảnh chia rẽ là những gì xẩy ra trong quá khứ, trong hoàn cảnh này, họ đã muốn tung ra một lời kêu gọi là Chúa Kitô có thể làm được tất cả mọi sự. Người ‘làm cho kẻ điếc nghe thấy và người câm nói được’; tức là, ngài có thể làm thấm nhập vào Kitô hữu niềm ước mong tha thiết muốn lắng nghe nhau, muốn nói chuyện với nhau, và muốn nói với Người thứ ngôn từ của lòng mến thương nhau.
Tuần Lễ Cầu Nguyện Cho Mối Hiệp Nhất Kitô Giáo như thế nhắc nhở chúng ta rằng vấn đề đại kết là một cảm nghiệm đối thoại sâu xa, một cuộc lắng nghe nhau và nói với nhau, là việc biết nhau hơn nữa. Nó là một côn g việc mà tất cả mọi người đều phải đảm trách thực hiện, nhất là về khía cạnh địa kết thiêng liêng, dựa vào việc cầu nguyện và chua sẽ những gì khả dĩ trong lúc này đây giữa Kitô hữu với nhau.
Tôi hy vọng rằng niềm trông ngóng mối hiệp nhất này, được chuyển thành việc nguyện cầu và việc hợp tác huynh đệ để giảm bớt các nỗi khổ đau của con người, sẽ là những gì lan tràn hơn nữa ở tầm cấp giáo xứ và các phong trào trong giáo hội cũng như nơi các tổ chức tu trì.
Lợi dụng dịp này tôi xin cám ơn Ủy Ban Đại Kết của Tòa Đại Diện Rôma cũng như các v ị linh mục giáo xứ của thành phố này, những vị đã thúc giục tín hữu hãy cử hành tuần lễ đây. Rộn g rãi hơn, tôi cũng cám ơn tất cả những ai, ở tất cả mọi nơi trên thế giới, đang tin tưởng và liên lỉ nguyện cầu và hoạt động cho mối hiệp nhất.
Xin Mẹ Maria là Mẹ Giáo Hội, giúp cho tất cả mọi tín hữu biết để cho Chúa Kitô mở rộng lòng mình hơn nữa trong việc thông đạt với nhau trong bác ái và trong chân lý, để mình được biến đổi trong Người để trở nên một lòng trí (x Acts 4:32).
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 21/1/2007
Chúa Nhật II Mùa Thường Niên 14/1/2007 về Ngày Thế Giới của Thành Phần Di Dân và Tị Nạn
Anh Chị Em Thân Mến:
Chúa Nhật này chúng ta cử hành Ngày Thế Giới của Thành Phần Di Dân và Tị Nạn. Bởi thế, tôi m uốn ngỏ lời cùng tất cả mọi người thiện chí, nhất là cùng các cộng đồng Kitô hữu, một sứ điệp đặc biệt giành cho các gia đình di dân.
Chúng ta có thể chiêm ngưỡng Thánh Gia Nazarét, hình ảnh của tất cả mọi gia đình, vì nó phản ánh hình ảnh Thiên Chúa, một hình ảnh được canh giữ trong tâm điểm của hết mọi gia đình nhân loại, cho dù ở vào lúc nó bị suy yếu và có những lúc bị b iến dạng đi bởi những thử thách của đời sống.
Thánh Ký Marcô đã trìn h thuật rằng, sau khi Chúa Giêsu được hạ sinh ít lâu thì Thán h Giuse buộc phải sang Ai Cập, mang Con Trẻ và Mẹ của Người trốn khỏi cuộc bách hại của Hêrôđê (x Mt 2:13-15).
Nơi thảm cảnh của gia đình Thánh Gia, chúng ta có thể thấy được hoàn cảnh đau thương của rất nhiều con người di dân, nhất là những người tị nạn, những ai bị lưu đầy, thành phần bị phân tán và thành phần bị bách hại. Chúng ta đặc biệt nhận thấy những khó khăn của gia đình di dân nữ: những hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống, những ê chề nhục nhã, những bất tiện và mỏng dòn.
Thật vậy, hiện tượng di chuyển của con người thật là lan rộng và đa dạng. Theo thẩm định của LHQ mới đây thì các người di dân bị bó buộc vì những lý do tài chính lên tới con số 200 triệu; con số tị nạn là 9 triệu và sinh viên quốc tế khoảng 2 triệu.
Ngoài con số khổng lồ này của những người anh chị em chúng ta, còn phải kể đến những người di dân phân tán và bất thường nội địa, nhớ rằng mỗi người trong họ đều có một gia đình một cách nào đó. Bởi thế, cần phải chăm sóc cho những người di dân cũng như cho gia đình của họ bằng sự hỗ trợ bởi những việc bảo vệ đặc biệt về lập pháp, tư pháp và hành pháp, cũng như bằng một cơ cấu phục vụ, những trun g tâm lắng nghe và những cơ cấu hỗ trợ về xã hội và mục vụ.
Tôi hy vọng rằng chẳng bao lâu sẽ đạt được việc quản trị cân bình về trào lưu di dân cũng như về việc con người di chuyển tổng quan, nhờ đó nó mang lại thiện ích cho toàn thể gia đình nhân loại, bắt đầu bằng những biện pháp cụ thể thuận lợi cho việc di dân thông thường và việc đoàn tụ gia đình, nhất là phụ nữ và trẻ em.
Trong một lãnh vực bao rộng về các cuộc di dân quốc tế như thế, con người cần phải được coi là trọng tâm. Việc hội nhập chính đáng của các gia đình vào những thể chế về xã hội, kinh tế và chính trị, một đàng, chỉ được đạt tới bằng việc tôn trọng phẩm vị của tất cả moị người di dân, đằng khác, bởi những người di dân biết nhìn nhận giá trị của xã hội chủ nhà.
Các bạn thân mến, thực tại của các người di dân không bao giờ được coi là một vấn đề mà thôi, nhưng trên hết cũng được coi là nguồn mạch cao cả cho việc tiến bộ của con người. Gia đình di dân đặc biệt là một nguồn lợi, nếu nó được tôn trọng như thế, và không phải trải qua những thứ rách nát bất khả chữa, nhưng có thể vẫn liên kết hay tái nhóm, và làm trọn sứ vụ của mình như cái nôi của sự sống và là môi trường đầu tiên cho việc giáo dục của con người vậy.
Cùng nhau chúng ta xin Chúa điều này, nhờ việc can thiệp của Trinh Nữ Maria, và của Thánh Francesca Xavier Cabrini, quan thày của thành phần di dân.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo Zenit ngày 14/1/2007
Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa 7/1/2007
Anh Chị Em thân mến:
Hôm nay Giáo Hội cử hành Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, một lễ kết thúc mùa Giáng Sinh. Phụng vụ nêu lên cho chúng ta trình thuật về việc Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sống dược Đăng, theo trình thuật của Thánh Ký Luca (x 3:15-16, 21-22). Vị Thánh Ký này kể rằng, trong khi Chúa Giêsu đang nguyện cầu sau lúc lãnh nhận phép rửa trong số nhiều người cảm thấy được thu hút bởi việc giảng dạy của vị tiền hô, thì các tầng trời mở ra và Thánh Thần xuống trên Người qua hình của một con chim bồ câu. Vào lúc ấy có tiếng vang lên từ trời rằng: ‘Con là Con yêu dấu của Cha, Cha rất hài lòng về Con’ (Lk 3:22).
Tất cả các vị Thánh Ký đều thuật lại và nhấn mạnh đến phép rửa Chúa Giêsu lãnh nhận ở Sông Dược Đăng, mặc dù bằng cách thức khác nhau. Thật vậy, việc lãnh nhận phép rửa là một phần trong việc rao giảng của các tông đồ, vì nó tạo nên khởi điểm cho một chuỗi biến cố và ngôn từ được các vị tông đồ sử dụng trong việc làm chứng (x Acts 1:21-22, 10:37-41). Cộng đồng tông đồ đã coi nó là những gì rất quan trọng, chẳng những vì trong hoàn cảnh bấy giờ, lần đầu tiên nơi lịch sử, xẩy ra cuộc tỏ hiện mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi một cách rõ ràng và trọn vẹn, mà còn vì với biến cố mở màn cho thừa tác vụ công khai của Chúa Giêsu tiến vào những con đường ở Palestine.
Việc Chúa Giêsu lãnh nhận phép rửa ở Sông Dược Đăng là một thứ ngưỡng vọng về phép rửa bằng máu Người chịu trên thập tự giá, việc này cũng là một biểu hiệu cho tất cả hoạt động về bí tích nhờ đó Đấng Cứu Chuộc thiết lập ơn cứu độ cho nhân loại. Đó là lý do truyền thống giáo phụ đã đặc biệt chú trọng tới lễ này, một lễ cổ kính nhất sau Lễ Phục Sinh. Phụng vụ hôm nay xướng lên rằng: ‘Nơi phép rửa Chúa Kitô lãnh nhận, thế giới được thánh hóa, tội lỗi được thứ tha; chúng ta đã trở thành những tạo vật mới bởi nước và Thần Linh’ ("Antiphon to the Benedictus," Office of Lauds).
Giữa phép rửa Chúa Kitô lãnh nhận và phép rửa chúng ta lãnh nhận có một liên hệ sâu xa. Ở Sông Dược Đăng, các tầng trời mở ra (x Lk 3:21) có ý nói rằng Đấng Cứu Thế đã mở ra cho chúng ta con đường cứu độ, và chúng ta có thể theo con đường này chính nhờ ở cuộc tái sinh ‘bởi nước và Thần Linh’ (Jn 3:5) là những gì xẩy ra nơi phép rửa. Nơi phép rửa này, chúng ta được tháp nhập vào nhiệm thể của Chúa Kitô là Giáo Hội, chúng ta chết đi và sống lại với Người, c hung ta được mặc lấy Người, như Tông Đồ Phaolô nhấn mạnh đến một số lần (x 1Cor 12:13; Rm 6:3-5; Gal 3:27). Bởi thế trách nhiệm xuất phát từ phép rửa bao gồm việc ‘lắng nghe’ Chúa Giêsu, tức là tin tưởng vào Người và theo Người một cách dễ dạy khi làm theo ý của Người, ý muốn của Thiên Chúa. Nhờ đó, mỗi người chúng ta mới có thể khát vọng thánh thiện, một mục tiêu, như Công Đồng Chung Vaticanô II nhắc nhở, làm nên ơn gọi của tất cả mọi người đã lãnh nhận phép rửa. Chớ gì chúng ta được Mẹ Maria trợ giúp, người mẹ của Người Con yêu dấu của Thiên Chúa, để luôn trung thành với phép rửa của chúng ta.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 7/1/2007
Lễ Hiển Linh 6/1/2007 về Ba Vua
Anh Chị Em thân mến:
Lễ trọng Hiển Linh cử hành việc Chúa Kitô tỏ mình ra cho các vị Đạo Sĩ, một biến cố được Thánh Ký Mathêu mặc cho một tầm vóc quan trọng (x Mt 2:1-12). Ngài đã thuật lại trong Phúc Âm của ngài rằng ‘Những vị Đạo Sĩ’ - có lẽ là các vị lãnh đạo tôn giáo Ba Tư – đã đến Giêrusalem theo sự soi dẫn của một ‘ngôi sao’, một hiện tượng sáng láng trên trời được họ hiểu là dấu chỉ về việc hạ sinh của một tân vương Do Thái.
Không ai trong thành này biết gì hết; chưa hết, Hêrôđê, vị vua đương trị vì, cảm thấy rất lo âu trước tin ấy và âm mưu một cách thê thảm trong việc ‘sát hại những trẻ vô tội’ để loại trừ đi đối thủ mới sinh. Trái lại, những vị Đạo Sĩ lại chấp nhận lời Thánh Kinh, đặc biệt là lời tiên tri Micah, là lời cho biết Đấng Thiên Sai được hạ sinh ở Bêlem, thành Đavít, khoảng 10 cây số ở về phía nam thành Giêrusalem (x 5:2). Theo hướng đi ấy, họ lại thấy ngôi sao và hết sức hân hoan, họ đã theo ngôi sao này cho tới khi nó đâu trên một túp lều. Họ tiến vào và thấy Con Trẻ với Đức Maria; họ sụp lạy trước Người, đáng với vương phẩm của Người, hiến dâng cho Người vàng, nhũ hương và mộc dược.
Tại sao biến cố này lại rất quan trọng như thế? Vì biến cố này mở đầu cho mối liên hệ của các dân ngoại với niềm tin vào Chúa Kitô, theo lời hứa Thiên Chúa đã hứa cho Abraham, được Sách Khởi Nguyên nói tới: ‘tất cả mọi cộng đồng trên trái đất này sẽ được chúc phúc nơi ngươi’ (Gen 12:3). Như Mẹ Maria, Thánh Giuse và các mục đồng ở Bêlem là đại diện cho dân Do Thái đã lãn h nhận Chúa thế nào thì Ba Vị Đạo Sĩ cũng là hoa trái đầu tiên của dân ngoại được kêu gọi để làm nên Giáo Hội là dân tộc mới của Thiên Chúa, một dân tộc không còn căn cứ vào tính đồng nhất về chủng tộc, ngôn ngữ hay văn hóa, mà chỉ căn cứ v ào niềm tin tưởng chun g nơi Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa mà thôi.
Đó là lý do, việc hiển linh của Chúa Kitô cũng là việc hiển linh của Giáo Hội, tức là việc tỏ hiện ơn gọi và sứ vụ hoàn vũ của Giáo Hội. Theo ý nghĩa này tôi hân hoan gửi lời chào thân ái tới anh chị em thuộc các Giáo Hội Đông Phương, các Giáo Hội, theo Lịch Julian, cử hành Giáng Sinh ngày mai: tôi ưu ái chúc họ được dồi dào bình an và thịnh đạt Kitô Giáo.
Ngoài ra, tôi cũng nhắc lại dịp Lễ Hiển Linh là dịp cử hành Ngày Thế Giới Truyền Giáo của Trẻ Em. Đây là lễ của trẻ em Kitô Giáo, thành phần hân hoan sống tặng ân đức tin và nguyện cầu ánh sáng của Chúa Giêsu lan tới tất cả mọi trẻ em trên thế giới.
Tôi cám ơn trẻ em thuộc tổ chức ‘Thời Thơ Nhi Thánh’ hiện diện ở 110 quốc gia, vì họ là những cộng tác viên quí giá của Phúc Âm và là các tông đồ của tình đoàn kết Kitô Giáo đối với những người nghèo túng nhất. Tôi khuyến khích các nhà giáo dục hãy vun trồng nơi những con người nhỏ bé này tinh thần truyền giáo, để từ họ xuất hiện những vị thừa sai nhiệt thành hăng say, thành phần chứng nhân cho lòng dịu dàng của Thiên Chúa và là những người loan truyền tình yêu của Ngài.
Giờ đây chúng ta hãy hướng về Trinh Nữ Maria là minh tinh truyền bá phúc âm hóa: để nhờ lời chuyển cầu của Mẹ, Kitô hữu khắp nơi trên thế giới có thể sống như con cái ánh sáng và dẫn đưa con người đến với Chúa Kitô, ánh sáng đích thực của thế giới.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 6/1/2007
Lễ Mẹ Thiên Chúa Thứ Hai 1/1/2007
Anh Chị Em thân mến!
Mở màn cho một tân niên đây, tôi hân hoan gửi đến tất cả anh chị em đang hiện diện ở Quảng Trường Thánh Phêrô, cũng như tất cả những ai đang ở với chúng ta qua truyền thanh và truyền hình, những lời chúc hòa bình và tốt lành đẹp đẽ nhất! Chớ gì ánh sáng của Chúa Kitô, mặt trời xuất hiện ở chân trời của nhân loại, chiếu soi đường nẻo của anh chị em và hỗ trợ anh chị em trong suốt năm 2007!
Bằng một trực giác tốt đẹp, vị tiền nhiệm đáng kính của tôi là Người Tôi Tớ Chúa Phaolô VI đã muốn một năm được bắt đầu bởi việc bảo hộ của Mẹ Maria Rất Thánh, Vị được tôn kính với tư cách là Mẹ Thiên Chúa. Cộng đồng Kitô hữu, một cộng đồng đang tiếp tục tôn thờ trong nguyện cầu trước máng cỏ trong những ngày này, hôm nay lại ưu ái chiêm ngưỡng vị Trinh Mẫu này.
Hãy hiệp với Mẹ khi Mẹ chiêm ngưỡng Con Trẻ mới sinh, được bọc trong khăn và nằm trong mán g cỏ. Như Mẹ Maria, Giáo Hội cũng giữ thinh lặng để lãnh nhận và làm vang vọng trong lòng lời hóa thành nhục thể chứ không làm phí đi hơi ấm nhân thần đang chiếu tỏa ra trước sự hiện diện của Người. Người là phúc lành của Thiên Chúa! Giáo Hội, như Đức Trinh Nữ, cũng tỏ Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế cho tất cả mọi người và phản chiếu nơi mỗi người ánh sáng trên dung nhan của Người, rạng ngời thiện hảo và chân lý.
Hôm nay chúng ta chiêm ngưỡng Chúa Giêsu, được hạ sinh bởi Trinh Nữ Maria, nơi phẩm tính là ‘Hoàng Tử Hòa Bình’ (Is 9:5) thực sự của Người. Người ‘là bình an của chúng ta’, Đấng đã đến để phá đổ ‘bức tường phân cách’ chia rẽ con người nam nữ, tức là phá đổ ‘mối thù hằn’ (Eph 2:14).
Vì thế mà Đức Phaolô VI đang kính nhớ cũng muốn ngày 1/1 trở thành Ngày Hòa Bình Thế Giới, để mọi năm mới đều được bắt đầu trong ánh sáng Chúa Kitô, một đại bình an gia của nhân loại. Hôm nay đây tôi lập lại ước muốn hòa bình của tôi với các nhà cai trị và các vị lãnh đạo quốc gia cũng như các tổ chức quốc tế, và với tất cả mọi người nam nữ thành tâm thiện chí.
Tôi làm điều này cách riêng với sứ điệp đặc biệt tôi đã biên soạn – cùng với các vị hợp tác viên của tôi trong Hội Đồng Công Lý và Hòa Bình – một sứ điệp có chủ đề cho năm nay là ‘Con Người, Tâm Điểm của Hòa Bình’. Cái trọng tâm của hòa bình này là những gì chạm tới một điểm thiết yếu, đó là giá trị của con người, thành phần là trụ cột của toàn thể lâu đài hòa bình vĩ đại. Hiện nay người ta đang nói nhiều tới các thứ nhân quyền, nhưng lại thường quên rằng các thứ nhân quyền ấy cần có một nền tảng vững chắc chứ không phải là những gì tương đối hay có thể tranh luận. Và điều này chỉ có thể là phẩm giá của con người mà thôi. Việc tôn trọng nhân phẩm này được bắt đầu bằng việc nhìn nhận và bảo vệ quyền con người được tự do sống động và tuyên xưng tín ngưỡng của mình.
Chúng ta dâng lời nguyện cầu của chúng ta với niềm tin tưởng lên Người Mẹ Thánh của Thiên Chúa, xin lương tâm con người biết tỏ ra tôn trọng đối với hết mọi người và loại trừ chiến tranh cùng bạo lực. Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã ban Chúa Giêsu cho thế giới, xin giúp chúng con biết lãnh nhận từ Người tặng ân hòa bình và trở thành những người chân thành can đảm xây dựng hòa bình.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 1/1/2007