NỖ LỰC ĐẠI KẾT 2009

 

 

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI Vị Giáo Hoàng Đại Kết Kitô Giáo

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,

Biên soạn cho Chương Trình Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống 489 Thứ Sáu 22/1/2010

 

  

 

Đại Kết Kitô Giáo – 40 Năm sau Công Đồng Chung Vaticanô II

 

 

Theo truyền thống hằng năm, từ ngày 18 đến 25 Tháng Giêng, Lễ Thánh Phaolô Trở Lại, Giáo Hội hoàn vũ cử hành Tuần Lễ Cầu Cho Mối Hiệp Nhất Kitô Giáo, một mối hiệp nhất theo giòng lịch sử không may đã bị đổ vỡ cả thể hai lần, lần thứ nhất với Chính Thống Giáo Đông Phương năm 1052, và lần thứ hai với Phong Trào Thệ Phản Cải Cách Tây phương là biến cố được nhen nhúm từ năm 1517. Sau Công Đồng Chung Vaticanô II vào tiền bán thập niên 1960 (11/10/1962-8/12/1965), Phong Trào Đại Kết, trên thực tế, đã được Giáo Hội Công Giáo phát động và nỗ lực mãnh liệt hơn bao giờ hết, điển hình nhất là bằng Sắc Lệnh Unitatis Redintegratio ban hành ngày 21/11/1964, rồi  sau đó qua các cuộc chính thức và nghiêm chỉnh đối thoại đại kết với các Giáo Hội Chính Thống và các Cộng Đồng Giáo Hội Tây phương khác nhau.  

 

Tuy nhiên, về tinh thần, ngay trước Công Đồng Chung Vaticanô II và đang trong Công Đồng Chung Vaticanô II, Giáo Hội Công Giáo đã tỏ ra hết sức quan tâm tới vấn đề đại kết Kitô Giáo này rồi. Trước Công Đồng, vào ngày 5/6/1960, Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII đã thiết lập Văn Phòng Cổ Võ Hiệp Nhất Kitô Giáo như là một trong những ủy ban sửa soạn cho Công Đồng, với vị chủ tịch tiên khởi là Đức Hồng Y Augustin Bea. Trong Công Đồng, vào ngày 4/1/1964, ở Giêrusalem, qua chuyến tông du quốc tế đầu tiên của vị Giáo Hoàng Rôma, Đức Phaolô VI đã gặp gỡ Đức Thượng Phụ đại diện thế giới Chính Thống Giáo là Athenagoras Giáo Chủ Constantinople, một cuộc gặp gỡ từ Công Đồng Chung Florence 1439 giữa hai vị giáo chủ của 2 Giáo Hội chính của Kitô Giáo.

 

Lý do duy nhất và trên hết cho nỗ lực đại kết Kitô Giáo này, đối với riêng Giáo Hội Công Giáo cũng như chung Kitô Giáo, đó là thành phần môn đệ Chúa Kitô cùng nhau muốn cất đi cái gương mù chia rẽ nội bộ là những gì minh nhiên phản với ý muốn của Đấng Sáng Lập và hết sức bất lợi cho công cuộc tông đồ truyền giáo, một công cuộc hoàn toàn lệ thuộc vào tình yêu thương huynh đệ Kitô giáo như là một dấu chỉ cho thấy “các con là môn đệ của Thày” (Jn 13:35).

 

Bốn mươi năm sau Công Đồng Chung Vaticanô II, nỗ lực đại kết Kitô giáo, so với một thời gian dài gần nửa thế kỷ này, thành quả đại kết Kitô giáo dường như mới nhúc nhích được một chút xíu, về lãnh vực tín lý, liên quan tới Bản Tuyên Ngôn Chung về Tín Lý Công Chính Hóa giữa Liên Hiệp Thế Giới Luthêrô và Giáo Hội Công Giáo được ký kết ngày 31/10/1999, ngay trước thềm của Đại Năm Thánh 2000. Tuy nhiên, để tiến tới chỗ hoàn toàn và trọn vẹn hiệp nhất như thuở ban đầu với nhau một cách hữu hình là “một Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”, nỗ lực Đại Kết Kitô giáo cần phải tiến tới và đạt tới một điểm then chốt nhất, cũng là điểm khó nuốt nhất, đó là quyền bính Giáo Hoàng, vị thừa kế Thánh Phêrô và là vị đại diện của Chúa Kitô trên trần gian, nhờ đó có thể cùng nhau qui tụ lại cử hành Mầu Nhiệm Thánh nơi cùng một Hy Tế Thánh Thể. Quả thực thực trạng Kitô giáo hiệp nhất với nhau như là một Giáo Hội duy nhất như thuở ban đầu, theo sức loài người, là cả một cuộc hành trình dài, có thể đến thiên thu bất tận, không biết cho tới bao giờ mới tới đích điểm rất đáng ước mong của nó, nếu Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và toàn năng không nhúng tay vào một cách nào đó.

 

Phải chăng Đấng Quan Phòng Thần Linh đã bắt đầu ra tay vào thời điểm sau Công Đồng Chung Vaticanô II đúng 40 năm. Đúng thế, vào ngày 20/4/2005, ngày vị tân giáo hoàng của Giáo Hội Công Giáo, vị giáo hoàng 265 vừa được tuyển bầu ngày hôm trước, với danh hiệu Biển Đức XVI, qua bài giảng bằng tiếng Latinh trong Thánh Lễ tại Nguyện Đường Sistine với Hồng Y Đoàn, đã chính thức tuyên bố 4 ưu tiên hằng đầu của giáo triều ngài:

 

Ưu tiên thứ nhất của ngài là “việc theo đuổi cuộc dấn thân thực hiện Công Đồng Chung Vaticanô II và trung thành tiếp nối truyền thống hai ngàn năm của Giáo Hội”; ưu tiên thứ nhất này đã được chứng thực, trước hết nơi Diễn Từ Tất Niên với Giáo Triều Rôma ngày Thứ Năm 22/12/2005, nội dung về Công Đồng Chung Vaticanô II 40 năm sau, và tiếp theo là nơi loạt bài giáo lý về Giáo Hội hiệp thông tông truyền vào mỗi buổi Triều Kiến Chung Thứ Tư hằng tuần từ ngày 15/3/2006 cho tới khi bài viết này được phổ biến phải trên 100 bài.

 

Ưu tiên thứ hai là “Thánh Thể, tâm điểm của đời sống Kitô hữu và là nguồn mạch của sứ vụ truyền bá phúc âm hóa của Giáo Hội, chắc chắn bao giờ cũng phải là tâm điểm và là nguồn mạch cho sứ vụ thừa kế Thánh Phêrô đã được trao phó cho tôi”; ưu tiên về Thánh Thể liên quan tới đời sống nội tâm và tu đức này đã được tỏ hiện qua hai bức Thông Điệp đầu tiên, một về Tình Yêu Thiên Chúa (25/12/2005) và một về Đức Cậy Cứu Độ (30/11/2007), rõ nhất là Tông Huấn “Bí Tích Yêu Thương” ban hành ngày 22/2/2007.

 

Ưu tiên thứ bốn là “làm cho ánh sáng của Chúa Kitô chiếu tỏa trước con người nam nữ ngày nay …  Tôi xin hứa cùng họ rằng Giáo Hội muốn tiếp tục phát triển một cuộc đối thoại cởi mở chân tình với họ, trong việc tìm cầu sự thiện hảo đích thực của nhân loại và của xã hội... Tôi sẽ làm hết sức mình và dấn thân theo đuổi việc đối thoại đầy hứa hẹn được những vị tiền nhiệm của tôi khởi sự với những nền văn minh khác nhau, vì nếu có hiểu biết nhau mới tạo điều kiện cho một tương lai tốt đẹp hơn cho hết mọi người.”; ưu tiên này đã được thể hiện đặc biệt ở những chuyến tông du qua các bài diễn văn với giới chính trị và văn hóa, nhất là với thành phần liên tôn, đặc biệt là bài diễn văn liên quan tới Hồi giáo ở Đại Học Regensburg ngày 12/9/2006, nhất là qua Thông Điệp thứ ba về xã hội là “Bác Ái Trong Chân Lý” được ban hành ngày 29/6/2009.

 

 

Nỗ lực đại kết Kitô Giáo – Ưu Tiên trên hết

 

 

Tuy nhiên, khi nói tới ưu tiên thứ ba, căn cứ vào tính cách dài giòng về văn tự nhưng chất chứa đầy những tâm tình thiết tha được bày tỏ một cách mãnh liệt, có thể nói nỗ lực đại kết Kitô Giáo là ưu tiên trên hết của vị Hồng Y Nguyên Tổng Trưởng Tín Lý Đức Tin Joseph Ratzinger. Sau đây là nguyên văn lời ngài nói ngay đầu giáo triều của ngài:

 

·         Được nuôi dưỡng và bảo trì bởi Thánh Thể, người Công giáo chắc chắn cảm thấy được thôi thúc hướng đến mối hiệp nhất như Chúa Kitô mong muốn ở Nhà Tiệc Ly. Vị Thừa Kế Thánh Phêrô này biết rằng mình cần phải đặc biệt nhận lấy ước muốn tối hậu của Vị Thày Thần Linh. Nhiệm vụ kiên cường anh em của mình thật sự đã được trao phó cho ngài. Bởi vậy, bằng tất cả ý thức và vào lúc mở đầu cho thừa tác vụ của mình ở Giáo Hội Rôma là nơi Thánh Phêrô đã tắm máu, vị Thừa Kế này lãnh nhận, như là quyết tâm chính yếu của mình, quyết tâm không ngừng hoạt động hướng đến việc tái thiết mối hiệp nhất trọn vẹn và hữu hình của tất cả mọi thành phần môn đệ của Chúa Kitô. Đó là tham vọng của ngài, đó là nhiệm vụ bó buộc của ngài.

 

Ngài biết rằng, để làm điều này, những bày tỏ về cảm tình thiện cảm mà thôi chưa đủ. Cần phải có những cử chỉ cụ thể để thấm nhập các tâm hồn và đánh động lương tâm, phấn khích mọi người tiến đến chỗ hoán cải nội tâm là điều căn bản cho tất cả mọi thứ tiến bộ trên con đường đại kết. Những cuộc đối thoại về thần học là những gì cần phải có. Cũng không thể châm chước bỏ qua việc khảo sát kỹ lưỡng những nguyên do lịch sử đã gây ra những việc quyết định trong quá khứ. Thế nhưng, khẩn thiết hơn thế nữa là việc ‘thanh tẩy ký ức’, một việc đã thường được Đức Gioan Phaolô gợi lên, và là một việc duy nhất có thể sửa soạn cho các tâm hồn đón nhận tất cả sự thật của Chúa Kitô. Chính vì trước nhan Người là Vị Thẩm Phán tối cao của tất cả mọi sinh vật, mà mỗi một người trong chúng ta cần phải trả lẽ, với ý thức là một ngày kia chúng ta cần phải cắt nghĩa cho Người về những gì chúng ta đã làm và những gì chúng ta không làm cho thiện ích cao cả là mối hiệp nhất trọn vẹn và hữu hình nơi tất cả thành phần môn đệ của Người.

 

Vị Thừa Kế Thánh Phêrô đây tự cảm thấy chính mình liên quan đến vấn đề này và sẵn sàng làm tất cả những gì trong khả năng của mình để cổ võ lợi ích chính yếu cho việc đại kết. Theo những vị tiền nhiệm của mình, ngài nhất định quyết tâm nâng đỡ bất cứ sáng kiến nào có vẻ thích hợp với việc đẩy mạnh việc giao tiếp và thỏa hiệp với những vị đại diện thuộc các Giáo Hội khác và các cộng đồng giáo hội khác. Thật thế, nhân cơ hội này đây, ngài xin gửi đến họ lời chào thân ái nhất của ngài trong Chúa Kitô, Vị Chúa duy  nhất của tất cả mọi người”.

 

Căn cứ vào những gì được phác họa một cách khá chi tiết về nỗ lực đại kết Kitô Giáo là ưu tiên trên hết của mình, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI của chúng ta, từ khi làm giáo hoàng đến nay, đã thực hiện như thế nào và tới đâu? Qua những lời phát biểu rõ ràng và mạnh mẽ này về nỗ lực đại kết Kitô giáo của mình, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI cho chúng ta thấy: thứ nhất, vấn đề đối thoại đại kết mà thôi chưa đủ, còn phải kèm theo cả những cử chỉ thân thiện cụ thể nữa, và thứ hai, vấn đề đại kết Kitô giáo còn cần phải có tính cách tích cực và chủ động nữa, chứ không phải chỉ là vấn đề đáp ứng hay hưởng ứng vậy thôi. Phải chăng đây là những kinh nghiệm của vị Hồng Y Nguyên Tổng Trưởng Tín Lý Đức Tin Joseph Ratzinger trước khi làm giáo hoàng, và là những gì ngài cần tiếp tục và áp dụng với tư cách là một vị giáo hoàng?

 

Thật thế, trước khi làm Giáo Hoàng nữa, tức khi còn giữ vai trò Tổng Trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin, ngài đã thực hiện “những cử chỉ cụ thể” đối với vấn đề đại kết Kitô giáo này rồi. Chắc chúng ta còn nhớ bản Tuyên Ngôn Chung về Tín Lý Công Chính Hóa ký kết giữa Giáo Hội Công Giáo với Liên Hiệp Luthêrô Thế Giới ở Đức ngày 30/10/1999 tại Augsburg, một thành quả tốt đẹp sau hơn 30 năm đối thoại đại kết. Thế nhưng, thành quả đại kết đầu tiên này không thể có nếu không thiếu “những cử chỉ cụ thể” do đích thân vị hồng y tổng trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin Joseph Ratzinger thực hiện. Chính kiến thức của ĐHY Joseph Ratzinger về ông tổ Thệ Phản Luthêrô đã giúp phần làm hiện thực việc ký kết lịch sử Bản Tuyên Ngôn Chung về Tín Lý Công Chính Hóa.

 

Tuy nhiên, có một số điểm trong bản dự thảo của bản tuyên ngôn này được trình bày trong năm 1998 đã bị cả Tòa Thánh lẫn hiệp hội loại bỏ. Khi tình hình cho thấy dự án có thể bị hỏng cuộc, thì những khó khăn ấy đã được thắng vượt bởi Giám Mục Johannes Hanselmann, nguyên chỉ tịch Liên Hiệp Luthêrô Thế Giới, và ĐHY Ratzinger, nhờ tình thân hữu lâu đời của hai vị này, mối thân hữu đã đưa đến việc thực hiện một cuộc họp riêng giữa hai người với nhau vào Tháng 11/1998. Sau khi vị Giám Mục Tiến Sĩ Hanselmann này chết vào ngày 2/10/1999, ĐHY Ratzinger đã tiết lộ trong một bài diễn thuyết là:

 

Chúng tôi đã thực hiện một cuộc gặp gỡ ở nhà của người anh em của tôi, tại Đức quốc, khi mà dường như việc thỏa thuận về Tín Lý Công Chính Hóa đã bất thành. Nhờ đó, trong diễn trình của một cuộc tranh luận kéo dài cả một ngày trời, chúng tôi đã tìm thấy được những công thức làm sáng tỏ những điểm vẫn còn gặp trục trặc… Với công thức được dẫn giải vào những ngày ấy, theo cả Liên Hiệp Luthêrô lẫn giáo huấn của Công Giáo, họ đã có thể công nhận rằng họ đi đến việc thỏa thuận về một số điển nồng cốt của Tín Lý Công Chính Hóa. Nó không phải là một việc thỏa thuận có tính cách toàn cầu, thế nhưng, với công thức này mới có thể tiến đến chỗ ký vào một văn bản thỏa thuận ở những gì căn bản”.  

 

 

“Những cử chỉ cụ thể” đại kết Kitô Giáo với những Cộng Đồng Kitô giáo khác nhau

 

 

Với kinh nghiệm nỗ lực đại kết Kitô giáo như thế, nguyên Hồng Y Joseph Ratzinger đã theo đuổi đệ nhất ưu tiên đại kết Kitô Giáo như đã minh nhiên chủ trương ngày từ đầu giáo triều Biển Đức XVI của mình ra sao, liên quan tới “những cử chỉ cụ thể”  trong việc  “ngài nhất định quyết tâm nâng đỡ bất cứ sáng kiến nào có vẻ thích hợp với việc đẩy mạnh việc giao tiếp và thỏa hiệp với những vị đại diện thuộc các Giáo Hội khác và các cộng đồng giáo hội khác. Sau đây ít là 6 trường hợp cụ thể điển hình được người viết ghi nhận.

 

Thứ nhất với Giáo Hội Cải Cách Pháp Quốc. Thật vậy, ĐTGM Claude Feidt of Aix en Provende, đại diện Giáo Hội Công Giáo có mặt tại hội nghị Giáo Hội Cải Cách Pháp Quốc ở thành phố này đã đọc bản văn được văn phòng quốc vụ khanh của Tòa Thánh thay cho Đức Thánh Cha gửi đến hội nghị được chấm dứt hôm Chúa Nhật 8/5/2005 nàỵ  Trong sứ điệp của mình, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã gửi lời chào “thân ái đến tất cả mọi tham dự viên, ngài hứa sẽ cầu nguyện cho họ”, vị chủ tịch của hội nghị này là Marcel Manoel đã cho biết như thế. Ông nói tiếp: “Đây là lần đầu tiên hội nghị của chúng tôi đã nhận được một sứ điệp như vậỵ Chúng tôi nhận được sứ điệp này như là một cử chỉ của sự quan tâm”.

 

Thứ hai với Giáo Chủ Giáo Hội Chính Thống Nga. Đúng thế, Nhân dịp Lễ Quan Thày và sinh nhật của Đức Thượng Phụ Giáo Chủ Chính Thống Giáo Nga Alexy II, vị thượng phụ đã tỏ ra chống lại việc Đức Gioan Phaolô II muốn sang thăm Nga theo lời Tổng Thống Putin mời, chống lại việc Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II lập thêm mấy giáo phận mới ở Nga, và không tham dự lễ an táng của cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã gửi thư chúc mừng Vị Thượng Phụ Giáo Chủ Chính Thống Giáo Nga này và  đã nhận thư đáp lễ. Sau đây là nguyên văn lời của vị thượng phụ trong thư đáp lễ ngày 22/2/2006:

 

Tôi cảm kích cám ơn những lời chúc tốt đẹp thân ái của ngài và việc ngài nhớ nguyện cầu cho tôi nhân dịp sinh nhật và quan thày của tôi, những gì được Hồng Y Roger Etchegaray mang đến cho tôi. Trong thời đại của chúng ta đây, thời điểm đang lan tràn nạn tục hóa, Kitô Giáo đang phải đương đầu với những thách đố nặng nề đòi việc làm chứng chung. Tôi tin rằng đối với hai Giáo Hội của chúng ta, những giáo hội có cùng quan điểm về nhiều vấn đề rắc rối hiện nay trên thế giới hiện đại này, thì công việc ưu tiên ngày nay đó là việc bênh vực và khẳng định những giá trị Kitô Giáo trong xã hội, những giá trị nhờ đó nhân loại đã sống trên một ngàn năm. Tôi hy vọng rằng công việc ưu tiên này cũng góp phần vào việc tìm kiếm một giải pháp nhanh chóng cho những vấn đề giữa hai Giáo Hội nữa”.

 

Thứ ba với Hội Đồng Thế Giới Chư Giáo Hội nhân dịp Tổng Nghị Lần Thứ IX của Hội Đồng này, một biến cố được tổ chức ở Porto Alegre, Ba Tây, đến hết ngày 23/2/2006. Ngài đã nhắc nhở họ là

 

Sau 40 năm hợp tác tốt đẹp, chúng ta hướng tới việc tiếp tục cuộc hành trình hy vọng đầy hứa hẹn này, khi chúng ta gia tăng nỗ lực của mình hướng đến ngày Kitô hữu liên kết loan truyền sứ điệp cứu rỗi của Phúc Âm cho tất cả mọi người.  Vì chúng ta cùng nhau thực hiện cuộc hành trình này, chúng ta cần phải mở lòng ra trước những dấu chỉ của Đấng Quan Phòng Thần Linh cũng như trước tác động của Thánh Thần, vì chúng ta biết rằng ‘mục tiêu thánh hảo là việc hòa giải tất cả mọi Kitô hữu nơi mối hiệp nhất nên một Giáo Hội duy nhất của Chúa Kitô là những gì vượt quá năng lực và tài năng của con người’

 

Thứ bốn với Liên Hiệp Lutherô Thế Giới nhân dịp mừng kỷ niệm 60 năm thành lập (1947-2007), qua sứ điệp được gửi tới vị chủ tịch của tổ chức này là Giám Mục Mark Hanson, và sứ điệp này đã được đọc tại Vương Cung Thánh Đường ở Lund, Thụy Điển. Tổ chức Liên Hiệp Luthêrô Thế Giới là một liên minh các giáo hội thuộc quốc gia hay miền cùng một niềm tin. Tổ chức này được thành lập từ năm 1947, có trụ sở ở Geneva Thụy Sĩ. Ngày nay nó kết hợp 140 giáo hội, đại diện cho 78 quốc gia và có khoảng 66.7 triệu tín đồ. Trong sứ điệp, ĐTC đã nhấn mạnh tới việc Liên Hiệp Lutherô Thế Giới, kể từ sau Công Đồng Chung Vaticanô II, “đã dấn thân thực hiện việc đối thoại đại kết cho tới nay”, một cuộc đối thoại đã dẫn đến “những bước tiến triển” trên con đường hiệp nhất.  Ngài đã nói rằng những bước tiến triển này “đã được rõ ràng bày tỏ” trong các văn kiện như bản Tuyên Ngôn Chung về Tín Lý Công Chính Hóa được ký nhận bởi Giáo Hội Công Giáo và Liên Hiệp Luthêrô Thế Giới vào ngày 31/ 10/1999. Trong sứ điệp, ĐTC cũng nhận định rằng mối liên hệ giữa người Luthêrô và Công Giáo đã trở nên sâu đậm nhừ việc cầu nguyện chung và nhiều cuộc gặp gỡ ở tầm cấp thế giới, và là “một tặng ân của Thánh Thần đồng thời cũng là những gì thúc bách chúng ta không được làm trì trệ các nỗ lực đại kết của chúng ta theo tinh thần của lời Chúa nguyện xin ‘cho chúng tất cả được nên một’”.

 

Thứ năm với Đức Thượng Phụ Chính Thống toàn cầu Bartholomew I, vị được mời chia sẻ với Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới Thường Lệ XII (6-26/10/2008) trong Giờ Kinh Tối đầu của Chúa Nhật 29 Thường Niên ngày 18/10/2008 ở Nguyện Đường Sistine. Đức Thánh Cha đã vắn tắt giới thiệu vị thượng phụ này như sau:

 

Chúng ta hân hoan trong dịp suy niệm sâu xa này Đức Thượng Phụ Toàn Cầu Bartholomew I, vị tôi thay mặt chư huynh xin ngỏ lời chào thân ái. Giờ đây tôi mời chư huynh hãy lắng nghe những chia sẻ của ngài với chúng ta về chủ đề Lời Chúa là đề tài của Thượng Nghị đang diễn ra ở Vatican trong những ngày này đây”.

 

Vị Thượng Phụ được mời lần đầu tiên tới với một Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới này đã đáp lời ĐTC như sau:

 

Lời mời ưu ái này của Đức Thánh Cha đối với Kẻ Hèn này là một cử chỉ đầy ý nghĩa và quan trọng – chúng tôi dám nói rằng nó là một biến cố lịch sử. Vì đây là lần đầu tiên trong lịch sử một vị Thượng Phụ Toàn Cầu được dịp ngỏ lời cùng một Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới thuộc Giáo Hội Công Giáo Rôma, và do đó được trở nên một phần ‘đời sống’ của Giáo Hội chị em này ở một cấp độ cao như thế. Chúng tôi coi điều này như là một biểu lộ về việc Thánh Linh đang muốn dẫn các Giáo Hội của chúng ta tới một mối liên hệ với nhau chặt chẽ hơn và sâu đậm hơn, một bước tiến quan trọng đối với việc phục hồi mối hiệp thông trọn vẹn của chúng ta”.

 

Để cám ơn bài chia sẻ của vị thượng phụ này, ĐTC đã kết thúc như sau:

 

Tôi xin hết lòng ‘cám ơn’ Đức Thượng Phụ về những lời lẽ của ngài … Những gì ngài nói được sâu xa nuôi dưỡng bởi tinh thần của các Giáo Phụ… Những vị Giáo Phụ được ngài dồi dào trích dẫn cũng là những vị Giáo Phụ của chúng tôi, và những vị Giáo Phụ của chúng tôi cũng là của ngài: vậy nếu chúng ta có chung các vị Giáo Phụ thì có thể nào chúng ta không phải là huynh đệ của nhau?

 

Thứ sáu, với Đức Karekin II nhân dịp mừng kỷ niệm 10 năm đăng quang làm Thượng Phụ Giáo Chủ của Toàn Dân Armenians. Giáo Hội Armenia này là một trong 6 Giáo Hội Chính Thống Đông Phương cổ (1 ở Ai Cập, 1 ở Antioch, 1 ở Ethiopia, 1 ở Eritrea, và 1 ở Malankar). Các Giáo Hội này tách khỏi Giáo Hội Rôma sau Công Đồng Chung Chalcedon năm 451, liên quan tới cuộc tranh luận về việc công đồng chấp nhận ngôn từ Kitô học về 2 bản tính nơi một ngôi vị của Chúa Kitô. Từ năm 1915 đến 1922, dưới thời Đế Quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ, Kitô hữu Armenia đã bị thảm sát 1 triệu rưỡi người trong tổng số 2.6 triệu dân. Trong sứ điệp của mình ngày 27/10/2009, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã cám ơn vị thượng phụ này về việc “bản thân của ngài quyết tâm đối thoại, hợp tác và thân tình giữa Giáo Hội Armenia với Giáo Hội Công Giáo. Tôi cầu xin để những liên hệ tốt đẹp đã được thiết lập giữa chúng ta được tiếp tục tăng tiến trong những năm tháng tới đây”.  

 

Tuy nhiên, trong nỗ lực đại kết Kitô Giáo của mình một cách cụ thể đầy chủ động và tích cực như thế, lịch sử Giáo Hội đã và đang ghi nhận hai biến cố quan trọng đầy phấn khởi trong tương lai cho chung Giáo Hội nhưng cũng không kém đắng cay buồn khổ cho chính vị Giáo Hoàng Đại Kết. Biến cố thứ nhất với Huynh Đoàn Linh Mục Thánh Piô X của Đức Tổng Giám Mục Marcel Lefebvre, và biến cố thứ hai với Cộng Đồng Hiệp Thông Anh Giáo.

 

 

“Những cử chỉ cụ thể” đại kết Kitô Giáo với Huynh Đoàn LM Thánh Piô X của ĐTG Mục Lefebvre

 

 

Với Huynh Đoàn Linh Mục Thánh Piô X của Đức Tổng Giám Mục Marcel Lefebvre, một cộng đồng đã tách khỏi Giáo Hội Công Giáo từ năm 1988, khi vị sáng lập tự động tấn phong 4 vị giám mục không cần Giáo Hoàng ưng chuẩn bổ nhiệm, chúng ta có thể theo dõi diễn tiến qua những văn kiện của Tòa Thánh cũng như của chính Đức Thánh Cha. Trước hết là sắc lệnh tha vạ tuyệt thông của Thánh Bộ Giám Mục ngày 21/1/2009, với chữ ký của Đức Hồng Y Tổng Trưởng Giovanni Battista Re, chúng ta thấy lý do và mục  đích của Đức Thánh Cha trong việc tha vạ như sau:

 

Qua một bức thư đề ngày 15/12/2008, gửi cho Đức Hồng Y Darío Castrillón Hoyos, chủ tịch Ủy Ban Tòa Thánh Ecclesia Dei, Đức Ông Bernard Fellay, nhân danh mình cũng như các vị giám mục được tấn phong ngày 30/6/1988, một lần nữa đã yêu cầu hủy bỏ vạ tuyệt thông tiền kết trước đây được tuyên bố bởi sắc lệnh của vị Tổng Trưởng Thánh Bộ Giám Mục ngày 1/7/1988.

 

Trong bức thư được đề cập này, Đức Ông Fellay khẳng định một điều trong các điều khác rằng: ‘Chúng tôi bao giờ cũng tha thiết cương quyết là những người Công Giáo và mãi là người Công Giáo, và dốc toàn lực của mình để phục vụ Giáo Hội Chúa Giêsu Kitô là Giáo Hội Công Giáo Rôma. Chúng tôi chấp nhận tất cả mọi giáo huấn của Giáo Hội với tất cả tình con cái. Chúng tôi mạnh mẽ tin tưởng vào thượng quyền của Thánh Phêrô cũng như vào những đặc quyền của người, và vì thế tình trạng hiện nay đã khiến chúng tôi cảm thấy rất khổ tâm’.

 

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, cảm kích theo tình cha con trước nỗi khắc khoải thiêng liêng được bày tỏ nơi các phần tử liên hệ trước vạ tuyệt thông, và tin tưởng vào quyết tâm được họ bày tỏ trong bức thư trích dẫn trong việc hết sức cố gắng đi sâu hơn vào những cuộc trao đổi cần thiết với các thẩm quyền của Tòa Thánh về các vấn đề chưa được giải quyết, nhờ đó có thể mau chóng tiến tới một giải quyết hoàn toàn thỏa đáng cho vấn đề hiện hữu ngay từ ban đầu, đã quyết định tái xét trường hợp về giáo luật này của các vị Giám Mục Bernard Fellay, Bernard Tissier de Mallarais, Richard Willamson và Alfonso de Galarreta, một trường hợp xẩy ra bởi việc tấn phong giám mục của các vị… 

 

Theo năng quyền được Đức Thánh Cha Biển Đức XVI minh nhiên ủy cho tôi, bằng sắc lệnh này, tôi hủy bỏ cho các vị Giám Mục Bernard Fellay, Bernard Tissier de Mallarais, Richard Willamson và Alfonso de Galarreta vạ tuyệt thông tiền kết được tuyên bố bởi thánh bộ này ngày 1/7/1988, và tuyên bố vô hiệu hóa những hậu quả về pháp lý bắt đầu từ hôm nay trong sắc lệnh được phổ biến vào lúc bấy giờ”.

 

Ngày 24/1/2009, Tòa Thánh nhận được Thư hồi âm bày tỏ cảm nhận của mình về tác động tha vạ tuyệt thông của Đức Thánh Cha như sau:

 

Chúng tôi bày tỏ lòng biết ơn con thảo với Đức Thánh Cha về cử chỉ này, một cử chỉ sẽ mang lại thiện ích cho toàn thể Giáo Hội ngoài Tổ Chức Linh Mục của Thánh Piô X. Tổ Chức của chúng tôi ước mong có thể luôn giúp Đức Giáo Hoàng trong việc chữa trị cuộc khủng hoảng chưa từng có hiện đang chấn động thế giới Công Giáo này, và là một cuộc khủng hoảng được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gọi là một tình trạng ‘âm thầm bội giáo’. Ngoài việc chúng tôi tỏ lòng biết ơn đối với Đức Thánh Cha cũng như đối với tất cả những ai giúp ngài thực hiện tác động can đảm này, chúng tôi còn cảm thấy hân hoan là sắc lệnh ngày 21/1 coi như là những gì cần thiết cho ‘các cuộc nói chuyện’ với Tòa Thánh, các cuộc nói chuyện sẽ giúp cho Tổ Chức Linh Mục Thánh Piô X có thể giải thích những lý do nền tảng về tín lý được tin tưởng là từ lúc ban đầu liên quan tới những khó khăn hiện nay của Giáo Hội”.

 

Tuy nhiên, một biến cố không ngờ đã xẩy ra trước đó vì sơ ý Tòa Thánh và Đức Thánh Cha không biết liên quan tới 1 trong 4 vị giám mục được tha vạ tuyệt thông này đối với vụ người Do Thái bị thảm sát trong Thế Chiến Thứ II. Trong thư đề ngày 27/1/2009, vị Bề Trên Tổng Quyền của vị giám mục ấy đã phải lên tiếng công khai xin lỗi Tòa Thánh như sau:

 

Chúng tôi hết sức đau buồn nhìn nhận mức độ vi phạm gây ra cho trọng trách này đã tác hại tới sứ vụ của chúng tôi. Những lời tuyên bố của Đức Giám Mục Williamson không phản ảnh chủ trương của hội chúng tôi bất cứ cách nào. Bởi thế, tôi đã nghiêm cấm ngài, cho tới khi được báo lại, không được công khai nói năng về những vấn đề chính trị và lịch sử ấy nữa. Chúng tôi xin Đức Thánh Cha cùng tất cả mọi người thiện chí tha thứ cho những hậu quả thảm hại của hành động này. Vì chúng tôi nhận thấy những lời phát biểu ấy thiếu khôn ngoan biết bao, nên chúng tôi đau buồn khẳng định rằng những lời tuyên bố ấy đã trực tiếp ảnh hưởng tới hội của chúng tôi, làm mất uy tín cho sứ vụ của chúng tôi. Điều ấy không thể nào chấp nhận được, và chúng tôi xin tuyên ngôn là chúng tôi sẽ tiếp tục giảng dạy tín lý Công Giáo và ban các bí tích ân sủng của Chúa Giêsu Kitô”.

 

Chính bản thân của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, vì việc tha vạ tuyệt thông cho một trong 4 vị giám mục không ngờ chủ trương phủ nhận biến cố Do Thái bị diệt chủng trong Thế Chiến Thứ II như thế, đã bị tấn công dữ dội từ trong chính nội bộ của Giáo Hội, đến nỗi ngài đã phải gửi một bức thư cho hàng giáo phẩm Công Giáo thế giới ngày 10/3/2009, trong đó, ngoài việc làm sáng tỏ vạ tuyệt thông liên quan tới cá nhân với vấn đế tín lý liên quan tới chung cộng đồng của những cá nhân được tha vạ này, ngài đã lên tiếng xin lỗi về việc sơ xuất của mình, đồng thời biện minh cho việc làm chính đáng khẩn trương của ngài trong nỗ lực đại kết Kitô Giáo ngay từ đầu của ngài. Sau đây là một số trích dẫn tiêu biểu:

 

Có một số nhóm người công khai buộc tội vị Giáo Hoàng này là muốn vặn ngược kim đồng hồ đối với Công Đồng: bởi thế mới xẩy ra dồn dập những chống đối gây ra những vết thương đau còn sâu hơn là những vết thương của lúc này đây. Thế nên, quí huynh thân mến, tôi cảm thấy buộc phải lên tiếng để làm sáng tỏ vấn đề này cùng quí huynh, những gì cần phải giúp cho quí huynh hiểu được những quan tâm khiến tôi cùng các phân bộ có thẩm quyền của Tòa Thánh thực hiện việc làm ấy.

 

Một điều chẳng may không thấy trước được đã xẩy ra cho tôi đó là sự kiện gây ra bởi vụ Williamson đứng đầu việc tha vạ tuyệt thông. Cử chỉ nhân hậu thận trọng này đới với 4 vị giám mục được tấn phong thành nhưng không hợp lệ đột nhiên xuất hiện như là một điều gì đó hoàn toàn khác hẳn: như một thứ thoái thác về mối hòa giải giữa Kitô hữu và Do Thái, và do đó như là một thứ đảo ngược những gì được Công Đồng đặt định về vấn đề này để hướng dẫn đường đi nước bước của Giáo Hội. Một cử chỉ hòa giải với một nhóm thuộc giáo hội dính dáng tới một tiến trình phân rẽ như thế đã trở thành chính cái phản đề của nó, thành một bước rõ ràng thoái bộ trước tất cả những bước tiến hòa giải giữa người Kitô hữu và Do Thái được thực hiện từ Công Đồng – những bước tiến được chính công việc của tôi với tư cách là thần học gia đã tìm kiếm từ ban đầu trong việc tham phần và ủng hộ. Cái chồng chéo với hai tiến trình này đã xẩy ra và hiện nay gây xáo động giữa Kitô hữu và người Do Thái, cũng như trong Giáo Hội là những gì khiến tôi chỉ biết hết sức hối tiếc. Tôi đã được bảo rằng việc tham khảo tin tức sẵn có trên mạng điện toán toàn cầu có thể giúp thấy được vấn đề sớm hơn. Tôi đã học được một bài học mà trong tương lai nơi Tòa Thánh chúng tôi sẽ phải chú trọng hơn nữa tới các nguồn tín liệu. Tôi cảm thấy buồn trước sự kiện là ngay cả người Công giáo, thành phần mặc dù có thể hiểu biết hơn về trường hợp này, họ vẫn hận thù tấn công tôi một cách công khai. Chính vì lý do này mà tôi càng phải cám ơn tất cả mọi người bạn Do Thái hơn nữa, những người đã mau chóng làm sáng tỏ vấn đề hiểu lầm và phục hồi bầu khí thân tình và tin tưởng mà – như trong thời của Đức Gioan Phaolô II – cũng đã hiện hữu suốt giáo triều của tôi và nhờ ơn Chúa vẫn còn tiếp tục tồn tại.

 

Có cần đến biện pháp này hay chăng? Phải chăng nó thực sự là những gì ưu tiên? Những điều khác chẳng lẽ chẳng quan trọng hơn hay sao? Dĩ nhiên là có những vấn đề khác quan trọng hơn và khẩn thiết hơn. Tôi tin rằng tôi đã rõ ràng đề ra những ưu tiên cho giáo triều của tôi qua những bài tôi nói ngay từ ban đầu giáo triều này. Vậy hết những gì tôi đã nói sẽ tiếp tục không thay đổi trong dự định hoạt động của tôi. Ưu tiên đầu tiên đối với Vị Thừa Kế Thánh Phêrô đã được Chúa Kitô đề ra ở Căn Thượng Lầu bằng những từ ngữ rõ ràng nhất: ‘Con… làm kiên cường anh em của con’…. Việc dẫn con người nam nữ đến cùng Thiên Chúa, đến cùng Vị Thiên Chúa phán trong Thánh Kinh, đó là ưu tiên tối thượng và chính yếu của Giáo Hội cũng như của Vị Thừa Kế Thánh Phêrô vào lúc này đây. Kết luận hữu lý của vấn đề này đó là chúng ta cần phải thiết tha với mối hiệp nhất của tất cả mọi tín hữu. Tình trạng chia rẽ, những bất đồng nơi họ, là những gì gây trở ngại cho uy tín việc làm của Chúa nơi họ. Bởi thế, nỗ lực cổ võ một chứng từ chung của Kitô hữu cho niềm tin của mình – việc đại kết – là những gì thuộc về mối ưu tiên tối thượng này.

 

Giờ đây tôi muốn hỏi là: Phải chăng nó đã hay đang là những gì thực sự sai lầm trong trường hợp tiến đến gặp gỡ người anh em ‘có điều gì phạm dến các con’ và tìm cách hòa giải hay chăng? Không phải hay sao xã hội dân sự cũng cố gắng để chặn đứng những hình thức của chủ nghĩa cực đoan cũng như để sát nhập những thành phần cuối cùng phục tùng – ở mức độ có thể – vào những hướng đi cao cả làm nên đời sống xã hội, nhờ đó tránh gây ra cảnh cô lập hóa họ cùng với tất cả những hậu quả sau đó nữa? Có thể nào lại hoàn toàn sai lầm khi thực hiện việc phá vỡ những gì là ngoan cố và hẹp hòi để dọn chỗ cho những gì là tích cực và khả dĩ phục hồi cho toàn khối hay chăng? Chính tôi đã thấy, trong những năm sau 1988, việc những cộng đồng đã từng tách khỏi Rôma trở lại khi thay đổi những thái độ nội tâm của họ; tôi đã thấy việc trở lại cùng Giáo Hội rộng lớn hơn này giúp cho họ có thể vượt ra ngoài những vị thế đơn phương và phá đổ tình trạng mắc nghẹn để có thể vươn vào toàn khối những năng lực tích cực. Chúng ta có thể nào lạnh lùng dửng dưng về một cộng đồng có 491 vị linh mục, 215 chủng sinh, 6 chủng viện, 88 học đường, 2 tổ chức cấp đại học, 117 nam tu, 164 nữ tu và hằng ngàn giáo dân hay chăng? Chúng ta có muốn ngẫu nhiên để cho họ càng xa lìa Giáo Hội hơn nữa hay chăng? Chẳng hạn tôi đang nghĩ đến 491 vị linh mục. Chúng ta không thể nào biết được những động lực của họ lẫn lộn như thế nào? Cũng thế, tôi không nghĩ rằng họ chọn thiên chức linh mục nếu, song song với những yếu tố méo mó và bệnh hoạn khác nhau, họ không có một tình yêu mến đối với Chúa Kitô và một ước vọng muốn loan truyền Người, và với Người, loan truyền Vị Thiên Chúa hằng sống. Có thể nào chúng ta lại loại trừ họ là thành phần đại diện của một cánh thủ cựu, khỏi việc họ theo đuổi mối hòa giải và hiệp nhất hay chăng? Vậy thì họ trở thành những gì đây?

 

 

“Những cử chỉ cụ thể” đại kết Kitô Giáo với Cộng Đồng Giáo Hội Hiệp Thông Anh Giáo

 

 

Sau hết, với Cộng Đồng Giáo Hội Hiệp Thông Anh Giáo, nỗ lực đại kết Kitô giáo của vị Giáo Hoàng đại kết Biển Đức XVI cũng vẫn tiếp tục chiều hướng cởi mở bằng “những cử chỉ cụ thể” đầy tích cực, những gì được thể hiện qua Tông Hiến được ký ngày 4/11/2009 và ban hành ngày 9/11 cùng năm. Trong Tông Hiến này, ở phần đầu liên quan tới lý thuyết, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI nói lên những lý do sâu xa và thực tại của chính vấn đề đại kết Kitô giáo, sau đó, ngài nêu lên 13 khoản chính áp dụng vào trường hợp tín hữu Anh Giáo muốn trở về với Giáo Hội Công Giáo, trong đó, ngài thiết lập một cơ cấu đặc biệt được gọi là Giáo Quản Riêng giành cho tín hữu nguyên Anh giáo trở lại hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công Giáo nhưng vẫn có thể giữ truyền thống Anh Giáo thích hợp với Đức Tin Công giáo. Sau đây là những đọan tiêu biểu chính yếu của Tông Hiến mở đường đại kết Kitô giáo cho tín hữu Anh Giáo muốn tập thể trở về với Giáo Hội Công Giáo:

 

“Trong những thời gian gần đây, Thánh Thần đã tác động những nhóm Anh Giáo lập đi lập lại và thiết tha thỉnh nguyện để được hoàn toàn hiệp thông Công giáo với tư cách cá nhân cũng như tập thể. Tòa Thánh đã đáp ứng một cách thuận lợi cho chững thỉnh nguyện ấy. Thật vậy, vị thừa kế Thánh Phêrô, theo ý muốn của Chúa Giêsu trong việc bảo đảm mối hiệp nhất của hàng giáo phẩm cùng trông coi và bảo toàn mối hiệp thông hoàn vũ của tất cả mọi Giáo Hội (1), không thể nào lại không tạo nên những cách thức thuận lợi cần thiết để hiện thực hóa niềm ước vọng thánh thiện này... 

 

Giáo Hội, tương tư như mầu nhiệm Lời Nhập Thể, chẳng những là một mối hiệp thông thiêng liêng vô hình, mà còn là một hiệp thông hữu hình nữa… Mối hiệp thông của thành phần lãnh nhận phép rửa qua việc giảng dạy của các Tông Đồ cũng như qua việc bẻ bánh Thánh Thể là những gì được biểu lộ một cách hữu hình nơi những gắn bó của việc tuyên xưng trọn vẹn đức tin, nơi việc cử hành tất cả mọi bí tích được Chúa Kitô thiết lập, và nơi việc quản trị của Giám Mục Đoàn hiệp nhất với đầu là Giáo Hoàng Rôma.

 

“Giáo Hội duy nhất này của Chúa Kitô, một giáo hội chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính là duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền, là giáo hội ‘sinh tồn nơi Giáo Hội Công Giáo, một giáo hội được quản trị bởi vị thừa kế Thánh Phêrô và bởi các Giám Mục hiệp thông với ngài. Tuy nhiên, nhiều yếu tố thánh hóa và sự thật cũng hiện hữu ở ngoài giới hạn hữu hình của giáo hội này. Vì những tặng ân này thích đáng thuộc về Giáo Hội của Chúa Kitô mà chúng là những năng lực thúc đẩy tiến đến mối hiệp nhất Công Giáo’ (Dogmatic Constitution Lumen Gentium, 8).

 

Theo ý nghĩa của những nguyên tắc về giáo hội học này, bản Tông Hiến đây muốn cống hiến một cấu trúc chung có tính cách qui phạm đối với việc ấn định tổ chức và đời sống của các Giáo Quản Riêng cho tín hữu Anh Giáo muốn hoàn toàn hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo một cách tập thể. Tông Hiến này được hoàn trọn bởi Những Tiêu Chuẩn Bổ Khuyết được Tòa Thánh ban hành.

 

I.- 1) Các Giáo Quản Riêng cho tín hữu Anh Giáo muốn hoàn toàn hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo là cơ cấu được thiết lập bởi Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin ở trong những giới hạn của các lãnh giới thuộc một Hội Đồng Giám Mục riêng để tham vấn với Hội Đồng này.

 

2) Có thể được thiết lập một Giáo Quản Riêng hay hơn nữa theo nhu cầu trong lãnh giới của một Hội Đồng Giám Mục riêng.

 

3) Mỗi một Giáo Quản Riêng có được tư cách pháp nhân công cộng theo chính luật định (ipso iure); về pháp lý nó có thể so sánh như là một giáo phận (12).

 

4) Giáo Quản Riêng này được làm nên bởi thành phần tín hữu giáo dân, các giáo sĩ và những phần tử thuộc các Tổ Chức Đời Tận Hiến và các Hội Sống Tông Đồ, từ đầu thuộc về Cộng Đồng Hiệp Thông Anh Giáo và giờ đây hoàn toàn hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo, hay những ai lãnh nhận các Bí Tích Gia Nhập Kitô Giáo trong phạm vi thẩm quyền của Giáo Quản Riêng này.

 

5) Các phần tử của Giáo Quản Riêng chấp nhận tuyên xưng Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo là những gì thể hiện uy tín của đức tin Công Giáo. 

 

III.- Không loại trừ những việc cử hành theo Lễ Nghi Rôma, Giáo Quản Riêng được năng quyền cử hành Thánh Lễ và các Bí Tích khác, Phụng Vụ Giờ Kinh và các cử hành phụng vụ khác theo các sách phụng vụ hợp với truyền thống Anh Giáo, những gì đã được Tòa Thánh chuẩn nhận, để giữ các truyền thống về phụng vụ, thiêng liêng và mục vụ của Cộng Đồng Hiệp Thông Anh Giáo trong Giáo Hội Công Giáo, như là một tặng ân quí báu nuôi dưỡng đức tin của các phần tử thuộc Giáo Quản Riêng và như là một kho tàng cần phải được chia sẻ.

 

IV.- Một Giáo Quản Riêng được chăm sóc mục vụ bởi một vị Bản Quyền được bổ nhiệm bởi Giáo Hoàng Rôma.

 

VI.- 1) Những ai thi hành thừa tác vụ như là các phó tế, linh mục hay giám mục Anh Giáo, và những ai chu trọn những đòi hỏi theo qui định của giáo luật và không bị ngăn trở bởi những gì trái phép hay những ngăn trở khác có thể được Đấng Bản Quyền chấp nhận làm ứng viên lãnh nhận các Chức Thánh trong Giáo Hội Công Giáo. Còn trường hợp của các vị thừa tác viên có gia đình cần phải tuân giữ những tiêu chuẩn được qui định trong Thông Điệp của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI ‘Sacerdotalis coelibatus’, khoản 42 cũng như trong Bản Tuyên Ngôn Trong Tháng Sáu. Những thừa tác viên chưa lập gia đình cần phải tuân theo tiêu chuẩn độc thân giáo sĩ của Giáo Luật khoản 277.1

 

Hội nghị Thẳng Tiến Theo Đức Tin ở Luân Đôn được diễn ra hôm Thứ Sáu và Thứ Bảy 23-24/10/2009. Đây là một hiệp hội của hàng giáo sĩ và giáo dân Anh Giáo, được thành lập vào năm 1992 với gần một ngàn phần tử giáo sĩ, chống lại việc truyền chức cho nữ giới và thành phần đồng tính chủ động trong Cộng Đồng Hiệp Thông Anh Giáo. Tuy chương trình nghị sự đã được đề ra trước đó nhưng vấn đề được bàn đến nhiều nhất là đề tài liên quan tới Tông Hiến mở đường tái hiệp nhất của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI là văn kiện được Tòa Thánh chính thức loan báo hôm 20/10/2009.

 

Vị chủ tịch của hiệp hội này là Giám Mục John Broadhurst cho biết: “Đây là một cuộc đối chọi cho những chân lý của Phúc Âm”. Ngài nhận định là những phần tử của Cộng Đồng Hiệp Thông Anh Giáo cảm thấy mất tinh thần khi giáo hội này quyết định truyền chức cho nữ giới, và cho biết rằng “trong khi các vị giám mục thuộc Giáo Hội Anh Quốc tỏ ra điếc lác với những mối quan tâm này thì Vị Giám Mục Rôma lại lắng nghe những mối quan tâm ấy. Rôma nghĩ khác về chúng ta hơn là chúng ta nghĩ rằng Rôma đã nghĩ hơn 40 năm qua”. Vị giám mục chủ tịch này cho rằng tác động chấp nhận những nhóm tín hữu Anh Giáo như là một “đáp ứng của giáo hội” đối với một “trục trặc của giáo hộiTông Hiến này là những gì tỏ ra rộng lượng. Nó tôn trọng tính chất nguyên tuyền của chúng ta”. Vị giám mục này cũng nhận định là việc thiết lập những Giáo Quản Riêng (personal ordinariates) là một “đường lối toàn cầu mà chúng ta sẽ thuộc về”. Ngài nói rằng các vị giám mục tham gia hiệp hội Thẳng Tiến Theo Đức Tin sẽ tìm cách để đáp ứng tông hiến về hiệp nhất này.

 

 

Đại Kết Kitô Giáo cho một Âu Châu Hiệp Nhất và Đại Đồng Nhân Loại

 

Qua những nỗ lực đại kết Kitô giáo hết sức thực tế, cởi mở và đầy hứa hẹn trên đây của vị đương kim Giáo Hoàng 265 của chúng ta, có thể nói, nếu quả thực Đức Gioan Phaolô II được sai đến từ một nước cộng sản Balan như một tác nhân chính góp phần vào biến cố giải thể chế độ Cộng Sản Đông Âu cuối năm 1989, nhờ đó làm sụp đổ Bức Tường Bá Linh là biểu tượng cho một Âu Châu Kitô Giáo chia rẽ, và nếu vị thừa kế ngài không ngờ lại xuất thân từ quốc gia của Bức Tường Bá Linh này, một quốc gia đồng thời cũng là nơi xuất phát phong trào Thệ Phản Tin Lành từ thế kỷ 16, vị giáo hoàng quyết tâm thực hiện việc Đại Kết Kitô Giáo như là một trong 4 ưu tiên tối hậu của giáo triều mình là Biển Đức XVI, như ngài đã mạnh mẽ khẳng định với Hồng Y Đoàn ngày 20/4/2005, cũng được Chúa dùng để giúp cho Âu Châu thực sự trở thành một Khối Hiệp Nhất, không phải bằng quyền lực chính trị và kinh tế, mà bằng tinh thần Đại Kết Kitô Giáo.

 

Thế nhưng, tiếc thay, trên thực tế, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, trong bài giảng khai mạc của mình cho Công Nghị Đặc Biệt Giám Mục Phi Châu 4-25/10/2009, đã nói đến tới nền văn hóa bệnh hoạn của Âu Châu như là một dịch bệnh đang lây lan phóng uế khắp thế giới như thế này:

 

Một thứ bệnh đang lan tràn ở Tây phương, đó là chủ nghĩa duy vật thực dụng kèm theo tâm thức tương đối chủ nghĩa và triệt tiêu chủ nghĩa. Không cần đi sâu vào tác dụng gây ra bởi những thứ bệnh tật về tinh thần ấy, chắc chắn một điều không thể phủ nhận được đó là cái được gọi là Thế Giới ‘Thứ Nhất’ này đã xuất cảng cho đến nay và tiếp tục xuất cảng những thứ phóng uế độc hại thiêng liêng đang làm ô nhiễm các dân tộc thuộc những châu lục khác, đặc biệt là nhân dân ở Phi Châu. Theo chiều hướng này thì chủ nghĩa đô hộ là những gì đã được chấm dứt ở lãnh vực chính trị thực sự vẫn chưa hoàn toàn kết thúc”.

 

Đó là lý do, trong chuyến tông du Cộng Hòa Tiệp và trong cuộc gặp gỡ đại kết Chúa Nhật 27/9/2009 ở Sảnh Đường Throne của Tòa Tổng Giám Mục ở Prague, Đức Thánh Cha đã kêu gọi riêng Tiệp Khắc và chung Âu Châu hãy đồng hóa với Kitô giáo, đến nỗi, nói đến Kitô giáo là nói đến Âu Châu, một Âu Châu cần phải sống lại cội gốc Kitô giáo của mình, không phải vì cội gốc này đã bị tàn tạ suy yếu mà để nhờ đó mà xây dựng tương lai. Đức Thánh Cha nói:

 

Việc loan báo của Giáo Hội về ơn cứu độ nơi Chúa Giêsu Kitô là những gì luôn cũ và hằng mới, chìm ngập trong đức khôn ngoan của quá khứ và tràn đầy hy vọng cho tương lai. Khi Âu Châu lắng nghe truyện kể về Kitô giáo là Âu Châu nghe câu truyện về chính mình. Những khái niệm của nó về công lý, tự do và trách nhiệm xã hội cùng với những cơ cấu tổ chức về văn hóa và luật pháp được thiết lập để bảo trì những ý nghĩ này và truyền chúng lại cho các thế hệ tương lai, tất cả được hình thành bởi gia sản Kitô giáo của mình. Thật vậy, việc nó tưởng nhớ về quá khứ là những gì làm cho những khát vọng tương lai của nó trở nên sinh động… Kitô hữu buộc phải liên kết với những người khác trong việc nhắc nhở Âu Châu về những cội gốc của nó. Không phải vì những cội gốc này đã bị tàn héo từ lâu. Trái lại! Chính vì chúng tiếp tục – bằng những đường lối tinh khôn nhưng lại công hiệu – cung cấp cho châu lục này dưỡng chất thiêng liêng và luân lý giúp nó có thể tham gia cuộc đối thoại ý nghĩa với con người thuộc các văn hóa và tôn giáo khác. Chính vì Phúc Âm không phải là một ý hệ, mà Phúc Âm không dám khóa những thực tại về chính trị xã hội đang xoay vần tiến hóa vào những giản đồ cứng ngắc. Trái lại, Phúc Âm vượt lên trên những thăng trầm của thế giới này và tỏa ra ánh sáng mới về phẩm vị con người ở mọi lứa tuổi”.

 

Nếu Âu Châu phải trở về nguồn với cội gốc Kitô giáo của mình để có thể và mới có thểđối thoại ý nghĩa với con người thuộc các văn hóa và tôn giáo khác”, thì quả thực điều kiện bất khả thiếu đó là Âu Châu cần đến một khối Kitô Giáo đại kết, tức “một Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”.  Biết đâu biến cố giải thể Cộng Sản Đông Âu cuối năm 1989 có tính cách giây chuyền một cách hết sức bất ngờ ấy cũng sẽ xẩy ra cho sự kiện Đại Kết Kitô Giáo ở Âu Châu, mà mở màn là từ Cộng Đồng Hiệp Thông Anh Giáo?

 

Ngay sau sự kiện Anh Giáo này chỉ duy có một ngày, tin tức lại cho thấy nhú lên một dấu chỉ thời đại phấn khởi khác từ Chính Thống Giáo, đó là ý hướng tha thiết muốn thực sự hiệp nhất với Giáo Hội Công Giáo Rôma của Đức Giám Mục Tichon, Giáo Chủ Giáo Hội Chính Thống Giáo Bulgaria, ngày Thứ Tư 21/10/2009, như được tờ L'Osservatore Romano trích dẫn những lời ngài phát biểu như sau:

 

Cuộc đối thoại về thần học đang tiến triển trong những ngày này ở Cyprus thực sự là những gì quan trọng, nhưng chúng tôi không sợ phải nói rằng chúng ta cần phải tìm cách cùng nhau cử hành sớm bao nhiêu có thể”. Vị giám mục này khẳng định là ngài sẽ “không bỏ qua một nỗ lực nào” để mau chóng phục hồi “mối hiệp thông giữa người Công giáo và Chính Thống giáo”. 

  

Lạy Chúa Giêsu Kitô là Chủ Chiên nhân lành,

Chúa đã đến để qui tụ nhân loại lạc loài bởi nguyên tội đang phân tán khắp nơi

lại thành một đàn chiên duy nhất theo một chủ chiên trong Giáo Hội của Chúa,

một Giáo Hội đã được Chúa thiết lập trên tảng đá Phêrô là vị đệ nhất tông đồ

được Chúa tuyển chọn trong nhóm 12 tông đồ của Chúa,

để thay Chúa chăn dắt cả chiên lớn lẫn chiên bé của Chúa.

Xin Chúa hãy hiện diện sống động nơi vị thừa kế Thánh Phêrô đại diện Chúa trên trần gian

để ngài là dấu hiệu hữu hình thực sự cho mối hiệp nhất trọn vẹn giữa thành phần môn đệ Chúa.

Amen.

 

 

 

Đại Kết Kitô Giáo với ĐTC Biển Đức XVI

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,

Biên soạn cho Chương Trình Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống 477 Thứ Sáu 30/10/2009

 

 

Một biến cố vừa xẩy ra làm cho Kitô giáo nói chung và Giáo Hội Công giáo chúng ta nói riêng cảm thấy hết sức vui mừng phấn khởi. Đó là tin vui liên quan tới việc Đức Thánh Cha sắp mở đường cho khoảng 20-30 vị giám mục thuộc Cộng Đồng Hiệp Thông Anh Giáo đã ngỏ ý muốn trở về cùng Giáo Hội Công Giáo từ 2 năm nay, thời khoảng bên Cộng Đồng Hiệp Thông Anh Giáo bắt đầu đi đến chỗ truyền chức linh mục và giám mục cho nữ giới cũng như cho thành phần đồng tính, và làm phép cho các cặp hôn nhân đồng tính. Vậy Đức Thánh Cha Biển Đức XVI sẽ mở đường bằng cách nào, chẳng những cho thành phần cao cấp thuộc Cộng Đồng Hiệp Thông Anh Giáo mà còn cho một cộng đồng ly khai khác là Huynh Đoàn Linh Mục Thánh Piô X của Đức Tổng Giám Mục Marcel Lefebvre từ năm 1988? Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về việc làm đặc biệt khẩn thiết này của vị Giáo Hoàng ngay từ đầu giáo triều của mình, ngày 20/4/2005, đã công khai tuyên bố với hồng y đoàn về một trong những ưu tiên hàng đầu của ngài là vấn đề “đại kết Kitô Giáo” như sau:

 

Bằng tất cả ý thức và vào lúc mở đầu cho thừa tác vụ của mình ở Giáo Hội Rôma là nơi Thánh Phêrô đã tắm máu, vị Thừa Kế này lãnh nhận, như là quyết tâm chính yếu của mình, quyết tâm không ngừng hoạt động hướng đến việc tái thiết mối hiệp nhất trọn vẹn và hữu hình của tất cả mọi thành phần môn đệ Chúa Kitô”.

 

Cũng trong bài chia sẻ đầu tiên này với hồng y đoàn, Vị Giáo Hoàng Biển Đức XVI của chúng ta còn nói đến cách thức ngài sẽ thực hiện trong giáo triều của ngài để có thể đạt được tối đa nguyện vọng của ngài về vấn đề “Đại Kết Kitô Giáo”:

 

Đó là tham vọng của ngài, đó là nhiệm vụ bó buộc của ngài. Ngài biết rằng, để làm điều này, những bày tỏ về cảm tình thiện cảm mà thôi chưa đủ. Cần phải có những cử chỉ cụ thể để thấm nhập các tâm hồn và đánh động lương tâm, phấn khích mọi người tiến đến chỗ hoán cải nội tâm là điều căn bản cho tất cả mọi thứ tiến bộ trên con đường đại kết. Những cuộc đối thoại về thần học là những gì cần phải có. Cũng không thể châm chước bỏ qua việc khảo sát kỹ lưỡng những nguyên do lịch sử đã gây ra những việc quyết định trong quá khứ. Thế nhưng, khẩn thiết hơn thế nữa là việc ‘thanh tẩy ký ức’, một việc đã thường được Đức Gioan Phaolô II gợi lên, và là một việc duy nhất có thể sửa soạn cho các tâm hồn đón nhận tất cả sự thật của Chúa Kitô… Vị Thừa Kế Thánh Phêrô đây tự cảm thấy chính mình liên quan đến vấn đề này và sẵn sàng làm tất cả những gì trong khả năng của mình để cổ võ lợi ích chính yếu cho việc đại kết. Theo những vị tiền nhiệm của mình, ngài nhất định quyết tâm nâng đỡ bất cứ sáng kiến nào có vẻ thích hợp với việc đẩy mạnh vấn đề giao tiếp và thỏa hiệp với những vị đại diện thuộc các Giáo Hội khác và các cộng đồng giáo hội khác”. 

 

 

Văn Thư của Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin về Tông Hiến của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI mở đường cho Tín Hữu Anh Giáo Tái Hiệp Nhất với Giáo Hội Công Giáo

 

 

Đường lối và phương pháp được cho rằng hiệu lực giúp tiến đến tình trạng “đại kết Kitô Giáo” như ngài bày tỏ ngay từ đầu giáo triều của mình trên đây, đó là “cần phải có những cử chỉ cụ thể để thấm nhập các tâm hồn và đánh động lương tâm, phấn khích mọi người tiến đến chỗ hoán cải nội tâm là điều căn bản cho tất cả mọi thứ tiến bộ trên con đường đại kết”, “nhất định quyết tâm nâng đỡ bất cứ sáng kiến nào có vẻ thích hợp với việc đẩy mạnh vấn đề giao tiếp và thỏa hiệp với những vị đại diện thuộc các Giáo Hội khác và các cộng đồng giáo hội khác”.

 

Vậy trong trường hợp của Cộng Đồng Hiệp Thông Anh Giáo, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã làm như thế nào, nếu không phải là việc ngài sẽ ban hành một văn kiện hay một Tông Hiến vừa có tính cách đáp ứng vừa mở đường cho bất cứ tín hữu Anh Giáo nào, nhất là thành phần cao cấp thuộc phẩm trật của cộng đồng này, muốn trở về tái hiệp nhất với Giáo Hội Công Giáo, một Giáo Hội mà, từ năm 1535, họ đã tách khỏi bởi vụ Vua Henry VIII  liên quan tới đời sống hôn nhân tư riêng gây gương mù trầm trọng của vị vua có 6 đời vợ này. Sau đây, chúng ta hãy cùng nhau theo dõi những gì sẽ được ban hành trong Tông Hiến mở đường “Đại Kết Kitô Giáo” với các tín hữu thuộc Cộng Đồng Hiệp Thông Anh Giáo này.

 

Thật vậy, Văn Phòng Báo Chí của Tòa Thánh, hôm Thứ Ba, 20/10/2009, qua Đức Hồng Y Tổng Trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin là William Levada, đã loan báo rằng, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI sẽ ban hành một Tông Hiến (Apostolic Constitution), cho phép tín hữu thuộc Cộng Đồng Hiệp Thông Anh Giáo (Anglican Communion) gia nhập Giáo Hội Công Giáo mà vẫn giữ truyền thống Anh Giáo hợp với Đức Tin Công Giáo.

 

Tông Hiến sắp ban hành này là tác động đáp ứng của Đức Thánh Cha trước những yêu cầu của tín đồ Anh Giáo, trong đó có khoảng 20-30 vị giám mục, trong thời điểm Truyền Thống Anh Giáo tiếp tục truyền chức linh mục và giám mục cho nữ giới và nam giới đồng tính luyến ái, cùng với việc làm phép cho những cặp hôn nhân đồng tính.

 

Bản văn của Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin công bố về sự kiện Tông Hiến mở đường này cho biết: “Đức Thánh Cha đã mở ra một cấu trúc về luật phép giúp cho việc tái hiệp nhất tập thể như vậy bằng cách thiết lập những bản quyền riêng (personal ordinariates) cho phép thành phần tín hữu Anh Giáo trước đó được hoàn toàn hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo trong khi vẫn giữ các yếu tố thuộc gia sản thiêng liêng và phụng vụ đặc biệt của Anh Giáo”.

 

Những nhóm tín hữu Anh Giáo trở về hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo này sẽ được coi sóc và dẫn dắt bởi Personal Ordinariate là cấu trúc thường được lãnh đạo bởi vị nguyên giáo sĩ Anh Giáo.

 

Về vấn đề linh mục Anh Giáo đã có gia đình, bản văn của Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin cho biết rằng Tông Hiến sắp ban hành “cho phép vị nguyên giáo sĩ Anh Giáo được thụ phong như là linh mục Công Giáo”.

 

Bản văn làm sáng tỏ vấn đề là “những lý do về lịch sử và đại kết loại trừ việc truyền chức cho người nam đã lập gia đình làm giám mục ở cả Giáo Hội Công Giáo lẫn Chính Thống Giáo”.

 

Bởi thế, Tông Hiến sắp ban hành sẽ qui định là vị lãnh đạo bản quyền riêng (personal ordinariate) “hoặc là một vị linh mục hay là một giám mục không lập gia đình”.

 

Đối với các vị linh mục tương lai, bản văn kiện cho biết: “Các chủng sinh ở bản quyền riêng (personal ordinariate) cần phải được dọn mình theo như các chủng sinh Công Giáo khác, cho dù bản quyền riêng (personal ordinariate) này có thể thiết lập một nhà huấn luyện để giải quyết các nhu cầu riêng biệt của việc huấn luyện liên quan tới gia sản Anh Giáo. Như thế, Tông Hiến tìm cách làm cân bằng một đàng là mối quan tâm muốn bảo trì gia sản về phụng vụ và thiêng liêng của Anh Giáo, một đàng là mối quan tâm hội nhập vào Giáo Hội Công Giáo của những nhóm này cùng với hàng giáo sĩ của họ”.

 

Bản văn của Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin nhấn mạnh đến khía cạnh Tông Hiến “đáp ứng một cách hợp lý và thậm chí cần thiết” cho những gì được gọi là “một hiện tượng toàn cầu”. Tông Hiến này cống hiến “một mô thức duy nhất về luật phép cho Giáo Hội hoàn vũ là những gì có thể thích ứng với những trường hợp địa phương khác nhau và hợp tình hợp lý với thành phần nguyên Anh Giáo trong việc áp dụng phổ quát của nó”.

 

Về vấn đề những bản quyền riêng (personal ordinariates) được thiết lập một cách nào đó giống như trong quân đội là lãnh vực có một vị giám mục thi hành thẩm quyền giáo hội trên thành phần quân nhân cùng gia đình của họ, bất kể không gian họ ở. Trên thực tế thì đã có nhiều cá nhân tín hữu Anh Giáo hoàn toàn hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo. Đôi khi có những nhóm Anh Giáo gia nhập Công Giáo mà vẫn giữ một số cấu trúc “tập thể”, như trường hợp một giáo phận Anh Giáo ở Ấn Độ và một vài giáo xứ ở Hoa Kỳ.

 

Bản văn của Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin cho biết: “trong những trường hợp này, Giáo Hội Công Giáo thường châm chước vấn đề buộc sống độc thân và cho phép vị giáo sĩ Anh Giáo có gia đình muốn tiếp tục thừa tác vụ như linh mục Công Giáo được lãnh chức linh mục trong Giáo Hội Công Giáo”.

 

Đức Hồng Y Tổng Trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin cho biết rằng: “Đức Thánh Cha Biển Đức XVI hy vọng rằng hàng giáo sĩ và tín hữu Anh Giáo muốn hiệp nhất với Giáo Hội Công Giáo sẽ thấy được nơi cấu trúc về luật phép này cơ hội để duy trì những truyền thống Anh Giáo quí báu đối với họ và hợp với đức tin Công Giáo. Vì những truyền thống này bày tỏ một cách đặc biệt đức tin được tuân giữ chung, chúng là một tặng ân cần được chia sẻ trong cả Giáo Hội. Mối hiệp nhất của Giáo Hội không đòi hỏi một thứ đồng loạt gạt bỏ tính chất đa dạng về văn hóa, như lịch sử của Kitô Giáo cho thấy. […] Bởi thế, mối hiệp thông của chúng ta được gia tăng bởi tính chất đa dạng hợp lệ này, và như thế chúng tôi cảm thấy hân hoan vui mừng khi thấy rằng những con người nam nữ ấy mang theo họ những đóng góp riêng biệt cho đời sống đức tin chung của chúng ta”. 

 

 

Bức Thư của ĐTC Biển Đức XVI về việc Tha Vạ Tuyệt Thông cho 4 Giám Mục của Nhóm Ly Giáo Lefebvre

 

Đối với Cộng Đồng Hiệp Thông Anh Giáo, vị Giáo Hoàng quyết tâm “Đại Kết Kitô Giáo” Biển Đức XVI của chúng ta đã “có những cử chỉ cụ thể” và “đẩy mạnh việc giao tiếp và thỏa hiệp”, bằng một văn kiện là Tông Hiến sắp được ban hành, với những điều kiện hết sức cởi mở và rộng lượng, như Đức Tổng Giám Mục Anh Giáo John Hepworth, vị lãnh đạo Giáo Phận Úc Đại Lợi, phát biểu cùng ngày 20/10/2009, như sau:

 

Xin cho tôi trước hết được nói rằng đây là một hành động thật tốt lành về phía Đức Thánh Cha. Ngài đã giành giáo triều của ngài cho lý tưởng hiệp nhất. Hành động này đáp ứng hơn cả những gì chúng tôi dám mơ ước trong lời thỉnh nguyện của chúng tôi hai năm trước đây. Hành động ấy đáp ứng hơn cả những lời cầu nguyện của chúng tôi nữa”.

 

Còn đối với Huynh Đoàn Linh Mục Thánh Piô X của Đức Tổng Giám Mục Marcel Lefebvre thì sao? Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã đối xử như thế nào, nếu không phải việc Đức Thánh Cha tha vạ tuyệt thông cho 4 vị giám mục đã được tấn phong năm 1988 bởi ĐTGM Lefebvre, một cử chỉ được Đức Hồng Y Giovanni Battista Re đề cập tới trong sắc lệnh ngày 21/1/2009 với quyền tổng trưởng Thánh Bộ Giám Mục:

 

Theo năng quyền được Đức Thánh Cha Biển Đức XVI minh nhiên ủy cho tôi, bằng sắc lệnh này, tôi hủy bỏ cho các vị Giám Mục Bernard Fellay, Bernard Tissier de Mallarais, Richard Willamson và Alfonso de Galarreta vạ tuyệt thông tiền kết được tuyên bố bởi thánh bộ này ngày 1/7/1988, và tuyên bố vô hiệu hóa những hậu quả về pháp lý bắt đầu từ hôm nay trong sắc lệnh được phổ biến vào lúc bấy giờ”.

 

Tuy nhiên, tiếc thay, nghĩa cử này của Đức Thánh Cha không ngờ lại bị phản kháng và chống đối nhất là từ trong nội bộ của Giáo Hội Công Giáo, đến nỗi, vào ngày 10/3/2009, chính Đức Thánh Cha đã phải chính thức lên tiếng trong một văn thư, trong đó, ngài chẳng những làm sáng tỏ thêm vấn đề tha vạ tuyệt thông, mà còn cả lý do sâu xa trong việc làm quan trọng này của ngài. Sau đây, chúng ta hãy theo dõi các trích đoạn chính yếu liên quan tới vấn đề gay go ấy.

 

“Chư huynh thân mến trong thừa tác vụ giáo phẩm.

 

“Việc tha vạ tuyệt thông cho 4 vị Giám Mục được ĐTGM Lefebvre tấn phong năm 1988 không được phép của Tòa Thánh, vì nhiều lý do, đã gây ra, cả trong lẫn ngoài Giáo Hội Công Giáo, một cuộc tranh luận nóng bỏng hơn bất cứ những gì chúng ta chứng kiến thấy qua một thời gian dài. Nhiều vị giám mục cảm thấy bối rối trước một biến cố không ngờ xẩy ra và khó lòng thấy được một cách tích cực theo chiều hướng của các vấn đề và công việc Giáo Hội đang phải đối diện ngày nay. Mặc dù nhiều vị giám mục và các phần tử trong tín hữu theo nguyên tắc có một cái nhìn tích cực về mối quan tâm của Giáo Hoàng đối với việc hòa giải, thì vấn nạn vẫn là ở chỗ một cử chỉ như vậy có xứng hợp với những đòi hỏi khẩn trương chân thực của đời sống đức tin trong thời đại của chúng ta hay chăng. Đàng khác, lại có một số nhóm người công khai buộc tội vị Giáo Hoàng này là muốn vặn ngược kim đồng hồ đối với Công Đồng: bởi thế mới xẩy ra dồn dập những chống đối gây ra những vết thương đau còn sâu hơn là những vết thương của lúc này đây. Thế nên, quí huynh thân mến, tôi cảm thấy buộc phải lên tiếng để làm sáng tỏ vấn đề này cùng quí huynh, những gì cần phải giúp cho quí huynh hiểu được những quan tâm khiến tôi cùng các phân bộ có thẩm quyền của Tòa Thánh thực hiện việc làm ấy. Nhờ đó, tôi hy vọng sẽ góp phần vào việc xây dựng niềm an bình trong Giáo Hội.

 

Làm sáng tỏ thêm vấn đề tha vạ tuyệt thông

 

“Một điều chẳng may không thấy trước được đã xẩy ra cho tôi đó là sự kiện gây ra bởi vụ Williamson đứng đầu việc tha vạ tuyệt thông. Cử chỉ nhân hậu thận trọng này đới với 4 vị giám mục được tấn phong thành nhưng không hợp lệ đột nhiên xuất hiện như là một điều gì đó hoàn toàn khác hẳn: như một thứ thoái thác về mối hòa giải giữa Kitô hữu và Do Thái, và do đó như là một thứ đảo ngược những gì được Công Đồng đặt định về vấn đề này để hướng dẫn đường đi nước bước của Giáo Hội. Một cử chỉ hòa giải với một nhóm thuộc giáo hội dính dáng tới một tiến trình phân rẽ như thế đã trở thành chính cái phản đề của nó, thành một bước rõ ràng thoái bộ trước tất cả những bước tiến hòa giải giữa người Kitô hữu và Do Thái được thực hiện từ Công Đồng – những bước tiến được chính công việc của tôi với tư cách là thần học gia đã tìm kiếm từ ban đầu trong việc tham phần và ủng hộ. Cái chồng chéo với hai tiến trình này đã xẩy ra và hiện nay gây xáo động giữa Kitô hữu và người Do Thái, cũng như trong Giáo Hội là những gì khiến tôi chỉ biết hết sức hối tiếc. Tôi đã được bảo rằng việc tham khảo tin tức sẵn có trên mạng điện toán toàn cầu có thể giúp thấy được vấn đề sớm hơn. Tôi đã học được một bài học mà trong tương lai nơi Tòa Thánh chúng tôi sẽ phải chú trọng hơn nữa tới các nguồn tín liệu. Tôi cảm thấy buồn trước sự kiện là ngay cả người Công giáo, thành phần mặc dù có thể hiểu biết hơn về trường hợp này, họ vẫn hận thù tấn công tôi một cách công khai. Chính vì lý do này mà tôi càng phải cám ơn tất cả mọi người bạn Do Thái hơn nữa, những người đã mau chóng làm sáng tỏ vấn đề hiểu lầm và phục hồi bầu khí thân tình và tin tưởng mà – như trong thời của Đức Gioan Phaolô II – cũng đã hiện hữu suốt giáo triều của tôi và nhờ ơn Chúa vẫn còn tiếp tục tồn tại.

 

“Một lầm lẫn nữa tôi cảm thấy hết sức hối tiếc đó là sự kiện liên quan tới mức độ và giới hạn của những gì vào lúc ban hành ngày 21/1/2009 chưa được giải thích rõ ràng và đầy đủ. Vạ tuyệt thông có tác dụng cho cá nhân mà thôi chứ không cho các cơ cấu. Việc tấn phong giám mục không được giáo hoàng chuẩn nhận gây ra mối nguy hiểm ly giáo, vì nó nguy hại đến mối hiệp nhất của Giám Mục Đoàn với Giáo Hoàng. Bởi thế Giáo Hội cần phải phản ứng bằng việc sử dụng hình phạt trầm trọng nhất là vạ tuyệt thông với mục đích kêu gọi những ai bị phạt như thế thống hối mà trở về với mối hiệp nhất này. Hai mươi năm sau cuộc tấn phong ấy, mục đích này rất tiếc chưa đạt được. Việc tha vạ tuyệt thông cũng có cùng một mục đích như của hình phạt, tức là một lần nữa mời gọi 4 vị giám mục này hãy trở về. Cử chỉ này là những gì khả dĩ một khi các phần tử trong cuộc đã bày tỏ việc họ nhìn nhận về nguyên tắc Giáo Hoàng và quyền bính Mục Tử của ngài, mặc dù còn một số trù trừ về phương diện tuân phục thẩm quyền tín lý của ngài cũng như thẩm quyền của Công Đồng. Ở đây tôi trở lại với việc phân biệt giữa cá nhân với cơ cấu. Việc tha vạ tuyệt thông là phương cách thực hiện trong lãnh vực kỷ luật của giáo hội, ở chỗ, cá nhân được khỏi gánh nặng lương tâm gây ra bởi hình phạt nặng nhất của giáo hội. Cần phải phân biệt lãnh vực kỷ luật này với lãnh vực tín lý.  Sự kiện Hội Thánh Piô X không có chỗ đứng về giáo luật trong Giáo Hội thực ra không phải là căn cứ vào lý do kỷ luật mà là lý do tín lý. Bao lâu tổ chức này không có vị thế về giáo luật trong Giáo Hội thì các vị thừa tác viên của tổ chức ấy không thi hành các thừa tác vụ hợp lệ trong Giáo Hội. Vậy cần phải phân biệt giữa lãnh vực kỷ luật liên quan tới cá nhân như thế, với lãnh vực tín lý liên quan tới thừa tác vụ và cơ cấu. Để làm sáng tỏ vấn đề này một lần nữa thì cho tới khi các vấn đề về tín lý được sáng tỏ, thì tổ chức này vẫn không có vị thế về giáo luật trong Giáo Hội, và các thừa tác viên của tổ chức ấy – cho dù có được khỏi hình phạt của giáo hội – vẫn không thi hành hợp pháp bất cứ thừa tác vụ này trong Giáo Hội…”

 

Lý do sâu xa trong việc tha vạ tuyệt thông

 

“Có cần đến biện pháp này hay chăng? Phải chăng nó thực sự là những gì ưu tiên? Những điều khác chẳng lẽ chẳng quan trọng hơn hay sao? Dĩ nhiên là có những vấn đề khác quan trọng hơn và khẩn thiết hơn. Tôi tin rằng tôi đã rõ ràng đề ra những ưu tiên cho giáo triều của tôi qua những bài tôi nói ngay từ ban đầu giáo triều này. Vậy hết những gì tôi đã nói sẽ tiếp tục không thay đổi trong dự định hoạt động của tôi. Ưu tiên đầu tiên đối với Vị Thừa Kế Thánh Phêrô đã được Chúa Kitô đề ra ở Căn Thượng Lầu bằng những từ ngữ rõ ràng nhất: ‘Con… làm kiên cường anh em của con’. Chính Thánh Phêrô đã phác họa ưu tiên này lại một lần nữa trong Bức Thư thứ nhất của ngài: ‘Hãy luôn sẵn sàng biện chứng cho bất cứ ai muốn biết về niềm hy vọng nơi anh em’. Trong thời đại của chúng ta đây, khi mà trong những vùng rộng lớn trên thế giới đức tin đang có nguy cơ chết đi như một ngọn lửa không còn dầu, thì cái ưu tiên hơn hết đó là làm cho Thiên Chúa hiện diện trên thế giới này và cho con người nam nữ thấy được đường lối đến cùng Thiên Chúa. Không phải là bất cứ một vị thần linh nào mà là Vị Thiên Chúa nói trên Núi Sinai; đến với Vị Thiên Chúa có dung nhan chúng ta thấy được nơi một tình yêu ‘cho đến cùng’ – nơi Chúa Giêsu Kitô, Đấng tử giá và phục sinh. Vấn đề thực sự trong lúc này đây của lịch sử chúng ta đó là Thiên Chúa đang biến mất khỏi chân trời của loài người, và nơi cái mờ mịt về thứ ánh sáng xuất phát từ Thiên Chúa ấy, nhân loại đang mất đi sức chịu đựng của mình, được chứng tỏ bằng những hậu quả hủy hoại hiển nhiên đang càng ngày càng gia tăng. 

 

“Việc dẫn con người nam nữ đến cùng Thiên Chúa, đến cùng Vị Thiên Chúa phán trong Thánh Kinh, đó là ưu tiên tối thượng và chính yếu của Giáo Hội cũng như của Vị Thừa Kế Thánh Phêrô vào lúc này đây. Kết luận hữu lý của vấn đề này đó là chúng ta cần phải thiết tha với mối hiệp nhất của tất cả mọi tín hữu. Tình trạng chia rẽ, những bất đồng nơi họ, là những gì gây trở ngại cho uy tín việc làm của Chúa nơi họ. Bởi thế, nỗ lực cổ võ một chứng từ chung của Kitô hữu cho niềm tin của mình – việc đại kết – là những gì thuộc về mối ưu tiên tối thượng này. Ngoài ra, tất cả những ai tin vào Thiên Chúa cũng cần phải hợp nhau để tìm kiếm hòa bình, để cố gắng xích lại gần nhau, và để cùng nhau hành trình, cho dù tin vào những hình ảnh khác nhau về Thiên Chúa, tiến đến nguồn mạch của Ánh Sáng – đó là cuộc đối thoại liên tôn. Bất cứ ai công bố Thiên Chúa là Tình Yêu ‘cho đến cùng’ cần phải làm chứng cho tình yêu: trong việc ưu ái dấn thân cho người đau khổ, trong việc loại trừ oán ghét hận thù – đó là khía cạnh về xã hội của niềm tin Kitô giáo là những gì tôi đã nói đến trong Thông Điệp ‘Thiên Chúa là tình yêu’.

 

“Bởi vậy nếu công việc gian khổ của vấn đề hoạt động cho đức tin, đức cậy và đức mến trong thế giới hiện nay (và ở những cách thức khác nhau bao giờ cũng thế) là ưu tiên chính yếu của Giáo Hội, thì một phần của nó cũng bao gồm cả tác động hòa giải nữa, nhỏ và không nhỏ lắm. Một cử chỉ âm thầm giơ bàn tay ra ấy đã gây ra ồn ào náo động cả thể, từ đó thực sự đã trở thành những gì phản ngược lại với một cử chỉ hòa giải, là sự kiện chúng ta cần phải chấp nhận. Thế nhưng, giờ đây tôi muốn hỏi là: Phải chăng nó đã hay đang là những gì thực sự sai lầm trong trường hợp tiến đến gặp gỡ người anh em ‘có điều gì phạm dến các con’ và tìm cách hòa giải hay chăng? Không phải hay sao xã hội dân sự cũng cố gắng để chặn đứng những hình thức của chủ nghĩa cực đoan cũng như để sát nhập những thành phần cuối cùng phục tùng – ở mức độ có thể – vào những hướng đi cao cả làm nên đời sống xã hội, nhờ đó tránh gây ra cảnh cô lập hóa họ cùng với tất cả những hậu quả sau đó nữa? Có thể nào lại hoàn toàn sai lầm khi thực hiện việc phá vỡ những gì là ngoan cố và hẹp hòi để dọn chỗ cho những gì là tích cực và khả dĩ phục hồi cho toàn khối hay chăng? Chính tôi đã thấy, trong những năm sau 1988, việc những cộng đồng đã từng tách khỏi Rôma trở lại khi thay đổi những thái độ nội tâm của họ; tôi đã thấy việc trở lại cùng Giáo Hội rộng lớn hơn này giúp cho họ có thể vượt ra ngoài những vị thế đơn phương và phá đổ tình trạng mắc nghẹn để có thể vươn vào toàn khối những năng lực tích cực. Chúng ta có thể nào lạnh lùng dửng dưng về một cộng đồng có 491 vị linh mục, 215 chủng sinh, 6 chủng viện, 88 học đường, 2 tổ chức cấp đại học, 117 nam tu, 164 nữ tu và hằng ngàn giáo dân hay chăng? Chúng ta có muốn ngẫu nhiên để cho họ càng xa lìa Giáo Hội hơn nữa hay chăng? Chẳng hạn tôi đang nghĩ đến 491 vị linh mục. Chúng ta không thể nào biết được những động lực của họ lẫn lộn như thế nào? Cũng thế, tôi không nghĩ rằng họ chọn thiên chức linh mục nếu, song song với những yếu tố méo mó và bệnh hoạn khác nhau, họ không có một tình yêu mến đối với Chúa Kitô và một ước vọng muốn loan truyền Người, và với Người, loan truyền Vị Thiên Chúa hằng sống. Có thể nào chúng ta lại loại trừ họ là thành phần đại diện của một cánh thủ cựu, khỏi việc họ theo đuổi mối hòa giải và hiệp nhất hay chăng? Vậy thì họ trở thành những gì đây?”

 

Vai trò và sứ vụ thời đại của vị Giáo Hoàng chủ trương ưu tiên hàng đầu việc “Đại Kết Kitô Giáo”.

 

Kính thưa quí vị, qua hai việc làm hết sức thực tế, cởi mở và đầy hứa hẹn trên đây về vấn đề quyết tâm thực hiện “Đại Kết Kitô Giáo” của vị đương kim Giáo Hoàng 265 của chúng ta, có thể nói, nếu qu thc Đức Gioan Phaolô II được sai đến t mt nước cng sn Balan như mt tác nhân chính góp phn vào biến c gii th chế độ Cng Sn Đông Âu cui năm 1989, nh đó làm sp đổ Bc Tường Bá Linh là biu tượng cho mt Âu Châu Kitô Giáo chia rẽ, và nếu v tha kế ngài không ng li xut thân t quc gia ca Bc Tường Bá Linh này, mt quc gia đồng thi cũng là nơi xut phát phong trào Th Phn Tin Lành t thế k 16, v giáo hoàng quyết tâm thc hin vic Đại Kết Kitô Giáo như là một trong 4 ưu tiên tối hậu của giáo triều mình là Biển Đức XVI, như ngài đã mạnh mẽ khẳng định với Hồng Y Đoàn ngày 20/4/2005, cũng được Chúa dùng để giúp cho Âu Châu thc s tr thành mt Khi Hip Nht, không phi bng quyền lực chính tr và kinh tế, mà bng tinh thần Đại Kết Kitô Giáo.

 

Biết đâu biến c gii th Cng Sn Đông Âu cui năm 1989 có tính cách giây chuyn một cách hết sức bất ngờ y cũng s xy ra cho s kin Đại Kết Kitô Giáo Âu Châu, mà m màn là t Cng Đồng Hip Thông Anh Giáo? Ngay sau s kin Anh Giáo này chỉ duy có một ngày, tin tc li cho thy nhú lên mt du ch thi đại phn khi khác t Chính Thng Giáo, đó là ý hướng tha thiết mun thc s hip nht vi Giáo Hi Công Giáo Rôma của Đức Giám Mc Tichon, Giáo Ch Giáo Hội Chính Thống Giáo Bulgaria, ngày Th Tư 21/10/2009, như được t L'Osservatore Romano trích dn những li ngài phát biểu như sau: “Cuc đối thoi v thn hc đang tiến trin trong nhng ngày này Cyprus thc s là nhng gì quan trng, nhưng chúng tôi không sợ phi nói rng chúng ta cn phi tìm cách cùng nhau c hành sm bao nhiêu có th”. V giám mc này khng định là ngài s “không b qua mt n lc nào” để mau chóng phc hi “mi hip thông gia người Công giáo và Chính Thng giáo”. 

 

 

“Vị giáo hoàng của Bữa Tiệc Ly … liên quan đến Hiệp Nhất Kitô giáo”

 

Trong bài viết mang tựa đề “Vị Tân Giáo Hoàng 265 có thể là một hồng y người Pháp gốc Ba Lan Do Thái hay một hồng y thuộc dòng Phanxicô...”, được phổ biến trên mạng điện toán toàn cầu thoidiemmaria.net ngày 19/4/2005, và là bài cũng đã được mạng điện toán toàn cầu dongcong.net lấy phổ biến vào cùng ngày, ngay trước khi có tân giáo hoàng. Tuy những chi tiết ở đầu đề cho bài viết hoàn toàn sai bét. Thế nhưng, nếu ai đã đọc bài này trước khi có tân giáo hoàng, và đem áp dụng những chi tiết khác trong bài này, sẽ thấy dường như thích hợp với vị tân giáo hoàng, như những chi tiết sau đây: (xem cuốn “Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Vị Giáo Hoàng của Hiệp Nhất Kitô Giáo và cho Một Tân Âu Châu”, 5/2005, Chương 1: “Vị Giáo Hoàng của Bữa Tiệc Ly… Hiệp Nhất”)

 

“Chính vì vị giáo hoàng 264 vừa quá cố này không phải là người Ý trong vòng 455 năm đã được chọn như thế mà lần này, dư luận cũng hướng về những vị hồng y nổi tiếng ở các châu lục khác ngoài Âu Châu, chẳng hạn như Phi Châu với hồng y Francis Arinze nước Nigeria, và Châu Mỹ Latinh với hồng y Claudio Hummes người Ba Tây. Tuy nhiên, báo chí, hầu hết ở Âu Châu, vẫn quanh quẩn với những vị nổi tiếng ở Âu Châu, cách riêng ở Ý. Chẳng hạn như vị hồng y Dionigi Tettamanzi, ở TGP Milan, nơi đã có mấy đời giáo hoàng. Họ cũng đề cập đến 1 vị ngoài nước Ý là vị hồng y người Pháp Jean-Marie Lustiger, và vị hồng y người Đức hết sức nổi tiếng đang giữ vai trò trưởng hồng y đoàn kiêm tổng trưởng tín lý đức tin là Joseph Ratzinger.

 

“Riêng tôi, để có thể suy đoán về vị tân giáo hoàng, cần căn cứ vào diễn tiến lịch sử của Giáo Hội...  Bởi vậy, theo chiều hướng này, chúng ta cần phải lưu ý tới những gì Đức Gioan Phaolô II đã làm, kể cả và nhất là những gì chưa hoàn tất, để phỏng đoán. Đức Gioan Phaolô II là vị giáo hoàng xuất phát từ một nước Cộng Sản đã hiển nhiên được Chúa dùng để làm sụp đổ Cộng Sản ở Âu Châu, và đang cố gắng hết sức để giúp cho Âu Châu thực sự trở thành một Khối Hiệp Nhất Âu Châu theo căn gốc Kitô giáo của mình. Thế nhưng, cho tới khi ngài qua đời, Khối Hiệp Nhất Âu Châu này, chủ chốt là Pháp, nơi Giáo Hội vẫn được gọi là trưởng nữ của Giáo Hội, vẫn muốn phủ nhận căn gốc Kitô giáo làm nên văn hóa Âu Châu và căn tính Âu Châu của mình, và cũng chính vì không ‘trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa’ (x Mt 22:21), bằng việc nhìn nhận căn tính Kitô giáo của mình như thế, châu lục này đã sống như không có Thiên Chúa, và đang bị khủng hoảng đức tin rất ư là trầm trọng, nơi đã cả hơn ngàn năm làm cho hạt giống Kitô giáo phát triển và truyền bá đi khắp nơi trên thế giới, nhưng đồng thời lại là nơi có những phân rẽ trong nội bộ Kitô giáo từ thế kỷ 16, với hai cuộc ly giáo liền vào tiền bán thế kỷ này là Thệ Phản (1519) và Anh Giáo (1535).

 

“Trong khi đó, theo chiều hướng tự do tôn giáo ở Âu Châu, làn sóng di dân của những người Hồi giáo Ả Rập, trước tình hình càng ngày càng khủng hoảng ở Trung Đông là vùng đất của họ, đã tràn vào Âu Châu và đã phát triển càng ngày càng mạnh, nhất là ở Pháp. Nếu cứ đà này, Kitô giáo ở Âu Châu càng ngày càng xuống dốc, trong khi Hồi giáo càng ngày càng thịnh, mà Hồi giáo, theo lịch sử cho thấy, bao giờ cũng kị Kitô giáo, và đã từng triệt hạ Kitô giáo trước đây, thậm chí cho tới nay ở các quốc gia Hồi giáo của họ, thì Giáo Hội Công giáo là tâm điểm của Âu Châu về quyền lực tôn giáo này cần phải đứng vững hơn bao giờ hết, không phải chỉ vì sợ Hồi giáo lấn át, cho bằng tái phúc âm hóa Khối Hiệp Nhất Âu Châu theo tinh thần Kitô giáo (chứ không phải chỉ bằng và nhờ nguyên kinh tế và chính trị như khối này đang chủ trương).

“Khối Hiệp Nhất Âu Châu có thực sự trở về với căn gốc Kitô giáo của mình, cho đến độ tiến đến chỗ Đại Kết Kitô giáo, Kitô giáo mới có thể là chứng nhân truyền bá phúc âm hóa phần thế giới chưa nhận biết Chúa Kitô, nhất là ở Á Châu, mới có thể tái phúc âm hóa cho cả thế giới Kitô giáo ở toàn Mỹ Châu, nhất là Bắc Mỹ, nơi cũng đang quằn quại trong nền văn hóa sự chết, và mới có thể làm cho cả Do Thái giáo đang càng ngày càng gần hơn với Kitô giáo qua Giáo Hội Công giáo từ thời Đức Gioan Phaolô II, qua chứng từ hiệp nhất Kitô giáo như thế, nhận biết Đấng Thiên Sai của họ chính là Đức Giêsu Kitô, giáo tổ Kitô giáo.

 

“Với vai trò và vị thế quan trọng như thế của Âu Châu đối với vận mệnh và sứ mệnh của Giáo Hội Công giáo trước mắt như thế, những gì đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cố thực hiện mà chưa hoàn thành, thì vị giáo hoàng 265 cần phải là vị giáo hoàng vẫn thuộc về Âu Châu…

 

“Có thể nói, nếu giáo triều Gioan Phaolô II là giáo triều huy hoàng nhất lịch sử Giáo Hội Công giáo, chẳng khác nào như Chúa Kitô tiến vào thành thánh Giêrusalem, thì vị giáo hoàng sau ngài sẽ là vị giáo hoàng của Bữa Tiệc Ly (có thể đó là lý do Năm Thánh Thể chưa kết thúc, liên quan đến Hiệp Nhất Kitô giáo, theo lời nguyện kết thúc Bữa Tiệc Ly của Chúa Kitô), vị giáo hoàng của Vườn Nhiệt (với những nhức nhối nội bộ) và của Khổ Nạn (gây ra bởi cả dân Chúa lẫn thế giới)…”

 

 

Lạy Chúa Giêsu Kitô Lời Nhập Thể,

Chúa đã đến để qui tụ đàn chiên Chúa đang phân tán khắp nơi về một đàn chiên theo một chủ chiên.

Chúa đã không mong muốn gì hơn là mong sao cho tất cả được hiệp nhất nên một,

như Cha ở trong Chúa và như Chúa ở trong Cha.

Xin Thánh Thần Hiện Xuống trên Giáo Hội ngay từ ban đầu

luôn sống động trong Nhiệm Thể Chúa Kitô,

để mãi mãi Kitô giáo chúng con chỉ có

“một Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”.

Amen.