Bài 104 (Thứ Tư 28/4/2004)


 

Lòng trông cậy nơi Thiên Chúa trong những cơn hoạn nạn

(Thánh Vịnh 26[27]:7-14 – cho Kinh Tối Thứ Tư, Tuần Thứ Nhất)

 

1.     Phụng Vụ Giờ Kinh Tối đã chia bài Thánh Vịnh 26 {27) thành hai phần, theo cùng một cấu trúc như là một bức tranh xếp. Chúng ta vừa công bố phần thứ hai của bài ca tin tưởng này, một bài ca được dâng lên Chúa vào ngày tăm tối bị sự dữ tấn công. Đó là những câu 7-14 của bài Thánh Vịnh: những câu Thánh Vịnh mở đầu bằng tiếng kêu lên Chúa: “Lạy Chúa, xin hãy nghe tiếng tôi khi tôi kêu cầu; xin thương xót tôi và đáp lời tôi” (câu 7), sau đó bày tỏ niềm thiết tha muốn tìm kiếm Chúa, với đầy những sợ hãu buồn thương sợ bị Ngài bỏ rơi (câu 8-9). Sau hết, những câu của bài Thánh Vịnh này mở ra trước mắt chúng ta một chân trời thê thảm cho thấy chính những cảm mến về gia đình không còn nữa (câu 10), thay vào đó là “những kẻ thù” (câu 11), “đối phương” và “những chứng nhân gian tà” (câu 12).

Thế nhưng, ở đây cũng thế, như ở phần thứ nhất của bài Thánh Vịnh, yếu tố quyết liệt là lòng tin tưởng của con người nguyện cầu vào Chúa, Đấng cứu độ trong những cuộc thử thách và là Đấng gìn giữ trong những cơn giông tố bão bùng. Bởi thế thật là tuyệt vời ở lời kêu gọi được tác giả bài Thánh Vịnh nói với chính bản thân mình vào phần cuối của bài Thánh Vịnh: “Xin hãy can đảm đợi chờ Chúa; hãy kiên trì đợi chờ Chúa!” (câu 14; xem Ps 41[42]:6,12 và 42[43]:5).

Cả nơi những bài Thánh Vịnh khác nữa cũng cho thấy niềm xác tín sâu xa là con người lấy được sức mạnh và niềm hy vọng từ nơi Chúa: “Chúa bảo vệ kẻ trung tín nhưng làm cho kẻ ngạo mạn biết mặt. Hãy vững mạnh và can trường, tất cả những ai hy vọng vào Chúa!” (Ps 30[31]:24-25). Bởi thế tiên tri Hosea mới khuyên nhủ dân Do Thái rằng: “Nhờ ơn Chúa giúp anh em sẽ trở về nếu anh em trung thành làm những gì ngay chính và luôn hy vọng vào Chúa” (12:7).

2.     Giờ đây chúng ta chỉ cần chú ý tới 3 yếu tố tiêu biểu của việc sống đạo mạnh mẽ này. Yếu tố thứ nhất, một yếu tố tiêu cực, đó là cơn ác mộng về các kẻ thù (câu 12). Những kẻ thù ấy xuất hiện như những con dã thú “gầm rống” trước con mồi của chúng, bởi thế, nói một cách tõ hơn, đó là “những chứng nhân gian tà”, thành phần từ mũi thở ra bạo lực như các con hoang thú trước mồi ngon của chúng.

Đó là lý do, trên thế gian đầy những sự dữ hung tàn do Satan thực hiện và tác động, Thánh Phêrô đã nhắc nhở chúng ta rằng: “Ma qủi thù địch của anh em đang chờn vờn như sư tử gầm rống tìm mồi để nuốt” (1Pt 5:8).

3.     Hình ảnh thứ hai cho thấy rõ lòng tin tưởng yên hàn của con người tín nghĩa, bất chấp họ có bị cha mẹ mình bỏ rơi: “Cho dù cha mẹ tôi có bỏ rơi tôi, Chúa cũng vẫn chấp nhận tôi” (câu 10).

Ngay cả trong cảnh lẻ loi và mất mát đi những cảm tình thân thương nhất ấy, con người cầu nguyện cũng không hoàn toàn cô độc vì có Vị Thiên Chúa từ bi nhân hậu cuí mình xuống trên họ. Chúng ta nghĩ đến những đoạn nổi tiếng của tiên tri Isaia, vị đã qui về Thiên Chúa những tình cảm thương và êm ái dịu dàng còn hơn là một người mẹ: “Một người nữ có thể quên được ấu nhi của mình mà không chăm sóc cho đứa trẻ bởi lòng mình mà ra hay chăng? Cho dù họ có quên con của họ chăng nữa thì Ta cũng chẳng bao giờ quên ngươi” (Is 49:15).

Qua những lời này của vị tác giả Thánh Vịnh và của tiên tri Isaia, chúng ta hãy nhớ đến tất cả những người già nua bệnh tật, bị tất cả mọi người lãng quên, không ai tỏ ra yêu mến họ, hầu họ cảm thấy bàn tay cha mẹ của Chúa âm thầm yêu thương chạm đến khuôn mặt đau thương của họ có lẽ đang tuôn tràn châu lệ.

4.     Như thế là chúng ta sang biểu hiệu thứ ba và là biểu hiệu cuối cùng, một biểu hiệu được lập lại nhiều lần trong bài Thánh Vịnh: “’Hãy tìm kiếm dung nhan Thiên Chúa’; Lạy Chúa, con tìm dung nhan Chúa! Xin đừng ẩn mặt khuất mắt tôi” (câu 8-9). Bởi vậy mà dung nhan Thiên Chúa là đối tượng của việc tìm cầu thiêng liêng của con người cầu nguyện. Ở đoạn kết, một niềm tin tưởng bất khuất xuất hiện, đó là niềm tin tưởng được “hoan hưởng sự thiện hảo của Chúa” (câu 13).

Theo ngôn ngữ của bài Thánh Vịnh này thì “việc tìm kiếm dung nhan Chúa” thường đồng nghĩa với việc tiến vào đền thờ để cử hành và cảm nghiệm mối hiệp thông với Vị Thiên Chúa của Sion. Thế nhưng, biểu hiệu này cũng bao gồm cả một nhu cầu huyền nhiệm liên quan đến mối thân tình thần linh qua việc cầu nguyện. Bởi thế, nơi phụng vụ cũng như nơi việc cầu nguyện tư riêng, chúng ta mới được ơn trực giác thấy dung nhan ấy chúng ta sẽ không bao giờ có thể trực tiếp thấy được trong cuộc sống trần gian này (x Ex 33:20).

Thế nhưng, Chúa Kitô đã tỏ cho chúng ta thấy, một cách khả thấu, dung nhan thần linh và đã hứa hẹn rằng trong cuộc hội ngộ đời đời, như Thánh Gioan nhắc nhở chúng ta, “chúng ta sẽ thấy Ngài như Ngài là” (1Jn 3:2). Thánh Phaolô còn thêm: “Bấy giờ chúng ta sẽ được thấy nhãn tiền” (1Cor 13:12).

5.     Dẫn giải về bài Thánh Vịnh này, Origen, một đại văn hào Kitô giáo ở thế kỷ thứ ba, đã ghi nhận là: “Nếu con người tìm kiếm dung nhan Chúa, họ sẽ được thấy vinh hiển của Chúa một cách rõ ràng, và khi trở nên giống như các thần trời, họ sẽ mãi mãi được thấy dung nhan Cha trên trời” (PG 12, 1281).

Thánh Âu Quốc Tinh, trong bài dẫn giải về bài Thánh Vịnh ấy, đã tiếp tục lời cầu nguyện của vị tác giả Thánh Vịnh như thế này: “Tôi đã không tìm kiếm nơi Chúa một phần thưởng nào đó ở ngoài Chúa mà là chính dung nhan Chúa. ‘Lạy Chúa, tôi sẽ tìm kiếm dung nhan Chúa’. Tôi sẽ kiên trì theo đuổi việc tìm kiếm này; thật vậy, tôi sẽ không tìm kiếm một điều gì đó chẳng đáng giá là bao nhiêu mà là dung nhan Chúa, Ôi Chúa, để tha hồ mà yêu mến Chúa, miễn là tôi không tìm kiếm một điều gì khác cao quí hơn…. ‘Xin đừng giận dữ bỏ tôi tớ Chúa mà đi’, kẻo khi tìm kiếm Chúa tôi lại d1nh bén với những cái gì khác. Còn gì sầu thảm hơn điều ấy đối với con người yêu mến và tìm kiếm sự thật dung nhan Ngài?” ("Commentaries on the Psalms," 26,1,8-9, Rome, 1967, pp. 355, 357).

Anh chị em thân mến,

Phần thứ hai của bài Thánh Vịnh 26 nói về lòng trông cậy nơi Thiên Chúa trong những cơn hoạn nạn. Bất chấp sự hiện diện của sự dữ trên thế gian này, vị tác giả Thánh Vịnh cũng vẫn kiên trì hy vọng. Lòng tin tưởng nơi Chúa phải là những gì phấn khích và ủi an tất cả những ai cảm thấy bị bỏ rơi và cô quạnh, vì Thiên Chúa đã trở nên hữu hình cho chúng ta nơi Chúa Kitô. Chúng ta hặp gỡ Chúa của mình đặc biệt nơi phụng vụ cũng như nơi việc cầu nguyện riêng tư, khi chúng ta hành trình tiến về ngày chúng ta sẽ được thấy Ngài “nhãn tiền”.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến vào ngày Thứ Tư, 28/4/2004.