GIỚI TRẺ TƯƠNG LAI XÃ HỘI
 


Tre Già Măng Mọc

Nói đến giới trẻ là nói đến một cái gì vui tươi, mới mẻ, linh hoạt, đầy sức sống. Tất cả những tính chất này của giới trẻ làm cho chúng ta nghĩ đến xuân, một mùa thời gian mới mẻ nơi thời gian, tươi trẻ nơi không gian và vui vẻ nơi nhân gian. Thật vậy, theo tôi, nếu thời tiết thiên nhiên một năm thường có bốn mùa thế nào, thì một ngày sống cũng như một đời người cũng có những thời điểm xuân, hạ, thu, đông như vậy. Không phải hay sao, theo bản chất và đặc tính bẩm sinh của mỗi mùa trong năm, đối với ngày sống của con người, mùa xuân ở vào buổi sáng mát mẻ, mùa hè ở vào buổi trưa nóng bức, mùa thu ở vào buổi chiều tàn phai, và mùa đông ở vào buổi tối mát lạnh? Đời sống của con người cũng thế, con người sống trong mùa xuân của cuộc đời là lúc họ còn trẻ trung mới lớn, thời điểm được gọi là tuổi thanh xuân, thường kéo dài từ khi mới sinh ra cho tới khi họ hết phát triển về thể lý ở vào tuổi 25. Sau đó, con người bắt đầu bước vào mùa hè của cuộc đời, thời điểm con người ra trường, bắt đầu tìm kiếm công ăn việc làm và lập gia đình, tức thời điểm “tam thập nhi lập”, thời điểm con người chẳng những tạo dựng cơ nghiệp mà còn lập thân nữa, và con người đạt đến tột độ của mùa hè cuộc đời này khi họ bước vào tuổi “tứ nhập nhi bất hoặc”, tuổi khôn ngoan, tuổi thường đóng những vai trò và chức vụ quan trọng trong xã hội, cả về dân sự lẫn tôn giáo. Thế rồi, cuộc đời con người sẽ vào thu, tuổi down hill, khi sức khỏe của họ bắt đầu xuống, với những dấu hiệu đổi thay nơi thân xác của họ, như tóc bắt đầu trở thành hoa râm, mắt bắt đầu đeo kính lão, nữ hết kinh nguyệt v.v. tức con người bắt đầu bước tới thời điểm “ngũ thập nhi nhi tri thiên mệnh” của mình. Sau hết, mùa đông cuộc đời sẽ đến với con người khi họ về hưu, thường ở vào tuổi từ 65 đến tuổi “thất thập cổ lai hi”, cho đến khi họ thực sự nằm xuống, với một thân xác hoàn toàn lạnh ngắt mùa đông.

Nếu luật tuần hoàn chi phối thiên nhiên vũ trụ thế nào, điển hình là bốn mùa thời tiến xuân hạ thu đông, tuần hoàn từ mới tới cũ, như từ xuân tới đông, rồi lại tuần hoàn từ cũ sang mới, như từ đông sang xuân thế nào, nó cũng chi phối cả xã hội loài người như vậy. Đó là lý do Việt Nam ta có câu: “tre già măng mọc”. Thật vậy, tuổi trẻ hay giới trẻ chính là thành phần măng mọc lên để dần dần thay thế cho thành phần cao niên tre già trong xã hội. Theo tiến trình của lịch sử loài người, từ khi bắt đầu có loài “nhân linh ư vạn vật” hiện hữu trong vũ trụ hữu hình đến nay, thì xã hội loài người đang tiến theo đà “con hơn cha nhà có phúc”, vì xã hội của họ càng ngày càng văn minh về vật chất cũng như về nhân bản hơn. Trong xã hội của người Việt Nam hải ngoại cũng cho thấy rõ điều này. Ở chỗ, chẳng hạn, từ những gia đình “danh ca” ở Việt Nam, sang tới mảnh đất cơ hội opportunity land Mỹ quốc này, đã xuất hiện những kỹ sư, luật sư, bác sĩ, ở những khu nhà giầu, nhà sang, nhà mới, nhà kiểu, đi những xe kiểu nhất, tân nhất, mắc nhất v.v.

Con Hơn Cha Nhà Có Phúc

Nói như thế không có nghĩa là nghề đánh cá là đồ bỏ còn nghề kỹ sư, luật sư, bác sĩ mới đáng kể. Thật ra, tự bản chất của mình, ngoại trừ những việc phản luân thường đạo lý, như nghề ăn trộm ăn cắp, nghề làm đĩ làm điếm, nghề đánh thuê giết mướn, nghề buôn lậu gian thương v.v., tất cả mọi ngành nghề đều cao quí và đáng trọng. Trước hết, là vì khả năng trời phú bẩm cho mỗi người để họ có thể dùng nó góp phần vào việc phục vụ và xây dựng xã hội loài người. Sau nữa là vì sự quan trọng và cần thiết của mỗi ngành nghề trong guồng máy xã hội, không phải chỉ do các ngành nghề kỹ sư, luật sư và bác sĩ mới là những nghề làm cho xã hội này tồn tại và phát triển, mà còn phải có các người nông phu trồng cấy và các tay ngư phủ đánh cá nữa, bằng không, càng là kỹ sư, luật sư, bác sĩ càng chết sớm trong nạn đói năm 1945 ở Việt Nam ngày xưa. Sau hết, còn là vì quyền chọn lựa của mỗi người nữa, chẳng hạn như ở Mỹ có nhiều người học ra trường với cấp bằng kỹ sư, nhưng sau đó lại nhào vô làm cái nghề gọi là “phi thương bất phú”, tức nghề buôn bán, bán bảo hiểm, bán nhà cửa, bán xe hơi, bán đồ đạc furniture, mở siêu thị, mở nhà hàng, mở tiệm bán máy móc, mở tiệm sửa xe v.v.

Đúng vậy, nếu nghề nghiệp tự bản chất là tốt thì chỉ khi nào con người không méo mó khi hành nghề của mình, họ mới thực sự phục vụ cho xã hội, nghề của họ mới có ích cho xã hội, bằng không, nó sẽ trở thành một dụng cụ phá hoại xã hội. Chẳng hạn làm luật sư để biện hộ cho công lý thì lại đi tìm cách gian lận tiền bồi thường của các hãng bảo hiểm xa hơi, hay cố tranh cãi để bênh vực cho những người gian ác tác hại xã hội. Chẳng hạn làm bác sĩ để cứu mạng con người thì lại đi giúp phá thai, xui phá thai, hay đi lậu tiền thẻ bệnh Medi-Cal/Medicaid của chính phủ. Chính vì nghề nghiệp không làm nên giá trị con người, cho bằng tinh thần tự trọng của con người cũng như nhân cách của con người, mà “con hơn cha nhà có phúc” không phải ở tại kiến thức khoa học của giới trẻ hay khả năng kỹ thuật của họ. Nếu xã hội loài người mỗi ngày cần phải được tiến triển hơn nữa, về cả phương diện văn minh vật chất lẫn nhân bản, thì tương lai của xã hội không phải là chính đám giới trẻ với những vị bác sĩ hay luật sư trên đây, và cũng không thể nào lại ở trong tay của đám giới trẻ này.

Chứng liệt kháng nơi tre già

Tuy nhiên, định luật nhân quả khách quan và tổng quan cho thấy cây tốt thì sinh trái tốt, cây xấu thì sinh trái xấu, cây tốt không thể sinh trái xấu và cây xấu không thể sinh trái tốt. Bởi thế, giới trẻ không thể nào là tương lai, là hy vọng cho một xã hội sống văn minh yêu thương, nếu họ không được thành phần tiền bối khả kính của họ giáo dục họ sống theo văn hóa sự sống. Trái lại, thực tế ngày nay cho thấy, giới trẻ vô tội đáng thương còn bị thành phần đi trước tác hại một cách phũ phàng trắng trợn nữa. Thế hệ già đi trước hiện nay không tác hại thế hệ trẻ đi sau là gì, khi thành phần tiền bối theo trào lưu cá nhân chủ nghĩa và hưởng thụ sát hại mầm sống tuổi trẻ ngay trong bụng mình, đến nỗi, theo tín liệu của các hãng bán bảo hiểm nhân thọ cho biết, ngân quĩ hưu trí của Liên Bang Hoa Kỳ chẳng bao lâu nữa sẽ không còn đủ cho thành phần trẻ hiện nay sau này về già được hưởng nữa, một thành phần trẻ càng ngày càng ít đi vì nạn phá thai đang phải nai lưng ra để bảo trì quĩ hưu trí cho thành phần già. Việc con người phá thai với mục đích ban đầu là để kiểm soát dân số là việc con người thực sự đang đi đến chỗ tự diệt và tuyệt giống vậy. Bản thống kê của Trung Tâm Kiểm Soát và Ngăn Ngừa Bệnh Tật của Hoa Kỳ cho biết năm 1997, có 1,429,577 vụ phá thai được chính thức báo cáo, tức có gần 1.5 triệu thai nhi vô tội năm ấy bị chính người mẹ của mình sát hại oan uổng.

Chưa hết, thế hệ đi trước chẳng những sát hại sự sống thể lý của thế hệ đi sau, mà còn sát hại cả sự sống tâm linh của thế hệ đi sau nữa, ở chổ, thế hệ đi trước làm gương mù gương xấu cho thế hệ đi sau, bằng việc làm không thích đáng, thậm chí xấu xa của mình, cũng như bằng những hành động thiếu nhân cách và vô trách nhiệm của mình. Trước hết, người lớn tác hại sự sống tâm linh người trẻ bằng việc làm của mình ở những chương trình giáo dục tính dục sex education, những chương trình chỉ cách cho giới trẻ đang tuổi tò mò và phát triển sinh lý làm sao để làm tình cho khỏi có thai, nhất là khỏi chứng liệt kháng AIDS. Giới trẻ còn bị người lớn đầu độc bằng những thứ phim ảnh, video, truyền hình, tranh ảnh, sách báo bạo động và dâm ô. Theo thống kê cho biết, nguyên tại California thôi, năm 1986, có 52.718 thanh thiếu nữ sinh con ngoại hôn, trong đó có 1/3 ở vào tuổi vị thành niên. Cũng theo bản thống kê này, mỗi ngày tại California có 385 em gái vị thành niên khám phá ra là mình đã có thai.

Sau nữa, người lớn chẳng những sát hại sự sống tâm linh giới trẻ bằng những việc làm không thích đáng của mình, như những việc giáo dục tính dục, hay những việc xấu xa của mình, như việc truyền thông tính dục, mà còn sát hại chúng bằng chính hành động thiếu nhân cách và vô trách nhiệm của mình nữa. Nếu tầm vóc trọn lành hoàn hảo của con người là chỗ con người biết yêu thương, hy sinh phục vụ, nhẫn nại thứ tha, trở nên một con người quốc tế, một con người của mọi sự cho mọi người, sống với ai cũng được, mọi người là anh chị em của mình, thì khi thế hệ đi trước cứ động một tí là ly dị họ đã không sát hại tâm linh của thế hệ đi sau hay sao? Nếu thế hệ đi trước không biết yêu thương nhau thì họ làm sao có đủ tư cách và khả năng bảo thế hệ đi sau phải thương yêu nhau thế nào được. Đó là lý do vấn đề giáo dục con người ngày nay đã bị hội chứng liệt kháng AIDS, tức không còn thế giá và khả năng giáo dục nữa. Nếu thế hệ đi trước cứ đối xử với nhau bằng luật “mắt đền mắt răng đền răng”, như tình hình ở Trung Đông, giữa phe Palestine thực hiện những cuộc khủng bố tấn công, với phe Do Thái lại ra tay trả đũa bằng những cuộc tấn công khủng bố, hay ở những xã hội cực đoan kỳ thị tôn giáo, kỳ thị chủng tộc, không biết tôn trọng quyền lợi và bản chất đặc thù về văn hóa hay tôn giáo của nhau, thì thế hệ đi sau làm sao lại không bị di truyền bởi giòng máu nghi kỵ và hận thù của họ.

Chứng băng hoại nơi măng mọc

Ngày 5/7/2002, Màn Điện Toán Zenit đã phổ biến một tín liệu là, theo bản thăm dò của Viện Đại Học Tel Aviv thì có 40% giới trẻ Do Thái và Palestine không tin vào hòa bình và không muốn trở về với việc thương thảo nữa. Con số này rất quan trọng, vì dân số Palestine gần một nửa ở dưới 14 tuổi, và dân số Do Thái có 1/3 là còn thuộc tuổi học đường. Cuộc thăm dò này được thực hiện bằng cuộc phỏng vấn 1.197 em 15 tuổi, trong đó có 645 em Do Thái ở Giêrusalem, và 552 em Palestine ở các trại tị nạn Ranallah và Bethlehem. Từ khi bắt đầu tình trạng intifada vào năm 2000 đã có 191 em trai dưới 15 tuổi bị giết chết, trong khi đó có 70% vị thành niên Palestine và 30% trẻ em Do Thái đang bị căng thẳng về những bạo loạn hiện nay. Nhà báo Guido Olimpo tờ Corriere della Sera ở Giêrusalem nói với Đài Vatican là thái độ của giới trẻ Do Thái và Palestine ở đây cũng dễ hiểu, vì “không còn hy vọng gì ở đây nữa, hòa bình đã chết mất rồi. Những hành động bạo lực của các nhóm Palestine, những cuộc tấn công của người Do Thái và các cuộc hành quân trong các Khu Vực, đã làm tiêu ma niềm tin tưởng mất rồi. Những cuộc thương thảo bị cho là mất giờ và chẳng đi đến đâu cả. Những phản ứng về thể lý cũng đã xẩy ra ở đây, như rùng mình và khó ngủ về đêm, nhất là trong số trẻ em Palestine. Những ai sống ở các trại tị nạn càng bị căng thẳng hơn nữa, bởi những cuộc chiếm đóng, những chiếc trực thăng và những chiếc xe tăng tầu bò. Giới trẻ Do Thái sợ ra khỏi nhà, đi trên xe buýt hay đi coi chớp bóng vì liều mình bị tấn công”.

Hậu quả của một xã hội bạo loạn từ trong gia đình đến ngoài xã hội ở khắp nơi trên thế giới từ hậu bán thể kỷ 20 tới nay cho thấy giới trẻ tỏ ra càng ngày càng chán chường, như trường hợp giới trẻ ở Trung Đông hiện nay, càng ngày càng chán sống, chẳng những bằng những nghiện hút cho siêu thoát cuộc đời vô nghĩa này được lúc nào hay lúc đó, mà thậm chí còn bằng cả việc tự hủy diệt mạng sống đang phơi phới của mình nữa. The Jackson Foundation là một cơ quan bất vụ lợi được thành lập với mục đích là để chỉ dẫn cho các phụ huynh, thày cô và chính giới trẻ biết về việc giới trẻ tử tự. Hội bất vụ lợi này mang tên của một con người trẻ, Jason Flatt, được thành lập từ ngày 16/7/1997, ngày con người trẻ 16 tuổi, yêu đời, lắm bạn, năng động này tự tử bằng khẩu súng 8 ly trong phòng ngủ của mình. Theo thống kê của hội giúp ngăn ngừa giới trẻ tự tử này thì tự tử là tác nhân thứ hai gây tử vong nhiều nhất cho giới trẻ từ 15 đến 19 tuổi, nhất là vào năm 1992; giới trẻ tự tử đã tăng gấp ba lần từ năm 1970; từ năm 1980, số giới trẻ từ 10 đến 14 tuổi tự tử tăng lên 128%; cứ 1 tiếng 45 phút là có một con người trẻ tự tử; trung bình mỗi năm có từ 5 đến 7 ngàn mạng sống trẻ bị tiêu vong vì tự tử; 60% học sinh trung học cho biết là đã có ý tưởng tự tử ít là một lần trong đời; giới trẻ tự tử bằng súng gần 70% trong năm 1990, con số tỉ lệ này tăng hơn 20% từ năm 1970.

Cải lão hoàn đồng

Nếu “tre già măng mọc” kiểu này thì không biết xã hội loài người sẽ đi về đâu, và giới trẻ có còn là tương lai của xã hội, là hy vọng của thế giới nữa chăng, hay trái lại, sẽ trở thành tai họa cho xã hội, trở thành tai ương của xã hội?

Đó là lý do chúng ta cần phải xét lại kỹ lưỡng và toàn bộ vấn đề giáo dục. Trước hết, chúng ta cần phải để ý tới đối tượng của giáo dục là chính con người thụ huấn, với tất cả những yếu tố làm nên con người thụ huấn này là nhân vị, nhân phẩm và nhân cách của họ. Sau nữa, chúng ta cũng cần phải chú trọng tới tất cả mọi khía cạnh phát triển của con người thụ huấn này, về phương diện tâm sinh lý, tâm linh và luân lý. Sau hết, chúng ta còn cần phải tìm cách để làm sao thực hiện được việc giáo dục một cách thích đáng nhất, xứng hợp nhất và hiệu nghiệm nhất, tức thực hiện nghệ thuật giáo dục vậy, để có thể giúp con người thụ huấn thành nhân và vào đời. Tất cả những vấn đề vừa được liệt kê chúng ta sẽ bàn đến trong loạt bài về chủ đề giáo dục, loạt bài được mở đầu bằng đề tài “Giới Trẻ Tương Lai Xã Hội” đây.

Trong cuộc đời phục vụ giới trẻ của mình, với tư cách là một giáo sư trung học ở Việt Nam trước năm 1975, cũng như với tư cách lãnh đạo một phong trào giới trẻ tại Hoa Kỳ từ đầu thập niên 1990 tới nay, nhất là với tư cách làm cha của 3 người con, qua những gì tôi đã tận mắt chứng kiến thấy, tuy không nhiều nhưng cao cả, tuy âm thầm nhưng mãnh liệt, tôi cảm nghiệm thấy những điều rất chân thật sau đây: thứ nhất, giới trẻ hết sức khao khát chân thiện mỹ, khao khát hơn ai hết, tìm kiếm hơn ai hết; thứ hai, bởi vậy chúng rất cần có người dẫn dắt khôn ngoan và có uy tín, người chúng cảm phục và nghe theo; thứ ba, chúng có rất nhiều ưu tư và tâm sự cuộc đời, nhiều khi chúng cảm thấy hết sức bối rối và có những tâm tưởng hoàn toàn sai lạc một cách ngây thơ, cần chia sẻ và tâm sự với những ai chúng tin tưởng; thứ bốn, nếu không được hướng dẫn đàng hoàng, không tìm thấy một cố vấn tối cao khả tín, chúng sẽ đi tìm chân thiện mỹ ở những nơi hoặc ở những thứ hợp với bản năng hạ cấp, và sẽ chạy theo đam mê lăng loàn của chúng, những gì có thể đáp ứng những đòi hỏi tự nhiên cấp thời của chúng.

Với những cảm nghiệm này, tôi thâm tín rằng: giới trẻ chắc chắn sẽ là hy vọng cho loài người, là tương lai của xã hội, nếu người lớn chúng ta thực sự muốn trở nên những con người trẻ như chúngỉ, và vui vẻ tự động tìm đến với chúng, sống với chúng như những con người trẻ. Nhiều người quen thân với tôi, sau một thời gian xa cách, gặp lại tôi cách đây ít lâu, khen tôi là trẻ trung, tôi đã mỉm cười đáp lại: “Chắc là nhờ sống với giới trẻ đó”. Thật vậy, dù đáng tuổi cha tuổi chú của nhóm giới trẻ tôi đang phục vụ, nhưng tôi vẫn được chúngỉ gọi là “anh”, một tiếng “anh” chẳng những rất thân tình mật thiết mà còn rất trẻ trung yêu đời nữa. Đáp lại, tôi đã nhiều lần chân tình nói với các em là: “Cám ơn các em vẫn còn tiếp nhận một con người già đời như tôi!”. Tóm lại, đối với tôi, “cải lão hoàn đồng” chính là đường lối hay nhất để thấy được Giới Trẻ Tương Lai Xã Hội vậy.

 



Tâm Phương Cao Tấn Tĩnh
(Bài chia sẻ cho buổi phát thanh Vui Mừng Và Hy Vọng 39, 13/10/2002)
 

 

 

TUỔI TRẺ
TƯƠNG LAI CỦA XÃ HỘI


Trần Mỹ Duyệt
 



Hồi còn nhỏ đi học, tôi rất thích và thuộc lòng câu: “Ngày nay học tập. Ngày mai giúp đời” mà tôi nhớ là của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Một câu châm ngôn được in ở bìa sau các tập vở phát cho học trò. Tuổi trẻ chúng tôi cũng đã từng ngâm nga bài hát “Học sinh là người tổ quốc mong cho mai sau”. Khi bước vào bậc Trung Học, chúng tôi đã có lần bình luận câu nói trên trong giờ Việt Văn.

Bây giờ khi đã lớn, đã có một vài kinh nghiệm của cuộc đời, nhất là những kinh nghiệm trong nghề nghiệp, tôi mới hiểu thấm thiá hơn câu nói trên. Một câu nói và bài hát mà tôi cho là rất phù hợp với tâm lý phát triển, giáo dục, và xã hội. Ngay cả khi chúng ta nhìn nó dưới lăng kính đạo đức, thì tuổi trẻ vẫn là tương lai của một xã hội đang đến.

Nếu theo các nhà khoa học, và sinh vật học ngày nay cho rằng con người có thể sống tối đa tới 120 tuổi, thì tuổi trẻ chính là tuổi của những bước đường tương lai, tuổi sẽ gánh vác trách nhiệm với đất nước, với giống nòi, và với nhân loại trong những thế hệ tiếp nối.

Bằng một hình dung rất đơn giản, chúng ta hãy lấy 120 chia cho hai, lập tức chúng ta biết rằng con số 60 là cái mốc của thời gian phân chia giữa già và trẻ, giữa thế hệ cha ông và thế hệ con cháu. Những ai có học sơ qua về hình học, thì chúng ta tưởng tuợng đời người như một parabole mà trục chính là ở 60 độ. 60 của phần trước có khuynh hướng và bắt buộc hướng lên. Ngược lại 60 phần sau có khuynh hướng và bắt buộc hướng xuống. Do đó, khi nói tới tuổi trẻ, điều đầu tiên và rõ ràng nhất là những mộng ước, những giấc mơ và những hoạch định cho tương lai. Tuổi trẻ có những giấc mơ anh hùng, những ước vọng chinh phục không gian, thời gian, và ngay cả số mệnh của mình. Khi còn trẻ, chúng ta ai cũng nghĩ rằng mình có thể làm được mọi chuyện khi lớn lên. Nhưng càng lớn, thì ý nghĩ ấy càng rõ ràng và khẳng định rằng không phải hễ cái gì mình thích, mình muốn là có thể có, hoặc có thể làm được.

Từ những nhận định trên đưa tuổi trẻ tới một cái nhìn thực tế là phải học hành, phải luyện tập, và phải chịu khó. Nếu tương lai thuộc phần tuổi trẻ, thì tuổi trẻ phải chuẩn bị cho tương lai ấy bằng những khả năng, tài năng, và nghị lực dồi dào, sẵn có. Đời sẽ chẳng được gì và tuổi trẻ cũng chẳng giúp gì được đời nếu những ngày thơ trẻ qua đi mà không được tôi luyện, học tập và chịu khó. Cũng như tổ quốc sẽ chẳng mong mỏi được gì đối với thành phần trẻ mà cuộc sống và lối suy nghĩ đi ra ngoài xã hội con người. Có nghĩa là tuổi trẻ nếu không chuẩn bị sẵn sàng, một khi trách nhiệm đưa vào tay, tuổi trẻ sẽ thấy lúng túng, và sẽ vấp ngã trước những thử thách và trách nhiệm. Tuy nhiên, để chuẩn bị cho những trách nhiệm tương lai, tuổi trẻ cũng rất cần đến sự hướng dẫn và chia sẻ kinh nghiệm của cha mẹ, những người có bổn phận trực tiếp với tuổi trẻ. Ngoài ra, tuổi trẻ cũng cần được học hỏi kinh nghiệm của những người đi trước, những người có trách nhiệm tinh thần cũng như xã hội đối với tuổi trẻ. Theo tâm lý giáo dục, tuổi trẻ học đuợc những gì xẩy ra trong đời sống và cách ứng xử ngay trong những năm thơ trẻ còn ở với cha mẹ, trong môi trường học đường cũng như xã hội. Môi trường giáo dục gia đình, giáo dục học đường, do đó, chiếm phần quan trọng trong tiến trình phát triển của tuổi trẻ, và ảnh hưởng những năm thơ trẻ này sẽ theo con người cho đến mãn đời.

Khi một em bé bước vào tuổi vị thành niên, trung bình là ở tuổi 12 hoặc 13, tức là lúc em bé bắt đầu bộc lộ những cá tính riêng biệt, những lề lối suy nghĩ và hành động riêng biệt. Nhưng khi em lên tới 15 tuổi, thì khả năng phát triển của em cho phép em có thể suy nghĩ và hành động như một người lớn tuổi. Và với khả năng suy tư ấy, cộng thêm những phát triển về thể lý càng khiến em nghĩ rằng mình có thể làm được mọi việc, kể cả những việc mà cha mẹ nói là khó lòng và không thể làm được.

Nghiên cứu về tiến trình phát triển tuổi trẻ trên của những nhà tâm lý và tâm lý xã hội cho chúng ta một suy nghĩ rằng nếu tuổi trẻ là một chiếc xe cao tốc, thì tuổi già là một chiếc thắng an toàn. Chiếc xe không thể chạy được nếu thiếu những điều kiện về cơ giới tốt. Nhưng chiếc xe lại không an toàn nếu thiếu bộ phận thắng. Điều này có thể đem tới chết người.

Vậy tương quan giữa cha mẹ, giữa xã hội người già và tuổi trẻ chính là sự hài hoà, và làm sao để tuổi trẻ cho thể chuyển tiếp nhịp nhàng mà nắm lấy cơ hội khi thời cơ đến. Và khi thời cơ đến, sẽ không hành động lầm lỡ. Để được như vậy đòi hỏi có sự cộng tác cả hai bên, và sự hiểu biết cả tuổi già và tuổi trẻ. Tuổi già hay phàn nàn và cho rằng tuổi trẻ bồng bột và hung hăng nhưng lại thiếu kinh nghiệm. Trái lại tuổi trẻ lại cho rằng tuổi già bảo thủ, và nặng đầu óc quan liêu, đế quốc. Điều này cũng thường thấy xẩy ra trong những giao tiếp thường ngày giũa cha mẹ và con cái. Ngoài ra, ta cũng có lý mà cho rằng những tệ đoan xã hội, những xấu xa của cuộc sống như bon chen, gian dối, lường gạt, cờ bạc, đĩ điếm đều là sản phẩm của những thế hệ đi trước để lại. Nhận xét này rất đúng khi chúng ta nhìn vào thế giới ngày nay, khi mà các hộp đêm mọc lên như nấm, những phòng trà ca nhạc, những tiệm tắm hơi, những phòng massage, và những sòng bài có tính cách quốc gia và quốc tế. Hoặc những vụ buôn bán ma túy, cần sa, những vụ buôn bán tình dục của tuổi trẻ, những mánh lới xô đẩy tuổi trẻ vào con đường trộm cướp, nghiện ngập và dâm dật. Thật ra khi đứng trước những ảnh hưởng ấy, chúng ta thấy khó lòng mà chối được tội mình, càng không có lý để nói rằng tuổi trẻ ngày nay hư hỏng, hoặc tuổi trẻ xuống dốc.

Khi nói tới “ngày nay học tập. Ngày mai giúp đời” là nói tới những khía cạnh cần phải nỗ lực của tuổi trẻ. Và khi nói tới “học sinh là người tổ quốc mong cho mai sau” là nói tới sự liên đới giữa thế hệ cha anh, và thế hệ con cháu. Cần phải ý thức hơn về vai trò nối tiếp và chuyển tiếp, nhất là trong cái nhìn có có tính cách giáo dục và nhân bản. Muốn hay không muốn, tuổi trẻ cũng sẽ trở thành dường cột xã hội đang tới. Muốn hay không muốn, xã hội cũng cần phải mong chờ ở những thành phần trẻ. Nhưng trước hết tuổi trẻ cần được đào tạo, giáo dục, và tiến trình này đòi hỏi cả nơi cha mẹ và con cái. Cả nơi tuổi trẻ và tuổi già. Cả thế hệ đi trước và thế hệ tiếp nối. Nếu cha mẹ, nếu những người có trách nhiệm tinh thần và xã hội với tuổi trẻ không nỗ lực, thì tuổi trẻ cũng không làm gì hơn là đi theo con đường mòn mà những người đi trước đã để lại.