Bài 129 (Thứ Năm 15/12/2004)
Đấng Thiên Sai, Vị Vương Chủ Chính Trực, Đấng Bênh Vực Người Nghèo
(Thánh Vịnh 71 [72]: 12-19, Kinh Tối Thứ Năm, Tuần Thứ Hai)
1. Phụng Vụ Kinh Chiều, giờ kinh phụng vụ chúng ta đang chia sẻ về một loạt các bài Thánh Vịnh của nó, đã sắp xếp Thánh Vịnh 71 (72), một bài thánh thi ca về cung đình, cho chúng ta được chia làm hai phần. Sauk hi đã suy niệm phần thứ nhất (x các câu 1-11), giờ đây chúng ta tiến đến việc chuyển động thi ca và thiêng liêng của bài ca được giành cho hình ảnh vinh quang của Đức Vua Thiên Sai (x câu 12-19). Tuy nhiên, chúng ta cần phải nói ngay là phần kết ở 2 câu cuối cùng (18-19) thật ra là hai câu được thêm thắt về phụng vụ sau này vào bài Thánh Vịnh.Thật vậy, nó là một lời chúc tụng ngắn ngủi nhưng đầy đủ để niêm ấn phần thứ hai của 5 tập 150 bài Thánh Vịnh được phân chia theo truyền thống Do Thái: tập thứ hai bắt đầu bằng Thánh Vịnh 41 (42), bài thánh vịnh của một con nái khát, biệu hiệu rõ ràng của một thứ khát vọng Thiên Chúa về mặt thiêng liêng. Giờ đây, nó là một bài ca hy vọng trong một kỷ nguyên hòa bình và công lý bao gồm thứ tự những bài Thánh Vịnh cũng như những lời lẽ của việc chúc tụng cuối cùng tôn tụng việc hiện diện hiệu năng của Chúa, dù trong lịch sử của nhân loại, nơi Ngài “làm những việc kỳ diệu” (Ps 71[72]:18), hay nơi vũ trụ tạo dựng đầy hiển vinh của Ngài (câu 19).
2. Như trong trường hợp của phần thứ nhất của bài Thánh Vịnh này, yếu tố quyết liệt để nhận ra hình ảnh của Đức Vua Thiên Sai trước hết đó là sự chính trực và tình yêu thương của Ngài đối với thành phần nghèo khổ (câu 12-14). Họ có một mình Ngài là diểm tựa và là nguồn hy vọng, vì Ngài tiêu biểu hữu hình cho Đấng bênh vực và chủ trị của họ là Thiên Chúa. Lịch sử của Cựu Ước dạy rằng những vị vương chủ của dân Do Thái thực sự rất thường phản nghịch lại việc dấn thân này của họ, khi lạm dụng quyền hành của mình đối với thành phần yếu kém, thành phần bất hạnh và thành phần nghèo khổ.
Bởi thế mà Thánh Vịnh gia mới nhìn tới một vị vua công minh chính trực hoàn hảo hiện thân nơi Đấng Thiên Sai, vị vương chủ duy nhất sẵn sàng ra tay cứu chuộc thành phần bị áp bức “khỏi bị kìm kẹp và hành hung” (câu 14). Tiếng Do Thái được sử dụng ở đây là một tiếng về pháp lý của kẻ bảo vệ thành phần thấp hèn nhất và thành phần nạn nhân, cũng được áp dụng cho dân Do Thái “được cứu chuộc” khỏi cảnh làm tôi khi họ bị quyền lực Pharaoh đàn áp.
Chúa là “vị cứu chuộc giải cứu” chính yếu, Đấng hành động một cách hữu hình qua Đức Vua Thiên Sai, khi bênh vực “sự sống và máu” của thành phần nghèo khổ, những người được bảo vệ của Ngài. Ở đây, “sự sống” và “máu” là thực tại nồng cốt của con người, tiêu biểu cho các thứ quyền lợi cũng như phẩm giá của hết mọi người, những quyền lợi thường bị vi phạm bởi thành phần quyền năng thế lực và ngông cuồng trên thế gian này.
3. Ở nguyên bản của mình, bài Thánh Vịnh 71(72) chấm dứt, trước luân khúc cuối cùng đã được đề cập tới, bằng một lời chúc tụng tôn vinh Đức Vua Thiên Sai (câu 15-17). Nó như tiếng của một kèn đồng phụ họa cho một ca đoàn dâng lời chào chúc cho vị vương chủ này, cho sự sống của ông, cho phúc hạnh của ông, cho phúc lành của ông, cho sự trường tồn qua các thế kỷ của ông.Dĩ nhiên, đây là những yếu tố thuộc về kiểu cách của những thứ sáng tác cung đình, với những đặc tính hợp với chúng. Thế nhưng, ở đây những lời lẽ ấy cũng tỏ hiện được sự thật của mình nơi hành động của vị vua toàn hảo ấy, một vị vua được đợi chờ và trông mong, đó là Đấng Thiên Sai.
Theo một đặc tính của những bài thơ về thiên sai thì tất cả thiên nhiên tạo vật được bao gồm vào một thứ biến đổi mà trước tiên là những gì về xã hội: Hạt lúa miến của mùa gặt sẽ trổ sinh muôn vàn khi trở thành hầu như mênh mông bông lúa miến chập chờn trên đỉnh các ngọn núi (câu 16). Nó là dấu chỉ phúc lành thần linh tự tràn ngập trên một trái đất bằng an và yên hàn. Chưa hết, toàn thể nhân loại, khi phá vỡ và loại trừ đi tất cả mọi thứ chia rẽ, sẽ qui tụ về vị vương chủ công minh chính trực này, nhờ đó hoàn trọn lời hứa cả thể được Chúa hứa với Abraham, đó là “Chớ gì các bộ tộc trên trái đất này nhờ Người dâng lời chúc tụng” (câu 17; x Gen 12:3).
4. Truyền thống Kitô giáo đã trực giác thấy được nơi dung nhan của Đức Vua Thiên Sai này hình ảnh của Chúa Giêsu Kitô. Trong bài “Dẫn Giải về Thánh Vịnh 71” của mình, Thánh Âu Quốc Tinh, khi đọc bài ca này theo chiều hướng Kitô học, đã giải thích rằng thành phần bần cùng và thành phần nghèo khổ, những thành phần được Chúa Kitô đến giải cứu là “thành phần tin tưởng nơi Người”. Hơn nữa, khi nhắc lại những vị vua được đề cập tới trước đây trong bài Thánh Vịnh này, ngài nói rõ là “nơi dân tộc ấy cũng bao gồm cả những vị vua tôn thờ Ngài. Thật vậy, họ đã không khinh thường trong việc trở nên bần cùng và nghèo khổ, tức là khiêm tốn thú nhận lỗi lầm của mình và nhìn nhận mình cần đến vinh quang và ân sủng của Thiên Chúa, nhờ đó, vị vua này, con của đức vua, sẽ giải thoát họ khỏi kẻ quyền uy”, tức là Satan, “tên vu khống”, tên “mạnh mẽ”. “Thế nhưng, vị Cứu Thế của chúng ta đã hạ thành phần vu khống, và tiến vào nhà của kẻ mạnh, bằng cách cướp đoạt những thứ giầu sang phú quí của họ sau khi xiềng xích họ lại; Người đã giải phóng thành phần bần cùng khỏi kẻ quyền uy thế lực, cùng thành phần nghèo khổ không có ai cứu vớt họ”. Thật vậy, điều này không thể nào thực hiện được bởi bất cứ quyền lực tự nhiên nào: không phải quyền lực của người công chính hay quyền lực của thần trời. Không một ai có thể cứu nổi chúng ta; đó là lý do tại sao Người đã đích thân đến để cứu độ chúng ta” (71,14: "Nuova Biblioteca Agostiniana" (New Augustinian Library), XXVI, Rome, 1970, pp. 809,811).
Anh Chị Em thân mến,
Bài Thánh Vịnh 71, được xướng lên ở đầu buổi triều kiến này, kêu mời chúng ta hãy chú ý trọn vẹn hơn nữa ý nghĩa của Mùa Vọng phụng vụ này. Nó là một bài Thánh Vịnh cung đình, một bài thánh vịnh diễn tả một vị vua công chính và sốt mến, vị vua bênh vực kẻ nghèo và thành phần bị đàn áp (x Ps 71:12-13).
Truyền Thống Kitô Giáo đã nhìn thấy nơi hình ảnh này một Đức Thiên Sai và là một Đức Vua, ám chỉ về Chúa Giêsu Kitô, Con của Đức Trinh Nữ Maria, Đấng Cứu Thế hằng mong đợi đã lâu.
Việc hạ sinh của Chúa Giêsu như thế là việc hoàn thành của lời hứa cao cả được Chúa thực hiện với Abraham: “nơi Người mà mọi bộ tộc đều được chúc phúc” (verse 17; see Genesis 12:3).
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến vào ngày Thứ Tư, 15/12/2004.