ĐHY Ratzinger, Thánh Bộ Trưởng Tín Lý Đức Tin, trả lời về

Tình Hình Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay

 

 


Nhân dịp Hội Nghị về chủ đề “Chúa Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” ở Viện Đại Học Công Giáo Thánh Antôn ở Murcia Tây Ban Nha hôm Thứ Bảy 30/11/2002, các phóng viên báo chí, trong đó có cả của Zenit, đã phỏng vấn ngài về một số vấn đề liên quan đến tình trạng Giáo Hội Hiện Thế ở nhiều phương diện khác nhau như sau:


Vấn     Một số người đã coi sự việc loan báo Chúa Kitô như là một cái gì làm đứt đoạn việc đối thoại với các tôn giáo khác. Làm thế nào người ta có thể vừa loan báo Chúa Kitô lại vừa đối thoại một lúc được?


Đáp     Tôi có thể nói rằng khuynh hướng tương đối ngày nay đang chiếm được ưu thế. Dường như hễ ai không phải là thành phần chủ trương tương đối đều là những người không biết dung nhượng. Việc cho rằng người ta có thể hiểu được chân lý chính yếu đã được coi như một điều gì đó không thể chấp nhận. Tuy nhiên, trên thực tế thì việc loại trừ sự thật là một thứ bất dung nhượng trầm trọng nhất và biến những sự chính yếu của đời sống con người trở thành những gì chủ quan. Theo chiều hướng này chúng ta sẽ không còn có một quan điểm chung về những gì chính yếu nữa. Mỗi người có thể và phải quyết định lấy tùy theo khả năng của mình. Như thế là chúng ta đã làm mất đi những nền tảng về luân thường đạo lý về cuộc sống chung của chúng ta. Chúa Kitô hoàn toàn khác với tất cả mọi vị sáng lập các tôn giáo, và Người không thể trở thành một Phật Tổ, một Socrates hay một Khổng Tử. Người thực sự là chiếc cầu nối trời và đất, là ánh sáng chân lý đã xuất hiện cho chúng ta thấy. Tặng ân nhận biết Chúa Giêsu không có nghĩa là nơi các tôn giáo khác không có những phần sự thật quan trọng. Trong ánh sáng của Chúa Kitô, chúng ta có thể thực hiện một cuộc đối thoại mang lại thành quả tốt đẹp ở chỗ đối chiếu, nhờ đó chúng ta có thể thấy được cách tất cả những phần sự thật này đã góp phần vào việc đào sâu hơn đức tin của chúng ta cũng như vào cộng đồng thiêng liêng chân chính của nhân loại.


Vấn     Đức Hồng Y sẽ nói những gì với một nhà thần học trẻ? Đức Hồng Y sẽ khuyên họ nghiên cứu về những khía cạnh nào của khoa Kitô học?


Đáp     Trước hết, điều quan trọng là phải biết Sách Thánh, biết chứng từ sống động các Phúc Âm, cả các Phúc Âm Nhất Lãm lẫn Phúc Âm Thánh Gioan, để có thể nghe thấy tiếng nói chân thực. Sau nữa, phải biết tới các công đồng lớn, nhất là Công Đồng Chalcedon cũng như các công đồng sau đó, những công đồng làm sáng tỏ ý nghĩa của đại công thức về Chúa Kitô, Thiên Chúa thật và là người thật. Điều mới mẻ về việc Người thực sự là Con Thiên Chúa đồng thời cũng thực sự là con người này không phải là một thứ hình thức; trái lại, nó kết hiệp Thiên Chúa với con người. Sau hết, tôi để nghị học hỏi hơn nữa về mầu nhiệm vượt qua để hiểu được mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh này của Chúa, nhờ đó, cũng biết được ý nghĩa của ơn cứu chuộc là gì; hiểu được cái mới mẻ là Thiên Chúa, nơi con người Giêsu, đã chịu khổ đau, đã mang lấy những khổ đau của chúng ta, đã chia sẻ đời sống của chúng ta, nhờ đó đã mở đường dẫn đến sự sống đích thực nơi việc phục sinh. Sự kiện này liên quan tới tất cả vấn để giải thoát của nhân loại, một vấn đề ngày nay chỉ hiểu được nơi mầu nhiệm vượt qua; một đàng nó liên hệ tới đời sống thực tế của thời đại chúng ta, đàng khác, nó được tái biểu hiện nơi phụng vụ. Tôi nghĩ mối liên kết giữa phụng vụ và đời sống này, cả hai đều được bắt nguồn nơi mầu nhiệm vượt qua.


Vấn     Có những điều gì Hồng Y Ratzinger thấy rằng nhà thần học Ratzinger đã không biết?


Đáp     Bản chất đức tin của tôi nơi Chúa Kitô bao giờ cũng như vậy, ở chỗ nhận biết con người là Thiên Chúa biết tôi ấy, Đấng như Thánh Phaolô nói đã tự ban mình cho tôi. Người hiện hữu để giúp đỡ và dẫn dắt tôi. Bản chất đức tin này liên tục như thế không bao giờ thay đổi. Trong cuộc đời của mình, tôi vẫn đọc Các Giáo Phụ của Giáo Hội, những đại thần học gia, cũng như thần học hiện đại. Hồi tôi còn trẻ thì có thần học của Bultmann là nổi nang ở Đức, đó là khoa thần học hiện hữu. Rồi sau đó nổi hơn nữa có thần học của Moltmann, một thứ thần học có thể nói bị ảnh hưởng của thuyết Cộng Sản. Tôi có thể nói rằng hiện nay vấn đề đối thoại với các tôn giáo khác là điều quan trọng nhất, để một đàng hiểu được Chúa Kitô chuyên nhất như thế nào, đàng khác, Người đáp lại tất cả mọi vị khác ra sao, những người tiền hô của Chúa Kitô và là những người đối thoại trao đổi với Chúa Kitô.


Vấn     Một đại học viện Công Giáo, nơi chất chứa sự thật về Chúa Kitô, phải làm gì để hiện thực sứ mạng truyền bá phúc âm hóa của Kitô Giáo?


Đáp     Vấn đề quan trọng là ở đại học viện Công Giáo người ta không chỉ học những gì để sửa soạn cho một thứ nghề nghiệp. Đại học đường là một cái gì đó còn hơn là một trường dạy nghề, nơi tôi học vật lý, xã hội, hóa học. Điều hết sức quan trọng đó là cần phải làm sao thực hiện được việc đào luyện chuyên nghệp tốt đẹp, nhưng nếu nó chỉ có thế thì nó cũng chẳng khác gì một ngôi trường như các trường dạy nghề khác thôi. Một đại học đường phải đặt nền tảng ở việc kiến tạo nên một thứ giải thích vững chắc về việc con người hiện hữu. Theo ý nghĩa của nguyên tắc này, chúng ta có thể thấy vị trí thuộc về mỗi một ngành khoa học, cũng như thấy được đức tin Kitô Giáo của chúng ta, một đức tin cần phải hiện diện ở cấp tri thức cao. Vì lý do này, một học đường Công Giáo phải thực hiện việc đào luyện căn bản về những vấn đề đức tin, nhất là về vấn đề đối thoại đa khoa giữa các vị giáo sư và sinh viên, để họ cùng nhau có thể hiểu được sứ vụ của một nhà trí thức Công Giáo trong thế giới của chúng ta.


Vấn     Trong trường hợp tìm cầu thiêng liêng hiện nay, nhiều người sử dụng đến việc suy niệm siêu việt. Giữa việc suy niệm siêu việt và suy niệm Kitô Giáo khác nhau như thế nào?


Đáp     Tóm tắt tôi có thể nói rằng điều chính yếu của việc suy niệm siêu việt đó là con người bung mình ra khỏi “cái tôi”; họ hiệp nhất với yếu tính đại đồng của thế giới; bởi thế, họ ở trong tình trạng hơi bị tha ngã. Ngược lại, nơi việc suy của Kitô Giáo, tôi không đánh mất bản vị của mình; tôi đi vào một mối liên hệ riêng tư với con người của Chúa Kitô. Tôi đi vào mối liên hệ với “cái anh” của Chúa Kitô, nhờ thế “cái tôi” này không bị mất đi; nó vẫn giữ được căn tính và trách nhiệm của nó. Đồng thời nó mở ra, nó đi vào một cuộc hiệp nhất sâu xa hơn nữa, đó là cuộc hiệp nhất của tình yêu không tiêu diệt. Bởi thế, tôi xin tóm lại một cách hơi đơn giản là việc suy niệm siêu việt là việc suy niệm phi bản vị, do đó dẫn đến tình trạng “tha ngã”. Còn việc suy niệm của Kitô Giáo là việc suy niệm “bản vị” và là việc suy niệm hướng tới một cuộc sâu xa hiệp nhất được phát xuất từ yêu thương chứ không phải từ cuộc giải thể “cái tôi”.

Vấn     Đức Hồng Y là bộ trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin, trước kia Thánh Bộ này được gọi là Tòa Điều Tra. Nhiều người không biết gì về các phân bộ ở tòa thánh Vatican. Họ nghĩ rằng đó là một nơi lên án. Việc làm của Đức Hồng Y về những gì?

Đáp     Khó mà trả lời vấn nạn này trong hai chữ. Chúng tôi có hai ngành chính, một ngành về kỷ luật và một ngành về tín ký. Ngành về kỷ luật phải quan tâm đến những vấn đề vi phạm của hàng linh mục chẳng may xẩy ra trong Giáo Hội. Hiện nay, như quí vị biết, chúng tôi đang gặp phải vấn đề trầm trọng về việc linh mục lạm dụng tình dục trẻ em. Trong trường hợp này, chúng tôi trước hết phải giúp cho các vị giám mục tìm thấy những phương thức thích hợp. Và chúng tôi còn là một thứ tòa án khiếu nại nữa, tức là nếu ai cảm thấy bị giám mục đối xử một cách bất công họ có thể khiếu nại với chúng tôi. Một ngành được biết đến nhiều hơn là ngành về tín lý. Bởi thế Đức Phaolô VI mới ấn định công việc của chúng tôi như là “việc cổ võ” và “bênh vực” đức tin. Cổ võ tức là giúp cho việc đối thoại nơi gia đình các thần học gia trên thế giới, theo dõi cuộc đối thoại này, và khuyến khích những luồng tư tưởng tích cực cũng như làm sao giúp cho những xu hướng ít tích cực hợp với những xu hướng tích cực hơn. Một khía cạnh khác nữa là việc bênh vực: trong môi trường của thế giới ngày nay, với chiều hướng tương đối thuyết của nó, với tình trạng mạnh mẽ chống đối đức tin của Giáo Hội ở nhiều nơi trên thế giới, với khuynh hướng bất khả thức thần linh, với chủ nghĩa vô thần v.v., với những ý hệ, thì việc đánh mất đi căn tính đức tin rất dễ xẩy ra. Chúng ta cần phải giúp phân biệt những cái mới chân thực, phận biệt tình trạng tiến bộ đích thực khác với những hành động chất chứa cái mất mát căn tính đức tin. Chúng tôi có hai khí cụ rất quan trọng trong tầm tay của mình để làm việc này, đó là Ủy Ban Thần Học Quốc Tế, với 30 thần học gia được các vị giám mục đề cử; và Ủy Ban Thánh Kinh, với 30 nhà dẫn giải, thành phần cũng do các vị giám mục đề cử. Hai ủy ban này là những diễn đàn bàn bạc cho các thần học gia, có thể nói, để tìm tòi một kiến thức quốc tế, bao gồm giữa những trường phái thần học khác nhau và việc đối thoại với huấn quyền. Đối với chúng tôi, thì việc hợp tác của các vị giám mục là việc quan trọng. Nếu có thể, các vị giám mục phải giải quyết các vấn đề. Tuy nhiên, thường các thần học gia nổi danh quốc tế (giải quyết những vấn đề ấy), và bởi thế vấn đề vượt quá khả năng của một vị giám mục. Bởi thế vấn dề được trình lên Thánh Bộ này. Ở đây, chúng tôi cổ võ việc đối thoại với các thần học gia, để nhờ đó có thể tiến đến chỗ giải quyết bình lặng. Rất ít trường hợp giải quyết tiêu cực xẩy ra.

Vấn     Năm vừa qua là một năm khốn khó cho người Công Giáo, ở chỗ truyền thông tấn công những gương mù gây ra bởi các vị linh mục. Có lời đồn là người ta vận động chống lại Giáo Hội. Đức Hồng Y nghĩ sao?

Đáp     Nơi Giáo Hội, linh mục cũng là tội nhân. Thế nhưng, cá nhân tôi tin rằng việc liên lỉ lên tiếng của báo chí về tội của hàng linh mục Công Giáo, nhất là ở Hoa Kỳ, là một cuộc vận động có mưu cơ, khi phần trăm của những vi phạm này nơi hàng linh mục không cao hơn những thành phần khác, có lẽ còn thấp hơn là đằng khác. Ở Hoa Kỳ tin tức liên tục phổ biến về đề tài này, nhưng không đầy 1% linh mục phạm lỗi về những hành động loại ấy. Việc liên tục phổ biến những thứ tin tức này không xứng hợp với tính cách khách quan của vấn đề thông tin cũng như tính cách khách quan của thống kê về các sự kiện ấy. Bởi thế người ta tiến đến chỗ kết luận rằng chính vì muốn chủ tâm, muốn bóp mép mới có ý làm mất uy tín của Giáo Hội. Đó là một kết luận hợp lý và chắc chắn.

Vấn     Hiện đang xẩy ra một cuộc tranh luận về việc đem lời Chúa và những vấn đề liên quan đến quá khứ của một Kitô Giáo Âu Châu vào phần dẫn nhập của Bản Hiến Pháp Âu Châu sau này. Đức Hồng Y có nghĩ rằng sẽ có một khối Hiệp Nhất Âu Châu lại chối bỏ quá khứ Kitô Giáo của mình chăng?

Đáp     Tôi tin rằng Âu Châu không phải chỉ là một cái gì thuần kinh tế hay chính trị; trái lại, nó cần đến những nền tảng thiêng liêng. Sự kiện lịch sử cho thấy Âu Châu là một đại lục Kitô Giáo, và nó đã phát triển trên nền tảng đức tin Kitô Giáo, một đức tin tiếp tục là nền tảng cho những giá trị của một đại lục ảnh hưởng các đại lục khác. Cần phải có một nền tảng cho những giá trị, mà nếu chúng ta hỏi mình nền tảng đó là gì, chúng ta sẽ nhận ra rằng, ngoài các niềm tin ra, chỉ có những giá trị cao cả thuộc đức tin Kitô Giáo mà thôi. Và đó là lý do tại sao cần phải đề cập đến những nền tảng Kitô Giáo của Âu Châu trong bản Hiến Pháp Âu Châu sau này. Tôi không muốn vấp phải lỗi lầm trong việc xây dựng một thế giới Công Giáo chính trị. Đức tin không cống hiến những chỉ dẫn chính trị nhưng qui định các nền tảng của chính trị. Một đàng chính trị có quyền tự lập, nhưng đàng khác giữa chính trị và tôn giáo lại không hoàn toàn tách biệt nhau. Có những nền tảng đức tin giúp cho những lý lẽ của chính trị. Bởi thế, vấn đề được đặt ra là những nền tảng giúp cho chính trị tác hành đây là gì? Những khía cạnh nào cần phải được để nó tự do hành sử? Trước hết, cần phải có một cái nhìn nhân loại học và chính ở đây chúng ta được đức tin soi sáng. Con người của Thiên Chúa có cần phải chiếm thủ cái nhìn nhân loại học bảo đảm cho quyền tự do lập luận chính trị này hay chăng? Một nền luân lý vắng bóng Thiên Chúa, một nền luân lý phân mảnh, do đó, có rất ít trực giác mạnh mẽ về một Vị Thiên Chúa biết chúng ta và là Đấng ấn định con người mang hình ảnh Thiên Chúa, là thứ luân lý cần phải có những nền tảng này. Ngoài ra, việc đề cập đến Thiên Chúa không phải là hành vi phạm đến bất cứ một ai, nó không phá hoại quyền tự do của một người nào cả, nhưng hướng tất cả mọi người về một nơi chốn tự do có thể kiến tạo nên một đời sống luân lý nhân bản thực sự.

Vấn     Có những vị giáo sư chủng viện ở Basque (một miền thuộc nước Pháp nằm về phía Tây rặng núi Pyréné – biệt chú của người dịch được viết bằng những hàng chữ nhỏ như ở đây và những chỗ sau này) đã đi đến chỗ cho rằng việc khủng bố của tổ chức ETA là chính đáng, hoặc họ là những người không lên án loại khủng bố ấy. Hình như có những liên hệ giữa những vị linh mục này với phong trào thần học giải phóng thì phải. Họ thậm chí còn đề cập đến một thứ giáo hội Basque bản xứ nữa. Đã có quyết định nào chống lại vấn đề này chưa?

Đáp     Ở trường hợp này, người ta chỉ có thể áp dụng những gì Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin đã nói về thần học giải phóng vào khoảng giữa những năm 1984 [see "Instruction on Certain Aspects of the 'Theology of Liberation'"] và 1986 [see "Instruction on Christian Freedom and Liberation"]. Chắc chắn Kitô Giáo có liên hệ đến vấn đề tự do, nhưng tự do thật sự không phải là thứ tự do về chính trị. Lãnh vực chính trị có quyền tự lập của nó; điều này trước hết đã được Công Đồng Chung Vaticanô II nhấn mạnh và không phải đức tin kiến tạo nên như thế; nó cần phải có lý lẽ riêng của mình. Người ta không được suy diễn từ Sách Thánh để lấy ra những chỉ dẫn về chính trị, lại càng không được biện minh cho việc khủng bố. Tôi nghĩ rằng về vấn đề này thì mọi sự đã được phân giải trong hai bản Hướng Dẫn về thần học giải phóng trên đây của Thánh Bộ chúng tôi. Tính cách mới mẻ của vị thiên sai Kitô Giáo là ở chỗ Chúa Kitô không trực tiếp là một vị thiên sai về chính trị, vị thực hiện cuộc giải phóng cho dân Do Thái, như được mong đợi. Đây là kiểu giải phóng Do Thái của Barabbas, một kiểu giải phóng họ muốn chiếm đạt cấp thời, kể cả bằng việc khủng bố. Chúa Kitô đã tạo nên một thứ giải phóng khác, một thứ giải phóng chiếm được nơi cộng đồng tông đồ cũng như trong Giáo Hội, đúng như Giáo Hội đã được kiến tạo, xác nhận và chứng thực trong Tân Ước. Tuy nhiên, như tôi đã nói, mọi sự đều đã được nói đến trong hai bản Hướng Dẫn này.

Vấn     Nếu chúng ta thực hiện một cuộc thẩm định về hoạt động phi thường của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thì việc đóng góp quan trọng nhất của triều đại giáo hoàng này là gì? Kitô Giáo sẽ nhớ đến vị Giáo Hoàng này như thế nào?

Đáp     Tôi không phải là một vị tiên tri; đó là lý do tại sao tôi không dám nói những gì họ sẽ nói trong vòng 50 năm nữa, thế nhưng tôi nghĩ sự kiện Đức Thánh Cha đã từng hiện diện nơi tất cả mọi lãnh vực của Giáo Hội sẽ là một sự kiện hết sức quan trọng. Theo chiều hướng này, Ngài đã tạo nên một kinh nghiệm hết sức năng động về công giáo tính cũng như về mối hiệp nhất của Giáo Hội. Sự tổng hợp giữa công giáo tính và mối hiệp nhất là một hợp tấu, chứ không phải là một đồng nhất. Các Vị Giáo Phụ đã nói đến điều này. Babylon là vấn đề đồng nhất, và kỹ thuật tạo nên việc đồng nhất. Đức tin, như đã được thấy ở Ngày Lễ Ngũ Tuần, thời điểm các vị tông đồ nói tất cả mọi thứ ngôn ngữ, lại là một cuộc hợp tấu. Điều này đã được biểu lộ hết sức rõ ràng nơi giáo triều của Đức Thánh Cha đây, qua các cuộc viếng thăm mục vụ của Ngài, qua các cuộc gặp gỡ của Ngài. Tôi nghĩ một số văn kiện sẽ mãi mãi có một tầm mức quan trọng, tôi muốn đề cập đến những bức thông điệp “Redemptoris Missio” (Sứ Vụ của Đấng Cứu Chuộc – 7/12/1990 - về giá trị vĩnh viễn của việc Giáo Hội cần phải Truyền Giáo), “Veritatis Splendor” (Rạng Ngời Chân Lý – 6/8/1993 - về một số vấn đề trọng yếu thuộc giáo huấn luân lý của Giáo Hội), “Evangelium Vitae” (Phúc Âm Sự Sống – 25/3/1995 - về giá trị và tính cách bất khả vi phạm của sự sống con người) cũng như “Fides et Ratio” (Đức Tin và Lý Trí – 14/9/1998 - về chân lý và đức tin, và phương tiện để thấu hiểu và truyền đạt đức tin là triết lý). Đầy là 4 văn kiện thực sự sẽ là những đài tưởng niệm trong tương lai. Sau hết, tôi nghĩ rằng Ngài sẽ được nhớ đến bởi việc Ngài cởi mở với các cộng đồng Kitô Hữu khác, với các tôn giáo khác trên thế giới, với thế giới trần thế, với các ngành khoa học, với giới chính trị. Trong các lãnh vực này, Ngài luôn qui hướng chúng về đức tin và những giá trị của chúng, nhưng đồng thời Ngài cũng cho thấy rằng đức tin có thể nhập cuộc đối thoại với hết mọi người.

Vấn     Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã góp phần vào vấn đề đối thoại liên tôn những gì?

Đáp     Đức Thánh Cha này cảm thấy sứ vụ của Ngài là một sứ vụ hòa giải trên thế giới, một sứ vụ hòa bình. Trong khi quá khứ bất hạnh thay có những cuộc chiến tranh về tôn giáo thì Đức Thánh Cha đây muốn chứng tỏ cho thấy rằng mối liên hệ thực sự nơi tôn giáo không phải là chiến tranh, là bạo lực, mà là đối thoại và nỗ lực tìm hiểu những yếu tố của sự thật được thấy nơi các tôn giáo khác. Đức Thánh Cha không muốn tương đối hóa vai trò độc nhất vô nhị của Chúa Kitô, Đấng là đường, là sự thật và là sự sống, nhưng Ngài muốn chứng tỏ cho thấy rằng sự thật về Chúa Kitô ấy không được loan báo bằng võ lực hay bằng quyền năng nhân loại, mà chỉ bằng sức mạnh của chính sự thật thôi. Đó là lý do cần phải thực hiện việc giao tiếp giữa loài người với nhau về vấn đề đối thoại và yêu thương, như các vị tông đồ đã cho thấy trong cuộc đại truyền giáo thời Giáo Hội sơ khai, ở chỗ các vị không sử dụng đến quyền lực trần gian mà là sức mạnh của niềm tin. Chứng từ khổ đau, bác ái và đối thoại đã chinh phục được thế giới xưa kia. Đức Thánh Cha này chỉ muốn cố gắng nuôi dưỡng sức mạnh của việc đối thoại và yêu thương này của những thế kỷ đầu tiên trong mối liên hệ với các tôn giáo mà thôi.

Vấn     Đã từng được nói đến là cần phải triệu tập một Công Đồng Chung Vaticanô III để Giáo Hội có thể thích ứng với thời đại mới này. Đức Hồng Y nghĩ sao?

Đáp     Trước hết, tôi xin được nói rằng đây là một vấn đề thực tiễn. Chúng ta chưa áp dụng đủ di sản của Công Đồng Chung Vaticanô II. Chúng ta vẫn còn đang hiện thực và giải thích di sản này theo những diễn tiến trọng yếu của nó. Có thể áp dụng biện pháp kỹ thuật một cách nhanh chóng, nhưng sự sống đi theo những đường lối lâu dài hơn. Cần có thời gian cho một khu rừng mọc lên; cần có thời gian cho một con người tăng trưởng. Bởi thế, những thực tại thiêng liêng này, như việc hiện thực của một công đồng, là những đường lối sống cần một thời khoảng nào đó chứ không thể được hoàn tất ngày trước ngày sau. Đó là lý do tại sao chưa đến lúc cần phải có một công đồng mới. Đây không phải chỉ là vấn đề trọng yếu mà còn là một vấn đề thực tế nữa, ở chỗ, chúng ta thấy có 2 ngàn vị giám mục tham dự Công Đồng Chung Vatican II, và đã cả là một vấn đề khó khăn để họp lại trao đổi với nhau. Hiện nay chúng ta có tới 4 ngàn vị, nên tôi nghĩ chúng ta cần phải sáng chế ra một thứ kỹ thuật trao đổi. Tôi xin nhắc lại những gì đã xẩy ra ở thế kỷ thứ bốn, một thế kỷ của các đại công đồng. Đó là vào thời điểm 10 năm sau một công đồng, Thánh Gregory Nazianzen được mời tham dự một công đồng mới, thánh nhân đã nói: “Không! Tôi không tham dự đâu. Hiện nay chúng ta phải tiếp tục làm việc cho công đồng trước đã. Chúng ta có rất nhiều vấn đề. Tại sao anh em muốn triệu tập liền một công đồng khác vậy?” Tôi nghĩ rằng tiếng nói có tác dụng cảm kích một cách nào đó ấy cho thấy rằng cần phải có thời gian để hiện thực một công đồng. Trong thời gian giữa hai đại công đồng, cần phải có những hình thức liên hệ khác nơi các hàng giáo phẩm, chẳng hạn như những cuộc họp thượng hội giám mục ở Rôma. Chắc chắn cần phải cải tiến về phương thức vì có rất nhiều tính cách đơn điệu. Chúng ta thực sự cần phải tìm ra một tiến trình cho thượng hội giám mục, một đường lối chung. Thế rồi có cả những hội nghị giám mục theo địa lục, theo miền v.v., có hoạt động hiệu nghiệm của các hội đồng giám mục, có những cuộc họp của các hội đồng giám mục với Tòa Thánh. Trong thời gian 5 năm, chúng tôi (ở Giáo Triều Rôma) được gặp tất cả các vị giám mục trên thế giới. Chúng tôi đã cải tiến những cuộc viếng thăm “ngũ niên” này rất nhiều, những cuộc viếng thăm trước đây rất trang trọng nhưng nay thực sự là những cuộc gặp gỡ trao đổi với nhau. Bởi thế, chúng ta cần phải cải tiến những dụng cụ này để thực hiện việc trao đổi thường xuyên nơi tất cả mọi lãnh vực của Giáo Hội cũng như nơi tất cả mọi lãnh vực của Tòa Thánh, hầu chiếm đạt hơn nữa việc áp dụng Công Đồng Chung Vaticanô II. Thế rồi, chúng ta hãy chờ coi …

Vấn     Làm thế nào để người ta có thể trung thành với Giáo Hội và yêu chuộng hiệp thông trong khi vẫn tiếp tục cởi mở để Thần Linh dẫn chúng ta vào tất cả sự thật? Nói cách khác, làm sao để có thể không bị rơi vào tình trạng thái cực giữa cứng rắn và đoạn tuyệt?

Đáp     Trước hết, tôi nghĩ đây là vấn đề liên quan đến tình trạng trưởng thành của đức tin mỗi người. Nếu hoàn toàn căn cứ vào bề ngoài thì lòng trung thành và việc cởi mở dường như loại trừ nhau. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng lòng trung thành thực sự với Chúa Giêsu, với Giáo Hội là Thân Mình của Người, là một lòng trung thành năng động. Sự thật là để cho hết mọi người, và tất cả mọi người được dựng nên để đến với Chúa. Cánh tay Người rộng mở trên thập giá, đối với các Vị Giáo Phụ của Giáo Hội, cùng một lúc biểu hiệu cho lòng trung thành đến cùng của một Vị Chúa bị treo trên thập giá, cũng như cho việc ôm lấy thế giới, thu hút thế giới về với Người và giành chỗ cho tất cả mọi người. Bởi thế, một tấm lòng trung thành chân chính với Chúa thì tham phần vào tính cách năng động của con người Chúa Kitô, Đấng dấn thân mình cho những thách đố khác nhau của thực tại, của kẻ khác, của thế giới v.v. Tuy nhiên, đồng thời Người cũng thấy được căn tính của mình ở đó, một căn tính không loại trừ bất cứ những gì là chân thật; nó chỉ loại trừ những gì là giả dối mà thôi. Đối với mức độ chúng ta tham phần hiệp thông với Chúa Kitô, hiệp thông với mối tình Người chấp nhận tất cả chúng ta và thanh tẩy tất cả chúng ta, đến nỗi chúng ta được hiệp thông với Chúa Kitô, bấy giờ chúng ta mới có thể vừa trung thành vừa cởi mở.

Vấn     Tình trạng hiện nay của vấn đề hiệp thông đại kết theo quan điểm của Giáo Hội ra sao? Sau bản tuyên ngôn Dominus Jesus của Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin đã xẩy ra những lời phê phán nơi những vị đại diện của các giáo hội Tin Lành, vì họ không chấp nhận hay không hiểu rõ lời phát biểu là họ phải được coi như là các cộng đồng Kitô hữu chứ không phải là các giáo hội.

Đáp     Vấn đề này cần phải có một cuộc bàn luận dài. Trước hết, chúng tôi được biết rằng nếu trong bản tuyên ngôn “Dominus Jesus” chúng tôi chỉ nói về tính cách độc nhất vô nhị của Chúa Kitô thì làm cho cả Kitô Giáo cảm thấy hài lòng vì văn kiện này, tất cả cùng nhau hoan hô thánh bộ của chúng tôi. Chúng tôi đã bị đặt vấn đề là “tại sao quí vị lại thêm vấn đề giáo hội vào mà làm gì để gây ra những lời phê bình chỉ trích như thế?” Tuy nhiên, cũng cần phải nói về Giáo Hội nữa, vì Chúa Giêsu đã thiết lập Cơ Cấu này, và Người hiện diện qua các thế kỷ nơi Cơ Cấu là Giáo Hội này. Giáo Hội không phải là một thứ tinh thần luẩn quẩn vậy thôi. Tôi tin rằng, trong tuyên ngôn “Dominus Jesus”, chúng tôi đã giải thích Hiến Chế “Lumen Gentium” của Công Đồng Chung Vaticanô II một cách hết sức trung thực, vì 30 năm qua chúng tôi đã càng ngày càng coi nhẹ bản văn này. Thật vậy, những người phê bình chúng tôi đã nói với chúng tôi rằng chúng tôi đã trung thành với chữ nghĩa của công đồng chứ chúng tôi không hiểu công đồng. Ít là họ nhận thấy rằng chúng tôi trung thành với chữ nghĩa vậy. Giáo Hội của Chúa Kitô không phải là một lý tưởng đại kết; không phải là một cái gì đó do chúng ta tạo nên; bằng không Giáo Hội của Chúa Kitô sẽ không phải là Giáo Hội của Chúa Kitô. Đó là lý do tại sao chúng tôi tin rằng Giáo Hội là một Cơ Cấu, chứ không phải chỉ là một quan niệm, thế nhưng Cơ Cấu này không loại trừ những cách thức hiện diện khác nhau của Giáo Hội, cho dù ở ngoài Giáo Hội Công Giáo, một Giáo Hội được Công Đồng đặc biệt nhấn mạnh. Tôi nghĩ hiển nhiên là có những đường lối hiện diện khác nhau này của Giáo Hội, với rất nhiều bóng mờ, nên cũng dễ hiểu thôi điều này đã gây ra những tranh luận trong Giáo Hội.

Vấn     Đức Hồng Y có nghĩ rằng Giáo Hội, đặc biệt là nơi thế giới Tây Phương, đang sửa soạn nói lên cho thấy tình trạng Kitô Giáo suy đồi của mình cùng với cái trống rỗng cả thể đang diễn tiến chăng? Hay vẫn còn nơi những con người của Giáo Hội một viễn ảnh về Kitô Giáo nhưng lại không phải là viễn ảnh về một Giáo Hội truyền giáo?

Đáp     Tôi nghĩ rằng về vấn đề này chúng tôi còn nhiều điều phải học hỏi. Chúng tôi quá quan tâm với chính mình, với những vấn đề cấu trúc, với vấn đề độc thân linh mục, với vấn đề phong chức cho nữ giới, với vấn đề các hội đồng mục vụ, với vấn đề quyền lợi của những hội đồng này cũng như của những thượng hội đồng giám mục… Chúng tôi luôn hoạt động để giải quyết những vấn đề nội bộ, chứ chúng tôi không nhận ra rằng thế giới đang cần đến những giải đáp; thế giới không biết sống ra sao. Thế giới không có khả năng sống, được thể hiện nơi nghiện hút, khủng bố v.v. Bởi vậy, thế giới đang khát khao những giải đáp, trong khi đó chúng tôi lại cứ lo đến những vấn đề của mình. Tôi tin rằng nếu chúng tôi dấn thân gặp gỡ những người khác, trình bày Phúc Âm cho họ một cách thích hợp, thì những vấn đề nội bộ của chúng tôi cũng sẽ được giảm bớt và được giải quyết. Điểm trọng yếu ở đây là: Chúng tôi phải làm sao cho Phúc Âm trở thành khả chấp trước một thế giới bị tục hóa ngày nay.

Vấn     Đức Hồng Y nghĩ gì về vấn đề phải bắt đầu ra sao trong việc điều hợp tình trạng phát triển về năng lực khoa học và kỹ thuật của nhân loại với đức tin và luân lý?

Đáp     Đó là những gì cần phải được nhận thức lại, vì những kiểu mẫu khoa học đang đổi thay; bởi thế, tình hình đối thoại giữa khoa học và đức tin cũng phải đối đầu với những thách đố mới. Chẳng hạn, một khí cụ quan trọng là Học Viện Khoa Học của Tòa Thánh, một học viện hiện nay tôi cũng là một phần tử, và ít lâu trước đây tôi đã thực sự tham dự lần đầu tiên một trong những cuộc họp của học viện này. Quá khứ học viện này là một hội đồng của các khoa học gia, như vật lý gia, sinh học gia v.v. Hiện nay có cả các triết gia và thần học gia nữa. Chúng tôi đã thấy rằng vấn đề đối thoại giữa các khoa học và triết lý cùng thần học là vấn đề khó khăn, vì chúng là những đường lối hoàn toàn khác nhau để nói lên thực tại, theo những phương pháp khác nhau v.v. Một trong những học viện gia này, ông là một chuyên gia trong ngành nghiên cứu về não bộ, đã nói rằng có hai thế giới bất khả dung hợp; một mặt, chúng ta có những loại khoa học mà trong lãnh vực của chúng, chúng không có tự do, không có sự hiện diện của tinh thần, mặt khác, tôi lại nhận ra rằng tôi là một con người và tôi có tự do. Bởi thế, đối với vị này, đó là hai thế giới khác nhau, và chúng ta không có khả năng để dung hợp hai quan niệm của mỗi thế giới này. Chính ông nhìn nhận là ông tin vào cả hai thế giới: vào một thế giới khoa học chối bỏ tự do, cũng như vào cảm nghiệm hữu thể của ông là một con người tự do. Tuy nhiên, chúng ta không thể sống như thế được; nó sẽ vĩnh viễn là một tình trạng hỗn loạn tâm thần. Trong tình hình hiện nay đối với việc chuyên môn hóa phương pháp sắc bén về phần cả hai lãnh vực, chúng ta phải tìm cách để lãnh vực này khám phá ra lý lẽ của lãnh vực kia nhờ đó phát triển một cuộc đối thoại thực sự. Hiện thời không có một công thức nào cả. Đó là lý do tại sao vấn đề hết sức quan trọng là những người phác họa của cả hai lãnh vực tư tưởng con người, các ngành khoa học với khoa triết lý và khoa thần học, cần phải gặp gỡ nhau. Có như thế, họ mới có thể nhận thức rằng cả hai đều là những biểu hiệu cho một lý lẽ chân thực. Thế nhưng họ phải hiểu rằng thực tại là một lãnh vực riêng và con người là một lãnh vực riêng. Đó là lý do tại sao vấn đề rất quan trọng ở đây là tại các đại học đường cũng như nơi các ngành học, chúng không phải là những đường lối biệt lập tách khỏi nhau, nhưng chúng có một mối liên hệ thường xuyên, trong đó, chúng ta biết nghĩ với những người khác và tìm thấy mối hiệp nhất của thực tại.

(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu được Màn Điện Toán Zenit phổ biến những ngày Thứ Ba 3/12/2002 và Thứ Tư 4/12/2002)