Vấn Đề Mạc Khải

               

                Trong khóa tĩnh huấn cho giới trẻ tại Riverside California tối ngày 29-11-1996, vị giáo sư triết học, dạy ở một đại chủng viện, hướng dẫn buổi hội thảo đã nói:

                - "Vì là người nên Chúa Giêsu cũng có thể 'wrong'"!

                Vào buổi hội thảo tối hôm sau, tôi đã đặt lại vấn đề với các khóa sinh như sau:

                - "Các em có tin rằng 'vì là người nên Chúa Giêsu  cũng có thể sai lầm' không?".

                - "Có", mấy em trả lời không lưỡng lự, như một điều hoàn toàn hợp tình hợp lý.

                - "Thế trong Thánh Kinh có chỗ nào cho thấy Chúa Giêsu 'wrong' không?", tôi gợi ý cho các em.

                - "Nhưng Thánh Kinh là do loài người viết ra", một em đáp lại.

                - "Đúng, Thánh Kinh là do loài người viết ra, nhưng theo ơn linh ứng của Thiên Chúa...", tôi lợi dụng cắt nghĩa.

                - "Dù vậy, người ta vẫn có thể cắt nghĩa sai", cũng em đó nhận định.

                - "Bởi thế mới cần phải có thẩm quyền của Giáo Hội", tôi khẳng định.

                Phải, toàn thể giáo lý Kitô giáo là do Huấn Quyền (Magisterium) của Giáo Hội dạy theo Thánh Truyền (sacred Tradition) đúng như Mạc Khải được ghi nhận trong Thánh Kinh (sacred Scipture).

                Vì tất cả những gì cần tin và giữ được mạc khải như thế, Kitô giáo thực sự là một thiên đạo, một đạo hoàn toàn bởi trời!

 

Hiến Chế: "Dei Verbum"

 

 

(Bản dịch của phân khoa thần học, Giáo Hoàng Học Viện Piô X, Đà Lạt Việt Nam, trong cuốn "Thánh Công Đồng Chung Vaticanô II", xuất bản năm 1972, trang 485-517).

 

 

Lời mở đầu

                -1-                Trong niềm thành kính lắng nghe và tin tưởng công bố Lời Thiên Chúa, Thánh Công Đồng lập lại lời Thánh Gioan: "Chúng tôi loan truyền cho anh em sự sống đời đời, đã có nơi Chúa Cha và đã hiện đến với chúng tôi: điều chúng tôi đã thấy, đã nghe, chúng tôi loan truyền cho anh em, để anh em cũng được hiệp nhất với chúng tôi, và chúng tôi hiệp nhất với Chúa Cha và với Chúa Giêsu Kitô Con Ngài" (1Gio.1,2-3). Bởi thế noi gương Công Đồng Triđentinô và Vaticanô I, Công Đồng này muốn trình bày giáo lý chân thực về mạc khải của Thiên Chúa và lưu truyền mạc khải ấy, để khi nghe công bố ơn cứu độ, toàn thể nhân loại tin theo, để nhờ tin mà hy vọng, và nhờ hy vọng mà yêu mến (x.T.Augustinô, De catechizandis rudibus, ch.IV,8: PL 40,316).

 

Chương I

Về Chính Việc Mạc Khải

 

Bản tính và đối tượng của mạc khải

                -2-                Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan đã muốn mạc khải chính mình và tỏ cho mọi người biết bí tích Thánh Ý Ngài (x.Eph.1,9). Nhờ đó, loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể, trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần bản tính của Thiên Chúa (x.Eph.2,18' 2P.1,4). Trong việc mạc khải này, với tình thương chan chứa của Ngài, Thiên Chúa vô hình (x.Col.1,15' 1Tm.1:17) ngỏ lời với loài người như với bạn hữu (x.Xac.33,11' Gio.15,14-15). Ngài đối thoại với họ (x.Bar.3:38) để mời gọi và đón nhận họ hiệp nhất với Ngài. Công cuộc mạc khải này được thực hiện bằng các hành động và lời nói liên kết mật thiết với nhau. Nên các việc Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử cứu rỗi bày tỏ, củng cố giáo lý và những điều được giải thích qua lời nói. Còn lời nói thì công bố các việc làm và khai sáng mầu nhiệm chứa đựng trong đó. Nhờ mạc khải này, chân lý thâm sâu về Thiên Chúa cũng như về phần rỗi con người được sáng tỏ nơi Chúa Kitô, Đấng trung gian, đồng thời là sự viên mãn của toàn thể mạc khải (x.Mt.11,27' Gio.1,14,17'14,6'17,1-3' 2Cor.3,16'4,6' Eph.1,3-14).

 

Chuẩn bị mạc khải Phúc Âm

                -3-                Thiên Chúa, Đấng tạo dựng và bảo tồn mọi sự nhờ Ngôi Lời (x.Gio.1,3), không ngừng làm chứng về Mình trước mắt loài người qua các tạo vật (x.Rm.1,19-20). Và vì muốn mở đường cứu rỗi cao trọng, nên từ đầu Ngài còn tỏ Mình ra cho tổ tông chúng ta. Sau khi tổ tông sa ngã, qua lời hứa ban ơn cứu chuộc, Ngài đã nâng đỡ họ dậy trong niềm hy vọng cứu rỗi (x.Stk.3,15). Ngài không ngừng săn sóc nhân loại để ban sự sống đời đời cho tất cả những ai tìm kiếm sự cứu rỗi nhờ kiên tâm làm việc thiện (x.Rm.2,6-7). Khi đến giờ đã định, Ngài gọi Abraham để qua ông, Ngài tạo lập một dân tộc lớn mạnh (x.Stk.12,2-3), một dân tộc mà sau thời các Tổ Phụ, Ngài đã dùng Môisen và các ngôn sứ dạy dỗ để họ nhận biết Ngài là Chúa duy nhất, hằng sống và chân thật, là Cha quan phòng, là thẩm phán chí công, để họ trông đợi Đấng Cứu Thế được hứa ban và nhờ vậy, qua bao thế kỷ, Ngài đã dọn đường cho Phúc Âm.

 

Đức Kitô hoàn tất mạc khải

                -4-                Sau khi phán dạy nhiều lần, nhiều cách qua các Tiên Tri, "nay là thời cuối cùng, Thiên Chúa đã nói với chúng ta qua Chúa Con" (Dth.1,1-2). Thực vậy, Ngài đã sai Con Ngài là Ngôi Lời vĩnh cửu, Đấng sáng soi mọi người, đến sống giữa loài người và nói cho họ nghe những điều kín nhiệm nơi Thiên Chúa (x.Gio.1,1-18). Bởi vậy, Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể "là người đã được sai đến với loài người" (Epist.ad Diognetum, 7,4: Funk, Patres Apostolici, 1,403), "nói tiếng nói của Thiên Chúa" (Gio.3,34) và hoàn thành chương trình cứu rỗi của Chúa Cha đã giao phó cho Người thực hiện (x.Gio.5,36'17,4). Vì thế, chính Người, Đấng mà ai thấy tức là thấy Chúa Cha (x.Gio.14,9), đã đến bổ túc và hoàn tất mạc khải, bằng tất cả sự hiện diện và tỏ mình qua lời nói cũng như việc làm, dấu chỉ và phép lạ, nhất là qua cái chết và sự sống lại vinh quang từ kẻ chết, sau cùng bằng việc phái Thần Chân Lý đến, bằng chứng tích của Thiên Chúa, Người xác nhận Thiên Chúa hằng ở với chúng ta để giải thoát chúng ta khỏi bóng tối tội lỗi và sự chết, rồi phục sinh chúng ta để được sống đời đời.

                Vậy nhiệm cuộc Kitô giáo sẽ không bao giờ mai một, vì là giao ước mới và vĩnh viễn. Chúng ta không phải chờ đợi một mạc khải công cộng nào khác nữa trước khi Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta hiện đến trong vinh quang (x.Tm.6,14' Tit.2,13).

 

Mạc khải phải được đón nhận bằng đức tin

                -5-                Phải bầy tỏ "sự vâng phục bằng đức tin" (Rm.16,26' x.Rm.1,5' 2Cor.10,5-6) đối với Thiên Chúa mạc khải. Nhờ sự vâng phục đó, con người phó thác toàn thân cho Thiên Chúa một cách tự do "dâng lên Thiên Chúa mạc khải sự qui phục hoàn toàn của lý trí và ý chí" (CĐ Vat.I, hiến chế về đức tin công giáo Dei Filius, ch.3: Dz 1789), đồng thời sẵn lòng chấp nhận mạc khải Ngài ban cho. Để được niềm tin này, cần có ân sủng Thiên Chúa đi trước giúp đỡ và sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần' Ngài thúc đẩy và qui hướng con tim về cùng Thiên Chúa, mở mắt lý trí và ban cho "mọi người cảm thấy dịu ngọt khi đón nhận và tin theo chân lý" (CĐ Orange II,đ.th.7' CĐ Vat.I,n.v.t: Dz 1791). Và để việc hiểu biết mạc khải được sâu rộng thêm mãi, cũng chính Chúa Thánh Thần không ngừng kiện toàn đức tin qua các ơn của Ngài.

 

Tương quan giữa tri thức tự nhiên và siêu nhiên về Thiên Chúa

                -6-                 Thiên Chúa đã muốn dùng mạc khải để bày tỏ và thông ban chính mình Ngài cùng những ý định muôn đời của Ngài liên quan đến phần rỗi nhân loại, "nghĩa là cho họ được tham dự vào các sự tốt lành thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn vượt khỏi trí khôn loài người" (CĐ Vat.I Hiến chế tín lý về đức tin công giáo Dei Filius, ch.2: Dz 1786).

                Thánh Công Đồng tuyên xưng rằng: "Con người nhờ ánh sáng tự nhiên của lý trí, có thể từ các tạo vật nhận biết cách chắc chắn có Thiên Chúa như nguyên lý và cứu cánh mọi sự" (x.Rm.1,20). Công Đồng còn dạy: chính nhờ Thiên Chúa mạc khải mà "tất cả những gì thuộc về Thiên Chúa, tự nó vốn không vượt qúa khả năng lý trí con người, trong hoàn cảnh hiện tại của nhân loại, đều có thể biết được cách dễ dàng, chắc chắn mà không lẫn lộn sai lầm" (n.v.t.: Dz 1785-1786).

 

Chương II

Sự Lưu Truyền Mạc Khải Của Thiên Chúa

 

Tông đồ và các người kế vị loan truyền Phúc Âm

            -7-            Những gì Thiên Chúa đã mạc khải để cứu rỗi muôn dân, Ngài đã ân cần sắp đặt để luôn được bảo toàn và lưu truyền nguyên vẹn cho mọi thế hệ. Bởi thế Chúa Kitô, nơi Người Thiên Chúa tối cao hoàn tất trọn vẹn nguồn mạc khải (x.2Cor.1,20 và 3,16-4,6), đã truyền dạy các Tông Đồ rao giảng cho mọi người Phúc Âm được hứa trước qua miệng các Tiên Tri cùng được chính Người thực hiện và công bố' các Ngài rao giảng Phúc Âm như nguồn mọi chân lý cứu độ và lề luật luân lý (x.Mt.28,19-20 và Mc.16,15. CĐ Triđen, khóa 4, sắc lệnh De canonicis scripturis: Dz 783), đồng thời thông ban cho họ các ân huệ của Thiên Chúa. Việc này đã được thực hiện cách trung thành, một phần do các Tông Đồ: hoặc qua lời giảng dạy, gương lành và các thể chế các ngài đã truyền lại những gì đã nhận lãnh từ miệng Chúa Kitô khi chung sống với Người và thấy Người hành động, hoặc đã học biết được nhờ Chúa Thánh Thần gợi ý' một phần do chính các ngài và những người phụ tá các ngài viết lại tin mừng cứu rỗi dưới sự linh ứng của cùng một Chúa Thánh Thần (x.CĐ Triđen.,n.v.t. - CĐ VatI, khóa 3, Hiến chế tín lý về đức tin Công Giáo Dei Filius, ch.2: Dz 1787).

            Nhưng để Phúc Âm được gìn giữ toàn vẹn và sống động mãi trong Giáo Hội, các Tông Đồ đã để lại những người kế vị là các Giám Mục và "trao lại cho họ quyền giáo huấn của các ngài" (T.Irêneô, Adv.Haer.III,3,1: PG 7,848' Harvey,2,trg 9). Bởi vậy, Thánh Truyền đó cùng với Thánh Kinh Cựu và Tân Ước, là như tấm gương mà Giáo Hội lữ thữ trên trần gian nhìn vào đó để chiêm ngưỡng Thiên Chúa, nơi Ngài Giáo Hội nhận lãnh tất cả, cho đến khi được dẫn tới để nhìn thấy Ngài, diện đối diện, như chính bản tính Ngài (x.Gio.3,2).

 

Thánh truyền

            -8- Vì vậy, những lời giảng dạy của các Tông Đồ được đặc biệt ghi lại trong cách sách linh ứng, phải được bảo tồn và liên tục lưu truyền cho đến tận thế. Do đó khi truyền lại những gì chính mình đã nhận lãnh, các Tông Đồ khuyến cáo tín hữu phải giữ gìn các truyền thống họ đã học biết qua lời chỉ giáo hay bằng thư từ (x.2Th.2,15), và phải chiến đấu để bảo vệ đức tin chỉ được truyền dạy cho họ một lần thôi (Gđa 3) (x.CĐ Nicea II: Dz 303 - CĐ Constantinopla IV, khóa 10, Đ.th.1: Dz 336). Và những điều các Tông Đồ truyền lại bao gồm tất cả những gì góp phần vào việc giúp Dân Thiên Chúa sống một thời thánh thiện và làm tăng triển đức tin. Như vậy, Giáo Hội qua giáo lý, đời sống và việc thờ phượng của mình, bảo tồn và lưu truyền cho mọi thế hệ tất cả thực chất của mình và tất cả những gì mình tin.

            Thánh Truyền do các Tông Đồ truyền lại được tiến triển trong Giáo Hội dưới sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần (x.CĐ Vat.I, Hiến chế tín lý về Đức tin Công Giáo Dei Filius, ch.4: Dz 1800). Thật vậy, các sự việc và lời nói truyền lại được hiểu biết thấu đáo hơn, nhờ sự chiêm ngắm và học hỏi của các tín hữu, những người đã ghi nhận các điều đó trong lòng (x.Lc.2,19 và 51), nhờ sự thông hiểu những điều thiêng liêng họ cảm nghiệm được, hoặc nhờ việc giảng dạy của những người lãnh nhận một đoàn sủng chắn chắn về chân lý do việc kế vị trong chức Giám Mục. Nói cách khác, qua bao thế kỷ Giáo Hội luôn hướng tới sự viên mãn của chân lý Thiên Chúa, cho đến khi lời Chúa được hoàn tất nơi chính Giáo Hội.

            Lời các Thánh Giáo Phụ chứng thực sự có mặt sống động của Thánh Truyền' và sự phong phú của Thánh Truyền đã thâm nhập vào thực hành và đời sống của Giáo Hội hằng tin tưởng và cầu nguyện. Nhờ Thánh Truyền ấy, Giáo Hội biết được toàn bộ chính lục Thánh Kinh và cũng nhờ Thánh Truyền, Thánh Kinh được hiểu biết thấu đáo hơn, cũng như Thánh Truyền đã làm cho Thánh Kinh không ngừng hoạt động. Như vậy Thiên Chúa, Đấng xưa đã phán dạy, nay vẫn không ngừng ngỏ lời với Hiền Thê của Con yêu dấu mình' và Thánh Thần, Đấng làm cho tiếng nói sống động của Phúc Âm vang dội trong Giáo Hội và nhờ Giáo Hội làm vang dội trong thế giới, hướng dẫn các tín hữu nhận biết toàn thể chân lý và làm cho lời Chúa Kitô tràn ngập lòng họ (x.Gio.3,16).

 

Tương quan giữa Thánh Truyền và Thánh Kinh

            -9- Bởi vậy, Thánh Truyền và Thánh Kinh liên kết, phối hiệp mật thiết với nhau vì cả hai phát xuất từ một nguồn mạch là Thiên Chúa, có thể nói kết hợp nên một và cùng hướng về một mục đích. Thực vậy, Thánh Kinh là lời Chúa nói, vì được ghi chép lại dưới sự linh ưúng của Chúa Thánh Thần' còn lời Chúa, mà Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần đã ủy thác cho các Tông Đồ, thì Thánh Truyền Lưu lại toàn vẹn cho những kẻ kế vị các ngài, để nhờ Thần Chân Lý soi sáng, họ trung thành gìn giữ, trình bày và phổ biến qua lời rao giảng. Do đó, Giáo Hội không chỉ nhờ Thánh Kinh mà biết cách xác thực những điều mạc khải. Chính vì thế cả Thánh Kinh lẫn Thánh Truyền đều phải được đón nhận và tôn kính bằng một tâm tình qúy mến và kính trọng như nhau (x.CĐ Triđen, sắc lệnh De Canonicis Scripturis: Dz 783).

 

Tương quan giữa Thánh Truyền, Thánh Kinh, Dân Chúa và Huấn Quyền

            -10- Thánh Truyền và Thánh Kinh hợp thành một kho tàng thánh thiện duy nhất chứa đựng lời Thiên Chúa và được ủy thác cho Giáo Hội. Trong khi gắn bó với kho tàng ấy, toàn thể dân thánh hiệp nhất với các chủ chăn, luôn được vững bền trong giáo lý các Tông Đồ, trong niềm hiệp thông, trong việc bẻ bánh và lời cầu nguyện (x.CvSĐ 2,42, bản Hy Lạp), đến nỗi trong việc tuân giữ, thực hành và tuyên xưng đức tin lưu truyền, các Giám Mục và tín hữu hiệp nhất với nhau cách lạ lùng (x.Piô XII, Tông hiến Munificentissimus Deus, 1-11-1950: AAS 42, 1950, trg 756).

            Nhiệm vụ chú giải đích thực lời Chúa đã được viết ra hay lưu truyền (x.CĐ Vat I, Hiến chế tín lý về đức tin Công Giáo Dei Filius, ch 3: Dz 1792) chỉ được ủy thác cho Quyền Giáo Huấn sống động của Giáo Hội (x.Piô XII, Tđ. Humani generis, 12-8-1950: AAS 42, trg 568-569: Dz 2314) và Giáo Hội thi hành quyền đó nhân danh Chúa Giêsu Kitô. Tuy nhiên Quyền Giáo Huấn này không vượt trên lời Chúa nhưng để phục vụ lời Chúa, chỉ dạy những gì đã được truyền lại, vì thừa lệnh Chúa và với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội thành tâm lắng nghe, gìn giữ cách thánh thiện và trung thành trình bày lời Chúa, đồng thời từ kho tàng duy nhất ấy, Giáo Hội rút ra mọi chân lý mà dạy phải tin là do Thiên Chúa mạc khải.

            Bởi thế, hiển nhiên là Thánh Truyền, Thánh Kinh và Quyền Giáo Huấn của Giáo Hội, theo ý định vô cùng khôn ngoan của Thiên Chúa, liên kết và phối hợp với nhau đến nỗi không thực thể nào trong ba có thể đứng vững một mình được. Và dưới tác động của một Chúa Thánh Thần duy nhất, cả ba, theo phương cách riêng, cùng góp phần hữu hiệu vào việc cứu rỗi các linh hồn.

 

Chương III

Sự Linh Ưng của Thiên Chúa

và Việc Giải Thích Thánh Kinh

 

Sự linh ứng và chân lý trong Thánh Kinh   

            -11-             Những gì Thiên Chúa mạc khải mà Thánh Kinh chứa đựng và trình bày, đều được viết ra dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần. Thực vậy, Giáo Hội Mẹ Thánh, nhờ đức tin tông truyền, xác nhận rằng toàn bộ sách Cựu Ước cũng như Tân Ước với tất cả các thành phần đều là sách thánh và được ghi vào bản chính lục Thánh Kinh: bởi lẽ được viết ra dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần (x.Gio.20,31' 2Tm.3,16' 2Pt.1,19-21'3:15-16) nên tác giả của các sách ấy là chính Thiên Chúa và chúng được lưu truyền cho Giáo Hội với tình trạng như vậy (x.CĐ Vat I, Hiến chế tín lý về Đức tin Công Giáo Dei Filius, ch.2: Dz 1787). Nhưng để viết các sách thánh, Thiên Chúa đã chọn những người và dùng họ trong khả năng và phương tiện của họ (x.Piô XII, Tđ. Divino afflante Spiritu, 30-9-1943: AAS 35, 1943, trg 314' EB 556), để khi chính Ngài hành động trong họ và qua họ (x.Dth 1,1 và 4,7' 2Sm.23,2' Mt.1,22 - CĐ Vat.I: schema de doctr, cath, ghi chú số 9: Cọ.Lac. VII,522), họ viết ra như những tác giả đích thực tất cả những gì Chúa muốn, và chỉ viết những điều đó thôi (Lêô XIII, Tđ Providentissimus Deus, 18-11-1893: Dz 1952' EB 125).

            Vì phải xem mọi lời các tác giả được linh ứng viết ra, tức các thánh sử, là những lời của Chúa Thánh Thần, nên phải công nhận rằng Thánh Kinh dạy ta cách chắc chắn, trung thành và không sai lầm, những chân lý mà Thiên Chúa đã muốn Thánh Kinh ghi lại vì phần rỗi chúng ta (x.T.Augustinô De Gen. ad litt. 2,9,20: PL 270-271' CSEL 28,1,46-47 và Epist. 82,3: PL 33,277: CSEL 34,2,354 - T.Tôma, De Ver.q.12a.2,C - CÁ Triđen, khoá 4, De canonis scripturis: Dz 783 - Lêô XIII Tđ. Providentissimus Deus: EB 121,124,126-127 - Piô XII, Tđ Divino afflante Spiritu: EB 539). Bởi vậy "mọi sự trong Thánh Kinh được Thiên Chúa linh ứng có ích lợi cho việc dạy dỗ, biện luận, sửa trị và rèn luyện trong công chính: để người của Thiên Chúa trở nên trọn hảo và sẵn sàng thực hiện mọi việc lành" (2Tm.1,16-17 bản Hy lạp).

 

Cách thức giải thích Thánh Kinh

            -12-             Tuy nhiên vì trong Thánh Kinh, Thiên Chúa đã nhờ loài người và dùng cách nói của loài người mà phán dạy (T.Augustinô De civ. Dei, XVII, 6,2: PL 41,537' CSEL 40,2,228), nên để thấy rõ điều chính Ngài muốn truyền đạt cho chúng ta, người giải thích Thánh Kinh phải cẩn thận tìm hiểu điều các thánh sử thực sự có ý trình bày và điều Thiên Chúa muốn diễn tả qua lời lẽ của họ.

            Để tìm ra chủ ý của thánh sử, giữa những phương pháp khác, cũng cần phải xét đến văn loại. Vì chân lý được trình bày và diễn tả qua nhiều thể văn khác nhau, như thể văn lịch sử, ngôn sứ, thi phú hoặc những thể văn diễn tả khác. Hơn nữa, người giải thích còn có bổn phận tìm hiểu ý nghĩa mà trong những trường hợp xác định, thánh sử đã muốn diễn tả và thực sự đã diễn tả trong hoàn cảnh thời đại và văn hóa của họ, qua các lối văn được dùng trong thời đó (T.Aug. De doctr. Christ. III.18,26: PL.34,75-76' CSEL 80,95). Thực vậy, để hiểu đúng ý nghĩa tác giả Thánh Kinh muốn qủa quyết trong bản văn, chúng ta phải chú tâm đúng mức đến các cách thức cảm nghĩ, diễn tả, tường thuật do bẩm sinh, được thịnh hành trong thời của họ, cũng như phải để ý đến các hình thức mà người thời ấy thường dùng khi giao tế với nhau (Piô XII, n.v.t.: Dz 2294' EB 557-562).

            Nhưng Thánh Kinh đã được viết ra bởi Chúa Thánh Thần, nên cũng phải được đọc và giải thích trong Chúa Thánh Thần (x.Bênêđictô XV, Tđ Spiritus Paraclitus, 15-9-1920: EB 469 - T.Hieronimô, In Gal., 5,19-21: PL 26,417A). Và để hiểu đúng ý nghĩa của sách thánh, chúng ta cũng phải ân cần lưu ý đến nội dung và sự thống nhất toàn bộ Thánh Kinh, dựa trên truyền thống sống động của toàn Giáo Hội và trên sự tượng hợp toàn bộ đức tin. Theo các qui tắc ấy, người giải thích có nhiệm vụ nỗ lục tìm hiểu và trình bày ý nghĩa Thánh Kinh cách sâu rộng hơn, hầu sự học hỏi của họ, như một việc làm chuẩn bị, giúp phán quyết của Giáo Hội được chín chắn. Thực vậy, mọi điều liên hệ đến việc giải thích Thánh Kinh cuối cùng đều phải tùy thuộc vào phán quyết của Giáo Hội, vì Giáo Hội được Thiên Chúa giao cho sứ mệnh và chức vụ gìn giữ và giải thích lời Chúa (x.CĐ Vat.I, Hiến chế tín lý về đức tin công giáo Dei Filius, ch.: Dz 1788).

 

Sự "hạ mình" cửa Đấng Khôn Ngoan

            -13- Cho nên, trong Thánh Kinh, sự hạ mình kỳ diệu của Đấng Khôn Ngoan muôn đời được tỏ lộ, mà vẫn không tổn thương đến sự chân thật và thánh thiện của Thiên Chúa, "để chúng ta học biết lượng nhân từ vô biên của Chúa, và trong sự quan phòng săn sóc đến bản tính chúng ta, Ngài đã thích ứng lời nói của Ngài đến mức nào" (T.Gioan Kim Khẩu, In Gen.3,8: PG 53,134). Vì lời nói của Chúa diễn tả qua ngôn ngữ nhân loại, được đồng hóa với tiếng nói loài người, cũng như khi xưa Ngôi Lời của Cha Hằng Hữu đã trở nên giống loài người, sau khi nhận lấy sự yếu đuối của xác thịt.

 
Chương IV

Cựu Ước

 

Lịch sử cứu độ trong các sách Cựu Ước

            -14- Thiên Chúa chí ái, khi ân cần trù liệu và chuẩn bị việc cứu độ toàn thể nhân loại theo một kế hoạch lạ lùng, Ngài đã tuyển chọn một dân tộc để ủy thác những lời ước hẹn. Thực vậy, sau khi ký giao ước với Abraham (x.Stk 15,18) và với dân Israel qua Môísen (x.Xac 24,8) Ngài đã dùng lời nói, việc làm mạc khải cho dân Ngài đã chọn để họ biết Ngài là Thiên Chúa độc nhất, chân thật và hằng sống, để Israel nghiệm thấy đâu là đường lối Thiên Chúa đối xử với loài người, và để nhờ chính Ngài phán dạy qua miệng các Tiên Tri, ngày qua ngày, họ thấu hiểu các đường lối ấy cách sâu đậm và rõ ràng hơn, để rồi đem phổ biến rộng rãi nơi các dân tộc (x.Tv 21,28-29'95,1-3' Is.2,1-4: Gier 3,17). Vì vậy nhiệm cuộc cứu rỗi được các thánh sử tiên báo, thuật lại và giải thích trong các sách Cựu Ước như là lời nói chân thật của Chúa. Bởi vậy các sách được Thiên Chúa linh ứng này luôn có một giá trị vĩnh cửu: "vì những gì đã được ghi chép là để dạy dỗ chúng ta, hầu chúng ta được hy vọng nhờ sự kiên nhẫn và nhờ sự ủi an của Thánh Kinh" (Rm.15,4).

 

Tầm quan trọng của Cựu Ước đối với các Kitô hữu

            -15- Lý do sự hiện hữu của nhiệm cuộc cứu rỗi thời Cựu Ước, là để chuẩn bị và tiên báo ngày xuất hiện của Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc muôn loài (x.Lc.24,44' Gio.5,39' 1P.1,10) và ngày khai nguyên Vương quốc của Đấng Massia, đồng thời biểu thị các biến cố ấy dưới nhiều hình bóng khác nhau (x.1Cor.10,11). Thích ứng với hoàn cảnh nhân loại sống trước thời cứu độ do Chúa Kitô thiết lập, các sách Cựu Ước trình bày cho mọi người biết Thiên Chúa là ai và con người là ai, đồng thời trình bày Thiên Chúa công bình và nhân từ đối xử với loài người như thế nào. Tuy có nhiều khuyết điểm và tạm bợ, nhưng các sách ấy minh chứng khoa sư phạm đích thực của Thiên Chúa (Piô XI. Tđ Mit brennender Sorge, 14-3-1937: AAS 29, trg 151). Do đó, các Kitô hữu phải thành kính đón nhận các sách này, vì chúng diễn tả một cảm thức sâu sắc về Thiên Chúa, tàng trữ những lời giáo huấn cao siêu về Ngài, những tư tưởng khôn ngoan và hữu ích về đời sống con người, những kho tàng kinh nghiệm tuyệt diệu và sau cùng ẩn chứa mầu nhiệm cứu rỗi chúng ta.

 

Sự thống nhất giữa Cựu và Tân Ước

            -16- Bởi thế, Thiên Chúa Đấng linh ứng và là tác giả các sách Cựu Ước cũng như Tân Ước, đã khôn ngoan sắp xếp cho Tân Ước được tiềm ẩn trong Cựu Ước, và Cựu Ước trở nên sáng tỏ trong Tân Ước (T.Augustinô, Quaest.in Hept. 2,73: PL 34,623). Thực vậy, dù Đức Kitô thiết lập Giao Ước Mới trong máu Ngài (x.Lc.22,20' 1Cor.11,25), nhưng các sách Cựu Ước vẫn được sử dụng trọn vẹn trong sứ điệp Phúc Âm (T.Inreneô. Adv. Hear.III 21,3: PG 7,950' T.Cyrillô Hieros., Catech.4,35: PG 33,497' Theođorô. Mops., In Soph. 1,4-6: PG 66,452 D-453A), đạt được và bày tỏ đầy đủ ý nghĩa trong Tân Ước (x.Mt.5,17' Lc.24,27' Rm.16,25-26' 2Cor.3,14-16). Ngược lại Tân Ước cũng được sáng tỏ và giải thích nhờ Cựu Ước.
 
 

Chương V

Tân Ước

 

Sự trổi vượt của Tân Ước

            -17-            Là sức thiêng cứu rỗi mọi tín hữu (x.Rm.1,16), lời Chúa được trình bày cách tuyệt diệu trong các sách Tân Ước và diễn tả quyền năng của Ngài. Thực vậy, khi đến thời viên mãn (x.Gal.4,4), Ngôi Lời đầy tràn ân sủng và chân lý đã nhập thể và ở giữa chúng ta (Gio.1,14). Chúa Kitô đã thiết lập Nước Thiên Chúa trên trần gian. Người mạc khải Cha Người và Chính Mình qua lời nói, việc làm và hoàn tất công trình Người khi Người chết, sống lại, lên trời vinh hiển và khi Người sai Chúa Thánh Thần đến. Bị treo lên khỏi đất (x.Gio.12,32, bản Hy lạp), Người kéo mọi người đến với Mình, Người là Đấng duy nhất có những lời ban sự sống vĩnh cửu (x.Gio.6,68). Nhưng mầu nhiệm này chưa bao giờ được tỏ cho các thế hệ khác biết, nay đã được mạc khải trong Thánh Thần cho các Thánh Tông Đồ Người và cho các Ngôn Sứ (x.Eph.3,4-6, bản Hy lạp) để họ rao giảng Phúc Âm, cổ võ lòng tin vào Chúa Giêsu, Đấng được xức dầu và là Chúa, và qui tụ Giáo Hội. Những việc này, các sách Tân Ước đã minh chứng với một bằng chứng có giá trị vĩnh cửu và thần linh.

 

Sách Phúc Âm bắt nguồn từ các Tông Đồ

            -18-             Mọi người đều biết rằng trong tất cả các Sách Thánh, kể cả những sách Tân Ước, các sách Phúc Âm xứng đáng chiếm địa vị ưu đẳng, vì Phúc Âm là chứng tích tuyệt hảo về đời sống và giáo lý của Ngôi Lời Nhập Thể, Đấng Cứu Chuộc chúng ta.

            Trong mọi thời và khắp nơi, Giáo Hội đã và đang qủa quyết rằng bốn sách Phúc Âm bắt nguồn từ các Tông Đồ. Thực vậy, những gì các Tông Đồ rao giảng theo lệnh Chúa Kitô, sau này nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng, chính các ngài và những người sống bên các ngài viết lại và lưu truyền cho chúng ta như nền tảng đức tin: đó là Phúc Âm trình bày dưới bốn hình thức: theo Thánh Matheô, Thánh Marcô, Thánh Luca và Thánh Gioan (x.T.Ireneô. Adv. Haer III,11,8: PG 7,885,x.b.Sagnard, trg 194).

 

Phúc Âm có tính cách lịch sử

            -19-             Mẹ thánh Giáo Hội đã và còn đang qủa quyết không ngừng lịch sử tính của bốn Phúc Âm, cũng như đã mạnh mẽ và liên lỉ xác nhận bốn sách Phúc Âm trung thành ghi lại những gì Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, khi sống giữa loài người, thực sự đã làm và đã dạy vì phần rỗi đời đời của họ cho tới ngày Người lên trời (x.CvSđ 1,1-2). Thực vậy, sau khi Chúa về trời, các Tông Đồ đã truyền lại cho những ai nghe mình những gì Chúa đã nói, đã làm với một trí hiểu biết sâu xa hơn (x.Gio.2,22'12,16' so sánh với 14,26'16,12-13'7,39) nhờ được các biến cố vinh hiển của Chúa Kitô chỉ dạy và ánh sáng của Thần Chân Lý (x.Gio.14,26'16,13) soi sáng. Phần các thánh sử đã viết bốn Phúc Âm: các ngài chọn một ít trong số chất liệu được truyền lại bằng miệng hay bằng sách vở, tóm tắt một số khác hay tùy hoàn cảnh của các giáo hội mà giải thích thêm, nhưng vẫn giữ hình thức của bài giảng thuyết và như vậy để luôn chân thành truyền đạt cho chúng ta những điều chân thật về Chúa Giêsu (xem Huấn dụ Sancta Mater Ecclesia do ửy ban Giáo Hoàng về Thánh Kinh xuất bản: AAS 56, 1964, trg 715). Thực vậy, dựa trên trí nhớ và kỷ niệm riêng tư, hoặc dựa trên chứng tích của những người "đã chứng kiến từ buổi đầu và trở nên thừa tác viên của Lời Chúa", các thánh sử đã viết các sách Phúc Âm với mục đích giúp chúng ta nhận biết rằng các lời mà chúng ta đã nghe dạy dỗ đều là "chân thật" (x.Lc.1,2-4).

 

Các sách khác của Tân Ước

            -20-            Ngoài bốn Phúc Âm, danh sách Tân Ước còn ghi lại các thư Thánh Phaolô và những bút tích khác của các Tông Đồ đã được viết dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần. Các bút tích này, theo ý định khôn ngoan của Thiên Chúa chứng thực những gì đã được nói về Chúa Kitô, trình bày giáo lý đích thực của Người ngày một rõ ràng hơn, rao truyền sức mạnh cứu độ của công trình thần linh của Chúa Kitô, và kể lại những bước đầu, sự bành trướng kỳ diệu cùng tiên báo sự kết thúc vinh hiển của Giáo Hội.

            Thực vậy, Chúa Giêsu đã hiện diện bên các Tông Đồ như Người đã hứa (x.Mt.28,20) và đã sai Thánh Thần An Ủi đến để dẫn dắt họ đến sự viên mãn của Chân lý (x.Gio.16,13).

 
Chương VI

Thánh Kinh Trong Đời Sống Giáo Hội

 

Tầm quan trọng của Thánh Kinh đối với Giáo Hội

            -21-             Giáo Hội luôn tôn kính Thánh Kinh như chính Thân Thể Chúa, nhất là trong Phụng Vụ Thánh, Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như từ bàn tiệc Mình Chúa Kitô để ban phát cho các tín hữu. Cùng với Thánh Truyền, Thánh Kinh đã và đang được Giáo Hội xem như là quy luật tối cao hướng dẫn đức tin, được Thiên Chúa linh ứng và đã được ghi chép một lần cho muôn đời, Thánh Kinh phân phát cách bất di bất dịch lời của chính Chúa và làm vang dội tiếng nói của Chúa Thánh Thần qua các Ngôn Sứ cùng các Tông Đồ. Bởi vậy, mọi lời giảng dạy trong Giáo Hội cũng như chính đạo thánh Chúa Kitô phải được Thánh Kinh nuôi dưỡng và hướng dẫn. Thực thế, trong các sách thánh, Chúa Cha trên trời bằng tất cả lòng trìu mến đến gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ. Lời Chúa còn có một sức mạnh và quyền năng có thể nâng đỡ và tăng cường Giáo Hội, ban sức mạnh đức tin cho con cái Giáo Hội, là lương thực linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho con cái Giáo Hội. Bởi thế, lời nói sau đây thật xứng hợp cho Thánh Kinh: "Thực vậy, lời Thiên Chúa sống động và linh nghiệm" (Dth.4,12), "có khả năng gây dựng và ban gia tài cho mọi người đã được thánh hóa" (CvSđ 20,32'x.1Th.2,13).

 

Cần có bản văn và bản dịch

            -22-            Phải mở rộng lối vào Thánh Kinh cho các Kitô hữu. Chính vì thế mà từ buổi đầu, Giáo Hội đã công nhận như của riêng mình bản dịch Cựu Ước bằng tiếng Hy Lạp, một bản văn rất cổ và được gọi là bản Bảy Mươi. Ngoài ra Giáo Hội còn luôn tôn trọng các bản dịch của Đông Phương hay các bản dịch Latinh, nhất là bản thường gọi là bản "Phổ Thông". Vì phải đem lời Chúa đến cho mọi thời đại, Giáo Hội như một người mẹ ân cần lo liệu cho các sách thánh được dịch ra các thứ tiếng cách thích hợp và đúng đắn, đặc biệt dịch từ nguyên bản. Mọi Kitô hữu có thể sử dụng những bản dịch được thực hiện chung với cả những anh em ly khai trong trường hợp thuận tiện và được giáo quyền chấp thuận.

 

Nhiệm vụ tông đồ của các nhà Thánh Kinh học

            -23-             Hiền Thê của Ngôi Lời nhập thể, tức Giáo Hội, được Chúa Thánh Thần dạy dỗ, hằng cố gắng hiểu biết Thánh Kinh ngày càng sâu rộng hơn, hầu không ngừng lấy lời Chúa nuôi dưỡng con cái mình. Do đó, Giáo Hội có lý khi khuyến khích việc học hỏi các thánh Giáo Phụ Đông Phương và Tây Phương cũng như các Phụng Vụ thánh. Phần các nhà chú giải Thánh Kinh công giáo và những người chuyên về Thần Học Thánh phải ân cần lo lắng, dưới sự trông nom của Quyền Giáo Huấn Thánh, và dùng những phương thế thích hợp để nghiên cứu và trình bày Thánh Kinh, để cung ứng nhiều thừa tác viên lời Chúa hết sức có thể hầu lương thực Thánh Kinh được dồi dào ban bố cho dân Chúa, để soi sáng trí khôn, kiên trì ý chí và nung nấu lòng người yêu Chúa (x.Piô XII Tđ Divino Afflante Spititu, 30-9-1943: EB 551,553,567 - Ủy ban Giáo Hoàng về Thánh Kinh, Introdictio de S. Scriptura in Clericorum Seminariis et Religiosorum Collegiis reete docenda, 13-5-1950: AAS 42, 1950, trg 495-505). Thánh Công Đồng khuyến khích các con cái Giáo Hội đang chuyên cần học hỏi những khoa học Thánh Kinh, hãy tiếp tục theo đuổi công trình đã khởi sự cách tốt đẹp với những năng lực ngày được đổi mới, và bằng tất cả hăng say hợp với cảm thức của Giáo Hội (x.Piô XII,n.v.t.: EB 569).

 

Tầm quan trọng của Thánh Kinh đối với thần học

            -24-             Khoa thần học thánh dựa trên Thánh Kinh và Thánh Truyền như dựa vào một nền tảng vĩnh cửu. Trên nền tảng này, thần học được củng cố, trở nên vững chắc và được trẻ trung mãi trong khi tìm kiếm, dưới ánh sáng đức tin, tất cả chân lý tiềm ẩn trong mầu nhiệm Chúa Kitô. Thánh Kinh chứa đựng lời Chúa và vì được linh ứng nên thực sự là Lời của Chúa, nên việc nghiên cứu Thánh Kinh phải như linh hồn của Khoa Thần Học Thánh (x.Lêô XIII, Tđ Providentissimus Deus: EB 114 - Benedictô XV, Tđ Spiritus Paraclitus, 15-9-1920: EB 483). Thừa tác vụ lời Chúa - nghĩa là việc rao giảng mục vụ, dạy giáo lý và toàn thể giáo huấn Kitô giáo, trọng đó bài giảng phục vụ phải chiếm một chỗ quan trọng - phải được nuôi dưỡng lành mạnh và gia tăng sinh lực cách thánh thiện nhờ lời Thánh Kinh.

 

Khuyên nhủ năng học hỏi và đọc Thánh Kinh

            -25-            Vì thế, tất cả các giáo sĩ, trước hết là các linh mục của Chúa Kitô và những người có bổn phận phục vụ lời Chúa, như các phó tế và những người dạy giáo lý, phải gắn bó với Thánh Kinh nhờ việc chăm đọc và ân cần học hỏi, để khi họ phải truyền đạt kho tàng bao la của lời Chúa, nhất là trong phụng vụ thánh, cho các giáo hữu được ủy thác cho họ, không ai trong họ sẽ trở thành "kẻ huênh hoang rao giảng lời Thiên Chúa ngoài môi miệng bởi không lắng nghe lời Thiên Chúa trong lòng" (T.Augustinô Serm 179,1: PL38,966). Thánh Công Đồng cũng tha thiết và đặc biệt khuyến khích mọi Kitô hữu, cách riêng các tu sĩ hãy năng đọc Thánh Kinh để học biết "khoa học siêu việt của Chúa Kitô" (T. Hieronimô Comm.in Is.Prol.:PL 24,17 - Bênêđictô XV, Tđ Spiritus Paraclitus: EB 475-480 - Pioo XII, Tđ Divino Afflante Spiritu: EB 544). Vậy ước gì họ hăng hái tiếp xúc với chính bản văn Thánh Kinh nhờ Phụng Vụ Thánh dồi dào lời Thiên Chúa, hoặc nhờ sốt sắng đọc Thánh Kinh hay nhờ những tổ chức học hỏi thích hợp, hoặc bất cứ phương thế nào mà ngày nay đã được các Chủ Chăn trong Giáo Hội chấp thuận và ân cần phổ biến khắp nơi. Nhưng mọi người cũng nên nhớ rằng kinh nguyện phải đi đôi với việc đọc Thánh Kinh, để có sự đối thoại giữa Thiên Chúa và con người, vì "chúng ta ngỏ lời với Ngài khi cầu nguyện, và chúng ta nghe Ngài nói lúc chúng ta đọc các sấm ngôn thần linh" (T.Ambrosiô De Officitis ministrorum 1,20,88: PL 16,50).

            Các Giám Mục là những người "gìn giữ giáo lý tông truyền" (T.Ireneô Adv Haer IV,32,1: PG 7,1071, Harvey 2,trg 255) có phận sự dạy cách thích hợp cho các tín hữu đã được ủy thác cho các ngài biết sử dụng đứng đắn sách thánh, nhất là Tân Ước và trước tiên các sách Phúc Âm, nhờ các bản dịch, và các bản dịch này phải được kèm theo những lời giải thích cần thiết và đầy đủ, để con cái Giáo Hội có thể sử dụng Thánh Kinh cách bảo đảm và ích lợi, cũng như được thấm nhuần tinh thần Thánh Kinh.

            Hơn nữa, cũng cần thực hiện những ấn bản Thánh Kinh với lời chú giải thích hợp cho cả những người ngoài Kitô giáo và thích hợp với hoàn cảnh của họ. Các vị Chủ Chăn linh hồn cũng như các Kitô hữu, dù trong bậc sống nào, cũng phải ân cần lo lắng phổ biến các ấn bản ấy.

 

Kết luận

            -26-            Vì thế, ước gì nhờ việc đọc và học hỏi sách thánh, "Lời Thiên Chúa được trôi chảy và sáng sủa" (2Th.3,1), và ước gì kho tàng Mạc Khải, đã được ủy thác cho Giáo Hội, ngày một tràn ngập tâm hồn con người. Nếu đời sống Giáo Hội được tăng triển nhờ năng nhận lãnh Bí Tích Thánh Thể thế nào đời sống thiêng liêng cũng hy vọng có thể được đổi mới như vậy nhờ thêm lòng sùng kính lời Chúa, là lời "hằng tồn tại muôn đời" (Is.40,8' 1P.1,23-25).

 

            Tất cả và từng điều đã được ban bố trong Hiến Chế tín lý này đều được các Nghị Phụ Thánh Công Đồng chấp thuận. Và dùng quyền Tông Đồ Chúa Kitô trao ban, hiệp cùng các Nghị Phụ khả kính, trong Chúa Thánh Thần, chúng tôi phê chuẩn, chế định và quyết nghị, và những gì đã được Thánh Công Đồng quyết nghị, Chúng Tôi truyền công bố cho Danh Chúa cả sáng.

 

            Rôma, tại Đền Thánh Phêrô, ngày 18-11-1965

            Tôi, PHAOLÔ Giám Mục Giáo Hội Công Giáo

(Chữ ký của các nghị phụ)