Text Box:  2005Số 1. CN 25. 09.

 Tin Vui

 


 

Tu đức:

KINH NGHIỆM VỀ SỐNG LỜI CHÚA

 

Hội Đồng Giám Mục Việt Nam mới gởi một thư chung mục vụ 2005 cho toàn thể mọi thành phần Dân Chúa.

Khi soi đời tôi vào thư đó, tôi như đọc thấy Lời Chúa viết trong đời mình.

Có thể nói, Lời Chúa thực sự đã viết trong tôi. Viết trong trí khôn, trí nhớ, trí sáng tạo. Có những Lời đã viết sâu tận tiềm thức, vô thức. Bình thường tưởng như những Lời ấy đã bị quên, nhưng thực sự chúng đã biến thành sự sống.

Lời Chúa được viết trong tôi và đã trở thành một sự sống hoán cải tôi. Bởi vì những Lời ấy không do người nào đã viết, nhưng do chính Chúa đã pha trộn vào sự sống của tôi. Lời Chúa là một sự sống. Sự sống ấy gieo vào sự sống của tôi những tiềm năng sự thiện.

Những tiềm năng sự thiện ấy đã lớn lên dần dần trong tôi theo tuổi đời tôi. Nếu muốn đưa ra cái nhìn về vài ích lợi trong muôn vàn của Lời Chúa trong đời tôi, thì tôi xin chia sẻ đôi chút như sau:

1/ Lời Chúa hướng dẫn tôi đi tìm và phát triển sự thiện

Tôi vẫn quan niệm rằng: Sự sống của tôi phải hướng về sự thiện và phát triển sự thiện. Sự thiện cho bản thân tôi và sự thiện cho mọi người, ưu tiên là cho những ai tôi có liên đới và trách nhiệm.

Để biết cái gì là sự thiện, tôi có thể hỏi lương tri, giáo dục, tập quán xã hội và dư luận. Nhưng mọi ngả ấy đều có thể cung cấp những chỉ dẫn sai lạc. Để biết chắc đâu là thiện, tôi tìm đến Chúa. Chúa trả lời tôi bằng Lời Chúa.

Có một điều tôi muốn nêu lên ở đây, đó là Lời Chúa giúp tôi yêu mến sự thiện, khát khao sự thiện, đi tìm sự thiện. Nhất là khi sự thiện tôi khao khát đi tìm với hết sức mình là chính Nước Trời.

Có lần Chúa Giêsu đã phán: "Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy

"Nước Trời lại giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có để mua lấy viên ngọc ấy" (Mt 13,44-45).

Khi tôi được gọi làm giám mục, tình hình đời đạo trên quê hương Việt Nam đang diễn tiến phức tạp trong khói lửa mịt mù. Lúc đó, tôi chọn cho đời mục tử của tôi Lời Chúa sau đây: "Điều răn mới". Đó là lời vắn tắt trích từ một lời dài Chúa Giêsu đã trối trong bữa tiệc ly: "Thầy trao cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con" (Ga 14,34).

Lời Chúa trên đây đã là ngọn đèn soi đường chỉ lối cho tôi, và là nguồn sống thiêng liêng nuôi dưỡng tôi. Nhờ đó, tôi thấy rõ hướng tôi sẽ đi để phát triển cho dân tộc, cho địa phương, cho Giáo Hội, nhất là cho những người nghèo khổ.

Cũng nhờ Lời Chúa đã trở thành đường đi của đời tôi, nên tôi đã biết chống lại sự ác một cách có hiệu quả.

2/ Lời Chúa hướng dẫn tôi chống lại sự ác bằng sự thiện

Trong cuộc sống, sự ác là một thứ đồng hành không tránh được. Có muôn vàn thứ ác. Chúng mạnh và xuất hiện dưới nhiều hình thức. Để sống tốt, tôi phải chống lại chúng.

Tôi có thể chống ác bằng sự ác. Nhưng cách đó sẽ đưa tới tồi tệ. Nên, theo Lời Chúa hướng dẫn, tôi luôn chống ác bằng sự thiện.

Nhưng để sự thiện có sức thắng sự ác, tôi cần sống Lời Chúa một cách sâu xa. Nhờ vậy, tôi sẽ biết dùng sự thiện để đối phó với sự ác cách nào, lúc nào và mức nào.

Nhờ Lời Chúa dạy, đôi khi do sự thinh lặng, tôi đã thắng được một sự ác lớn, chứ không do tranh cãi ồn ào.

Nhờ Lời Chúa dạy, nhiều khi do sự cầu nguyện âm thầm, tôi đánh bại sự ác nguy hiểm, chứ không do những tranh đấu rầm rộ.

Trong mọi trường hợp đấu tranh với sự ác, tôi luôn nhớ Lời Chúa dạy qua thánh Phaolô: "Hãy đứng vững, lưng thắt đai là chân lý, mình mặc áo giáp là sự công chính, chân đi giày là lòng hăng say loan báo Tin Mừng bình an. Hãy luôn cầm khiên mộc là đức tin, nhờ đó anh em sẽ có thể dập tắt mọi tên lửa của ác thần. Sau cùng, hãy đội mũ chiến là ơn cứu độ và cầm gươm của Thần Khí ban cho là Lời Thiên Chúa" (Ep 6,14-17).

Dùng sự thiện để chống lại sự ác. Lời Chúa dạy như vậy đã luôn ứng nghiệm trong đời tôi. Ngoài ra,

3/ Lời Chúa còn giúp tôi hiểu rõ ý nghĩa đời tôi

Xin thú thực là: Điều làm sung sướng nhất trong đời, chính là tôi được làm con Chúa. Ngoài ra, điều làm tôi coi mình được vinh dự nhất, chính là được phần nào nên giống Chúa Giêsu, một Chúa Giêsu, mà thánh Phaolô đã ca tụng bằng những bước xuống vì yêu thương loài người:

"Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không dành cho mình được ngang hàng với Thiên Chúa. Trái lại, Người huỷ bỏ chính mình, mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá" (Pl 2,6-11).

Trên đây là tấm bảng chỉ cho tôi thấy ý nghĩa đời tôi. Tôi càng đi sâu vào hướng đó, tôi sẽ càng thấy mình được là cành của thân cây nho là Chúa Giêsu (x. Ga 15,1-5).

Đời tôi cũng như đời mỗi người đều có hai chiều kích: Một là chiều kích bề ngang, hai là chiều kích bề cao. Chiều kích bề ngang là những quan hệ với các loại người, với môi trường, với vũ trụ. Chiều kích bề cao là quan hệ với Chúa.

Tôi được may mắn dùng những thời gian của tuổi già, để làm cho chiều kích bề cao mỗi ngày mỗi nên giống Chúa Kitô hơn.

Thế là ý nghĩa đời tôi đã được xác định rõ. Dù với vô vàn giới hạn, đời tôi như một dòng tình yêu chảy về Biển Cả vô biên là Thiên Chúa Tình Yêu.

Trên đây là một thoáng nhìn về kinh nghiệm của tôi sống Lời Chúa. Kinh nghiệm diễn tả được vẫn nghèo so với kinh nghiệm không sao diễn tả được.

Hành trình tôi Sống Lời Chúa đã được thực hiện giữa một giai đoạn lịch sử Việt Nam không thiếu thử thách.

Hành trình này rất ẩn dật, khó nghèo, nhưng được Chúa cho cộng tác phần nào vào công trình cứu độ của Chúa. Xin tạ ơn Chúa đến muôn đời.

         + Gm. GB. BÙI TUẦN

 

NGUYỆN VỌNG BÊN NHÀ TẠM

Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu

 

Chìa khóa nhỏ kia ơi

Tôi phải phát ghen thôi,

Mỗi ngày em được mở

Nhà tạm của Chúa Trời.

Nhưng tôi cũng có thể,

Với đức tin mạnh mẽ

Mở được cửa nhà chầu,

Ẩn mình bên Thánh Thể.

***

Tôi ước mong được cháy,


Nơi cung thánh Chúa Trời
Ánh diệu huyền le lói.
Như đèn chầu kia thôi.
Nhưng lửa thiêng tôi đó
Là kiếm nhiều linh hồn,
Mỗi ngày dâng cho Chúa,
Làm họ cháy yêu thương. . .
Tôi ghen lúc bình minh,
Hời đá thánh xinh xinh!
Như nơi hang diễm phúc,
Được Thiên Chúa giáng sinh.
Lạy Chúa xin đoái thương
Ngự đến trong linh hồn,
Khác xa loài đá lạnh,
Hồn mà Chúa khát mong

***

Hỡi khăn thánh mỹ miều!
Tôi ghen biết bao nhiêu,
Em được làm khăn trải
Cận kề Đấng tôi yêu.
Xin Mẹ đổi tim con
Thành khăn thánh trinh trong.
Để đỡ nâng hình bánh
Nơi Giêsu náu nương

***

Đĩa thánh ôi! tôi ghen. . .
Vì Chúa ngự trên em,
Ôâi lạy Chúa cao cả
Thương ngự đến thân hèn.
Cho toại niềm mong mỏi
Đợi chi lúc chiều đời,
Bây giờ đây ngự đến,
Tôi thành Mặt Nhật thôi.

***

Ước chi như Chén thánh
Chứa đựng Máu Chúa Trời!
Nhưng tôi mỗi buổi lễ
Đã được rước lấy rồi.
Hồn tôi Chúa ưa thích
Hơn chén ngọc bình vàng,
Trên bàn thờ, Máu Thánh
Cho tôi, chảy tuôn dòng.

***

Giêsu, cây nho thánh,
Chắc Người đã hiểu rồi,
Con là chùm nho đỏ
Muốn tan nát vì Người.
Dưới bàn ép tiêu điều
Con chứng tỏ tình yêu.
Chẳng ước điều chi khác,
Muốn hủy tế mỗi chiều.

***

Phúc thay con được lựa
Để hy sinh vì Chúa,
Như những hạt lúa mì;
Hạnh phúc nào hơn nữa!
Bạn yêu, xin mau đến
Con là một hiền thê
Con say sưa nhan thánh.
Hãy đồng hóa con đi

1896.
Xuân Thu dịch từ "Mes desir près du Tabermacle".

Khởi đi từ 'lòng tham' rất trẻ thơ: "Em chọn tất cả!...", cô bé Têrêxa Hài Đồng Giêsu - đã sống trọn vẹn cuộc lữ hành trần thế của mình. Đỉnh cao 'lòng tham' của Têrêxa chính là chiếm lấy Chúa Giêsu. Nói cách khác, gạch nối giữa Chúa Giêsu Thánh Thể và Têrêxa chính là khát khao cháy bỏng của Con đường Thơ ấu Thiêng liêng.

1. No thỏa hôm nay từ cơn khát của trẻ thơ hôm qua

Đói khát là một trong những nhu cầu căn bản mà con người cần được thỏa mãn để được sống. Nhưng, không chỉ dừng lại ở thứ cơm bánh đời thường, Chúa Giêsu mời gọi con cái Ngài sống bằng 'lương thực' của Thiên Chúa trao ban (x. Ga 6). Bé Têrêxa đã tìm về tận nguồn để thỏa mãn cơn đói khát của trẻ thơ bằng thứ lương thực Chúa Giêsu trao ban.

Phần con đây, đứa bé của trần gian,
Nhìn chén thánh, thấy sắc, hình của sữa.
Nhưng là thứ trẻ thơ ưa được có,
Là tình yêu chan chứa của Thánh Tâm. . .
Tình thương êm dịu, quyền phép toàn năng!
Sữa trinh nguyên của tôi là Thánh Thể!

(La Rosée Divine ou Le Lait Virginal de Marie - 2/2/1893)

Cơn khát của Têrêxa không chỉ là một ngày nhưng là cơn khát của một đời. Để có thể nhận được thứ "Sữa trinh nguyên", chị đã phải trải qua thời gian dài của chờ đợi trong đói khát: 4 năm dài chờ đợi để rước lễ lần đầu, từng ngày tiếp tục đợi chờ để được ăn. Chị tâm sự:

. . . chỉ có Chúa Giêsu mới làm cho con được thỏa mãn, con khao khát mong mỏi được rước Chúa lần thứ hai. Chừng một tháng sau vào dịp lễ Chúa Thăng Thiên, con đi xưng tội và cả gan xin phép rước lễ. Thật quá lòng mong ước, cha giải tội đã cho con toại nguyện. . . Từ lần ấy trở đi, càng ngày con càng khao khát rước Mình Thánh Chúa và con được phép rước lễ trong tất cả các lễ trọng. . . (Tự thuật).

Chính khát khao Thánh Thể của Têrêxa đã thôi thúc chị cầu nguyện để thúc đẩy Giáo Hội quay trở về với tận Nguồn của Đấng đã trao ban:

Chúa bỏ trời xuống thế hằng ngày không phải để ở trong bình vàng, nhưng để tìm một Thiên đàng khác mà Chúa yêu quý hơn ngàn lần: Thiên đàng ấy là linh hồn chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Ngài, đền thờ sống động của Chúa Ba Ngôi đáng tôn thờ yêu mến. (Tự thuật).

Sau thời gian dài, việc không cho rước lễ mỗi ngày đã được thay đổi với sắc lệnh của Đức Lêô XIII ngày 17/12/1890, nhưng trong Dòng kín Carmen, mãi sau khi chị Têrêxa qua đời lời tiên báo "không thiếu bánh ăn hàng ngày" mới có hiệu lực. Và có lẽ, quyết định cho trẻ em rước lễ lần đầu sớm hơn của Đức Pio X cũng khởi đi từ những khát khao chảy bỏng của trẻ thơ Têrêxa.

2. Từ cơn đói cơm bánh đến no thỏa Tình yêu

Thỏa mãn nhu cầu căn bản được no thỏa cơm bánh, con người cần một thứ nhu cầu khác cao hơn: yêu và được yêu. Bé Têrêxa cũng đã trải qua hành trình đó: khát cơm bánh và khát tình yêu:

Bánh Hằng Sống, bánh trời, là Mình Thánh,
Phép nhiệm mầu do tình ái mê say.
Xin ngự đến lòng con ôi bánh trắng,
Chỉ hôm nay.

(Trích Mon chant d'aujourdhui: Bài ca hôm nay).

Kinh nghiệm của hòa quyện cũng chính là kinh nghiệm của tình yêu. Tình yêu thúc đẩy Têrêxa - người đang yêu -đi đến chỗ sống như Đấng là Tình yêu:

Sống vì yêu là sống đời của Chúa,
Tuy là vua, là hoan lạc thiên đường,
Nhưng náu thân, trong tấm bánh tầm thường,
Con cũng muốn ẩn mình đi như thế.
Với người yêu cần những giờ lặng lẽ,
Lời yêu đương trao đổi suốt đêm ngày.
Chúa nhìn xem là cõi phúc mê say,
Con sống vì yêu.

(Trích: Vivre d'amour-Sống vì yêu).

Trong tự thuật nhiều lần chị cũng đã kể lại những kinh nghiệm sống ẩn mình bên Thánh Thể.

Mỗi buổi chiều con đều đi dạo với ba một lát; hai cha con đi viếng Thánh Thể, nay viếng nhà thờ này, mai viếng nhà thờ khác, . . .

. . . chả ai để ý đến con, nên con trèo lên gác nhà nguyện và chầu Mình Thánh Chúa cho đến lúc ba đến đón con. Con tìm thấy nìêm an ủi ở đây mà thôi, vì Chúa Giêsu chẳng phải là người bạn duy nhất của con đấy ư? Con chỉ biết nói chuyện với Chúa thôi, nói chuyện với người thế gian, thì dù nói chuyện đạo đức, con cũng thấy mệt lòng lắm. . . con thấy rằng nói chuyện với Chúa hơn la nói chuyện với nhau về Chúa, và trong những câu chuyện đạo đức cũng pha phôi nhiều tự ái lắm!

No thỏa tình yêu của Chúa Giêsu trao ban, Têrêxa còn đi xa hơn nữa: yêu mến và gắn bó với Nhiệm thể Ngài. Một cô bé 11 tuổi đã sống kinh nghiệm hiệp thông trong bí tích Thánh Thể vượt xa các nhà thần học. Cuộc hiệp thông không chỉ dừng lại ở các chi thể trong Giáo hội tại thế nhưng là cuộc hiệp thông với cả Giáo hội vinh thắng. Chị kể:

Niềm vui quá dạt dào quá, bao la quá lòng nó chưa chẳng hết, nên giòng lệ vui mừng lã chã tuôn rơi làm chị em bỡ ngỡ. Đến sau các chị hỏi nhau: "tại sao nó khóc thế nhỉ? Phải chăng lương tâm nó có đìêu gì áy náy đó?. . . không có, không phải đâu, chắc là nó tủi thân; vì hôm nay không có má, hay là tại chị nó ở trong dòng kín rồi đi không được. . . chị em bạn con không hiểu rằng ơn trời đổ xuống trong một tâm hồn lưu đày này, thì làm sao nó chịu được mà chẳng khóc. . . Ồ không, sự vắng mặt của má trong ngày con rước lễ lần đầu không hề làm con buồn, cả thiên đàng không ở trong tâm hồn con sao, mà Má thì chẳng ở trong thiên đàng ấy từ lâu rồi sao? Bởi vậy trong khi con rước Chúa Giêsu, con cũng tiếp rước cả má. Người đã chúc phúc cho con và vui mừng khi thấy con được hạnh phúc. . . con cũng không khóc vì xa vắng chị Pauline, dĩ nhiên là nếu có chị ở bên con thì hạnh phúc hơn, nhưng con đã dâng hy sinh ấy cho Chúa từ lâu rồi, hôm ấy con được vui mừng hoàn toàn. Con kết hợp cùng chị là người đã hiến trọn đời cho Đấng đã hiến thân mình cho con một cách âu yếm dịu dàng!. . . (Tự thuật)

3. Từ cơn khát Thánh Thể đến cơn khát Thánh Giá

Từ nhu cầu căn bản là cơm bánh Thánh Thể, Têrêxa đi đến chỗ khát khao sống tình yêu như một ơn gọi riêng biệt của chị giữa lòng Hội Thánh; và để rồi, khát khao của Têrêxa đi đến đỉnh của sự toàn thiện: khát khao thánh giá. Chị tâm sự rằng:

Tối hôm trước những ngày trọng đại ấy, chị Marie đặt con lên đầu gối và giúp con dọn mình như khi con rước lễ lần đầu; con còn nhớ có một lần chị nói về sư đau khổ và bảo con rằng: chắc Chúa sẽ bồng con trên cánh tay như bồng đứa con nhỏ, chứ không để con đi trên đường đau khổ đâu. . . Sáng hôm sau, khi rước lễ rồi, con lại nhớ đến lời chị nói hôm trước; tâm hồn con bỗng cảm thấy khát khao chịu đau khổ và đồng thời con tin rằng Chúa Giêsu sẽ dành cho con rất nhiều thánh giá. Con cảm thấy lòng tràn ngập an ủi đến nỗi coi những thánh giá ấy như những ân huệ lớn lao nhất của đời con. Đau khổ đã trở thành một hấp lực làm con say mê mà con vẫn chưa hiểu thấu cái sự tuyệt diệu của nó. Từ ngày ấy về trước con đã chịu đau khổ, nhưng không hề yêu đau khổ; còn từ nay về sau, con cảm thấy yêu đau khổ thật sự. Con cũng cảm thấy yêu một mình Chúa và tìm hoan lạc trong Người mà thôi. Thường trong lúc rước lễ con lặp lại lời sách Gương Phúc 26, 3: "Ôi Chúa Giêsu, Chúa chính là Đấng Dịu hiền khôn tả xin hãy biến đổi mọi an ủi ở đời thành những chua xót đắng cay cho con (Tự thuật).

Chúng ta có thể không cảm nghiệm được đau khổ của chị trong khuôn viên của đan viện. Và nếu có chăng, chúng ta có cảm giác một Têrêxa "bất bình thường" vì đam mê đau khổ. Khát khao Thánh Thể làm cho Têrêxa khát khao đau khổ, nhưng chắc một điều, Têrêxa không bao giờ tìm kiếm đau khổ vì đau khổ mà chỉ vì nó là phương thế để chị thể hiện tình yêu với Chúa Giêsu. Ước vọng chịu đau khổ của Têrêxa luôn luôn là ước vọng tuân hành thánh ý Chúa.

Em không ước muốn chịu đau khổ cũng như chết chóc nhưng em vẫn yêu quý cả hai. Lúc này chỉ còn lòng lòng phó thác hướng dẫn em, ngoài việc xin thánh ý Chúa thực hiện trọn vẹn trên em, thì em không biết nguyện cầu gì khác nữa (Tự thuật).

4. Thánh Thể - hành trình của trẻ thơ

Con đường trẻ thơ của Têrêxa không phải được hình thành trong nhà kín, nhưng đã là cả một hành trình khởi đi từ khi chị có trí khôn. Chính tâm hồn khát khao gắn bó với Thánh Thể đã làm nên hành trình của con đường thơ ấu của chị.

Khởi đi từ một thái độ rất trẻ thơ với Thánh Thể - Bánh phép - mà bé Têrêxa vẫn được chị Céline cho ăn mỗi lần sau khi chị đi dự lễ về, Têrêxa bắt đầu đi vào trong tiến trình thơ ấu bằng việc chuẩn bị đón nhận hồng ân Thánh Thể. Tuần cấm phòng 3 ngày trước đó đã để lại trong chị một kỷ niệm êm đềm khôn tả của hạnh phúc mong chờ Chúa Giêsu. Chị cảm nghiệm được rằng:

Chúa nhân lành không nỡ để sợi mây buồn nào làm vẩn đục tâm hồn con. . . Ngày con rước lễ lần đầu, con lại được vui mừng không vương chút ưu phiền, có lẽ con đã dọn mình kỹ lưỡng đến thế là cùng, và mọi đau đớn phiền muộn tan biến trong vòng gần một năm. Chúa Giêsu muốn cho con được nếm một thứ hoan lạc tinh ròng nhất ở dưới vũng châu lệ này. . .

Đối với chị, việc chuẩn bị đó chính là "rắc vào lòng những cánh hoa mới cho Chúa Giêsu đến ngự được vui lòng. . . mỗi ngày con làm được rất nhiều việc hy sinh hãm mình, đó là những đóa hoa, . . . dốc quyết tập tành nhân đức (Tự thuật). Những đóa hoa mà ngay từ thời thơ ấu, chị đã thích thú tung lên khi đi kiệu Thánh Thể.

Con thích nhất là đi kiệu Thánh Thể, còn vui sướng nào được bằng tung hoa dưới đường Chúa qua! nhưng trước khi cánh hoa rơi xuống đất, con phải tung thật cao chừng nào có thể và con vui sướng khi thấy những cánh hồng của con chạm tới hào quang.

Đối với Têrêxa, không chỉ là những cánh hoa tung lên chạm tới hào quang, nhưng còn là cả cánh hoa cuộc đời - những cánh hoa bé nhỏ để được Chúa Giêsu Thánh Thể ghé môi hôn và làm cho nó tan biến. Chị kể lại cảm nghiệm của mình ngày rước lễ lần đầu:

Ôi ngọt ngào thay cái hôn đầu tiên Chúa Giêsu tặng cho linh hồn con. . . đó là cái hôn làm con cảm thấy Chuá yêu con quá, bất giác con thưa cùng Người: "Lạy Chúa con yêu Chúa và con xin tận hiến đời con cho Chúa". Chúa không đòi con phải chiến đấu hay hy sinh gì cả, vì Chúa Giêsu và bé Têrêsa đã nhìn ngắm nhau, đã hiểu nhau từ lâu lắm rồi. . . hôm ấy không phải chỉ là nhìn ngắm, nhưng là kết hợp cùng nhau, hai người đã trở nên một. Têrêsa đã tan biến đi như giọt nườc r?t xuống đại dương, rồi tan biến trong đại dương, chỉ còn lại mình Chúa Giêsu là Chúa và là vua. Têrêsa đã xin Chúa đừng để cho nó còn tự do, vì tự do làm cho nó sợ hãi. Nó cảm thấy mình yếu đuối quá, mỏng manh quá, nên muốn đời sống đời kết hợp cùng Chúa là sức mạnh vô biên!. . . (Tự thuật).

Chính kinh nghiệm kết hợp, hòa tan giúp Têrêxa khám phá ra sự thật của mình và bắt đầu bước đi vào trong tiến trình trẻ thơ cách trọn vẹn hơn bằng sự khiêm nhường, cậy trông và phó thác suốt cuộc đời. Cho tới những giây phút cuối cuộc hành trình, chị vẫn quả quyết:

Nếu tôi có làm lại cuộc đời, thì tôi chỉ muốn là một con trẻ bé nhỏ luôn giơ tay bám chặt lấy "Giêsu Hài Nhi".

Và chính trong khát khao cháy bỏng ấy mà trong từng ngày sống, chị vẫn đang tiếp tục nài xin:

Ôi! Con không được chịu Mình Thánh Chúa nhiều lần như lòng khao khát, nhưng lạy Chúa, Chúa không là Đấng Tòan Năng sao?. . . Xin Chúa ở lại trong con như trong nhà tạm. Xin Chúa đừng bao giờ lìa xa tấùm bánh nhỏ của Chúa đây. . . (Kinh dâng mình).

Lm. Giuse Têrêsa Trần Anh Thụ

Giáo dục con cái:


BẮT NẠT

Những nhà khoa học cho rằng trẻ con bị bắt nạt chịu ảnh hưởng tồi tệ hơn người ta tưởng.

Giống như phần lớn bạn học tại trường trung học Washington, tiểu bang Wisconsin, La Shanda Trimble, 18 tuổi, rất quan tâm tới các trào lưu thời trang. Chính các kiểu cách “thời trang” mà cô mặc đã làm cô tách biệt với các bạn bè khác. Cô là một người gốc Đức thích dùng son môi màu đen và sơn móng tay cũng màu đó. Cô thích nghe những ban nhạc Linkin Park và Rob Zombi hơn là R&B với ngôi sao Ciara. Cô thích cột tóc đuôi gà thay vì kết tóc kiểu nhiều người ưa thích. Những cô bé khác không thích vậy. Một em lớp 11 nói, “bọn chúng tôi thích nghe nhạc rap và pop và ăn mặc như mọi người, chẳng hạn như đi giày mới nhất mới được!”

Vì những kiểu cách khác bạn bè như vậy, Trimble thường bị bạn bè “trừng phạt”. “Khi tôi đi từ đầu lớp đến cuối lớp, tôi nghe những tiếng xầm xì và có ai đó nói ‘Coi đó nó sắp sửa dạy khôn chú mày đó!’” Một thằng bé lấy cây chổi quét lớp cưỡi lên trên và chọc ghẹo Trimble. Đứa khác gọi cô bé là “phô hết sức”, là khùng. Cuối cùng có một ngày cuối tháng tư vừa qua cô bé không thể chịu đựng được nữa. Trimble nói: “Tôi bắt đầu khóc như mưa”. Và bây giờ cô bé học hành thua sút bạn bè vì cô tránh đến lớp ngay cả những lúc không bận rộn gì.

Bắt nạt đã tràn lan khắp ngõ ngách trong trường ngay cả ngoài sân chơi từ khi bắt đầu có nhà trường đầu tiên trên thế giới và mãi cho đến gần đây, giải quyết vấn đề đó vẫn được xem như là bài học đau đầu cần thiết cho cuộc sống học sinh. Nhưng mọi chuyện đang thay đổi. Năm 2002, Hiệp hội Y học Mỹ cảnh báo rằng bắt nạt là một vấn đề liên quan đến sức khỏe công cộng với những hệ lụy kéo dài về thể xác và tinh thần cho cả người bị bắt nạt lẫn người bắt nạt. Mới tháng 4-2005 vừa qua, những nhà nghiên cứu thuộc Đại học UCLA (Đại học California ở thành phố Los Angeles) đã cho ấn hành hai ấn phẩm cho thấy bạo lực kiểu bắt nạt trong nhiều trường hợp đã lan truyền rộng rãi hơn và nguy hại hơn người ta tưởng!

Tân là một học sinh bình thường lớp 8. Ít lúc sau này gia đình thấy em hay lo sợ và ít hăng hái hơn mỗi lần đi học. Hỏi cô giáo, cô nói em vẫn đi học đầy đủ. Trong lớp không có gì đáng phàn nàn. Một hôm, mẹ em đến trường vào giờ chơi. Bà thấy em bị một số em khác rượt đuổi, nắm tóc, kéo áo, nhéo tai, vò đầu. Bà nghĩ các em đùa nghịch. Nhưng khi thấy con mình mệt nhoài, đổ mồ hôi hột và muốn khóc mà lũ bạn không tha, bà hiểu vấn đề không còn nằm trong giới hạn đùa nghịch. Bà nhớ hồi nhỏ đi học, cũng vẫn bị hai chị em hàng xóm học yếu hơn chơi trò đuổi bắt, ký đầu, nắm tóc, giựt áo … không phải đùa chơi, nhưng cố tình phá “cái con nhỏ học hơn mình này” cho bõ ghét.
Bà Adrianne Nishima, một học giả tại Trường Nghiên Cứu Giáo Dục và Thông Tin sau đại học tại trường UCLA cho biết gần một nửa số 192 học sinh mà bà phỏng vấn cho hay họ đã bị bắt nạt ít nhất một lần. Nhiều em còn cho hay họ đã thấy nhiều người là mục tiêu bị bắt nạt. Điều quan trọng – theo bà Nishima – là những đứa trẻ bị bắt nạt cũng như những đứa bắt nạt người khác cả hai đều bị ức chế, căng thẳng và rồi sống không bình thường.

Tại sao chuyện bắt nạt người khác lại hay xảy ra? Không ai biết được nguyên nhân. Nhưng vào cuối tháng 4-2005, một nghiên cứu khác được Viện Lưu Trữ Y Học Trẻ Em và Thiếu Niên phát hành (và đăng trên báo Time, 2-5-2005, cho thấy vấn đề này một phần nào đó gắn liền với việc trẻ em xem TV quá nhiều. Có lẽ thời gian xem TV là thời gian các em không học được gì hết về các kỹ năng phát triển tính cách xã hội của con người. Nhưng (như người ta nói) chuyện bắt nạt người khác đã có từ lâu trước khi có TV, ngay cả ở những nơi không có TV, và mặc dầu nó đã giải thích một phần nào sự tồn tại của vấn đề, nó chẳng giúp được gì cho việc giải quyết cả.

Tuy nhiên, cho dù bắt nạt người khác có nguồn gốc từ đâu, hệ quả của chuyện này thật rõ ràng. Bà Nishima khám phá ra rằng nạn nhân thường cảm thấy mình như bị bệnh nặng và thường hay vắng mặt ở lớp hoặc học hành sa sút. Họ cũng cảm thấy bị ức chế nhiều hơn và hay thu mình lại – đây là một phản ứng tự nhiên. Bà Nishima nói chính tâm lý ấy sẽ dẫn tới việc dễ trở thành nạn nhân hơn. Nghiên cứu cũng cho thấy nhà trường ít quan tâm tới chuyện bắt nạt này. Đánh nhau thì bị cấm, nhưng còn những hình thức quấy rối khác thì không thấy có biện pháp gì. Chị ABC có hai con đang học lớp 11. Nói chung chị không còn phải là một em bé học sinh khi chị đang ở vào tuổi có tới 40 cái xuân xanh. Ấy vậy mà chị cũng thường hay bị bắt nạt. Ai bắt nạt chị? Một nhóm những bà bạn vô công rỗi nghề. Thấy con cái chị đàng hoàng, thành đạt, họ cũng không quên “Ơi dào, lúc này thằng con chị …”; mốt kia, “À há, con bé của chị lúc này giỏi quá!” Thấy chị có cái áo mới, họ cũng “À, mình cũng có ba bốn cái áo này!” Đại loại những chuyện như vậy. Bắt nạt không còn chỉ là chuyện trẻ nhỏ!

Từ ganh ghét đó chuyển qua chia bè, chia nhóm. Ganh tị và nịnh bợ là hai anh em sinh đôi trong dòng họ tính xấu. Từ trường học trong những nhóm nhỏ bạn bè bắt nạt, lan sang người lớn với những biến tướng trơ trẽn hơn nhiều, thường diễn tiến theo thứ tự: ganh tị, bè phái, nịnh bợ, ngồi lê đôi mách, và nói xấu nhau. Chẳng phải phụ nữ mới có, mà những nhà nghiên cứu cho thấy trong giới đàn ông cũng không thiếu gì những “ông tám”. Tệ hơn nữa là có thêm những người lớn khác về hùa làm cho những quan hệ trên dưới, trong ngoài càng thêm rối rắm. Có điều mấy người mới lớn, hay mới người làm lớn thường hay ưa nịnh hay tối mắt trước những lời ton hót mà làm hỏng cả bản chất con người, mở đường cho “bắt nạt”.

Tiến sĩ William Coleman, giáo sư môn nhi khoa tại Trường Đại Học Y Khoa vùng Bắc California nói, “Bắt nạt có vẽ như dễ dàng thúc đẩy một đứa trẻ phạm tội khi đến tuổi 24, so với những đứa trẻ bình thường khác”. Bắt nạt cũng khiến trẻ trở thành những người lớn thiếu tinh thần tập thể, không sẵn sàng hòa nhập và biến mất kỹ năng sống hòa hợp và hòa nhập với người khác. Lớn lên họ sẽ có ít bạn bè chân thật, có chăng chỉ là những bạn bè “cùng băng cùng nhóm” ngồi lê nói xấu và nịnh bợ. Thích bắt nạt còn làm cho trẻ em thành những người lớn lúc nào cũng cay cú, hằn thù.

Bắt nạt không còn phải là chuyện giỡn chơi của trẻ em đối với cha mẹ và những người có trách nhiệm. Donald MacIntyre và Kim Yoo Seung (tại Seoul) vừa cho biết trong bài viết về South KoreaYouth Gangs (Các băng nhóm thanh thíếu niên Nam Triều Tiên) đăng trên tạp chí Time (2-5-2005) rằng “từ chuyện bè phái bắt nạt bạn bè cùng lớp (như của bà Nishima) đến bắt bạt qua mạng (syberbullying) và cưởng hiếp tập thể chỉ còn cách nhau một bước ngắn. Bà Nishima sau khi nghiên cứu 5.500 thanh thiếu niên tại Los Angeles cho biết 72% số em được hỏi cho biết “bắt nạt trên mạng đã gây stress cho các em không thua gì bắt nạt trước mặt”. Donald MacIntyre và Kim Yoo Seung nói tại Hàn quốc có đến 400.000 học sinh trung học – tức 5% số học sinh toàn quốc – tham gia vào các trò bắt nạt có tổ chức, đe dọa để làm tiền và đôi khi cưởng hiếp tập thể”. Thày giáo Jong dạy tại Trường Trung học Jeon Nong ở Seoul cho hay các nhóm thanh thiếu niên này dùng mạng Internet để tạo thành hệ thống bè phái toàn quốc. “Một điều cha mẹ phải quan tâm là số vụ cưởng hiếp học sinh đã tăng lên gấp ba làn từ giữa khoảng 2001-2003”. Cuối tháng 4-2005, cảnh sát Miryang đã đưa 10 thiếu niên ra tòa án xét xử dành riêng cho tội phạm thiếu niên về tội cưởng hiếp một bé gái 14 tuổi.

Cảnh sát và những nhà tư vấn giáo dục cho rằng nguyên nhân gây ra tình trạng từ ganh đua đến bè phái, ganh ghét và làm hại nhau là vì hệ thống trường học cạnh tranh với nhau tại Hàn Quốc, là vì thiếu sự chăm sóc của cha mẹ khi cả hai cùng bận đi làm, và là vì phim ảnh, trò chơi bạo lực tràn ngập trên TV và trên mạng. Trẻ em bắt chước những thói quen xấu do tò mò, đặc biệt là khi chúng núp đằng sau những băng nhóm.

Có lẽ phải thêm một nguyên nhân nữa đó là chính người lớn làm gương xấu cho trẻ em: ganh tị, nói xấu, bè phái, cửa quyền – và cứ tưởng không hại gì. Nói như Kim Yang Young Hee, tư vấn viên của Trung Tâm Ngăn Ngừa Bạo Lực Hàn Quốc (Korea Sex Violence Relief Center) “trẻ em nghĩ rằng tình dục cũng là một trò chơi, một thứ game. Đó là vấn đề xã hội.

Trở về vấn đề cơ bản: từ đâu hình thành cách ứng xử của thanh thiếu niên?
X. sinh trưởng ở miền quê. Anh được gởi vào học ở những trường thành phố. Ngày đi, cha mẹ đưa anh đến gặp cụ già nhất và có quyền nhất trong làng để chào tạm biệt. Cụ già chỉ khuyên anh là anh nên lúc nào cũng nghĩ đến cha mẹ già nua ít học. Anh lên thành phố, đậu đạt và có vai có vế trong xã hội. Dĩ nhiên bên anh có vô số kẻ hầu người hạ và không thiếu gì những kẻ xu nịnh. Anh cũng thích mọi người tôn mình lên làm thần tượng. Dù không nói ra nhưng cứ nhìn những đám “Công Công” và “Tần Cối” bao bọc bên anh thì kẻ ít kinh nghiệm sống nhất cũng biết anh thuộc loại gì. Và bây giờ anh đã quên lời khuyên của ông cụ già làng. Tại sao vậy? Anh không còn ở gần cha mẹ “già nua ít học” và cụ già làng “khó tính, lỗi thời” nữa.

Trong một tài liệu của bộ sách Bách Khoa Toàn Thư Về Gia Đình (the Marshall Cavendish Encyclopedia of Family Health), người ta đọc thấy câu này: “Từ khi sinh ra đến khi trưởng thành, trẻ em cần cha mẹ cung cấp một môi trường sống an toàn, yêu thương và chính môi trường này có được qua một tình bạn sâu đậm, dựa trên sự tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau”. Vai trò cha mẹ thật phức tạp và luôn biến hóa. Có điều chắc chắn là nếu cha mẹ buông rời con cái thì con cái sẽ bị lôi cuốn vào xã hội với những tập thể không có gì bảo đảm là sẽ giúp con cái mình trở thành những người tốt, đó là chưa kể khi cha mẹ còn là “những tấm gương xấu”. Một thí dụ rất nhỏ, ngay trong gia đình nếu một người nào đó không gần gủi và không sống với trẻ em như những người bảo bọc, lo lắng và yêu thương thì đừng trách sao trẻ không yêu mến và gần gũi. “Luôn luôn bị phê bình, trẻ sẽ nghi ngờ mọi giá trị. Trẻ thường thấy ngay là giữa chúng và cha mẹ có những xung khắc giữa quyền hành và ước muốn. Cái gì quá độ, dù khen hay chê, cũng dễ làm cho trẻ khó chấp nhận và rồi sẽ nẩy sinh một thứ “hận thù” nào đó cho đến khi trẻ trưởng thành. Đối thoại khi con cái đã lớn và đã phát triển cá tính trong tình bạn sẽ dễ dàng làm cho con cái dễ chấp nhận vì tính độc lập của trẻ được phát huy.”

Hơn ai hết, cha mẹ phải thấy trước để giúp con cái mình ngăn ngừa hệ quả của bắt nạt, để cứu con cái mình khỏi vòng xoáy của bè phái và nịnh bợ, kể cả của thứ bắt nạt hiện đại trên mạng toàn cầu. Và chính điều đó cũng sẽ giúp con cái trưởng thành biết xa lánh những “tập thể không tốt” của bè phái và nịnh bợ trong xã hội./.

Trần Bá Nguyệt

Chúa Nhật 26 Thường Niên A


 

Cha vẫn chờ

Mỗi người chúng ta không ai lại không có kinh nghiệm về “ cái sai” trong cuộc đời mình. Có khi chỉ là một nước cờ sai, một lời nói sai, một suy nghĩ sai, hay một dự tính sai, thậm chí cũng có cả một cách sống sai, cho dù điều sai ấy ở mức độ thấp nhất, chẳng phương hại gì máy.



Lời Chúa của CN 26 TN vẽ nên bức tranh tương phản với những hệ qủa tất yếu của hai thái độ, hai hành động trái ngược nhau. Người con thứ nhất trong du ngôn của Đức Giêsu sớm nhận ra thái độ không đúng khi khước từ yêu cầu chính đáng của cha mẹ, anh đã quyết tâm khắc phục ngay sau đó, người con ấy chính là hình ảnh của những người thâu thuế và những cô gái điếm. Còn người con thứ hai thì mau mắn đón nhận ý cha nhưng không thục hiện và đó là hình ảnh của người Biệt Phái Do thái.



Thật ra Đức Giêsu không có ý ủng hộ cách sống của người thâu thuế và những cô gái điếm, song Ngài tin tưởng vào thiện chí lắng nghe lời Chúa của họ và nhờ đó mà canh tân đời sống. Đồng thời, Ngài cảnh tỉnh thái độ chủ quan trong lời thưa “ vâng” nhưng lại” không làm” của người Do thái , thái độ ỷ lại của “ dòng dõi được tuyển chọn” của họ. Họ có thể rất thông thạo luật Chúa, tuân giữ cặn kẽ và ăn chay cẩn thận nhưng lại quên đi cốt lõi của luật là tình yêu thương : Yêu Chúa và yêu người để mỗi ngày nhờ vào những giới luật của tình yêu mà họ sẽ trở nên đồng hình đồng dạng với Đấng tác tạo họ. Do đó, họ sử dụng sự công chính của riêng họ để mưu danh - cầu vị, để phô trương thế thượng phong của mình của mình và tự cho mình có quyền phê phán cách sống của người khác, và như thế họ khó mà nhìn ra được cái không đúng trong cách sống đạo của mình, thậm chí cũng chẳng bao giờ nghĩ rằng mình sai và cần phải sửa sai.



Trong khi đó, Thiên Chúa – Đấng có tên là Tình yêu vẫn có đủ kiên nhẫn chờ đợi sự hoán cải của con người, chấp nhận những sai lỗi của họ, miễn là họ quyết tâm hoán cải tận căn, sẵng sàng ban sự sống cho “ kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó làm, mà thi hành điều chính trực công minh” ( Ed 18, 27) và Ngài cũng vô phương không thể cứu giúp “ người công chính từ bỏ lẽ công chính mà làm điều bất chính” ( Ed 18, 27). Đó cũng chính là đường lối ngay thẳng của Thiên Chúa mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en diễn tả. 



Với những “ đua tranh” của cuộc sống hôm nay, việc sống Lời Chúa của người Kitô hữu quả kông đơn giản, nhất là sống sựcông chính mà Thánh Phaolô khuyên nhủ : “ Đừng làm chỉ vì ganh tỵ, hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình, đừng tìm lợi ích riêng mình nhưng hãy tìm lợí ích cho người khác” (Pl 2, 3---4) Do sự lựa chọn của Kitô hữu luôn bị đặt giữa sự giằng co của một bên là­ công chính của Thiên Chúa và một bên là xu thế tư lợi, nên chỉ có những ai thực sự cảm nghiệm được tình yêu phụ tử Cha, có được một niềm tin mạnh mẽ và hạnh phúc mai hậu mới dám đánh đổi những tư lợi trong xã hội hiện tại, để sống sự công chính của Đấng vừa là nguyên thuỷ vừa là cùng đích của muôn loài.

Nữ tu Anna Phạm Thị Bích Hằng Dòng Đa Minh Tam Hiệp

Hoa Sao Nhái

 

TTO - Xuất xứ của cái tên đó kể ra cũng khá thú vị. Ngày xưa, khi đất chưa có giá, nơi này là một nơi hoang vu, lau sậy và những hầm hố xen kẽ nhau.

Nói đúng ra nó vẫn là một khu vực nằm trong thị xã, nhưng vì nơi đây chưa phát triển nên người ta vẫn để nó hoang vu như thế... và gọi nó bằng tên gọi thật ấn tượng ấy.

Lúc bấy giờ, những khu đất như thế thường được cấp cho các viên chức nhà nước để xây nhà. Họ vẫn nhận, nhưng không cất nhà vì nó hoang vu quá. Đến những năm thị xã lên Thành phố, người ta mở đường, mở trường đại học... dân số gia tăng, nhu cầu dịch vụ gia tăng... Vì có ưu thế nằm trong khu đất gần trường đại học nên "Cánh đồng hoang" trở thành một khu đất vô giá...

Bây giờ, nơi ấy không còn lau sậy nữa, mà thay vào đó là các dãy phố sáng rực được cất theo kiến trúc hiện đại nhất, công viên được thi công xây dựng... và cái tên vẫn được giữ lại vì người ta đã quen gọi nó như thế. Có lẽ họ sợ rằng đổi tên, người ta sẽ không biết đường tìm ra nó...?!

Ở giữa các dãy phố khang trang ấy, lọt thỏm một khu đất trống... Không còn lau sậy và đã được đổ cát cẩn thận. Điều đặc biệt là trên khu đất trống kia, chủ nhân chỉ trồng một loại hoa duy nhất: hoa Sao Nhái với màu vàng rực lửa. Cứ chiều chiều, tôi và đám bạn lại tụ tập ra công viên, ngồi hóng mát trên ghế đá nhìn về khu đất trống và cười vang với ý nghĩ vơ vẩn "Những buổi chiều vàng"...

Thời gian cứ thế trôi qua... suốt sáu tháng, chúng tôi đến đó đi tản bộ, ngồi chơi, rồi về mà vẫn không biết khu vườn đó của ai... Cho đến một một chiều nọ, chúng tôi ra công viên chơi, nhìn về khu đất thấy một đoàn người với kèn trống, với những băng rôn đen, với vòng hoa, với khăn tang trắng... Chúng tôi đến gần... Người ta đang đưa linh cửu của một bà cụ xuống khu đất ấy. Kế bên linh cửu, cô gái xinh đẹp nước mắt ràn rụa... Kế bên cô là người chồng nước ngoài sang trọng...

Người ta kể rằng có bà mẹ bán chè nuôi con học hết đại học. Ra trường, cô đi làm công ty nước ngoài, lấy chồng nơớc ngoài và không về thăm bà suốt 8 năm trời. Cô gái gửi tiền nuôi bà, mua đất cho bà để cất nhà nhưng bà đều gửi tiền cho trẻ mồ côi... Bà vẫn giữ khu đất, không bán cho bất kì ai dù có trả bao nhiêu tiền... Và những hoa Sao Nhái được trồng, được chăm sóc, tràn sức sống dưới đôi tay run rẩy già nua của bà... Bà luôn kể với hàng xóm về ước muốn của con gái ngày xưa "Ước gì con có một mảnh đất trống mẹ nhỉ? Con sẽ trồng toàn hoa Sao Nhái... Nhà mình sẽ sáng rực với màu vàng của nó cho mà xem...".

Sau đám tang, chúng tôi không còn thấy cô gái lần nào nữa. Chúng tôi vẫn đến công viên mỗi chiều, vẫn thấy khu đất trống với ngôi mộ được xây cất rực rỡ. Nhưng những hoa Sao Nhái thì ngày càng tàn lụi... Chúng héo tàn vì không còn ai chăm sóc hay chúng héo tàn vì không còn muốn sống một kiếp sống cô đơn...?

VÂN LAM