CHÍNH PHỦ BUSH MUỐN TẤN CÔNG IRAQ

 

Sau biến cố 911 đúng một năm, người Hoa Kỳ đã kỷ niệm biến cố Khủng Bố Tấn Công Hoa Kỳ này đặc biệt đến nỗi, có thể nói còn long trọng hơn bất cứ một ngày Holiday lễ nghỉ hằng năm nào ở Hoa Kỳ. Qua truyền thông, chúng ta đã biết được thêm nhiều chi tiết mới mẻ bí mật trong cuộc khủng bố này, như sự kiện Tòa Bạch Ốc biết trước khủng bố sẽ xẩy ra nhưng vẫn cứ để xẩy ra, hay như việc tổng thống Bush ra lệnh bắn chiếc máy bay bị không tặc ở vùng Tây Nam Pennsylvania v.v. Không biết đây có phải là một khổ nhục kế Hoa Kỳ muốn dùng để có thể danh chính ngôn thuận trước thế giới nhào vô một thị trường khổng lồ với 1 tỉ 200 triệu người thuộc Khối Ả Rập Hồi Giáo là thế giới khép kín trước văn minh Tây Phương và vẫn hết sức căm thù Mỹ hay chăng? Tuy nhiên, từ việc tấn công A Phú Hãn để bắt trọn ổ bọn khủng bố quốc tế, nhất là tên đầu đàn của họ, không thành công, (hay không muốn thành công để tiếp tục có cớ nhúng tay quân sự và kinh tế vào vùng này, như trường hợp của một Saddam Hussein 11 năm trước đây), nay lại đến việc dự định tấn công Iraq với đủ mọi lý do viện dẫn biện minh cho việc làm của mình. Thế nhưng, việc Hoa Kỳ dự định tấn công Iraq có chính đáng hay không?

 

Quốc Hội Iraq đồng thanh không chấp nhận Quyết Định của Liên Hiệp Quốc

Nếu toàn thể 15 quốc gia hội viên thuộc Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đã đồng thanh bỏ phiếu chấp nhận quyết định của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc Ngày Thứ Sáu 8/11/2002 vừa rồi thì 250 phần tử thuộc Quốc Hội Iraq sáng Thứ Ba 12/11, đúng 2 tháng sau ngày Tổng Thống Bush trình bày vấn đề Iraq lên Liên Hiệp Quốc, cũng đã đồng thanh bỏ phiếu không chấp nhận quyết định này của Liên Hiệp Quốc, nhưng để toàn quyền quyết định tối hậu cho Hội Đồng Thẩm Quyền Cách Mạng do Tổng Thống Saddam Hussein làm đầu. Quốc Hội đã bỏ phiếu đúng như đệ nghị của ủy ban liên hệ ngoại giao. Nhưng đã thúc giục “vai trò lãnh đạo chính trị” là “hãy chấp nhận những gì được coi là xứng hợp để bênh vực nhân dân Iraq cũng như nền độc lập và phẩm giá của quốc gia Iraq, và ban quyền cho Tổng Thống Saddam Hussein chấp nhận những gì tổng thống thấy rằng thích đáng nói lên việc chúng tôi hoàn toàn hỗ trợ cho vai trò lãnh đạo của tổng thống”. Ông Saasoun Hammadi, phát ngôn viên của quốc hội Iraq, đã xin những vị đại diện nhân dân Iraq bỏ phiếu 3 lần cho mỗi một chi tiết của quyết định bằng cách giơ tay, và một lần cho tất cả quyết định.

Trước đó, con trai của Tổng Thống Saddam Hussein là Uday đã gửi đến quốc hội một văn thư với lời lẽ là “Với tư cách là Hội Đồng Quốc Gia chúng ta phải chấp nhận bản quyết định của Liên Hiệp Quốc là những gì đang được ranh luận trong những buổi họp này”. Uday cũng là một thành viên của quốc hội sở dĩ tỏ ra muốn chấp nhận bản quyết định của Liên Hiệp Quốc với điều kiện “được nấp dưới Liên Hiệp Ả Rập”: “Quốc hội phải chấp nhận quyết định này theo một số phương thức và không phải là không có những hạn chế vì việc làm này không ở trong tay chúng ta”. Ý kiến của Uday như lập lại lời kêu gọi của Khối Liên Hiệp Ả Rập muốn thành phần thanh tra cũng phải có những chuyên viên người Ả Rập nữa. Uday bất bình với Syria, một nước Ả Rập duy nhất trong Hội Đồng Bảo An, đã bỏ phiếu chấp thuận bản quyết định của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Uday xin quốc hội đừng cho Hoa Kỳ có cơ hội tấn công Iraq: “Chúng ta đừng đợi cho đến khi những mũi tên được bắn vào mình bấy giờ chúng ta mới giơ thuẫn lên chống đỡ. Như chúng ta đều biết rằng những người Hoa Kỳ là những tay ngổ ngáo, lọc lừa và gian trá, nên chúng ta đừng cho kẻ gian ác và vũ khí của họ có cơ hội tấn công này”. Uday cũng xin các nước Ả Rập hãy ngưng bán dầu hỏa cho bất cứ nước nào tham chiến đánh Iraq, kể cả các nước hỗ trợ họ về phương tiện hay để họ sử dụng các căn cứ tấn công hoặc để cho các chiến hạm đi qua hải phận của mình.

 

Hoa Kỳ và Iraq Gầm Gừ Nhau về Bản Quyết Định của Liên Hiệp Quốc

Nhân Viên Trưởng của Tòa Bách Ốc, ông Andrew Card đã nói với NBC hôm Chúa Nhật 10/11/2002 như sau: “Liên Hiệp Quốc có thể hội họp và bàn thảo, nhưng chúng ta không cần phép của họ trước khi ra quân”. Saddam Hussein “hiện nay đang ở vào vị thế phải thưa ‘vâng, vâng, vâng, vâng, chứ không thể nói không không được”. Nếu hắn không chịu tuân hợp, “Hiệp Chủng Quốc và liên minh của chúng ta đang sửa soạn ra tay”. Tổng thống Bush không tìm cách tránh né ra quân, “nếu cần phải xuất trận, chúng tôi sẽ làm điều này”. Bộ Trưởng Nội Vụ Colin Powell cũng cho CNN biết hôm Chúa Nhật là nếu trưởng ban thanh tra Hans Blix than phiền về việc bất tuân hợp của Iraq thì Hội Đồng Bảo An sẽ lập tức được triệu tập để cứu xét tình hình phản ứng. Thế nhưng nếu hội đồng này không thể đi đến chỗ quyết định dùng võ lực thì Hiệp Chủng Quốc sẽ không chịu bó tay đâu: “Tôi có thể bảo đảm với quí vị là nếu hắn không tuân hợp lần này, thì chúng ta sẽ xin Liên Hiệp Quốc ra lệnh sử dụng tất cả mọi phương tiện cần thiết, mà nếu Liên Hiệp Quốc không muốn làm điều này, Hiệp Chủng Quốc cùng với những quốc gia đồng chí sẽ dùng võ lực để giải giới hắn”.

Thứ Hai 11/11/2002, Ngày Thương Phế Binh tại Hoa Kỳ, theo Jane Arraf từ Baghdad thì 250 nhà luật pháp Iraq đã họp khẩn cấp để cứu xét bản quyết định của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Jane cho biết quốc hội Iraq đã tỏ ra căm phẫn về bản quyết định này với những lời lẽ phê phán gắt gao. Họ nói lệnh thanh tra không thể nào thực hiện được, lệnh này áp đặt “những đòi hỏi bất khả thực hiện” về phía Iraq và nó hầu như là một dự án cho Hoa Kỳ xuất quân đánh Iraq vậy. Salim Al-Kubaisi, vị lãnh đạo ủy ban liên hệ quốc tế đã nói với quốc hội rằng “Ủy ban này khuyên là hãy hủy bỏ quyết định 1441 của Hội Đồng Bảo An và đừng chấp nhận nó theo ý kiến của dân chúng là thành phần đặt tin tưởng của họ vào các vị đại diện của họ”. Ông này cũng khuyên quốc hội hãy để cho Hội Đồng Thẩm Quyền Cách Mạng “để thực hiện một quyết định xứng hợp trong việc bênh vực nhân dân Iraq, sự độc lập và phẩm giá của họ”. Vị này nói rằng thay vì chấp nhận bản quyết định của Liên Hiệp Quốc như vẫn mong đợi thì hãy để cho hội đồng mệnh lệnh của Saddam Hussein đi đến quyết định tối hậu. Trước vị này còn có ông Saadoun nhận định rằng: “Quyết định này của Liên Hiệp Quốc tìm cớ (chiến tranh) chứ không phải tìm một giải pháp toàn diện. Nó tìm cách tạo nên khủng hoảng hơn là cộng tác và mở đường cho đánh đấm hơn là thuận hòa. Bản quyết định này vi phạm đến luật quốc tế và chủ quyền của quốc gia này. Nó cho thấy một cách hung hăng những ý hướng xấu xa của chính quyền Hoa Kỳ”.

Trong khi đó, các nhà lãnh đạo của Khối Liên Hiệp Ả Rập một đàng nhắc nhở Saddam Hussein chấp nhận bản quyết định, một đàng họ cũng cảnh giác là họ coi bất cứ cuộc ra tay nào đánh Iraq cũng là một mối đe dọa cho tất cả nền an ninh quốc gia của những người Ả Rập. Các vị tu hành thuộc Khối Liện Hiệp Ả Rập này hôm Chúa Nhật 10/11/2002 đã ban bố một bản văn chung có 8 điều để đoán nhận bản quyết định của Liên Hiệp Quốc nhưng cũng cảnh cáo là bất cứ đụng độ nào gây ra cho Iraq cũng đều được coi là mối đe dọa cho nền an ninh của tất cả các quốc gia Ả Rập. Bản văn này kêu gọi các phần tử của Hội Đồng Bảo An hãy giữ điều quyết tâm đã hứa với nước Syria là bản quyết nghị không được sử dụng như là tấm bình phong cho vấn đề chiến tranh.


 

 

Quyết Định của Liên Hiệp Quốc về Vấn Đề Iraq


Sau gần 2 tháng, từ khi tổng thống Bush trình bày vấn đề Iraq với Liên Hiệp Quốc ngày 12/9/2002, qua những cuộc tranh luận và giằng co giữa hai giải quyết, một của Pháp và một của Hoa Kỳ, Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đã đi đến quyết định cuối cùng, với sự đồng ý của tất cả mọi quốc gia trong hội đồng này, hôm Thứ Sáu 8/11/2002. Sau đây là những điểm chính trong quyết định của Liên Hiệp Quốc về vấn đề Iraq, thái độ của các nước hội viên thuộc hội đồng này, và phản ứng của Iraq cũng như của dân chúng trên thế giới.


Những điểm chính trong quyết định của Liên Hiệp Quốc về vấn đề Iraq


Thứ nhất, buộc Iraq phải hoàn toàn tuân hợp với các vị thanh tra vũ khí, bằng không, nếu không chịu hợp tác, sẽ phải lãnh đủ “những hậu quả trầm trọng”. Bản quyết định không nói rõ “những hậu quả trầm trọng” nào. Hoa Kỳ đồng ý trở lại họp bàn với Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc trước khi ra tay quân sự tấn công Iraq.


Thứ hai, cho đến ngày 15/11/2002, Iraq phải trả lời cho Liên Hiệp Quốc biết có sẵn lòng tuân theo quyết định này của Liên Hiệp Quốc hay chăng, và Iraq cũng có 30 ngày để tường trình những chi tiết liên quan đến những vụ khí của mình.


Thứ ba, các thanh tra viên vũ khí bị tống cổ ra khỏi Iraq 4 năm trước đây được có quyền “trực tiếp, không bị làm khó dễ và vô điều kiện” trong việc thanh tra vũ khí bất cứ nơi nào, kể cả những dinh thự của Tổng Thống Saddam Hussein. Sau phiên họp quyết định này, trưởng ban thanh tra Hans Blix đã cho biết ban thanh tra vũ khí của ông dự định sẽ trở lại Iraq cùng lắm vào ngày 18/11/2002.


Có hai chi tiết được điều chỉnh trong bản quyết định cuối cùng này. Thứ nhất, chữ “hay” được thay bằng chữ “và” trong một đoạn văn kiện. Thứ hai, cụm từ “phục hồi nền hòa bình và an ninh quốc tế” được đổi thành “bảo toàn nền hòa bình và an ninh quốc tế”. Một chi tiết quan trọng khác đã bị loại trừ trong bản quyết nghị cuối cùng này là chữ “tự động” dùng võ lực để tấn công Iraq theo chiều hướng của Hiệp Chủng Quốc và Hiệp Vương Quốc nhưng không hợp với chủ trương của Pháp, Nga và Tầu.


(Xin xem trọn bản văn ở phần riêng, sau phần tin tức này)


Thái độ của các nước đối với quyết định của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc


Hoa Kỳ: Vị lãnh sự của nước này ở Liên Hiệp Quốc là ông John Negroponte nói rằng Iraq sẽ bị giải giới “không cách này thì cách khác. Nếu Hội Đồng Bảo An không cương quyết ra tay trong trường hợp Iraq tiếp tục vi phạm thì quyết định này không hạn chế bất cứ quốc gia hội viên nào trong việc được tự mình ra tay để bảo vệ họ khỏi bị Iraq đe dọa hay để buộc phải tuân giữ những quyết định hiện hành của Liên Hiệp Quốc cũng như để bảo vệ nền hòa bình cùng an ninh của thế giới”.


Tầu, Pháp và Nga phổ biến một bản tuyên bố chung là họ lấy làm hài lòng là bản quyết nghị đã loại trừ việc tự động võ lực tấn công Iraq nếu nước này không chịu tuân hợp: “Bởi vậy, bản quyết định này hoàn toàn tôn trọng thẩm quyền của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc trong việc bảo trì nền hòa bình và an ninh quốc tế, hợp với hiến chương của Liên Hiệp Quốc”.


Úc Đại Lợi cũng đón nhận quyết định này, vì quyết định ấy giành cho những việc thanh tra vũ khí có một quyền hạn mạnh hơn quyết định trước đây. Thủ Tướng John Howard đã phát biểu là: “Bản quyết định cũng vạch ra rõ ràng những chi tiết Iraq phải thi hành để làm cho cộng đồng thế giới tin rằng Iraq không còn trở thành mối đe dọa cho các nước lánh giềng của mình cũng như cho nền an ninh quốc tế”.


Khối Hiệp Nhất Âu Châu: Ông Javier Solana, trưởng phái đoàn đại diện ngoại quốc vụ cũng đón nhận quyết nghị này, cho rằng bản quyết định nói lên “mối hiệp nhất” quốc tế và dứt khoát bắt Iraq phải tuân hành: “Những quan điểm của Khối Hiệp Nhất Âu Châu hoàn toàn được thể hiện nơi bản văn này, nhất là mục tiêu chính của Khối Hiệp Nhất Âu Châu, tức là mạnh mẽ lên tiếng giải giới Iraq và thực hiện điều này trong phạm vi của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc”.


Trung Hoa: Vị lãnh sự của nước này ở Liên Hiệp Quốc là ông  Zhang Yishan đã cho các phóng viên báo chí biết rằng: “Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đang nhắn Iraq một sứ điệp rất rõ ràng, một sứ điệp hòa bình, một sứ điệp thiện chí và một sứ điệp hy vọng. Nên giờ đây trái banh đang ở trong tay của nhà cầm quyền Iraq”.


Syria đã tỏ ra hết sức lưỡng lự về quyết định này. Trong thời gian bàn luận, nước này muốn có những chữ xác định rõ trong quyết định là nếu Iraq tuân hợp với những khoản quyết định thì những biện pháp trừng phạt sẽ được bỏ qua. Syria cũng muốn có những chữ tuyên bố là toàn vùng Trung Đông là “một vùng phi nguyên tử và phi những loại vũ khí đại công phá”. Bộ Trưởng Ngoại Giao của nước này là ông Farouk al-Sharaa, qua cuộc họp ở Cairo với các nhà ngoại giao của Khối Liên Minh Ả Rập vừa qua, cũng đã trấn an các vì này là bản quyết định không cho phép Hoa Kỳ sử dụng lực lượng quân sự. “Chúng tôi đã giằng co và trăn trở với nhiều khó khăn mới đi đến được bản quyết định này”, AP đã tường trình như vậy. Ông còn nói Bộ Trưởng Nội Vụ của Hoa Kỳ là ông Colin Powell đã bảo đảm trên giấy tờ với ông rằng “không có gì trong bản quyết định này để cho nó bị sử dụng như một bình phong cho việc mở màn chiến tranh tấn công Iraq, và nếu chính phủ Hoa Kỳ có ý định sử dụng quân sự thì bản quyết định này đã không kéo dài đến 7 tuần lễ”.

Ai Cập: Ở Cairô, các nhà ngoại giao trong một cuộc họp Khối Liên Minh Ả Rập cũng cho biết vào sáng Chúa Nhật 10/11/2002 là Iraq đã chấp nhận bản quyết nghị. “Bộ Trưởng Ngoại Giao Ai Cập là ông Ahmed Maher đã cho Associated Press sau buổi họp đêm hôm qua là “Tôi nghĩ chúng ta có thể mong đợi nơi những người Iraq một phản ứng tích cực”. Tuy nhiên, vị này còn thêm là việc Iraq chấp nhận bản quyết định này tùy thuộc vào những bảo đảm rằng “những viên thanh tra phải tác hành một cách trung dung… và bằng một đường lối vô tư, triệt để tôn trọng tất cả mọi quyết định của Hội Đồng Bảo An, nhất là những quyết định liên quan đến việc tôn trong chủ quyền của Iraq”.


Damascus đã từ từ tiến đến chỗ “đồng ý” với bản quyết định này, sau khi vững tâm về việc Liên Hiệp Quốc và Hiệp Vương Quốc, và vị xử lý thường vụ thay lãnh sự của nước này là ông Fayssal Mekdad đã nói với phóng viên CNN là Wolf Blitzer rằng bản quyết định “sẽ không được sử dụng như là một lý do sai trái để tấn công Iraq… Thế giới Ả Rập không muốn đánh nhau với Iraq. Họ muốn giải quyết vấn đề bằng những đường lối và phương tiện hòa bình, muốn giải quyết tất cả mọi vấn đề rắc rối khác trong vùng của mình. Những quyết định của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc bảo trì việc hiệp nhất, việc thống nhất lãnh thổ ở Iraq”.


Nga: Phóng viên CNN trên đây cũng đã hỏi vị lãnh sự của Nga ở Liên Hiệp Quốc là ông Sergey Lavrov rằng nếu các thanh tra viên tường trình cho Hội Đồng bảo An Liên Hiệp Quốc rằng họ gặp trục trắc với Iraq thì hội đồng này sẽ phản ứng ra sao? Ông lãnh sự cho biết như sau: “Trong trường hợp này vị trưởng ban thanh tra là ông Hans Blix và vị chủ tịch Cơ Quan Nguyên Tử Lực Thế Giới là ông Mahamed ElBaradei sẽ phải trình bày trường hợp của mình một cách rõ ràng. Chúng tôi cần biết đã xẩy ra những sai xẩy nào. Và chúng tôi tin tưởng ông Hans Blix cũng như ông Mohamed ElBaradei là những nhà chuyên môn và là những người dân sự phục vụ thế giới, đừng để xẩy ra những lỗi lầm của Ủy Ban Đặc Biệt của Liên Hiệp Quốc UNSCOM (the United Nations Special Commission) trong quá khứ, khi UNSCOM tường trình và cắt nghĩa những chuyện nhỏ mọn nhất như chứng cớ về việc Iraq không chịu hoàn toàn cộng tác”.


Hoa Kỳ: Tuy tổng thống Bush chưa chấp thuận dự án chiến tranh dứt khoát với Iraq, nhưng Ngũ Giác Đài cũng đã có những sắp xếp về quân sự cho một cuộc chiến như sau: đó là những cuộc tấn công chớp nhoáng bằng máy bay và chuyển quân vũ bão như kiểu Đức Quốc vào đầu Thế Chiến Thứ Hai; mở màn bằng những cuộc tấn công với những cuộc dội bom bằng vệ tinh và bắn phi đạn các hạm đội để các tướng lãnh của Saddam Hussein không kịp theo lệnh tung ra những thứ khí giới hóa học và vi trùng; “những địa điểm chính yếu” để tấn công là các nơi có khí giới đại công phá, Bộ Phòng Vệ và các dinh thự của tổng thống; cuộc xâm chiếm Iraq có thể phải cần tới từ 80 đến 250 ngàn binh lính đóng quân ở Âu Châu, hiện nay mới có 27 ngàn ở vùng này; cũng có thể không xẩy ra chuyện những đoàn quân và vũ khí cần phải chuyển đến các vị trí sẵn sàng trước Tháng Hai 2003.


Phản ứng của Iraq cũng như của dân chúng Âu Châu.


Ý Đại Lợi: Ở Florence, gần nửa triệu người, một con số đông nhất lịch sử Âu Châu trong một biến cố xuống đường vào Ngày Thứ Bảy 9/11/2002, sau ngày Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đồng thanh bỏ phiếu quyết nghị về vấn đề Iraq. Họ diễn hành rất trật tự. Nhưng chính phủ phải vận động tới cả 6 ngàn cảnh sát để đi tuần tiểu khắp nơi đề phòng những bất trắc xẩy ra, nhất là cho những pho tượng nghệ thuật. Khoảng 20 chiếc xe lửa cà cả trăm chiếc xe buýt đặc biệt bắt đầu mang những người biểu tình từ khắp lục địa Âu Châu tới để xuống đường. Cuộc biểu tình mang những bảng chữ như “Đừng có chiến tranh” hay “Cứ đánh đi rồi xuống hỏa ngục” v.v. Một phần tử của Đảng cách Mạng Xã Hội Hiệp Vương Quốc là anh Simon Hardy 21 tuổi đã cho biết: “Thật là rõ ràng cho thấy đây là một cuộc chiến tranh vì vấn đề dầu hỏa, một cuộc chiến tranh theo chủ nghĩa thực dân. Iraq không thể nào thắng được, Hiệp Chủng Quốc muốn gây ra chiến tranh”. Anh Sean Murray, 29 tuổi, thuộc nhóm Cách Mạng Lao Công cho biết về bản quyết định của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc rằng: “Đây là một bản quyết định xấu. Nó chứng tỏ một lần nữa Liên Hiệp Quốc là một người nộm cho Hoa Kỳ, Hiệp Vương Quốc và Pháp, không phải là một tổ chức được lập ra để phục vụ lợi ích của dân chúng trên thế giới”.


Iraq: Một viên chức có thẩm quyền trong chính phủ Iraq cho biết, mặc dù bản quyết định của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc “là một bản quyết định xấu và bất chính, thành phần lãnh đạo Iraq cũng bình tĩnh tìn hiểu bản quyết định này và sẽ phổ biến một bản đáp ứng vào mấy ngày tới đây”.


Bộ trưởng ngoại giao Iraq là ông Naji Sabri nói rằng bản quyết định này làm vỡ mộng Liên Hiệp Quốc muốn dùng Hội Đồng Bảo An như “một tấm bình phong để tấn công Iraq. Cộng đồng quốc tế không muốn thông phần vào ý thích của chính phủ gian ác ở Washington về việc tấn công, sát phạt và hủy diệt. Cộng đồng thế giới đã loại trừ cái lý lẽ này cùng với ước muốn không dễ chế ngự ấy nơi chính phủ có ý đồ gian ác về chiến tranh, sát hại và hủy diệt trên thế giới”.


Truyền hình Iraq sáng Chúa Nhật 10/11/2002 đã cho biết là Hội Đồng Quốc Gia Iraq do chính tổng thống làm đầu đang có dự định “bàn luận và nghiên cứu về Quyệt Định 1441 của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc ngày 8/11 rồi sẽ cho biết phản ứng về nghị quyết này và sẽ chuyển quyết định của mình đến cho Hội Đồng Thẩm Quyền Cách Mạng”.

 

Bản Quyết Định của Liên Hiệp Quốc về Iraq


Hội Đồng Bảo An,


Nhớ lại tất cả những giải quyết liên quan trước đây của mình, nhất là những quyết định 661 (1990) ngày 6/8/1990, 678 (1990) ngày 29/11/1990, 686 (1991) ngày 2/3/1991, 687 (1991) ngày 3/4/1991, 688 (1991) ngày 5/4/1991, 707 (1991) ngày 15/8/1991, 715 (1991) ngày 11/10/1991, 986 (1995) ngày 14/8/1995, và 1284 (1999) ngày 17/12/1999, cũng như tất cả những phát biểu của vị Chủ Tịch hội đồng này.


Cũng nhớ lại quyết định 1382 (2001) ngày 29/11/2001 cùng với những chủ tâm muốn áp dụng quyết định này một cách trọn vẹn,


Nhận thấy rằng mối đe dọa về việc bất tuân hợp của Iraq đối với các quyết định của Hội Đồng này và về việc phát triển nhanh chóng các thứ vũ khí đại công phá và các thứ phi đạn tầm xa gây ra cho nền hòa bình và an ninh thế giới,


Nhớ lại quyết định 678 (1990) cho phép các Quốc Gia Phần Tử được sử dụng tất cả mọi phương tiện cần thiết để nâng đỡ và áp dụng quyết định 660 (1990) ngày 2/8/1990 cùng với tất cả những quyết định liên quan sau Quyết Định (660), cũng như để phục hồi nền hòa bình và an ninh thế giới trong vùng ấy,


Cũng nhớ lại quyết định 687 (1991) bắt buộc Iraq phải thực hiện những điều cần thiết để đạt đến mục đích ấn định trong việc phục hồi nền hòa bình và an ninh quốc tế ở vùng này,


Tiếc một điều là Iraq đã không cung cấp đầy đủ, tất cả và hoàn toàn những chi tiết cho thấy theo đòi hỏi của quyết định 687 (1991), về tất cả mọi khía cạnh liên quan đến các chương trình chế tạo các loại vũ khí đại công phá, cũng như các phi đạn tầm xa trên 150 cây số, cùng với tất cả những chỗ chất chứa, những cơ cấu, cơ xưởng và địa điểm sản xuất, và tất cả mọi hoạt động nguyên tử khác, kể cả những gì họ cho rằng không liên hệ đến chất liệu nguyên tử khả dụng,


Cũng tiếc nữa là Iraq đã cứ gây cản trở cho việc trực tiếp, vô tư và tự nhiên đến những nơi Ủy Ban Đặc Biệt của Liên Hiệp Quốc (UNSCOM the United Nations Special Commission) và Cơ Quan Nguyên Tử Lực quốc tế (IAEA the International Atomic Energy Agency) muốn, đã không hoàn toàn hợp tác một cách vô điều kiện với những vị thanh tra vũ khí của UNSCOM và IAEA, như quyết định 687 (1991) đòi hỏi, và nhất là chấm dứt tất cả mọi việc hợp tác với UNSCOM và IAEA vào năm 1998,


Tiếc là kể từ tháng 12 năm 1998, ở Iraq thiếu vắng vấn đề quốc tế thanh tra, kiểm soát và kiểm chứng về những thứ vũ khí đại công phá và các phi đạn tầm xa, như các quyết định liên quan đòi hỏi, cho dù Hội Đồng này đã nhiều lần yêu cầu Iraq phải để cho Ủy Ban Liên Hiệp Quốc Thanh Tra, Kiểm Chứng và Kiểm Soát (UNMOVIC the United Nations Monitoring, Verification and Inspection Commission), một ủy ban được thiết lập theo quyết định 1284 (1999) tiếp thay cho UNSCOM, cũng như cho IAEA được trực tiếp, tự nhiên và tự do đi lại, và tiếc thay hậu quả đã kéo dài cuộc khủng hoảng trong vùng này cùng với tình trạng đau khổ của nhân dân Iraq,


Cũng tiếc thay Chính Quyền Iraq đã không chịu tuân theo những hứa quyết của họ chiếu theo quyết định 687 (1991) liên quan đến vấn đề khủng bố, chiếu theo quyết định 688 (1991) trong việc chấm dứt tình trạng đàn áp thành phần dân chúng, cũng như cho các tổ chức nhân đạo quốc tế có thể cứu trợ nhu cầu cần được đáp ứng của những ai ở Iraq, và chiếu theo các quyết định 686 (1991), 687 (1991) cũng như 1284 (1999) trong việc hoàn trả hay hợp tác tính chuyện về những người của nước Kuwait và của các đệ tam quốc gia bị Iraq giam giữ sai lầm, hay hoàn lại của cải của nước Kuwait bị Iraq chiếm giữ không đúng,


Nhớ lại ở quyết định 687 (1991) Hội Đồng này đã công bố là Iraq cần phải chấp nhận một cuộc, đình chiến theo các điều khoản của quyết định ấy, kể cả những đòi buộc Iraq phải tuân giữ theo quyết định này,

 

Iraq đã cương quyết bảo đảm việc hoàn toàn và lập tức tuân hợp những điều kiện hay những giới hạn thuộc những phận vụ của mình theo quyết định 687 (1991) cũng như theo những quyết định còn hiệu lực, và nhớ lại rằng những quyết định của Hội Đồng này thiết lập tiêu chuẩn hướng dẫn cho việc tuân hợp của Iraq,


Nhớ lại là việc hoạt động mang lại kết quả của UNMOVIC, cơ quan thay thế cho Ủy Ban Đặc Biệt, và của  IAEA là hoạt động thiết yếu cho việc áp dụng quyết định 687 (1991) cũng như những quyết định còn hiệu lực,


Ghi nhận là bức thư đề ngày 16/9/2002 của Bộ Trưởng Ngoại Vụ Iraq ngỏ cùng vị Tổng Thư Ký là bước cần thiết đầu tiên để tiến đến chỗ sửa lại việc Iraq liên tục không chịu tuân hợp các quyết định hiện hành của Hội Đồng này,


Ghi nhận là một bức thư khác đề ngày 8/10/2002 của vị Chủ Tịch Điều Hành UNCOVIC và của vị Tổng Giám Đốc IAEA gửi Tướng Al-Saadi trong Chính Phủ Iraq, để đưa ra những dàn xếp cụ thể, như phần bổ túc thêm cho buổi họp mặt của họ ở Vienna, những dàn xếp này là những điều kiện tiên quyết cho vấn đề UNMOVIC và IAEA thực hiện việc tái thanh tra Iraq, cũng như để bày tỏ mối quan tâm quan trọng nhất đối với việc Chính Phủ Iraq tiếp tục không chịu tỏ ra chấp nhận những dàn xếp được nêu lên trong bức thư này,


Tái xác nhận việc tất cả mọi Quốc Gia Hội Viên quyết tâm đối với vấn đề chủ quyền và tình trạng toàn vẹn lãnh thổ của Iraq, Kuwait và các Quốc Gia lân bang,


Đáng khen cho các nỗ lực về vấn đề ấy của Vị Tổng Thư Ký và các phần tử của Liên Minh Các Quốc Gia Ả Rập cùng vị Tổng Thư Ký của tổ chức Liên Minh này,


Muốn bảo đảm cho việc hoàn toàn tuân hành những quyết định của mình đây,


Bằng việc ban hành theo Chương VII của Hiến Chương Liên Hiệp Quốc,


1. Quyết định là Iraq đã và vẫn còn vi phạm đến những gì nước này cần phải làm theo những quyết định hiện hành, bao gồm cả quyết định 687 (1991), nhất là ở việc Iraq không chịu hợp tác với các thanh tra viên của Liên Hiệp Quốc cũng như của IAEA, và không chịu làm trọn những việc cần phải thực hiện thuộc những khoản từ 8 đến 13 của quyết định 687 (1991);


2. Quyết định là, với nhận thức ở khoản 1 trên đây, bằng giải quyết đây, cho Iraq cơ hội cuối cùng để tuân hành việc buộc phải giải giới theo những quyết định hiện hành của Hội Đồng này; theo đó cũng quyết định là cần phải thiết lập một chính sách thanh tra tăng triển hơn nữa để làm cho tiến trình giải giới theo quyết định 687 (1991) và những quyết định sau đó của Hội Đồng này được hoàn tất một cách trọn vẹn và thực sự.


3. Quyết định là, để bắt đầu tỏ ra tuân hợp với những đòi buộc phải giải giới, ngoài việc nộp những bản khai báo hai năm một lần, Chính Phủ Iraq phải cung cấp cho UNMOVIC, IAEA và Hội Đồng này không quá 30 ngày kể từ ngày quyết định này, một bản khai báo hiện tại một cách chính xác, đầy đủ và trọn vẹn về tất cả những khía cạnh trong các dự án chế tạo các thứ vũ khí hóa học, vi trùng và hạch nhân, các phi đạn tầm xa và các phương tiện chuyển vận khác, như những cơ phận không vận phi nhân khiển và những phương tiện phóng tỏa được chế tạo dùng trên máy may, gồm cả những nơi chứa đựng và những địa điểm chính xác của những loại vũ khí như vậy, những cơ xưởng, những hầm xưởng, những vật liệu tác dụng, cùng chất liệu và máy móc liên hệ, những vị trí và hoạt động nghiên cứu, những hãng chế tạo và sản xuất, cũng như tất cả những chương trình khác về hóa học, vi trùng và hạch nhân, kể cả những gì cho là có mục đích không liên hệ tới việc sản xuất vũ khí hay chất liệu vũ khí;


4. Quyết định là những lời lẽ sai trái hay không nói ra trong các bản khai báo được Iraq nộp trình chiếu theo bản quyết nghị này, và việc Iraq bất cứ lúc nào không chịu tuân theo và hoàn toàn hợp tác vào việc thực hiện bản quyết định này, sẽ vi phạm thêm những gì Iraq buộc phải làm và sẽ được tường trình lên Hội Đồng này để thẩm xét theo các đoạn 11 và hay 12 dưới đây;


5. Quyết định là Iraq phải để cho UNMOVIC và IAEA được trực tiếp, tự tiện, tự nhiên và tự do đến bất cứ nơi nào cũng như đến tất cả mọi nơi, kể cả dưới hầm đất, những miền, những cơ xưởng, những dinh thự, máy móc, hồ sơ và phương tiện di chuyển họ muốn để thanh tra, cũng như được trực tiếp, tự tiện, tự do và riêng tư đến với tất cả những viên chức cũng như đến với các người mà UNMOVIC hay IAEA muốn phỏng vấn theo kiểu cách hay tại địa điểm do UNMOVIC hay IAEA chọn tùy theo lãnh vực nào thuộc trách nhiệm của họ; cũng quyết định là UNMOVIC và IAEA có thể tùy theo sự khôn ngoan của họ thực hiện những cuộc phỏng vấn ở trong hay ở ngoài Iraq, có thể dễ dàng di chuyển những người được họ phỏng vấn và gia đình của những người ấy ra ngoài Iraq, và cũng chỉ dựa theo sự khôn ngoan của UNMOVIC và IAEA mà những cuộc phỏng vấn như vậy được diễn tiến không có sự hiện diện của những quan sát viên thuộc chính phủ Iraq; và đề nghị UNMOVIC và yêu cầu IAEA hãy bắt đầu lại việc thanh tra vũ khí không quá 45 ngày sau khi bản quyết định này được chấp thuận rồi cập nhật hóa cho Hội Đồng này biết sau đó 60 ngày;


6. Chấp nhận bức thư ngày 8/10/2002 của vị Chủ Tịch Điều Hành UNMOVIC và của vị Tổng Giám Đốc IAEA gửi Tướng Al-Saadi trong Chính Phủ Iraq, một văn kiện phụ kèm với bản quyết nghị này, và quyết định là Iraq buộc phải thi hành những gì được viết trong bức thư ấy.


7. Quyết định nữa là, vì Iraq đã gây ra cuộc gián đoạn quá lâu cho việc hiện diện của UNMOVIC và IAEA cũng như để hai cơ quan này có thể hoàn thành công việc của mình được phác họa trong bản quyết định này cũng như tất cả mọi quyết định hiện hành bất kể trước kia đã hiểu như thế nào, Hội Đồng này giờ đây thiết lập những quyền hạn đã được sửa đổi hay thêm vào sau đây, những gì Iraq buộc phải giúp cho hoạt động của họ được diễn tiến dễ dàng ở Iraq:


• UNMOVIC và IAEA sẽ quyết định về việc thành lập những nhóm thanh tra của mình và bảo đảm là những nhóm này bao gồm những chuyên viên có khả năng và kinh nghiệm nhất hiện nay;


• Tất cả mọi nhân viên UNMOVIC và IAEA phải được hưởng các đặc ân và miễn trừ tương xứng với những gì giành cho các chuyên viên thi hành sứ vụ của họ, những gì được ghi nhận trong Bản Hiệp Ước về Đặc Quyền và Miễn Trừ của Liên Hiệp Quốc cũng như bản Thỏa Thuận về Các Đặc Ân và Miễn Trừ của IEAE;


• UNMOVIC và IAEA được quyền tự nhiên ra vào Iraq, quyền đi lại những nơi thanh tra một cách tự do, không giới hạn và trực tiếp, và quyền thanh tra bất cứ địa điểm hay dinh thự, kể cả được trực tiếp, tự do, vô tư và tự nhiên đến các Địa Điểm của Thổng Thống giồng như những địa điểm khác, bất kể những điều khoản của quyết định 1154 (1998);


• UNMOVIC và IAEA được quyền đòi Iraq phải cung cấp tên tuổi của tất cả mọi nhân viên hiện tại hay trước đây đã dính dáng đến những chương trình về vũ khí hóa học, vi trùng, hạch nhân và phi đạn tầm xa, cũng như tên của những cơ sở nghiên cứu, chế tạo và sản xuất liên hệ;


• Tình trạng an ninh cho những cơ sở của UNMOVIC và IAEA sẽ được đủ số vệ binh của Liên Hiệp Quốc phụ trách;


• UNMOVIC và IAEA, vì mục đích cô lập một địa điểm cần phải được thanh tra nào đó, có quyền đòi thanh tra những khu vực chuyên biệt nào đó, kể cả những vùng lân cận và những đường luồng thông giao, những nơi cần chính phủ Iraq phải cấm cả không vận lẫn thổ vận hầu tránh tình trạng thay đổi hay lấy đi khỏi địa điểm đang được thanh tra;


• UNMOVIC và IAEA được sử dụng một cách tự do và không giới hạn cũng như được hạ cánh máy bay loại có cánh quay hay cố định, bao gồm cả những thứ cơ phận do người hay không do người điều khiển;


• UNMOVIC và IAEA theo sự khôn ngoan riêng của mình được quyền lấy đi, hủy hoại hay vô hiệu hóa tất cả mọi thứ bị cấm vũ khí, hạ tầng, cơ cấu, hồ sơ, chất liệu và các thứ liên hệ khác, cũng như có quyền chiếm cứ hay đóng cửa bất cứ cở sở hay máy móc nào giành cho việc sản xuất những thứ ấy; và


• UNMOVIC và IAEA được quyền tự do đưa vào và sử dụng máy móc cũng như các thứ chất liệu cần cho việc thanh tra, được quyền tự do chiếm cứ và đưa ra ngoài Iraq bất cứ thứ máy móc, chất liệu hay hồ sơ thấy được trong những cuộc kiểm soát mà không có chuyện lục soát nhân viên UNMOVIC và IAEA hay hành lý làm việc hoặc hành lý cá nhân của họ;


8. Quyết định nữa là Iraq không được tỏ ra những hành động hận thù hay đe dọa những hành động thù hận đối với thành phần đại diện hay nhân viên của Liên Hiệp Quốc hay của IAEA hoặc của bất cứ Quốc Gia Hội Viên nào nhúng tay vào việc thực hiện bất cứ quyết định nào của Hội Đồng này;


9. Cần vị Tổng Thư Ký lập tức thông báo cho Iraq biết về bản quyết định đòi buộc Iraq này; cần Iraq phải xác nhận trong vòng 7 ngày về việc họ muốn hoàn toàn tuân hợp với bản quyết định đây; và cần thêm nữa là Iraq phải lập tức, vô tư và chủ động hợp tác với UNMOVIC và IAEA;


10. Cần tất cả mọi Quốc Gia Phần Tử phải tỏ ra hoàn toàn nâng đỡ cho UNMOVIC và IAEA trong việc họ bắt tay hành sử trách nhiệm của họ, bao gồm cả việc cung cấp cho họ những tín liệu liên quan tới những chương trình bị cấm hay những khía cạnh khác thuộc trọng trách của họ, kể cả việc Iraq đã cố gắng kiếm tìm những thứ bị cấm này từ năm 1998, cũng như việc chỉ cho họ những chỗ cần phải được thanh tra, những người cần phải được phỏng vấn, những điều kiện cần cho những cuộc phỏng vấn như vậy, và những dữ kiện cần phải thu góp, những kết quả cần phải được UNMOVIC và IAEA tường trình cho Hội Đồng này;


11. Muốn vị Chủ Tịch Điều Hành UNMOVIC và vị Tổng Giám Đốc IAEA phải lập tức tường trình cho Hội Đồng này biết về bất cứ điều gì Iraq tỏ ra nhúng tay vào những hoạt động thanh tra, cũng như bất cứ điều gì Iraq không chịu tuân theo trách nhiệm giải giới của họ, kể cả những trách nhiệm liên quan đến những việc thanh tra theo bản quyết định này;


12. Quyết định là khi được tường trình như thế phải lập tức triệu tập theo các khoản 4 hay 11 trên đây để cứu xét tình hình cũng như nhu cầu buộc phải hoàn toàn tuân hợp với tất cả những quyết định hiện hành của Hội Đồng này, hầu bảo toàn nền hòa bình và an ninh quốc tế;


13. Nhớ lại là, theo chiều hướng đó, Hội Đồng này nhiều lần đã từng cảnh cáo Iraq rằng nước này sẽ phải đối diện với những hậu quả nghiêm trọng về những việc họ cứ liên tục vi phạm tới các trọng trách của họ;


14. Quyết định là vẫn phải thi hành vấn đề này.

 

Tổ Chức Bác Ái (Caritas) Quốc Tế lên tiếng về dự án tấn công Iraq


Theo tin từ Màn Điện Toán Zenit đề ngày 7/11/2002 ở Rôma, thì Tổ Chức Bác Ái Quốc Tế, một cơ cấu điều hợp các cơ quan hỗ trợ thuộc các hàng giáo phẩm Công Giáo trên khắp thế giới đã phổ biến một văn thư nhấn mạnh đến việc phải triệt để tránh đừng để xẩy ra đụng độ với bất cứ giá nào. Ước nguyện này phát xuất từ những cuộc viếng thăm gần đây của phái đoàn đại diện thuộc tổ chức quốc tế này, một cuộc viếng thăm cho thấy tình hình hết sức khốn khó của nhân dân Iraq. Vị lãnh đạo phái đoàn đại diện này là ông Julian Filochowski đã phát biểu thế này: “Những cuộc dội bom và việc xâm chiếm sẽ làm tăng thêm cái giá kinh hồn phải trả, còn ghê gớm hơn cả cái giá của Cuộc Chiến Vùng Vịnh năm 1991 nữa, không phải vì hậu quả không thể tránh khỏi sẽ xẩy ra cho các vùng phụ cận, nhất là Baghdad, mà còn vì phần lớn các điều kiện sống đã thua sút rất nhiều so với 12 năm trước đây”.Bản văn của tổ chức này cho biết trong số từ 14 đến 16 triệu người Iraq, có 2/3 dân cư sống hoàn toàn lệ thuộc vào các phần ăn được phân phát cho hằng tháng. Thêm vào đó, trong tình trạng bị cấm vận kinh tế, các hệ thống về vệ sinh, điện nước vẫn còn thiếu thốn. Bản văn ước lượng sẽ có 10 ngàn người dân bỏ mạng nếu chiến tranh xẩy ra, và con số này có thể tăng lên gấp 10 lần. Ông Jacques Bertrand của tổ chức này cho biết: “Những người dân này tiếp tục chống chọi mọi ngày để ý thức nhân phẩm của mình, cho dù có bị đe dọa xâm chiếm đi nữa. Dân chúng lấy làm lo sợ. Họ biết rằng lưỡi gươm Damocles của một cuộc tấn quốc bằng quân sự đang treo lủng lẳng trên đầu họ”. Tổ chức quốc tế này đang tìm đủ cách để giúp cơ quan Bác Ái Iraq trong tình trạng chiến tranh xẩy ra. 13 trung tâm dinh dưỡng, những trung tâm có thể tăng gấp hai thành những trạm cứu thương rải rắc khắp Iraq.

 

 

Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc gần tiến đến chỗ quyết định về vấn đề Iraq


Trong khi tình hình thế giới đang biến động về những cuộc khủng bố ở các nơi khác, như Bali bên Nam Dương và Moscow bên Nga, kể cả vụ một nhà ngoại giao của Hoa Kỳ là ông Laurence Foley lúc 7 giờ 20 sáng ngày Thứ Hai 28/10 bị một kẻ bịt mặt ám sát chết tại Amman Jordan khi ông đang vào xe để đến tòa lãnh sự, thì Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, cả hơn một tháng nay vẫn đang bàn luận về vấn đề Iraq, vẫn bị giằng co giữa hai giải quyết, một của Hoa Kỳ và một của Pháp. Giải pháp mạnh tay của Hoa Kỳ được Hiệp Vương Quốc ủng hộ, một giải pháp bao gồm việc sử dụng võ lực khi cần thiết, trong khi giải pháp của Pháp được Nga và Tầu ủng hộ, giải pháp cứ để các thanh tra viên tới khám xét, nếu có gì trục trặc Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc sẽ quyết định về vấn đề hành động quân sự sau. Hội Đồng này đã bàn luận xong vào hôm Thứ Tư 27/10/2002, với kết quả được nhận định của nghị viên Nga là “vẫn không thay đổi nơi những điều khác nhau quan trọng”, cũng như của nghị viên Tầu là “giờ đây trái banh đang ở trên phần đất của Hoa Kỳ”, vì Hoa Kỳ đang thảo lại quyết định của mình. Tuần đầu tháng 11 Hội Đồng này sẽ bỏ phiếu quyết định. Vấn đề quan trọng hiện nay là vấn đề về “vi phạm” của Iraq đối với những đòi hỏi của Liên Hiệp Quốc.
 

Phần Hoa Kỳ, một viên chức cao cấp trong chính phủ cho rằng Hội Đồng sẽ bỏ phiếu theo quyết định của Hoa Kỳ, vì Pháp và Nga tuy không đồng ý với Hoa Kỳ nhưng không tỏ ý sẽ bỏ phiếu veto, và 9/15 nước khác sẽ bỏ phiếu thuận. Giải quyết của Hoa Kỳ vẫn là đòi hỏi Iraq phải đối diện với những hậu quả trầm trọng nếu Iraq không chịu giải giới là điều chứng tỏ Iraq “vi phạm” những đòi hỏi trước đây của Liên Hiệp Quốc. Viên chức này nói, vấn đề đã bàn giải quá lâu về một điều, và các nhà ngoại giao đang chơi chữ. Tổng thống Bush đã trình bày với Liên Hiệp Quốc từ ngày 12/9 tới giờ và ông mong vấn đề được giải quyết trong vòng một vài ngày hay một vài tuần, đằng này đã gần hai tháng. Hy vọng ngày 12/11 sẽ là ngày quyết định. Trong khi đó, khi đi vận động trong nội bộ Đảng Cộng Hòa của mình ở Pennsylvania vừa rồi về việc tranh cử cho nhiệm kỳ tới, tổng thống Bush vẫn tiếp tục nói Liên Hiệp Quốc phải ra tay, bằng không Hoa Kỳ sẽ dẫn đầu liên minh giải giới Iraq: “Liên Hiệp Quốc sẽ hoàn tất những trách nhiệm của mình về vấn đề hòa bình. Saddam Hussein sẽ giải giới. Bằng không, nhân danh hòa bình, nhân danh sự an ninh của đất nước chúng ta và nhân danh việc bảo vệ bạn bè và các đồng minh của chúng ta, Hiệp Chủng Quốc sẽ làm đầu một liên minh các nước yêu chuộng hòa bình mạnh mẽ đến giải giới Saddam Hussein… Vì theo phán đoán của tôi cũng như của rất nhiều người thì Saddam Hussein là một mối đe dọa trầm trọng cho Hoa Kỳ, hắn là một mối đe dọa cho bạn bè của chúng ta, hắn là một mối đe dọa cho các nước liên minh của chúng ta”.

 

Nhiều Nơi Xuống Đường Chống Chiến Tranh Iraq


Hôm Thứ Bảy 26/10 là lần đầu tiên xẩy ra những cuộc xuống đường ở Đức trong mấy tháng gần đây để tỏ ra chống lại hành động quân sự tấn công Iraq, một dự án của chính phủ Bush được thủ tướng Hiệp Vương Quốc Anh hỗ trợ, cũng đã bị Thủ Tướng Đức Gerhard Schroeder phản đối. Vị thủ tướng này cho rằng việc đánh Iraq sẽ làm phân tán lực lượng liên minh quốc tế chống khủng bố và khiến cho tình hình Trung Đông càng thêm rắc rối; Đức sẽ không tham gia vào cuốc chiến này. Chính vì chủ trương ấy mà ông đã được tái cử sát nút và cũng chính vì thế mà bầu khí lạnh lùng đã bao trùm giữa Berlin và Washington.


Ông Gudrun Schyman, vị nguyên lãnh đạo của Tả Đảng cộng sản Thụy Điển, đã nói với dân chúng ở Stockholm rằng: “Saddam Hussein là một trong những nhà độc tài hết sức tai hại trên thế giới hiện nay… thế nhưng đó cũng không biện minh cho những dự án chiến tranh của Hiệp Chủng Quốc. Quí vị không thể giải giới một chế độ bằng cách thực hiện một cuộc chiến tranh võ khí”.


Ở Berlin, một trong những tấm bảng được các đám đông mang theo cuộc diễn hành ở khu công viên phố Alexanderplatz ngang qua Bộ Ngoại Vụ Đức có hàng chữ như: “Không lấy máu đổi dầu hỏa”. Cảnh sát cho biết có chừng 8 ngàn người, nhưng ban tổ chức nói tới 30 ngàn. Theo cảnh sát, khoảng 2 ngàn ở Frankfurt, vài trăm người ở Stuttgart, Hamburg và Bremen, quảng 1500 người mặc áo mưa và che dù đứng bên ngoài toà lãnh sự Hoa Kỳ ở Copenhagen, Denmark và hơn 1000 người ở các đường phố tại thủ đô Stockholm, Thụy Điển.


Cuộc xuống đường này được vận động tổ chức bởi các tay phản chiến để trùng hợp với những cuộc phản chống ở Washington DC và San Francisco. Mục sư Jesse Jackson và các phát ngôn viên khác đã lên tiếng phản đối chính sách của chính phủ Hoa Kỳ đối với Iraq: “Nếu chúng ta ra tay trước tấn công Iraq chúng ta đã làm mất đi tất cả thế giá về luân lý”. Mục sư Jackson đã nói với đám đông như thế ở gần Đài Tưởng Niệm Chiến Sĩ Trận Vong Việt Nam. Hai chiếc trực thăng bay xà xà trên trời để kiểm soát an ninh. Ông Paolo Cento, một nhà lập luật cho đảng Greens của Ý, đã phát biểu như sau: “Chúng ta nhận thấy rằng chiến tranh và khủng bố nuôi dưỡng nhau”.


Ở San Francisco, cuộc biểu tình kéo dài độ 1 dặm, với cuộc diễn hành từ khu Tòa Thị Xảnh, mang theo những biển ngữ, có tấm đề là “Tiền bạc để cho công ăn việc làm chứ không phải để cho chiến tranh” và “không đổi máu lấy dầu”. Những tay nhạc rock với những kiểu đầu kỳ lạ, ăn mạc dị thường cùng với những cặp vợ chồng trung niên kể cả con cái của họ hát những lời như “một, hai, ba, bốn, chúng tôi không muốn thấy xẩy ra cuộc chiến tranh chủng tộc”.


Quảng 5 ngàn người tập trung ở công viên chính của Amsterdam với những biểu ngữ, trong đó có hàng chữ: “Kẻ mất trí nhất không phải là ở Baghdad mà là ở Washington”. Ông Renas Arif, một người Ả Rập sống ở Netherlands, đã phát biểu như sau: “Nhân dân Iraq phải quyết định lấy tương lai của mình”.


Ở Baghdad, những tay phản chiến tập trung ở trước các văn phòng Hoa Kỳ kêu gọi Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đừng cho Bush một tấm chi phiếu trống đối với cuộc chiến chống Iraq.


Ở Tokyo, chứng 300 người đã thực hiện một cuộc “diễn hành hòa bình” với các tấm bảng như “đừng chiến tranh trước khi nó xẩy ra”.

 

Iraq ra lệnh trục xuất CNN và các ký giả ngoại quốc


Hôm Thứ Năm 24/10/2002, chính phủ Iraq nói rằng họ đang trục xuất trưởng phòng CNN ở Baghdad, Jane Arraf cùng với các kỷ giả ngoại quốc, cũng như đang ban hành những giới hạn nghiêm ngặt về vấn đề nhập cảnh trong tương lai. Arraf là người Tây Phương duy nhất có cơ sở vĩnh viễn ở Baghdad là nơi CNN đã tồn tại cả 12 năm nay. Arraf và 5 ký giả nữa được lệnh phải rời Iraq cùng lắm vào Thứ Hai tuần tới, 28/10/2002. Lý do CNN bị trục xuất là vì, theo các viên chức chính phủ, CNN đã tường trình vụ xuống đường chống chính phủ chưa từng có ở Baghdad vừa qua. Những viên chức này còn cho biết họ cũng hết sức chống lại việc CNN có mặt và tường trình ở miền bắc nước Iraq là nơi họ đang kiểm soát người Kurt. Chính phủ Iraq đã kêu gọi hằng trăm ký giả ngoại quốc hãy tường trình về vụ trưng cầu dân ý ngày 15/10/2002 liên quan đến cầu bầu cử Tổng Thống Saddam Hussein. Trong tương lai, Iraq sẽ giới hạn cho mỗi cơ quan một phóng viên ngoại quốc mà thôi, và người phóng viên này chỉ được ở Iraq tối đa 10 năm là cùng. Eason Jordan, trưởng ban tin tức của CNN đã cho biết là “biện pháp bạo ngược này sẽ càng làm cho thế giới biết được một cách nhanh chóng hơn những gì đang xẩy ra ở Iraq”. Vị này phủ nhận những tố cáo của chính quyền Iraq cho rằng CNN là dịch vụ tuyên truyền cho chính phủ Hoa Kỳ: “CNN vẫn quyết tâm tường trình hết sức mình từ Iraq, CNN vẫn không chịu dung hòa những nguyên tắc ký giả của mình để được đi vào bất cứ một quốc gia nào”.

 

 

Cái Trục Gian Ác


Các phạm nhân Iraq: Mới cuối tuần vừa rồi cả 10 ngàn tù nhân (không còn một ai trong tù) được Tổng Thống Saddam Hussein thả ra để gọi là biết ơn nhân dân đã tin tưởng ông và 100% đã bầu ông làm tổng thống thêm nhiệm kỳ nữa, một biến cố chưa từng có trong 23 năm cai trị của vị tổng thống này, thì đột nhiên cũng xẩy ra một biến cố chưa từng có, đó là một cuộc công khai xuống đường hôm Thứ Ba 22/10/2002 trước Bộ Thông Tin để hạch hỏi chính quyền về những người thân của họ không thấy đâu sau thời gian bị tù. Họ tản ra sau khi nghe tiếng vũ khí tự động nổ trên không trung gần đó, nhưng sau đó một số trở lại với những người khác để tiếp tục cuộc xuống đường phản đối và ghi tên của những người thân của họ bị mất tích. Hôm Thứ Bảy 19/10/2002 vừa qua, một viên chức Hoa Kỳ đã cho biết theo sắc lệnh đã được tổng thống Bush ký, với số tiền là 92 triệu Mỹ Kim, thì Ngũ Giác Đài sẽ bắt đầu vào tháng tới huấn luyện cho cả mấy ngàn quân nhân Iraq vốn chống chế độ Saddam Hussein và vì thế họ đã bị đầy ra hải ngoại mà nơi chính yếu là ở Luân Đôn. Vào tuần này phân bộ Quốc Phòng và Nội Vụ phải trình bày đại quan về những dự án huấn luyện cho những sĩ quan Iraq này những khả năng hướng đạo và cố vấn trận chiến cho bộ binh của Hoa Kỳ v.v. Trong thời tổng thống Clinton 140 quân nhân Iraq đã được huấn luyện một phần nào rồi.


Thượng Nghị Sĩ Bob Graham, D-Florida, chủ tịch ủy ban tình báo của thượng viện, đã cho đài truyền hình CBS hôm Chúa Nhật 20/10/2002 biết rằng ông coi những tham vọng nguyên tử của Bắc Hàn và khả năng về phi đạn của họ là một mối đe dọa cho Hoa Kỳ còn lớn hơn cả Iraq nữa, nên ông khuyên Tòa Bạch Ốc hãy xét lại những ưu tiên của mình.

 

Thế nhưng bà Rice, cố vấn của tổng thống Bush cho rằng: “Hai tình trạng này không thể nào so sánh với nhau được. Cả hai đều nguy hiểm. Thế nhưng chúng ta tin rằng chúng ta có các phương cách khác nhau thành công ở Bắc Hàn mà lại rõ ràng là đã không và sẽ không thành công ở Iraq”.

 

Các Giám Mục Pháp chống lại chiến tranh Iraq, coi cuộc chiến này như là “một cuộc thám hiểm không lối thoát”


Bản tin Zenit Chúa Nhật 20/10/2002 loan tin rằng Hội Đồng Thường Trực của Hàng Giám Mục Công Giáo Pháp đã công khai lên tiếng bằng một bản tuyên ngôn chống lại cuộc chiến tranh tấn công Iraq, trong đó có chữ ký của ĐTGM chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Pháp, Jean-Pierre Ricard TGP Bordeaux, và ĐHY Jean-Marie Lustiger, TGM Paris và là thành viên của hội đồng này. Sau đây là những lời phát biểu trong bản tuyên ngôn ấy:


“Môi trường bạo động chúng ta đang bị lún xuống bởi các cuộc tấn công ở những phần đất khác nhau trên thế giới khiến chúng ta tái xác nhận là việc tôn trọng sự sống của hết mọi con người là điều kiện tạo lập hòa bình.


“Đối diện với việc Liên Hiệp Quốc từ từ tiến đến những hành động quân sự chống lại Iraq, chúng tôi cảm thấy mình có một phần nào sứ vụ cần phải nhắc nhở là để giải quyết những khác nhau giữa các dân nước, không thể coi chiến tranh như là một trong những phương tiện, một phương tiện có thể sử dụng theo những cân nhắc về lợi lộc hay cơ hội.


“Đối với Bản Hiến Chương của Liên Hiệp Quốc cũng như đối với truyền thống đạo lý của Công Giáo thì tất cả những việc sử dụng bạo lực bằng vũ khí, ngay cả nó có mục tiêu đáng làm vì công ích đi nữa, cũng tạo nên một quyết định nghiêm trọng ở chỗ người ta không thể sử dụng nó, trừ khi trong trường hợp cực khẩn cấp và sau khi đã hội đủ những điều kiện ngặt nghèo.


“Hiện nay, tín liệu cần có không cho phép khẳng định là đã hội đủ điều kiện – như được tóm tắt trong Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo (số 2309) – Chúng tôi có cùng một cảm nhận với những hội đồng giáo phẩm đã bày tỏ về vấn đề này cũng như với vị quan sát viên của Tòa Thánh Vatican ở Liên Hiệp Quốc.


“Mặc dù bị kết án về những vi phạm nhân quyền trong nước và luật quốc tế ngoài nước, chế độ Iraq có trở thành một mối đe dọa cấp bách và tức thời, đến độ được quyền tự vệ hợp pháp hay chăng? Nếu Iraq thực sự trở thành một mối đe dọa thì đã sử dụng tất cả mọi phương tiện phi quân sự để loại trừ mối đe dọa này hay chưa?


“Những hậu quả của cuộc ‘mạo hiểm không lối thoát’ này, một cuộc mạo hiểm vốn là bản chất của mọi cuộc chiến, đang làm cho công luận lo âu.


“Cuộc đối chọi giữa một nước Ả Rập và Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ sẽ làm kiên cố hơn lập luận của thành phần Hồi Giáo cực đoan trong việc làm bừng dậy lòng hận thù của những đám người thiếu chế ngự và thiếu hiểu biết chống lại ‘Tây Phương’ (được đồng hóa một cách sai lầm với Liên Hiệp Quốc) cũng như chống lại những giá trị dân chủ và nhân nhượng.


“Một trận chiến đào rộng thêm cái hố vốn đã sâu giữa dân chúng của chúng ta và dân chúng của miền đất ấy, nơi mà chúng ta còn có nhiều người anh em trong Chúa Kitô của chúng ta nữa, một cái hố sâu xa cái cảm giác hơn nữa khi thấy có những đại quyền lực sử dụng ‘hai biện pháp nặng cân khác nhau’ trong việc áp dụng những giải quyết của Liên Hiệp Quốc ở miền đất này.


“Giờ đây, hơn bao giờ hết, công lý là nền tảng và là điều kiện của hòa bình vậy”.

 

Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đang cố giải quyết vấn đề Iraq


Hôm Thứ Hai 14/10/2002, các nhà lãnh sự Hoa Kỳ và Pháp ở Liên Hiệp Quốc đã gặp nhau về vấn đề giải quyết của hai nước này đối với vấn đề Iraq. Trong khi Hoa Kỳ muốn giải quyết bước một thì Pháp lại cứ nhất định hai bước. Giải quyết của Hoa Kỳ là Iraq phải tuân theo những giải quyết của Liên Hiệp Quốc cũng như phải để cho các vị thanh tra vũ khí Liên Hiệp Quốc được tự do kiểm soát bằng không Hoa Kỳ sẽ sử dụng hành động quân sự. Trong khi giải quyết của Pháp là cứ để thanh tra viên đến kiểm soát đã, nếu Iraq không tuân hành quốc tế mới được ra tay.


Hôm
Thứ Năm 17/10/2002, các viên chức cao cấp của Hoa Kỳ cho biết rằng để Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc chấp nhận giải quyết một bước của mình, hơn là hai bước của Pháp, Hoa Kỳ đã điều chỉnh ngôn từ về việc hăm dọa sử dụng võ lực bằng cách nói rõ là nếu Baghdad không chịu cộng tác với các thanh tra viên vũ khí thì sẽ phải lãnh chịu hậu quả của mình, tương tự như giải quyết của Pháp. Tuy nhiên, về vấn đề hậu quả như thế nào, bản điều chỉnh quyết định của Hoa Kỳ không nói rõ. Các nhà ngoại giao nói rằng nếu Iraq lơ mơ thì Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ cần phải bàn với Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc trước khi ra tay hành động.

Bộ Trưởng Ngoại Giao Nga là ông Igor Ivanov chào mừng dự thảo mới này của Hoa Kỳ, một dự thảo như Bộ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ là tướng Powell cho biết sẽ được chính thức trình cho hội đồng bảo an trong mấy ngày tới đây. Theo Hãng Thông Tấn Associated Press cho biết, với một số trích dẫn họ nhận được, thì những thanh tra viên vũ khí sẽ được yêu cầu “tường trình lập tức cho hội đồng này bất cứ sai trái nào của Iraq trong việc tuân hành giải giới”. Một khi những điều sai trái của Iraq được tường trình, hội đồng này sẽ được lập tức triệu tập “để cứu xét tình hình và nhu cầu cần phải triệt để tuân hành”. Bản thảo trước đây yêu cầu các thanh tra viên tường trình bất cứ “trục trặc” nào và các nước phần tử thẩm quyền được sử dụng “tất cả mọi biện pháp cần thiết” để buộc phải tuân hợp. Bản thảo mới của Hoa Kỳ cũng hạ giọng trong việc đòi hỏi về qui chế thanh tra mới, bằng cách bỏ đi một số chi tiết, trong đó có việc Hoa Kỳ dự định muốn có người lính hộ vệ phái đoàn thanh tra vũ khí.

Trong cuộc tranh luận công khai của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc về Iraq tiếp tục bước sang ngày thứ hai, Thứ Năm 17/10, ngoại trừ Do Thái và Hiệp Vương Quốc, đa số (hơn 5 tá) các quốc gia, trong đó có cả các quốc gia lân bang nhất của Iraq cũng như các nước thuộc khối liên minh của Hoa Kỳ, không chịu chấp nhận đòi hỏi ngay từ ban đầu của Hoa Kỳ. Các vị lãnh sự Á Châu, Phi Châu, Trung Đông và Mỹ Châu Latinh cảnh cáo là một cuộc chiến tranh mới sẽ làm tăng thêm đau khổ cho nhân dân Iraq, có thể sẽ làm tăng thêm sóng gió ở Trung Đông và gây ra những hậu quả khủng khiếp cho sự ổn định chung thế giới.

 

Saddam Hussein tái cử tổng thống nhiệm kỳ 7 năm nữa và bày tỏ lập trường với Hoa Kỳ


Trong bài diễn văn của tổng thống Bush hôm 7/10/2002, nếu Saddam Hussein bị tố cáo là có những thứ khí giới công phá hàng loạt rất nguy hiểm, thì Iraq sẵn sàng mời các thanh tra viên của Liên Hiệp Quốc vào khám xét, và nếu Saddam Hussein 65 tuổi được cho là một tay độc tài hại nước hại dân cần phải diệt trừ, thì Iraq với 11.445.638 cử tri lại 100% bầu ông làm tổng thống thêm 7 năm nữa. Nhưng đối với Washington thì cuộc đầu phiếu độc vị này không có giá trị.


Trong bài diễn văn dài 40 phút tỏ vẻ hết sức cảm kích xúc động của mình ngỏ với toàn dân sau khi thắng cử, Saddam Hussein đã bày tỏ phản ứng của mình đối với Hoa Kỳ nói chung và chính phủ Bush nói riêng, đặc biệt là bài diễn văn của tổng thống Hoa Kỳ ngày 7/10/2002. Tổng thống tái nhiệm Saddam Hussein nói rằng các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ “đã cố gắng biệt lập và tách rời nhân dân Iraq với các vị lãnh đạo của họ”. Thế nhưng, như ông nhận định, nhân dân Iraq với 7 ngàn năm văn hiến vẫn không bị thuyết phục. Vị tổng thống tái nhiệm này nhận định về chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ đối với Iraq nói riêng và các nước nói chung như sau: “Họ làm cho chúng ta nhớ đến lời của một nhà thi sĩ: ‘Quí vị chỉ có thể với tới kẻ sống chứ không thể nào với tới kẻ chết được cả’. Thái độ ngông cuồng của họ đã dẫn họ tới con đường xấu xa gian ác này… Con đường đổ máu chỉ có thể mang lại đổ máu hơn mà thôi”. Vị tổng thống này còn nhận định về nguyên nhân sâu xa hơn nơi chính sách ngoại giao này của Hoa Kỳ đối với Iraq, đó là chính phủ Bush đang tác hành “như một người nộm trong bàn tay vận động của phong trào Do Thái phục quốc mà thôi”. Ông nhận định thêm là các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ “đang bị phong trào Do Thái phục quốc điều khiển như đồ múa rối, một nhóm chỉ nhìn thấy xứ sở Iraq này như là một chướng ngại của họ”. Ông kêu gọi cộng đồng Âu Châu vẫn không chấp nhận đường lối của chính phủ Bush muốn thay đổi chế độ ở Iraq “hãy lên tiếng khuyên nhủ và hướng dẫn”. Ông tiên báo: “Cuộc liên minh giữa phong trào Do Thái phục quốc và chính phủ Bush này chỉ đi đến chỗ tàn bại mà thôi. Tôi cần phải nói rằng sự dữ sẽ không kết thúc cho đến khi nó bị đánh bại, một cuộc hoàn toàn đại bại xẩy ra bất cứ lúc nào, nếu hoàn cảnh thuận lợi”. Ông khẳng định Hoa Kỳ mới là mối đe dọa chứ không phải Iraq: “Không phải là vấn đề Ả Rập nữa. Nó đã trở thành vấn đề đụng độ giữa lành và dữ, giữa những kẻ đe dọa nền an ninh thế giới khắp hoàn cầu này”.


Trong chính ngày Thứ Tư 16/10, khi Iraq công bố cuộc thắng cử 100% của tổng thống Iraq thì hai vị lãnh đạo Hoa Kỳ Bush và Do Thái Sharon gặp nhau. Được biết tổng thống Bush muốn trực tiếp gặp thủ tướng Do Thái này để cho thấy rằng Hoa Kỳ không hài lòng về việc Do Thái công hãm tổng hành dinh của Thẩm Quyền Palestine ở Ramallah. Nhưng ông Sharon nói rằng Do Thái cần phải có những đáp ứng cần thiết đối với những cuộc khủng bố tấn công. Vị thủ tướng này còn nhấn mạnh là Do Thái không chịu nhường bước như hồi Chiến Tranh Vùng Vịnh 1991 nữa, lần này, nếu Iraq bắn phi đạn vào Do Thái, Do Thái bắt buộc sẽ phản ứng. Hoa Kỳ không dám đề cập đến vần đề phản ứng của Do Thái này trước trong buổi gặp gỡ này, vì tổng thống Bush chưa dứt khoát về vấn đề tấn công Iraq, và xin Do Thái đừng nói công khai kẻo gây thiệt hại cho việc ngoại giao của Hoa Kỳ tại các nước Ả Rập.

 

Những cuộc khủng bố tấn công vào và sau ngày diễn văn của Tổng Thống Bush.


Vào ngày Thứ Hai 7/10/2002, ngày Tổng Thống Bush đọc bài diễn văn kêu gọi chung quốc dân Hoa Kỳ và riêng Quốc Hội Hoa Kỳ cho phép ông được sử dụng lực lượng quân sự để tấn công Iraq, cũng là ngày kỷ niệm đúng một năm Hoa Ký bắt đầu tấn công khủng bố, một chiếc tầu chở dầu của Pháp tự nhiên bị bùng cháy ở ngoài khơi Yemen, gây thiệt mạng cho một thủy thủ.


Hai ngày sau vụ này, tức vào ngày Thứ Tư 9/10/2002, một người hải quân Hoa Kỳ bị một số người bắn chết và một người khác bị thương ở Đảo Failaka ngoài khơi Kuwait City. Các viên chức Kuwait cho rằng những tay súng này có liên hệ với tổ chức khủng bố al Qaeda.


Ba ngày sau vụ thứ hai, tức vào tối ngày Thứ Bảy 12/10/2002, một vụ khủng bố tấn công vào một hộp đêm ở Bali Nam Dương gây thiệt mạng trên 180 người và trên 200 người bị thất tung. Bộ trưởng quốc phòng Nam Dương đã cho biết hôm Thứ Hai, 14/10 là “Chúng tôi chắc là al Qaeda đang có mặt ở đây. Cuộc nổ bom ở Bali có liên hệ tới al Qaeda qua việc hợp tác của các tên khủng bố địa phương”.


Về những cuộc khủng bố tấn công này, có những câu nói xuất hiện trên màn điện toán vốn dính dáng với al Qaeda trong quá khứ, những câu nói được cho là của Osama bin Laden, những câu nói ca tụng những cuộc khủng bố tấn công này, nhất là vào dịp kỷ niệm đúng một năm Hoa Kỳ tấn công khủng bố ở A Phú Hãn.


“Chúng tôi chúc mừng Quốc Gia Hồi Giáo trong những cuộc hành quân thánh chiến (jihad Hồi Giáo) hào hùng mãnh liệt mà con cái của quốc gia ấy… nhóm giải phóng quân (the mujahedeen) ở Yemen chống lại chiếc tầu chở dầu của nước thánh chiến quân (crusader Pháp) cũng như ở Kuwait chống lại những đội lính thù địch cũng như chống lại việc đóng quân của Hoa Kỳ”. Những lời này còn đe dọa là sẽ không có hòa bình “cho đến khi họ rút tay ra khỏi quốc gia Hồi Giáo và ngưng tấn công chúng ta cũng như hỗ trợ cho các kẻ thù của chúng ta”. Lời phát biểu cho biết hết mình liên kết với những hiếu chiến quân ở Nam Dương, ở Kashmir, A Phú Hãn, Phu Luật Tân, cũng như ở cuộc xung đột Do Thái Palestine.


Ở Phi Luật Tân, ngày 2/10, một vụ nổ bom ở Zamboanga đã làm cho 4 người chết, trong đó có một người Hoa Kỳ, và làm cho trên 20 người bị thương. Vụ này có thể do tên Abu Sayyaf gây ra, người một tuần trước đã đe dọa sẽ tấn công thường dân, quân đội và Hoa Kỳ để trả thù cho việc chính phủ liên tục chống lại những cuộc nổi dậy ở miền nam Phi Luật Tân. Một cuộc tấn công khác xẩy ra cũng thuộc miền nam Phi Luật Tân ở Kidapaqan City tại một trạm xe buýt đông người, đã làm thiệt mạng 6 và bị thương 10 người khác. Cuộc nổ bom tại Zamboanga ngày 17/10 cũng gây thiệt mạng cho 7 người cùng với 140 người bị thương. Một cuộc nổ bom khác ở Manila ngày hôm sau 18/10 đã làm chết 1 người và bị thương 20 người. Các viên chức cho biết người chết có thể là người mang bom trong người trong một cái bao và ngồi ở cuối xe buýt. Bom nổ từ cuối xe trong khi xe đang chạy trên xa lộ chính ở phía bắc Manila.


Riêng vụ nổ ở Bali Nam Dương, cảnh sát cho biết đã tìm thấy dấu vết của những mảnh plastic, cùng loại plastic được sử dụng hai năm trước đây ở Jakarta liên quan đến nhóm Nam Dương cực đoan Jemaah Islamiah có liên hệ với al Qaeda.

 

Chuyên Viên Trung Đông nhận định về tình hình Iraq


Camille Eid, một chuyên gia người Lebanon về Trung Đông từng viết cho tờ báo Avvenire của Ý đã trả lời một cuộc phỏng vấn sau ngày vị phóng viên này gặp gỡ ĐGM Jean Benjamin Sleiman ở Baghdad. Hôm Thứ Năm 10/10/2002, vị phóng viên này cũng tham dự cuộc bàn bạc về vấn đề “Những Chân Trời Cuộc Chiến Tranh ở Iraq: Phải chăng ngăn ngừa tốt hơn là chữa trị?”, do Đại Học Đa Kỹ Thuật Milan Ý tổ chức.


Vấn     Ở Iraq có vấn đề tự do tôn giáo hay chăng?


Đáp     Người Công Giáo cần phải đi lễ được tự do làm điều này; họ được tự do xây cất nhà thờ. Tuy nhiên, các trường học Kitô giáo, nhất là Công Giáo, đã được quốc hóa cả thập niên trước đây. Tương đối có tự do. So với các quốc gia Vùng Vịnh thì Iraq là nước dẫn đầu. Nếu đối chiếu đời sống ở đây với ở Ý thì thực sự cần phải đạt tới tình trạng tự do thực sự hơn nữa.


Vấn     Vậy người Công Giáo sống trong hoàn cảnh này như thế nào?


Đáp     Điều làm cho Giáo Hội chịu cực hình hiện nay đó là vấn đề Kitô hữu xuất ngoại. Hơn một nửa Giáo Hội Assyrian không phải Công Giáo đang sống ở Detroit Hoa Kỳ. Nhiều người thuộc Giáo Hội Chaldeans đã bỏ xứ sở trong 10 năm qua. Nhiều người trong họ thoạt tiên sang Jordan, rồi từ đó sau này họ đi sang Úc Châu, Canada và các xứ sở khác.


Vấn     Tình trạng này có xẩy ra cho thảm cảnh của các người Kitô hữu ở Thánh Địa hay chăng?


Đáp     Thật vậy, như đã xẩy ra cho những người Kitô hữu Palestine và Labanon, trong tất cả ở Trung Đông, Kitô giáo đã bị diệt trừ. Ở Iraq vẫn còn một thứ Kitô giáo hiện hữu cả ngàn năm. Thế nhưng nói chung tình trạng thực là thảm hại.


Vấn     Có thể nào củng cố lực lượng chống đối nội bộ ở Iraq để ngăn ngừa một cuộc chiến từ bên ngoài chăng?


Đáp     Có từ 3 đến 4 triệu người Iraq sống ở hải ngoại; có những nhóm chống đối. Nhưng không biết những nhóm này được ủng hộ đến đâu trong quốc nội. Theo những tường trình của báo chí thì họ đã lập được một vị lãnh đạo là ông Ahmed Chalabi, một đối thủ có thế giá, nhưng ông phải kết hợp tất cả những người Kurds, những người Shiites lại với nhau nữa mới được.


Vấn     Liệu có thể nào tránh được chiến tranh xẩy ra hay chăng?


Đáp     Chúng ta cần phải nhìn vào những nguyên nhân của nó. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã vạch ra phương thế trị liệu, đó là để tránh chiến tranh cần phải loại trừ đi tình trạng bất công trên thế giới. Không ai chối cãi chế độ của Saddam là nhẫn tâm. Việc ông làm sao để nắm được tuyệt đỉnh quyền bính vào năm 1979 đã quá rõ ràng. Trong cuộc họp với 200 người, ông đã nêu lên tên tuổi của những người cần phải được loại trừ. Điều chúng ta phải đối đầu đây là phương thức. Chúng ta cần có một quan điểm chính yếu; chúng ta có những nguyên tắc. Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ muốn thiết lập các thứ quyền trị – cũng được đi, họ có thể làm như thế. Nhưng họ cần phải áp dụng việc ấy đối với tất cả mọi quốc gia, chứ không phải ở đây thì làm còn ở kia thì không. Điều làm tôi ngỡ ngàng là cách đây mấy tuần, bà Condoleezza Rice, cố vấn của Tổng Thống Bush, nói rằng chiến tranh chống Iraq cuối cùng sẽ mang lại nền dân chủ cho tất cả các quốc gia Ả Rập; bởi thế, nó là một cửa ngỏ để vào. Thì chúng ta cũng cứ hy vọng vậy đi, vì Iraq dầu sao cũng đang bị vây bủa bởi các quốc gia độc tài, dù là bạn hay thù của Hoa Kỳ. Ba ngày trước đây, một vị đại diện Do Thái từ Washington về đã tiết lộ cho biết những chi tiết cuộc họp của bá với chính quyền Hoa Kỳ. Theo bà đại diện này, có người đã nói cho bà hay rằng, một khi Saddam Hussein bị lật đổ thì những người Hoa Kỳ sẽ đặt một tay độc tài khác thay thế trong vòng từ 5 đến 6 năm, người đó nói thêm: ‘Điều này tốt cho cả quí vị lẫn chúng tôi’. Người ta không thể nào không tự hỏi tại sao lại như vậy? Trước hết, quí vị nói về dân chủ, về nhân quyền, về tự do của nhân dân Iraq, rồi quí vị nói đến những tay độc tài khác là làm sao.

 

Các Giám Mục Anh Giáo Phản Đối Việc Đơn Phương Tấn Công Iraq


50 Vị Giám Mục Anh Giáo đã đồng thanh nhận định và tuyên bố hôm Thứ Tư 9/10/2002 như sau:


“Chúng tôi công nhận chính sách được Chính Quyền tuyên bố về việc giải giới Iraq những thứ vũ khí công phá hàng loạt. Những viên thanh tra vũ khí của Liên Hiệp Quốc cần phải được tự nhiên và tự do đi lại để dễ dàng tìm kiếm và hủy hoại những thứ vũ khí công phá hàng loạt của Iraq, theo đúng tất cả những quyết định hiện tại của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc.


“Chúng tôi cho rằng mối quan tâm chính yếu của thế giới vẫn là việc Iraq tỏ ra coi thường Liên Hiệp Quốc và quyền bính của tổ chức này như đã được bày tỏ trong những quyết định hiện nay của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Bất cứ hành động đơn phương nào bắt buộc Iraq phải tuân theo những quyết định như vậy đều có thể đưa đến việc làm tiêu hao uy tín và thẩm quyền của Liên Hiệp Quốc”.

 

Phản ứng về bài diễn văn của tổng thống Bush: Tại Iraq và Vùng Vịnh


Ở Iraq, những phần tử trong quốc hội đã lên tiếng phản đối tổng thống Bush hết sức kịch liệt. Ông Abdul Aziz Kailani, vị lãnh đạo của ủy ban tôn giáo vụ trong quốc hội, đã nói với hãng thông tấn Reuters rằng: “Bush ơi, lời lẽ của ông toàn là dối trá và đầy những luận điệu vô lý… Ông giống hệt như một con mãnh thú chỉ muốn ăn nuốt những xứ sở nhỏ bé, trong khi ông cần phải giúp đỡ họ thì ông lại muốn hủy diệt họ… Tôi muốn hỏi Ông Bush một câu, đó là từ Hiệp Chủng Quốc đến Iraq bao xa? Rất là xa với nơi đây… cả một đại dương, với những quốc gia rộng lớn ở giữa chúng ta, vậy thì làm sao chúng tôi có thể đe dọa Hoa Kỳ được nhỉ?”


Một viên chức khác trong quốc hội, ông Abdul Aziz Shwaish, lãnh đạo ủy ban về tài chính, thương vụ và hoạch định, cho rằng Washington gán ghép cho Iraq có những thứ vũ khí công phá hàng loạt để viện cớ tấn công Iraq:


“Chúng tôi không có những thứ vũ khí công phá hàng loại và cả thế giới biết rằng ông Bush muốn áp đặt quyền lợi quốc gia của mình trên thế giới và bắt Iraq phải qui phục quyền cai trị của mình… Chúng tôi không hề có liên hệ gì với al Qaeda, không ai tin được những lời của ông Bush về vấn đề này”.


Trong khi đó, 500 vị giáo sĩ và trí thức Hồi Giáo họp nhau ở Baghdad đã ban hành một sắc lệnh tôn giáo kêu gọi các người Hồi Giáo hãy bắt đầu một cuộc thánh chiến chống lại Hiệp Chủng Quốc nếu nước này dám tấn công Iraq. Bản sắc lệnh tuyên bố: “Nếu Thiên Chúa không ngăn cản mà để cho cuộc tấn công xẩy ra thì việc tuyên bố Thánh Chiến chống lại chính phủ Hoa Kỳ gian ác là nhiệm vụ của mọi người Hồi Giáo có khả năng. Nếu họ cố tấn cống họ sẽ thấy nơi từng hạt cát, từng núi non, đồng bằng và thung lũng ngọn lửa đốt cháy trái đất này ở dưới chân họ”.


Hôm Thứ Ba 8/10/2002, sau cuộc họp với Tổng Thống Ai Cập Hosni Mubarak và ông Jack Straw, thứ trưởng ngoại vụ Hiệp Vương Quốc, bộ trưởng Ngoại Giao Ai Cập là ông Ahmed Maher nói rằng: “Những thanh ra viên phải trở lại sớm bao nhiêu có thể. Không cần gì phải làm cản trở việc họ trở lại cả”. Trong khi cả Hiệp Chủng Quốc (US) và Hiệp Vương Quốc (UK) không muốn cho các thanh ra viên trở lại trước khi Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc thông qua quyết nghị của hai nước này về việc sử dụng hành động quân sự nếu các viên chức Iraq gây rắc rối cho việc thanh tra vũ khí. Ông ngoại trưởng Ai Cập này còn nói rằng: “Viết lại những qui luật vào giữa cuộc chơi không phải là một giải pháp tốt nhất. Điều quan trọng là hãy để cho các thanh ra viên vũ khí trở lại. Tôi không nghĩ rằng cấn phải thay đổi qui luật”.


Còn ông thứ trưởng Straw sở dĩ đến Ai Cập đêm Thứ Hai hôm trước, là để thực hiện chuyến đi một vòng Trung Đông và Vùng Vịnh với mục đích thuyết phục các nhà lãnh đạo trong vùng này về mối đe dọa gây ra bởi Iraq có thể đưa đến một cuộc chiến tranh chính đáng. Chuyến đi này xẩy ra sau diễn văn của Tổng Thống Bush. Trước khi đến Ai Cập, ông này đã ở Paris mấy tiếng đồng hồ để dượt qua sứ điệp của mình. Tại Paria, ông nói rằng: “Đây là một vấn đề trước hết là cha các nước láng giềng của Saddam. Đừng quên rằng trong vòng 20 năm qua, hắn đã xâm chiếm hai nước láng giềng của hắn và đã bắn phi đạn tấn công 5 nước… mối đe dọa lớn nhất hắn gây ra là vùng mà hắm ở”.


Những nhà lãnh đạo trong vùng, bao gồm cả Tổng Thống Ai Cập Mubarak và Vua Jordan Abdullah đều cảnh giác về mối nguy cơ nổi dậy nếu Tây Phương tấn công Iraq hay tìm cách lật đổ vị lãnh đạo nước này bằng võ lực. Đã có những cuộc biểu tình chống đối diễn ra ở bên ngoài Tòa Lãnh Sự Hoa Kỳ ở Cairo. Tổng thống Ai Cập kêu gọi các nhà lãnh đạo trên thế giới hãy tìm cách giải quyết cuộc xung khắc giữa Do Thái và Palestine trước khi vướng vào vấn đề Iraq.


Trong khi đó, ở Damascô, khi nói với các phóng viên ở cuộc họp các nhà trí thức và chính trị Ả Rập họp lại chống đối Hoa Kỳ, ông Quyền Vị Thủ Tướng Iraq là Tareq Aziz cảnh giác các nước Ả Rập là việc Hoa Kỳ tấn công Baghdad sẽ ảnh hưởng đến cả các nước trong vùng như sau: “Không một quốc gia Ả Rập nào sẽ thoát khỏi bị đe dọa cả, cho dù họ có về phe Hoa Kỳ trong việc tấn công Iraq đi nữa. Đừng nghĩ rằng họ an toàn nếu họ bày tỏ những ời phát biểu hay ho hay cống hiến cho Hoa Kỳ những địa điểm. Khi tội ác lên đến tột đỉnh thì họ sẽ bị qui phục Hoa Kỳ và phong trào phục quốc Do Thái Zionism”. Một số nước Vùng Vịnh như Qatar, Saudi Arabia và Kuwait đang để cho Hoa Kỳ dùng làm cứ điểm. Ông Aziz nói rằng việc Hoa Kỳ tấn công Iraq là dạo khúc để thực hiện việc Do Thái thi hành “dự án thay chuyển” đã được tiết lộ là đẩy những người Palestine sang Nước Jordan bên cạnh để lập quốc thay vì lập quốc ở ngay Palestine. Đây là vòng thứ hai ông Aziz đã thực hiện trong vùng này. Iraq cũng gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao của mình là ông Naji Sabri đi một vòng các nước Vùng Vịnh, nhắc nhở các nước này là cuộc chiến trang chống Iraq cũng gây ảnh hưởng lũng đoạn cả miền Ả Rập nữa. Ông đã viếng thăm các nước Bahrain, Oman, Qatar và United Arab Emirates.


Hôm Thứ Năm 10/10/2002, ông Abdul Tawab Mullah, vị phụ trách những chương trình vũ khí của Iraq, đã nói với cuộc họp báo là xứ sở của ông không chế tạo các thứ vũ khí hóa học, vi trùng hay hạch nhân. Trái lại, ông cho biết những địa điểm nghi ngờ thực sự chỉ là những cơ xưởng về kim loại, những địa điểm Hoa Kỳ đã không bị Hoa Kỳ hủy hoại hay được tái thiết với mục đích nghiên cứu. Ông nhấn mạnh là: “Chúng tôi chuẩn bị mở cửa cho những cuộc viếng thăm cấp thời, hầu chúng tôi có thể làm sáng tỏ tình hình này và chứng tỏ cho thấy cái dối trá đến nực cười sai lầm do Hoa Kỳ nói mà chẳng có gì làm bằng… Nếu chính phủ Hoa Kỳ đang cố gắng điều ra sự thật họ tuyên bố thì họ hãy để cho những thanh tra viên Liên Hiệp Quốc trở lại kiểm soát những địa điểm này. Tôi bảo đảm là họ sẽ thấy rằng chúng tôi có những thứ vũ khí công phá hàng loạt hay chăng”.


Bộ Trưởng Ngoại Giáo Hiệp Vương Quốc Jack Straw cũng vừa kết thúc 4 ngày viếng thăm các nước Ai Cập, Jordan, Kuwait và Iran cũng như Pháp Quốc. Tuy nhiên, vị này đã gặp phản ứng mạnh mẽ ở Iran. Ngoại Trưởng Iran là ông Kamal Kharrazi đã cho biết nhận định như sau: “Tất cả các nước thuộc thế giới Hồi Giáo chống lại những chính sách đơn phương của Hiệp Chủng Quốc và đó là lý do đủ để khắp các nước Hồi Giáo hết sức thù hận”.


Phản ứng về bài diễn văn của tổng thống Bush: Tại Quốc Hội Hoa Kỳ


Quốc Hội đã có chương trình bàn luận về việc giải quyết vụ Iraq vào ngày Thứ Ba, 8/10/2002 và thông qua vào chiều Thứ Tư hay vào ngày Thứ Năm.


Đúng thế, hôm Thứ Sáu, 11/10/2002, Hạ Viện đã bỏ phiếu 296/133 và Thượng Viện đã bỏ phiếu 77/23 cho Tổng Thống Bush có quyền đem quân đi bắt Iraq phải tuân hành những quyết định của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc trong việc buộc Iraq phải hủy bỏ những loại khí giới công phá hàng loạt. Tất cả có 215 vị trong đảng Cộng Hòa và 81 vị trong đảng Dân Chủ bỏ phiếu thuận cho quyết định này. Tại Thượng Viện, đảng Dân Chủ tỏ ra không đồng nhất với nhau ở số phiếu 29 thuận và 21 chống. Quyết định này của Quốc Hội đòi Tổng Thống Bush phải loan báo cho Quốc Hội biết trước 48 tiếng hay trong vòng 48 tiếng sau khi bắt đầu hành động quân sự vì những nỗ lực ngoại giao để bắt buộc Iraq tuân hành những quyết định của Hội Đồng này không thành công. Tổng Thống Bush đồng thời cũng phải bảo đảm là hành động chống lại Iraq không được làm ngăn trở những nỗ lực theo dõi hoạt động khủng bố của al Qaeda đã tấn công Nữu Ước và Washington năm vừa rồi. Chính phủ Bush cũng phải tường trình cho Quốc Hội biết tiến trình về chiến ranh với Iraq mỗi 60 ngày. Cuộc bỏ phiếu lần này có một khoảng cách lớn hơn cuộc bỏ phiếu năm 1991 (Hạ Viện 250/183 và Thượng Viện 52/47) trước Cuộc Chiến Vùng Vịnh cho phép Tổng Thống Bush cha dùng võ lực để đẩy Iraq ra khỏi Kuwait.


Hôm Thứ Năm 10/10/2002, ông Quyền Vị Thủ Tướng Iraq Abdul Tawab Al-Mulah Huwaish đã cho những cáo buộc của Hoa Kỳ là “gian dối”, và sẵn sàng để cho các viên chức Hoa Kỳ thanh tra những khu vực họ cho là đang được sử dụng để chế tạo các thứ vũ khí nguyên tử, vi trùng và hóa học: “Nếu chính phủ Hoa Kỳ muốn kiểm soát những nơi này thì họ cứ việc đến mà coi tận mắt cho biết”. Tuy nhiên, Tòa Bạch Ốc lập tức không chấp nhận lời thách thức này, nói rằng vấn đề tùy ở Liên Hiệp Quốc chứ không phải ở Iraq.


Thái độ của Tổng Thống Nga sau bài diễn văn của tổng thống Bush


Hôm Thứ Sáu, 11/11/2002, sau khi đã nói chuyện với Thủ Tướng Tony Blair của Hiệp Vương Quốc tại chòi săn của tổng thống ở gần sông Volga bên ngoài thủ đô Moscow, Tổng Thống Nga Putin đã cho các phóng viên biết rằng “Chúng ta không loại trừ cơ hội tiến đến có cùng một chủ trương trong Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc”. Thế nhưng, Vị tổng thống này đã trực tiếp tỏ ra trái ngược lại với Hiệp Vương Quốc cho rằng Saddam Hussein có các thứ vũ khí hóa học, vi trùng và hạch nhân: “Nga không nắm được một dữ kiện thực sự nào về việc Iraq có những thứ vũ khí nguyên tử hay bất cứ loại vũ khí công phá hàng loạt nào”. Tổng thống Putin kêu gọi hãy mau thực hiện viên thanh tra vũ khí và cho rằng không cần có quyết định mới: “Chúng ta tin rằng không có những lý lẽ về pháp quyền chính thức nào thay thế được quyết định của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc cả”. Tổng thống Putin còn làm sáng tỏ những gì Thủ Tướng Blair nói trên chuyến máy bay đến Nga là vấn đề chính ông sẽ nói chuyện với tổng thống Putin là vấn đề về những lợi ích kinh tế của Nga. Tổng thống Putin cho biết là việc không đống ý với giải quyết của Liên Hiệp Quốc sử dụng võ lực đe dọa Iraq không dính dáng gì đến những nỗ lực lấy lại 7 tỉ nợ nần Iraq phải trả cho Nga cả. Cho tới nay ông vẫn chưa có đủ chứng cớ về các thứ vũ khí công phá hàng loạt của Iraq, đó là lý do việc thanh tra vũ khí cần phải được thực hiện sớm bao nhiêu có thể.


Phản ứng về bài diễn văn của tổng thống Bush: Từ chính quyền Iraq


Quốc Hội Iraq được lệnh họp khẩn vào ngày Thứ Bảy 12/10/2002. Lời của ông Quyền Vị Thủ Tướng Tariq Aziz đã được báo chí phổ biền hôm Thứ Bảy 12/10 như sau: “Hoa Kỳ thách thức chúng ta – chứ không phải chúng ta thách thức Hoa Kỳ”.


Phó tổng thống Iraq đã trả lời một cuộc phỏng vấn của tờ Der Spiegel nguyệt san tin tức của Đức hôm Thứ Bảy 12/10/2002 là Baghdad đã sẵn sàng cho phép các thanh tra viên Liên Hiệp Quốc đếm thăm 8 dinh thự của tổng thống là những địa điểm Hoa Kỳ lấy làm nghi ngờ thắc mắc: “Những thanh tra viên có thể tìm kiếm và kiểm soát bất cứ cách nào và bất cứ ở đâu họ muốn”. Ông Arraf nói rằng ngày Thứ Bảy 12/10, các viên chức Iraq đã dẫn các phóng viên Tây Phương đến một số nơi khả nghi, kể cả cơ sở được cho là nơi chế tạo vũ khí nguyên tử ở phía nam thủ đô Baghdad, và các phóng viên này cho biết đó chỉ là những nơi sản xuất dụng cụ radar.


Cũng vào Ngày Thứ Bảy 12/10/2002, chính quyền Iraq đã gửi một bức thư đến những viên chức có trách nhiệm về chương trình thanh tra vũ khí của Liên Hiệp Quốc, nhắc lại lời hứa cho pháp các thanh tra viên hoạt động trong xứ sở này theo những điều kiện của Liên Hiệp Quốc.


Thứ Ba 8/10/2002, hai vị lãnh đạo cơ quan IAEA và UNMOVIC (the United Nations Monitoring, Verification and Inspection Commission) là ông Mohamed ElBaradei và Hans Blix đã gửi cho tướng Iraq là ông Amir al-Saadi, vị lãnh đạo phái đoàn Iraq trong cuộc họp ở Vienna Áo Quốc, một bức thư xác nhận bản chất của phiên họp ở Vieanna Áo hai tuần trước. Tướng Al-Saadi đã trả lời bằng một bức thư hôm Thứ Năm 10/10 nói rằng Iraq đã sẵn sàng tiếp đón những thanh tra viên vũ khí của Liên Hiệp Quốc “sớm bao nhiêu có thể”. Trong bức thư trả lời ngày Thứ Ba 8/10, ông Blix đã trích lại việc Iraq đồng ý “cách thức trực tiếp, vô điều kiện và không giới hạn” ở các địa điểm, chẳng hạn như chấp nhận việc phỏng vấn các viên chức Iraq hay khoa học gia Iraq cũng như chấp nhận những chuyến bay thám thính U-2. Nhưng tướng Al-Saadi nói rằng Baghdad khó lòng mà tuân giữ được một số yêu cầu của ông Blix, như bảo đảm sự an toàn của các thanh tra viên ở những vùng cấm bay mà hiện nay đang được những phản lực cơ Hiệp Chủng Quốc và Hiệp Vương Quốc tuần tiểu. Vị tướng này đề nghị trong bức thư là “Nếu hủy bỏ những vùng cấm bay bất hợp pháp thì chúng tôi sẽ không gặp khó khăn trong việc bảo đảm cho hai cơ quan này về sự an toàn của các cuộc không vận trên toàn không phận Iraq”.


Về những phản ứng này của Iraq, một viên chức trong chính phủ Hoa Kỳ nói với CNN rằng: “Đây là một điều nữa của cùng một trò chơi họ đã chơi trong 10 năm qua. Họ tiếp tục chơi những trò chối bỏ và lừa bịp”; “Chúng tôi không lấy gì làm lạ lùng cả. Rõ ràng là những người Iraq muốn trì hoãn và lừa đảo mà”.

 

Bài diễn văn của tổng thống Bush đọc vào chính ngày 7/10/2002 ở Cincinnati Ohio, kỷ niệm 1 năm Hoa Kỳ bắt đầu ra tay tấn công khủng bố.


“Tối hôm nay, tôi muốn dùng ít phút để bàn đến một mối đe dọa trầm trọng cho hòa bình, cũng như đến việc Hoa Kỳ quyết tâm dẫn thế giới vào cuộc đối đầu với mối đe dọa này.


Mối đe dọa ấy xuất phát từ Iraq. Nó phát xuất trực tiếp từ những hành động riêng của chế độ Iraq, từ lịch sử hung hăng tấn công của họ cũng như từ khuynh hướng tích lũy vũ khí khủng bố.


11 năm trước đây, theo điều kiện để chấm dứt cuộc Chiến Vùng Vịnh Ba Tư, chế độ Iraq buộc phải hủy hoại những loại vũ khí có sức công phá hàng loạt của mình, không được phát triển thêm những loại vũ khí ấy, và ngưng tất cả mọi hỗ trợ cho các nhóm khủng bố.


Chế độ Iraq đã vi phạm tất cả những điều đòi buộc này. Chế độ này đang có trong tay và đang sản xuất các loại vũ khí hóa học và sinh học. Chế độ ấy đang tìm kiếm các loại vũ khí nguyên tử. Chế độ này đã che chở và nâng đỡ vấn đề khủng bố và đang thực hiện việc khủng bố nơi dân của mình.


Toàn thể thế giới đã chứng kiến thấy việc Iraq vi phạm, lừa bịp và dối trá trong 11 năm qua.


Chúng ta cũng không bao giờ có thể quên được biến cố lịch sử sống động mới đây nhất. Vào ngày 11/9/2001, Hoa Kỳ đã cảm thấy bị tổn thương, thậm chí còn cảm thấy mình bị thế giới bên kia cùng nhau đe dọa nữa. Chúng ta đã giải quyết vấn đề này và hôm nay đây chúng ta đang giải quyết để đối đầu với mọi đe dọa phát xuất từ bất cứ từ đâu có thể gây khủng bố và khổ đau bất ngờ cho Hoa Kỳ.


Những phần tử của Quốc Hội của cả hai đảng, cũng như các phần tử của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đều đồng ý rằng Saddam Hussein là một mối đe dọa cho hòa bình và cần phải giải giới. Chúng ta đồng ý với nhau rằng con người độc tài Iraq này không được đe dọa Hoa Kỳ và thế giới bằng những chất độc rùng rợn, những thứ bệnh hoạn, những loại hơi độc và những loại vũ khí nguyên tử.


Vì chúng ta đều đồng ý với nhau về mục tiêu như thế mà vấn đề được đặt ra ở đây là: Chúng ta có thể đạt tới mục tiêu này tốt nhất như thế nào?


Nhiều người Hoa Kỳ đã nêu lên những vấn đề hợp pháp. Chẳng hạn như về bản chất của việc đe đọa. Về tính cách khẩn trương của hành động – và tại sao phải quan tâm đến ngay bây giờ? Về sự liên hệ giữa việc Iraq chế tạo các thứ vũ khí khủng bố và cuộc chiến tranh chống khủng bố lớn hơn.


Đó là tất cả những vấn đề đã được bàn luận rộng rãi và đầy đủ trong ngành hành pháp của tôi. Tối nay tôi muốn chia sẻ những bàn luận này với quí vị.


Trước hết, có một số người hỏi là tại sao Iraq khác với các quốc gia hay chế độ khác là những quốc gia hay chế độ cũng có những thứ khí giới kinh khủng. Trong khi có nhiều nguy hiểm trên thế giới thì nổi nhất là mối đe dọa ở Iraq – vì nó qui tụ vào một chỗ những nguy hiểm trầm trọng nhất thời đại chúng ta.


Những thứ khí giới công phá hàng loạt của Iraq nằm trong tay của một tay bạo quyền giết người, kẻ đã dùng những khí giới hóa học để sát hại hàng ngàn người. Tay bạo quyền này đã cố gắng làm chủ Trung Đông, đã xâm chiếm và dã tâm chiếm đóng nước lánh giềng nhỏ bé, đã bất ngờ đánh các quốc gia khác, và đã một lòng thù hằn đối với Hiệp Chủng Quốc.


Với những hành động trong quá khứ và hiện tại, với những năng lực về kỹ thuật của mình, với một chế độ có bản chất nhẫn tâm của mình, thì chỉ có ở Iraq mà thôi.
………
Một số người hỏi rằng mối nguy hiểm này khẩn trương như thế nào đối với Hoa Kỳ và thế giới. Mối nguy hiểm này đã có một tầm vóc quan trọng và nó chỉ càng ngày càng nguy hiểm hơn thôi. Nếu hôm nay chúng ta biết Saddam Hussein đã có những khí giới nguy hiểm, mà quả thật chúng ta biết được như vậy, thì có hợp lý hay chăng nếu thế giới chờ đợi để đương đầu với hắn khi hắn càng trở nên mạnh hơn và càng chế tạo những loại vũ khí nguy hiểm hơn?
…………
Những hình ảnh theo dõi cho thấy rằng chế độ này đang tái thiết những cơ sở đã được sử dụng để sản xuất những thứ vũ khí hóa học và vi trùng.

Saddam Hussein nhất định kiến tạo và giữ những thứ vũ khí này, bất chấp việc thế giới cấm vận, Liên Hiệp Quốc đòi buộc và cô lập khỏi thế giới văn minh. Iraq có những phi đạn tầm xa bắn tới cả mấy trăm dặm – có thể tấn công Saudi Arabia, Israel, Turkey, và các quốc gia khác – một miền có hơn 135 ngàn thường dân Hoa Kỳ và những nhân viên phục vụ cư ngụ và làm việc.


Qua tình báo, chúng ta cũng khám phá ra rằng Iraq có một loạt những loại cơ động phóng khí được người điều khiển cũng như không cần người điều khiển có thể sử dụng để tung ra những loại vũ khí hóa học và vi trùng ở những vùng rộng lớn. Chúng ta lo ngại là Iraq đã tìm cách sử dụng những loại cơ động phóng khí không người này nhắm vào việc tấn công Hoa Kỳ.
………..
Đó là nguồn gốc của việc chúng ta khẩn trương quan tâm đến những việc Saddam Hussein có những dính dáng tới những nhóm khủng bố quốc tế.

Chúng ta biết rằng Iraq và tổ chức khủng bố al Qaeda có cùng một kẻ thù chung đó là Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Chúng ta biết rằng Iraq và al Qaeda có nhiều liên hệ với nhau cả thập niên vừa rồi. Một số tay lãnh đạo al Qaeda tẩu thoát khỏi A Phú Hãn đã sang Iraq.


Trong số này có một tay lãnh đạo al Qaeda cao cấp được trị bệnh ở Baghdad năm nay, và là tên đã dính dáng vào việc mưu đồ tấn công bằng chất hóa học và vi trùng. Chúng ta biết rằng Iraq đã huấn luyện cho những phần tử của al Qaeda trong việc chế tạo bom đạn, những chất độc và những khí độc.


Chúng ta cũng biết rằng sau ngày 11/9, chế độ Saddam Hussein đã sung sướng ăn mừng cuộc khủng bố tấn công Hoa Kỳ. Iraq có thể đã có ý định vào một ngày nào đó cung cấp vũ khí vi trùng và hóa học cho một nhóm khủng bố hay cho những cá nhân khủng bố. Những việc liên minh với các tay khủng bố có thể giúp cho chế độ Iraq tấn công Hoa Kỳ mà không để lại dấu vết gì.


Có một số người lập luận rằng đối đầu với mối đe dọa của Iraq có thể làm phân tán chiến tranh chống khủng bố. Trái lại, đương đầu với mối đe dọa do Iraq gây nên là việc quan trọng để thắng được trận chiến chống khủng bố.


Hơn một năm trước tôi đã nói với Quốc Hội là những ai che chở cho những kẻ khủng bố cũng có lỗi như chính những tên khủng bố. Saddam Hussein đang che chở những tên khủng bố và có những khí cụ khủng bố, những khí cụ sát hại và hủy hoại hàng loạt.
……..
Nhiều người hỏi Saddam Hussein đang chế tạo vũ khí hạch nhân tới đâu rồi. Chúng ta không biết chính xác ra sao, và đó mới là vấn đề. Trước Cuộc Chiến Vùng Vịnh, tình báo tinh vi nhất đã cho thấy rằng Iraq đã ở vào khoảng từ 8 tới 10 năm trong việc chế tạo khí giới hạch nhân; sau cuộc chiến này, các viên thanh tra quốc tế đã biết được rằng chế độ này càng tiến đến gần hơn nữa. Chế độ ở Iraq có thể đã có một thứ khí giới nguyên tử không muộn hơn năm 1993.
…….
Những tấm ảnh do vệ tinh chụp được cho thấy Iraq đang tái thiết những cơ sở ở những chỗ đã được dùng cho chương trình nguyên tự trong quá khứ.
………….
Một số người công dân tự hỏi rằng sau 11 năm sống với vấn đề này rồi tại sao bây giờ chúng ta còn cần phải đương đầu với nó?


Có một lý do. Chúng ta đã cảm thấy cuộc kinh hoàng của ngày 11/9. Chúng ta đã thấy những kẻ thù ghét Hoa Kỳ đang muốn đâm nát những chiếc máy bay vào những cao ốc đầy những con người vô tội. Những tay kẻ thù của chúng ta cũng không phải là không muốn, nếu không muốn nói là nóng lòng muốn sử dụng một thứ khí giới vi trùng hay hóa học hoặc hạch nhân.


Biết được những thực trạng này, Hoa Kỳ không được khinh thường mối đe dọa đang qui tụ lại để tấn công chúng ta. Đối diện với chứng cớ nguy hiểm rõ ràng như thế, chúng ta không thể chờ đợi cho đến khi có được chứng cớ cuối cùng – một cái súng phun khói – một chứng cớ có thể hiện lên dưới dạng thức của một bãi nấm.
………
Hiểu được những mối đe dọa của thời đại chúng ta, biết được những mưu cơ và lừa đảo của chế độ Iraq, chúng ta có đủ mọi lý do để cho là cái nguy hại nhất và chúng ta có nhiệm vụ khẩn trương trong việc ngăn ngừa cái tai hại nhất này xẩy ra.


Một số người tin rằng chúng ta có thể nói lên mối nguy hiểm này bằng cách duy nhất là tái diễn lại chính sách thanh tra cũ, và áp dụng áp lực về ngoại giao và kinh tế. Tuy nhiên, đây là điều mà thế giới đã nỗ lực làm từ năm 1991.


Chương trình thanh tra của Liên Hiệp Quốc đã bị lừa đảo một cách có hệ thống. Chế độ Iraq đã đặt máy nghe lén trong các phòng ở khách sạn và văn phòng của các viên thanh tra để xem họ sẽ tới đâu. Chúng đã tạo tĩnh giấy tờ, hủy hoại chứng cớ và đã chế ra những cơ sở vũ khí di động để đi trước các thanh tra viên một bước.


Tám nơi được gọi là dinh thự tổng thống đã được tuyên bố là không thuộc giới hạn cho việc thanh tra được tự do đi lại. Những nơi này thực sự bao gồm một chu vi là 12 dặm vuông, với cả trăm cơ sở, cả trên lẫn dưới mặt đất, nơi có thể cất giấu những chất liệu khả nghi.
….
Sau 11 năm chúng ta đã thử ban hành qui chế giới hạn, đã thử thi hành những trừng phạt cấm vận, đã thực hiện những việc thanh tra vũ khí, thậm chí đã có những hành động quân sự đặc biệt, kết quả cuối cùng vẫn cho thấy là Saddam Hussein vẫn có những thứ vũ khí hóa học và vi trùng, hắn đang có khả năng làm hơn thế nữa. Hắn đang tiến đến chỗ sắp sửa chế tạo ra được cả vũ khí nguyên tử.


Rõ ràng là để làm việc cho có hiệu nghiệm, thì bất cứ những việc thanh tra kiểm soát nào, bất cứ biện pháp thanh trừng nào, hay bất cứ phương pháp ép buộc tuân hành nào đều phải hoàn toàn khác hẳn mới được. Hoa Kỳ muốn Liên Hiệp Quốc phải là một tổ chức hiệu nghiệm trong việc giúp bảo trì hòa bình. Đó là lý do tại sao chúng ta đang thôi thúc Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc chấp nhận một giải quyết mới với những đòi hỏi cứng rắn và cấp thời.


Trong số những đòi hỏi này, chế độ Iraq phải tiết lộ và hủy hoại trước sự giám sát của Liên Hiệp Quốc tất cả những thứ vũ khí công phá hàng loạt đang có trong tay. Để bảo đảm cho việc chúng ta nắm chắc được sự thật, chế độ này cần phải để cho các chứng nhân thấy các hoạt động bất hợp pháp của mình ấy được phỏng vấn cả từ bên ngoài nước nữa.


Những chứng nhân này phải được tự do mang theo gia đình của mình, để họ hoàn toàn không bị Saddam Hussein khủng bố và sát hại.


Những thanh tra viên phải được quyền đến bất cứ nơi nào, bất cứ lúc nào, mà không có chuyện thu xếp trước, không có chuyện bị trì hoãn, không có chuyện luật trừ.


Đã đến lúc chấm dứt chuyện phủ nhận, lừa đảo và trì hoãn rồi. Một là Saddam Hussein tự mình phải giải giới – hai là vì hòa bình chúng ta sẽ dẫn đầu một cuộc liên minh đến để giải giới hắn.
….
Đó là lý do tại sao Hoa Kỳ đang thách đố tất cả mọi quốc gia hãy nghiêm chỉnh chú trọng tới những giải quyết của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Những giải quyết này rất là rõ ràng. Ngoài việc tiết lộ và hủy hoại tất cả những thứ vũ khí công phá hàng loạt của mình, Iraq còn phải chấm dứt việc ủng hộ khủng bố. Nó phải chấm dứt việc bách hại thành phần thường dân của mình. Nó phải ngưng tất cả mọi thương vụ bất hợp pháp ngoài chương trình đổi dầu lấy thực phẩm. Và nó phải thả ra hay chịu trách nhiệm về tất cả nhân viên Trận Chiến Vùng Vịnh, trong đó có một phi công Hoa Kỳ cho đến nay vẫn chưa biết số phận ra sao.


Chấp nhận những việc làm này, và chỉ chấp nhận những việc làm ấy, chế độ Iraq mới có cơ tránh được cuộc xung đột mà thôi. Những việc làm này cũng thay đổi cả bản chất của chính chế độ Iraq. Hoa Kỳ hy vọng chế độ này sẽ chấp nhận thực hiện.


Tiếc thay, tối thiểu là cho tới nay, chúng ta chẳng có hy vọng là bao. Đó là lý do tại sao hai chính phủ của tôi cũng như của Tổng Thống Clinton đã nói rằng việc thay đổi chế độ ở Iraq là cách chắc chắn duy nhất để loại trừ mối nguy hiểm nhất đối với quốc gia của chúng ta.


Tôi hy vọng rằng điều này sẽ không cần đến hành động quân sự, nhưng nó vẫn có thể xẩy ra. Việc xung đột quân sự có thể là khó. Chế độ Iraq đối diện với cái chết của mình có thể sẽ nỗ lực dùng những biện pháp dã man và liều mạng. Nếu Saddam Hussein truyền thi hành những biện pháp như vậy, thì những tướng lãnh của hắn tốt nhất là không được tuân hành. Nếu họ không từ chối tuân hành, họ phải hiểu là tất cả mọi kẻ phạm tội hình chiến tranh đều sẽ bị điều tra và trừng phạt.
………
Có một số người lập luận rằng chúng ta cần phải chờ đợi – đó cũng là một giải pháp. Theo quan niệm của tôi thì đó là một giải pháp liều lĩnh nhất, vì chúng ta càng chờ thì Saddam Hussein sẽ càng trở nên mạnh mẽ hơn và lì lợm hơn. Chúng ta có thể chờ đợi và hy vọng rằng Saddam không tiếp khí giới cho các tay khủng bố, hay không chế tạo vũ khí nguyên tử để che mắt thế giới. Thế nhưng tôi tin rằng đó là một hy vọng phản ngược lại với tất cả mọi chứng cớ.


Là người Hoa Kỳ, chúng ta muốn có hòa bình – chúng ta hoạt động và hy sinh cho hòa bình – và sẽ không có hòa bình nếu tình trạng an ninh của chúng ta lại lệ thuộc vào ý muốn và những ý nghĩ vô loài của một tay độc tài dã man hung bạo. Tôi không muốn liều một mạng sống nào của người Hoa Kỳ để tin tưởng vào Saddam Hussein cả.
….
Một số người lo rằng việc thay đổi vai rò lãnh đạo ở Iraq có thể sẽ tạo nên tình trạng bất ổn và tệ hại hơn nữa. Vì an ninh thế giới cũng như vì dân chúng Iraq thì tình trạng này khó có thể trở nên tệ hơn được.


Đời sống của những người công dân Iraq sẽ được cải tiến khác hẳn nếu Saddam Hussein không còn nắm chính quyền nữa, giống như đời sống của những người công dân A Phú Hãn đã được cải tiến sau chế độ Taliban vậy.
NHà độc tài Iraq là đồ đệ của Stalin, sử dụng việc sát hại như dụng cụ khủng bố và kiểm soát nội các của mình, kiểm soát quân đội của mình, thậm chí kiểm soát cả gia đình của mình nữa.
………
Người Hoa Kỳ là bạn của dân chúng Iraq. Điều chúng ta đòi hỏi chỉ nhắm đến chế độ đang kềm kẹp họ và đe dọa chúng ta thôi. Một khi những đòi hỏi này được đáp ứng thỏa đáng thì thành phần được lợi đầu tiên và lớn lao nhất là những con người nam nữ và trẻ em Iraq. Cuộc đán áp những người Kurd, Assyria, Turkoman, Shi’a, Sunnis và những sắc tộc khác sẽ không còn nữa. Cuộc giam cầm lâu dài ở Iraq sẽ chấm dứt và một kỷ nguyên mới hy vọng sẽ bắt đầu.
…..
Cuối tuần này Quốc Hội Liên Hiệp Quốc sẽ bỏ phiếu cho vấn đề này. Tôi đã xin Quốc Hội hãy ban quyền sử dụng lực lượng quân sự của Hoa Kỳ, nếu thấy cần thiết, để bắt tuân hành những đòi hỏi của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Chấp nhận quyết định này không có nghĩa là hành động quân sự liền xẩy ra và không thể nào ránh được. Quyết định này sẽ nói cho Liên Hiệp Quốc cũng như cho tất cả mọi quốc gia biết rằng Hoa Kỳ đồng thanh lên tiếng và nhất quyết làm cho những đòi hỏi của thế giới văn minh có một ý nghĩa nào đó. Quốc Hội cũng sẽ cho nhà độc tài ở Iraq biết rằng hắn chỉ còn một con đường chọn lựa duy nhất đó là hoàn toàn tuân hành – và thời gian cho việc chọn lựa này có giới hạn thôi.


Các phần tử của Quốc Hội gần đến lúc thực hiện cuộc bỏ phiếu lịch sử này, tôi tin rằng họ sẽ hoàn toàn để ý tới những dữ kiện và phận vụ của họ.


Cuộc tấn công ngày 11/9 đã cho xứ sở của chúng ta thấy rằng những đại dương bao la cũng không thể bảo vệ chúng ta khỏi nguy hiểm được nữa. Trước ngày thảm thương này, chúng ta chỉ có những tín hiệu mập mờ cho thấy những ý đồ và hoạch định của tổ chức al Qaeda. Ngày nay, chúng ta thấy ở Iraq một mối đe dọa có những tính toán còn được phác họa rõ ràng hơn thế nữa, với những hậu quả còn gây ra chết chóc hơn nữa. Chúng ta cần phải chú ý tới những hành động của Saddam Hussein và chúng ta không được trốn tránh trách nhiệm của mình.
……….
Cám ơn quí vị và chúc ngủ ngon

Trước bài diễn văn của tổng thống Bush ngày 7/10/2002 trước cuộc bầu cử Quốc Hội bán phần một tháng


Dân chúng Hoa Kỳ, qua một cuộc hỏi ý kiến của viện Gallup từ ngày 3-6/10/2002 và được viện này phổ biến vào chính ngày Tổng Thống Bush đọc bài diễn văn, 7/10/2002, trong số 1502 người, một nửa đã cho biết một nửa thuận ý với dự án sử dụng võ lực ra tay tấn công Iraq trước của ngành hành pháp Hoa Kỳ hiện nay. Sau đây là kết quả:


Bộ binh của Hoa Kỳ xâm chiếm Iraq để lật đổ Saddam Hussein?

40% chống, 53% ưng; 7% trống;


Hoa Kỳ xâm chiếm Iraq với số người Mỹ bị thương vong:

100: ưng 51%, chống 42%; 1000: ưng 46%, chống 48%; 5000: ưng 33%, chống 60%


Thẩm quyền tối hậu để quyết định trong việc xâm chiếm Iraq?
Tổng Thống Bush: 40%; Quốc Hội: 54%; Không trả lời: 6%


Hoa Kỳ làm tất cả những gì có thể để giải quyết vấn đề Iraq bằng đường lối ngoại giao

Nên: 46%; Không cần: 49%; Trống: 5%


Thượng nghị sĩ John Edwards, D-North Corolina, cực lực phê bình đường lối của ngành hành pháp Bush đối với vấn đề dự án này là: “Chúng ta dường như muốn một mình hành động chỉ vì muốn hành động một mình, một đường lối dễ dàng đạt được những mục tiêu ngắn hạn của chúng ta, thế nhưng nó sẽ không bao giờ mang lại an ninh dài hạn cả”. Vị này nhận định là tổng thống Bush đang cho thấy “cái ngông cuồng vô định” thay vì như tổng thống nói “nhắm đích mà không ngông”.


Những thượng nghị sĩ Dân Chủ như Edward Kennedy, D-Massachusetts và Robert Burd, D-W.Virginia, đã cho biết ngành hành pháp của tổng thống Bush đã không chứng tỏ cho thấy rằng Iraq là mối nguy hiểm xẩy ra bất cứ lúc nào cho Hoa Kỳ cả. Ông Burd nói tổng thống Bush cần phải cho dân chúng Hoa Kỳ về “những gì thực sự Hiệp Chủng Quốc đang dự tính thực hiện. Chứ đừng chỉ nghe về Saddam Hussein mà thôi – chúng t6oi đã nghe về hắn đủ rồi – những gì chúng tôi cần nghe từ tổng thống là những câu trả lời cho các vấn nạn của chúng tôi về những gì ông dự định làm ở Iraq. Chúng tôi cần biết lý do tại sao tổng thống lại đòi Quốc Hội phải hành động ngay bây giờ”.


Nhiều viên chức quốc hội thuộc đảng Cộng Hòa tỏ ra sát cánh với tổng thống Bush, chẳng hạn thượng nghị sĩ Jon Kyl, R-Arizona, khi ông này cho rằng Hoa Kỳ “không thể chờ đợi cho đến khi chúng ta nắm chắc Iraq có một thứ vũ khí nguyên tử và sắp sửa sử dụng nó”.


Iraq phủ nhận việc họ có những thứ vũ khí công phá hàng loạt. Vị Lãnh sự của họ ở Liên Hiệp Quốc là ông Mohammed Aldouri đã cho biết hôm Chúa Nhật 6/10/2002 là quốc gia của ông có thể cho những nhân viên thanh tra đến khám xét vũ khí kể cả ở những khu vực của tổng thống ở nữa.


Cuốn Băng Hăm Dọa Khủng Bố Hoa Kỳ


Có một cuốn băng âm thanh đã được công bố hôm Thứ Ba, 8/10/2002, trong đó, người nói hăm dọa sẽ có những cuộc tấn công mới vào Hiệp Chủng Quốc, vào ngành kinh tế và đồng minh của Hiệp Chủng Quốc. Người này đã đề cập đến một số những biến cố hiện nay, bao gồm cả việc kỷ niệm một năm biến cố 11/9 và việc Hoa Kỳ có thể tấn công Iraq. Người phát ngôn còn cho biết cả bin Laden và nhà lãnh đạo Taliban là Mullah Omar “cả hai đều vẫn mạnh khỏe”. Sứ điệp của cuốn băng này đã được phổ biến hôm Chúa Nhật 6/10/2002, với tiếng nói là al Qaeda đang sửa soạn những cuộc tấn công vào những mục tiêu kinh tế của Hiệp Chủng Quốc: “Tôi hứa cùng các người là giới rẻ Hồi Giáo đang sửa soạn cho các người những gì sẽ làm cho lòng các người đầy khiếp hãi, và họ sẽ nhắm đến những trung tâm kinh tế của các người cho đến khi các người ngưng lộng hành bạo ngược và khủng bố, cho đến khi một trong hai trong chúng ta phải chết… Hoa Kỳ và các các đồng minh của nước này phải biết rằng những tội ác của họ sẽ không thoát khỏi bị trừng phạt đâu. Chúng tôi khuyên họ hãy mau mau rút khỏi Palestine, Vùng Vịnh Ả Rập, A Phú Hãn và những nước Ả Rập còn lại trước khi họ mất hết tất cả… (Hoa Kỳ) sẽ phải trả giá. Việc thanh toán món nợ quá khổng lồ này thực sự là nặng đấy. Chúng tôi cũng sẽ tiếp tục, nếu Allah cho phép, hủy hoại nền kinh tế Hoa Kỳ”. Sứ điệp của cuốn băng âm thanh này còn cho biết mưu đồ của Hoa Kỳ ở A Phú Hãn “chưa đạt được mục đích của mình”, và việc Hoa Kỳ vận động chống Iraq sẽ là một cuộc tấn công cả thế giới Ả Rập. Giọng nói của cuốn băng này, theo một viên chức Hoa Kỳ, là của Ayman al-Zawahin, tay khủng bố đệ nhị sau Osama bin Laden, và cuốn băng mới thu không quá 6 tháng, tức mới vào Tháng Bảy vừa rồi.


Diễn Tiến Về Dự Án Tấn Công Iraq sau Cuộc Họp Ở Vienna

Năm quốc gia có quyền veto trong Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc vẫn chia rẽ nhau. Nga, Tầu và Pháp vẫn không đồng ý với Hiệp Chủng Quốc và Hiệp Vương Quốc về giải pháp cứng tay với Iraq của Hoa Kỳ. Trong khi Hiệp Chủng Quốc và Hiệp Vương Quốc nhất định muốn Liên Hiệp Quốc phải chấp thuận giải quyết mới do họ phác họa bắt ép Iraq phải cho thanh tra tất cả mọi nơi trong nước không trừ chỗ nào, thì ba nước còn lại vẫn cứ muốn thực hiện dự án hai giai đoạn của Pháp là cứ thanh tra đã rồi nếu cần mới tiến đến biện pháp quân sự sau.

Hôm Thứ Năm 3/10/2002, vị Đại Diện Bộ Ngoại Giao Nga là Alezander Saltanov đã tuyên bố là “chúng tôi không chấp nhận những nỗ lực làm cho Liên Hiệp Quốc ra tay tự động sử dụng võ lực tấn công Iraq… Những gì mà người Đại Anh và Hoa Kỳ đã trình bày cho chúng tôi thấy chỉ làm cho chúng tôi thêm cương quyết hơn trong việc theo đúng quan điểm của mình, đó là cần phải tái tấu việc kiểm soát hay thanh tra chế độ ở Iraq, và cần phải có một giải quyết chính trị mà không cần đến việc tự động sử dụng võ lực”.

Trong khi đó, trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ đầu tháng 10 của ông Mikhail Margelov, trưởng ủy ban quốc tế vụ thuộc Hội Đồng Liên Bang Nga, hình như đã cho các nghị viên quốc hội Hoa Kỳ biết lý do sâu xa của Nga trong việc Nga cương quyết chống đường lối của Hoa Kỳ về việc tự động dùng võ lực tấn công Iraq khi ông bày tỏ như sau: “Chúng tôi có những lợi lộc nơi mỏ dầu hỏa của nền kinh tế Iraq. Khi nói những lợi lộc đây tôi không có ý nói đến việc chỉ tôn trọng những hợp đồng đang hiện hành, mà còn nói đến một cơ hội cộng tác bình đẳng và hiệu quả giữa các công ty dầu hỏa quốc tế với các công ty dầu hỏa của Nga trong tương lai, nhất là trong việc cho các công ty này có quyền khai thác mỏ dầu hỏa Iraq”. Ông nói thêm, mỏ dầu hỏa của Iraq không phải chỉ được chia chác bởi một hay hai quốc gia mà “cuộc tranh đua phải được mở ra cho hết mọi người”. Ông này còn cho biết việc giải quyết nước Iraq đối với Nga có liên quan đến bốn vấn đề: thứ nhất là món nợ của Iraq đối với Nga (từ 7 đến 12 tỉ), thứ hai là dầu hỏa, thứ ba là mối đe dọa về một cuộc xung đột bùng nổ giữa người Arab và Kurdish, và thứ tư là những nhóm Hồi Giáo cực đoan sẽ lên nắm quyền sau Saddam Hussein.

Trước khi ông Saltanov tuyên bố chủ trương của Nga như rên, tổng thống Pháp Jacques Chirac và thủ tướng Đức Gerhard Schroeder cũng đã tái xác nhận hôm Thứ Tư 2/10/2002 về việc họ chống lại sách lược sử dụng quân sự can thiệp vào vụ Iraq. Hai vị lãnh tụ này đã họp nhau ở Paris và đã tuyên bố như vậy qua vị thủ tưởng Đức mới tái cử như sau: “Chúng tôi đã xác định chủ trương của chúng tôi trước cuộc bầu cử thế nào thì sau cuộc bầu cử cũng không có gì thay đổi cả”. Cuộc chia rẽ này chẳng những đã thấy xẩy ra trước cuộc họp ở Vienna mà còn tiếp tục kéo dài sau cả cuộc họp này nữa. Tổng thống Pháp xác nhận rằng Pháp, cũng như Nga, Hiệp Vương Quốc và Hiệp Chủng Quốc, là một thành viên có quyền veto trong Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, sẽ phủ quyết bất cứ một giải pháp nào được coi như mở đường cho Hoa Kỳ hành động quân sự không được Liên Hiệp Quốc chuẩn ưng: “Chúng tôi hoàn toàn chống lại bất cứ giải quyết nào cho phép từ lúc này có tính cách tự động can thiệp bằng quân sự”.

Tổng thống Bush hôm Thứ Tư 2/10/2002 tuyên bố là cuộc chiến với Baghdad có thể “không thể nào tránh khỏi” nếu Saddam Hussein không giải giới. Thủ Tướng Hiệp Vương Quốc Tony Blair hôm Thứ Năm 3/10/2002 đã kêu gọi cộng đồng quốc tế hãy đoàn kết chứ đừng tỏ ra những “dấu hiệu lộn xộn” nữa. Ông dám nói rằng nếu việc ngoại giao không thành công thì sẽ phải dùng võ lực để giải giới Saddam Hussein: “Nếu vấn đề này không xẩy ra một cách ngon lành thì nó phải được xẩy ra bằng võ lực… hắn không thể nào thoát được vấn đề giải giới đâu… Thế giới cần phải làm cách nào để có thể trọn vẹn, không bị trói buộc, không bị mập mờ trong việc thực hiện những dự định hủy hoại các loại vũ khí có sức tàn phá hàng loạt của Iraq. Chúng tôi cần có một giải quyết mạnh mẽ, mới mẻ của Liên Hiệp Quốc cũng như cần thảo luận về những gì ở vào giai đoạn quan trọng đây và chúng tôi tiếp tục làm việc này. Cách thức chúng tôi đòi hỏi đây phải bao gồm cả những dinh thự của tổng thống. Chẳng có lợi tí nào cả khi để cho các thanh tra viên được đến 99% địa điểm ở Iraq trong khi các thứ vũ khí phá hoại hàng loạt thực sự lại được cất giấu… ở 1% còn lại”.

Trong khi những thanh tra viên vũ khí đã giành ngày 19/10 là ngày trở lại Iraq sau 4 năm vắng bóng, thì trưởng ban thanh tra là ông Blix đã nói với Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc rằng “Thật là không khéo tí nào nếu chúng ta thực hiện những việc thanh tra, rồi lại ra chỉ thị mới với những điều chỉ dẫn mới mẻ đổi thay”.

Tình trạng chia rẽ này cũng xẩy ra nơi 15 quốc gia thành viên có chân trong Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc nữa. Syria, Mexico và Mauritius cho rằng các vị thanh tra viên vũ khí có thể bắt đầu việc của họ bây giờ theo những giải quyết đang có, những giải quyết đó là Iraq phải công bố hoạt động của họ về những thứ vũ khí hạch nhân, hóa học và sinh học trong vòng 30 ngày, và nếu Iraq không tuân theo Hoa Kỳ được quyền sử dụng “tất cả mọi phương tiện có thể” đối với Iraq. Đức lên tiếng chống lại việc sử dụng hành động quân sự.

Tổng thống Bush cảnh giác Liên Hiệp Quốc rằng LHQ được quyền “chọn lựa… để chứng tỏ mình giải quyết vấn đề” và “vấn đề chọn lựa cũng tùy vào việc Saddam Hussein giữ lời hắn nói… Nếu không có ai trong họ tỏ thái độ gì thì Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ sẽ tự ý lãnh đạo một nhóm liên minh đi tước đoạt những thứ khí giới tai họa nhất thế giới khỏi một tay lãnh đạo đồi bại nhất thế giới”.

 

Tòa Thánh đặt 3 Câu Hỏi với Hoa Kỳ về Dự Án Tấn Công Iraq


Bản tin Zenit ngày 3/10/2002 cho hay ĐHY Roberto Tucci, chủ tịch Hội Đồng Quản Trị Đài Phát Thanh Vatican, vị đã đi khắp thế giới trong 23 năm qua với tư cách là người tổ chức các cuộc tông du cho ĐTC, đã kêu gọi các nhà lãnh thế giới chỉ chú trọng đến giải quyết quân sự mà không cần đến sự can thiệp của Liên Hiệp Quốc hãy suy nghĩ đến những ngầm ý nơi hành động như vậy. Sau đây là ba câu hỏi của ngài:


“Những thẩm quyền phải đi đến chỗ quyết định 3 điều đã thẩm lượng những hậu quả sẽ gây ra cho thành phần dân sự Iraq hay chưa?


“Họ đã suy nghĩ đến sự kiện là nếu làm như vậy họ đang làm triệt tiêu thẩm quyền quốc tế của Liên Hiệp Quốc, một thẩm quyền duy nhất ở một nghĩa nào đó có thể giúp vào việc đạt được hòa bình phi chiến hay chưa?


ĐHY xin các nhà lãnh đạo quốc tế “suy nghĩ cẩn thận về sự kiện là một số chủ trương của Hoa Kỳ hiện đang chiếm ưu thế sẽ đưa đến hậu quả là làm cho thế giới Ả Rập tái hợp lại với nhau, bao gồm cả Hồi Giáo, khiến mãi mãi sẽ kéo dài tình trạng lan tràn việc khủng bố tấn công cũng như việc đối chọi với khủng bố.


“Chúng ta phải cầu nguyện. Hãy cầu nguyện để con người biết suy nghĩ. Lý trí có vẻ xa lạ nhưng đức tin thường tăng thêm sức mạnh cho lý trí”.

 

Kết quả cuộc họp ở Vienna Áo Quốc: Ban thanh tra vũ khí của Liên Hiệp Quốc được trở lại Iraq

Sau hai ngày gặp gỡ giữa vị trưởng ban thanh tra và các giới chức Iraq, kết quả là Iraq đã đồng ý để ban thanh tra vũ khí của Liên Hiệp Quốc trở lại khám xét vũ khí ở Iraq ở tất cả những nơi ban này muốn tới, trừ dinh tổng thống, và ban thanh tra dự định sẽ thực hiện điều này trong hai tuần nữa, vào khoảng giữa tháng 10/2002. Vị trưởng ban thanh tra tuyên bố kết quả trên đây hôm Thứ Ba 1/10/2002, đồng thời cũng cho biết 8 khu vực thuộc vị trí của tổng thống Saddam Hussein này cần phải được trình lên Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc.

Tướng Powell, bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ nói rằng Hoa Kỳ không muốn những thanh tra viên vũ khí trở lại Iraq trước khi Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc thông qua bản nghị quyết mới nêu lên những “hậu quả” xẩy ra nếu Iraq ngăn trở những nỗ lực của họ. Theo vị bộ trưởng ngoại giao này thì Iraq sẽ tiếp tục đánh lừa các thanh tra viên nếu không có một bản nghị quyết mới đề cập tới vấn đề đe dọa bằng võ lực. Ông nói, Hoa Kỳ đang chờ vị trưởng ban thanh tra này trình bày với Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc vào Thứ Năm 4/10/2002. Một viên chức cao cấp của bộ Nội Vụ cho biết Hoa Kỳ sẽ ngăn cản việc ban thanh tra trở lại Iraq trước khi có bản nghị quyết mới. Còn tổng thống Bush tuyên bố sẽ tự mình tiến đến chỗ đẩ đẩy Saddam đi nếu Liên Hiệp Quốc không chịu ra tay hành động.

Iraq cho biết sẽ không chấp nhận những giải quyết mới của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Cuộc họp của Bộ Nội Các Iraq hôm Thứ Ba 1/10/2002 đã đặt vấn đề về việc cần phải có giải quyết mới này. Lời tuyên bố sau cuộc họp này là: “Chúng ta nói một cách tỏ tường cùng những kẻ xấu… là nếu họ tưởng rằng tiếng trống trận họ đang đánh lên… có thể đẩy Iraq đến chỗ chấp nhượng các quyền lợi của quốc gia mình, cũng như những gì đã được bảo toàn bởi hiến chương Liên Hiệp Quốc và bởi những quyết định của Hội Đồng Bảo An hiện hành, thì họ đã nhầm rồi. Nếu họ nghĩ rằng việc gây áp lực xấu xa của họ ép Iraq chấp nhận những gì bất khả chấp, kể cả điều giải quyết mới, được nêu lên bởi áp lực của Hiệp Chủng Quốc và Hiệp Vương Quốc… thì họ lại càng nhầm to”. Nga hoan hô thành quả của cuộc họp ở Vienna. Ông Tariq Aziz, Đại Diện Thủ Tướng, đã cho biết: “Những người Hoa Kỳ đang đẩy mạnh quyết định mới có tính cách hiếu chiến là những gì cho thấy những ý đồ thực sự của họ. Tôi luôn nói rằng vấn đề Hiệp Chủng Quốc và Hiệp Vương Quốc nêu lên các loại vũ khí có sức tàn phá hàng loạt chỉ là cái bình phong … để có thể biện minh cho cuộc tấn công bất chính của họ vào Iraq mà thôi. Nếu họ thực sự quan tâm thì họ phải tỏ ra hoan hỉ khi thấy Iraq và ông Blix đã tiến tới chỗ đồng ý tái thực hiện việc thanh tra mới phải chứ”.

 

Hàng Lãnh Đạo Kitô Giáo Canada lên tiếng chống chiến tranh đánh Iraq


Hàng lãnh đạo Kitô Giáo Canada trong Hội Đồng Các Giáo Hội Canada đã gửi Thủ Tướng Jean Chrétien một bức thư, trong đó có những vị ký tên là ĐGM Jacques Berthelet, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Canada, ĐGM Seraphim ở Ottawa và Canada thuộc Giáo Hội Chính Thống Mỹ Châu, và Tổng Phó Tế Jim Boyles, tổng thư ký của Giáo Hội Anh Giáo Canada. Sau đây là nguyên văn bức thư:


Chớ Có Đánh Iraq


Ngày 25/9/2002
Trọng Kính Gửi Ông Jean Chrétien,
Thủ Tướng Canada
House of Commons
Ottawa, Canada

Thủ Tướng Chrétien thân mến:

Trong những tháng vừa rồi cũng như trong những tuần qua, đã có một cuộc chấn động mạnh mẽ nổi lên thiên về một cuộc xâm chiếm mới vào nước Iraq. Áp lực tiến đến chỗ sử dụng chiến tranh này đã tiếp tục dồn nén, bất chấp nỗ lực của nhiều người, kể cả của thủ tướng. Những tiếng trống trận nổi lên át cả luật pháp và lòng nhân ái, và dân chúng có khuynh hướng cho rằng một Cuộc Chiến Vùng Vịnh nữa sẽ xẩy ra không thể nào tránh được.

Với tư cách là những người lãnh đạo của nhiều cộng đồng Kitô hữu ở Canada, chúng tôi viết bức thư này để la lên rằng CHỚ có đi đến một cuộc chiến tranh như vậy. Đây là thời gian càng phải thực hiện việc ngoại giao hơn nữa và thực hiện những cuộc trực diện điều đình với nhau, chứ không phải là thời gian của phi đạn và bom thả. Đây thực sự là thời gian cần có nhiều quốc gia dự phần, ở chỗ, thế giới cần đến sự khôn ngoan từ hết mọi phần đất, nếu chúng ta muốn nắm vững những thành quả trọn vẹn nơi những chọn lựa đang gây thách đố cho chúng ta đây. Phải, thế giới đang phải đối diện với một tình hình nguy hiểm, ở Iraq cũng như ở toàn vùng Trung Đông. Thế nhưng, những đường lối xây dựng hòa bình phi quân sự để giải quyết những vấn đề trầm trọng này vẫn là những gì có thể nghĩ ra cũng như những gì có thể thực hiện, những gì chắc chắn đáng theo hơn là đường lối chiến tranh.

Thưa Thủ Tướng, Ngài đã có lý khi nhấn mạnh rằng chứng cớ về việc Iraq có những khí giới sinh học, hóa học hay hạch nhân và chứng cớ về việc họ có ý định sử dụng những loại khí giới này cần phải được sáng tỏ đã trước khi Liên Hiệp Quốc khôn ngoan nhúng tay vào can thiệp. Trong trường hợp có những quan tâm kỹ lưỡng nhưng cũng không chắc chắn về những sự kiện xẩy ra thì việc quốc tế thanh tra tình hình vũ khí ở Iraq là việc can thiệp thích hợp cần phải thực hiện. Việc giải quyết của Liên Hiệp Quốc trong việc liệt kê những phương tiện, thời gian hạn định và hậu quả xẩy ra nếu không chịu chấp nhận giải quyết này, cũng là việc hữu ích, miễn là nó không nêu lên những gì quá cao khiến cho Iraq thực sự không thể đáp ứng nổi những đòi hỏi của nó. Nếu thực sự lại xẩy ra như vậy thì việc giải quyết của Liên Hiệp Quốc chỉ là một cái gì che đậy chẳng những cho một cuộc xâm chiếm của nhiều nước mà còn cho một cuộc xâm chiếm bất chính nữa.

Chính quyền Iraq đã chính thức mời ban thanh tra vũ khí của Liên Hiệp Quốc trở lại. Có những người cho biết rằng việc mời mọc này là một thứ cò mòi vô nghĩa, và “chúng ta không cần nói đến chuyện điều đình với Saddam Hussein mà làm gì”. Chúng tôi không hiểu nổi làm sao một cuộc đại tai biến như thế có thể tránh được nếu con người không thực sự điều đình với nhau. Hơn nữa, những cuộc điều đình không thể nào mở trí mở lòng và mở ra những cơ hội được, nếu trước đó hoàn vũ này đã chia ra làm hai phe, phe lành và phe dữ, mà phe của “chúng ta” bao giờ cũng là phe lành. Một đường lối như vậy, ngoài việc đi ngược lại với cảm quan Kitô giáo về tội lỗi và ân sủng, còn bộc lộ cho thấy một cái gì kiêu kỳ chỉ đào sâu thêm hố giận dữ và hận thù. Chúng tôi tha thiết xin Chính Quyền Canada hãy nói chuyện với những phe liên hệ, và chú trọng tới việc đối xử với tất cả mọi người như đồng loại theo phẩm vị con người và các quyền lợi con người.

Một Cuộc Chiến Tranh Vùng Vịnh khác xẩy ra bây giờ là một điều sai lầm, trước hết, là vì dân chúng Iraq, những con người đã phải chịu quá nhiều cay cực rồi, lại phải chịu đựng cuộc chiến tranh này. Những người bạn Kitô hữu của chúng tôi ở vùng đó đã tha thiết xin chúng tôi hãy chỉ cho xã hội của chúng tôi thấy được tình trạng tan nát ra sao, gây ra bởi những biện pháp trừng phạt của quốc tế, cho vấn đề sức khỏe, giáo dục, đời sống và niềm hy vọng của hầu hết những con người nam nữ, (nhất là) trẻ em. Mới đây, cũng những người anh em Kitô hữu này cũng đã van xin chúng tôi hãy lên tiếng và tỏ thái độ chống lại một cuộc chiến tranh khác đây.

“Khi một chi thể bị đau đớn thì toàn thân cũng cảm thấy đớn đau”. Câu tâm niệm này là ngôn ngữ của Thánh Kinh, thế nhưng, ở một khía cạnh khác, nó cũng là một cảm nghiệm nhân bản nữa. Chúng ta ở Tây Phương sẽ bị phán xử, bởi những thế hệ mai hậu cũng như bởi Đấng Hóa Công của tất cả mọi người, về những thiệt hại chúng ta đang muốn nhân danh an ninh để gây ra. Cuộc trừng phạt 11 năm qua là trường hợp điển hình. Những trừng phạt này thực sự không làm suy giảm bàn tay đàn áp của chế độ Saddam Hussein. Với tác dụng trên đời sống dân sự, những việc trừng phạt này đã làm tổn thương không đúng người, tức đã làm tổn thương đến những người Iraq thường dân và vô tội. Cộng đồng thế giới đã trì trệ quá lâu trong việc hoạt động để chống lại việc thiệt hại nhân danh mình gây ra này.

Phải, sự đau khổ của những người Iraq còn nằm ở dưới cả chân của Tổng Thống Saddam Hussein và chính quyền của ông nữa. Trước khi xẩy ra những trừng phạt quốc tế thì chính sách hiếu chiến và tàn bạo của chế độ này đã làm đổ máu của dân chúng Iraq lâu rồi. Chắc chắn một điều là nhiều người Iraq đang mong mỏi và nguyện cầu cho một “cuộc đổi thay chế độ”. Thế nhưng điều đáng chú ý hơn nữa là sức mạnh của những tiếng nói phát ra từ xứ sở đó và ở miền đó lại thôi thúc chúng ta đừng mang lại một chế độ mới bằng một cuộc xâm chiếm tàn bạo từ bên ngoài.

Chúng tôi tha thiết xin Chính Quyền Canada đừng mất tin tưởng là có thể thực hiện được đường lối xây dựng hòa bình đối với vấn đề Iraq, một đường lối hợp với luật lệ quốc tế và lấy công ích của nhân dân Iraq làm ưu tiên, một đường lối có thể mang lại hoa trái, cũng như có thể thắng vượt được khuynh hướng chỉ tin tưởng vào giải pháp chiến tranh trong những cuộc điều đình quốc tế.

Cần phải thúc đẩy tất cả mọi quốc gia đi theo một đường lối như vậy đối với việc tuân theo luật lệ quốc tế và những giải quyết của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Iraq không phải là quốc gia duy nhất vi phạm đến những điều này. Cũng cần phải nhắm đến việc làm triệt tiêu toàn vùng đó những loại vũ khí có sức tiêu diệt hàng loạt. Cần phải thực hiện việc kiểm soát việc giải giới toàn bộ này nữa, để ngăn chặn làn sóng vũ khí tràn sang các nước lân bang. Phải tái cứu xét xem có cách thức mới mẻ nào về những trách nhiệm phải đền trả áp đặt trên Iraq sau Cuộc Chiến Vùng Vịnh, và để ý tới món nợ của Iraq. Xã hội Iraq cần phải có một niềm hy vọng về kinh tế, bằng không, những người Iraq sẽ không bao giờ có thể lấy lại nghị lực cần thiết để xây dựng lại xứ sở của mình cả, kể cả việc thay đổi chính quyền của họ nữa. Thế giới không được tái diễn lại những lỗi lầm của việc giải quyết đã áp đặt trên Đức Quốc sau Thế Chiến Thứ I.

Hiển nhiên vấn đề hòa bình ở Iraq cũng như ở vùng Trung Đông khách quan mà nói là một mục tiêu khó mà đạt được. Nhiều người đã có khuynh hướng đầu hàng trước thất vọng; thế nhưng, cũng có nhiều người nhất định đóng vai trò là những kẻ xây dựng hòa bình. Đó là những người xây dựng hòa bình, thành phần đặc biệt được gọi là con cái của Thiên Chúa. Thế giới được tạo dựng nên để sống hòa bình, chứ không phải để đánh nhau. Đây là niềm xác tín của đức tin. Để sống bằng niềm tin này – để hành động về phương diện chính trị căn cứ theo chân lý của niềm tin này – sẽ trổ sinh muôn vàn hoa trái.

Bài Thánh Vịnh (72) mà Canada đã lấy làm tâm niệm cho quốc gia mình (A mari usque ad mare) nhìn nhận thực tại đối chọi và xung khắc trong một thế giới mà “kẻ yếu và kẻ nghèo” cần phải được giải thoát “khỏi áp bức và bạo lực”. Bài Thánh Vịnh kêu gọi một vị lãnh đạo mang lại hòa bình mà trong triều đại của ngài, công lý sẽ nở hoa và hòa bình kéo dài cho đến khi mặt trăng không còn nữa…

Thưa ông Chrétien, chớ gì ông và các quí vị cộng tác với ông làm trổ sinh hoa trái nơi công cuộc xây dựng hòa bình cao quí và nếm hưởng được những phúc ân giành cho những ai xây dựng hòa bình.

 

28/9 Thứ Bảy

 

Biểu Tình Chống Dự Án Quân Sự Tấn Công Iraq

Đoàn biểu tình ở London, thủ đô của Hiệp Vương Quốc (UK: United Kingdom hay Great Britain) được cảnh sát cho CNN biết khoảng 150 ngàn người, nhưng ban tổ chức cho biết gấp hai như vậy nữa, một con số biểu tình chống chiến tranh chưa từng có trong lịch sử Âu Châu. Tổ chức cuộc biểu tình này là Liên Minh Chặn Đứng Chiến Tranh và Hiệp Hội Hồi Giáo Hiệp Vương Quốc. Trong đoàn biểu tình này có cả thị trưởng London là ông Ken Livingstone và được ông trưởng ban thanh tra vũ khí trước đây là Scott Ritter ngỏ lời. Còn ở Rôma, ban tổ chức cho biết con số lên đến 100 ngàn người, do đảng Tái Lập Cộng Sản cực tả tổ chức.

 

Sáng Thứ Bảy 28/9/2002, đoàn biểu tình ở London tập trung tại Embankment, gần Sông Thames, để diễn hành qua thành phố Westminster tới Công Viên Hyde. Những tấm bảng có những hàng chữ “Đừng tấn công Iraq” hay “Đừng nhân danh tôi”. Em gái Irial Eno 12 tuổi mang tấm bảng đề là “Khoan đã Bush. Iraq không phải là kẻ thù của chúng ta”, và đã nói với Associated Press rằng: “Iraq đã gặp quá nhiều trục trặc rồi. Tôi không nghĩ rằng ông Bush lại phải dội bom họ. Rất nhiều người sẽ chết chỉ vì một con người duy nhất”. Ông Ritter là trưởng ban thanh ra vũ khí trước đây cho CNN biết rằng: “Không có lý do gì – ngoài sự suy diễn – cho rằng Iraq là một mối đe dọa”. Phát ngôn viên của ban tổ chức cuộc biểu tình này là ông Andrew Burgin cho CNN biết rằng: “Cuộc thăm dò ý kiến cho thấy rằng từ 65 đến 70% dân chúng hiện đang chống đối việc tấn công Iraq. Dân chúng không thấy lý do nào để tấn công Iraq cả, nó như một ngọn sóng đang dâng cao. Người lãnh đạo của một quốc gia sẽ bất khôn khi đem xứ sở của mình đi đánh nhau ngược lại với ý muốn của dân chúng của mình”. Bà Mo Mowlam, nguyên thủ tướng Hiệp Vương Quốc trước đương kim Tony Blair rất ủng hộ cuộc biểu tình này, và sứ điệp bà gửi đã được đọc trước đoàn biểu tình: “Hãy tiến lên. Cứ tiếp tục tranh đấu. Nó là một vấn đề quan trọng đối với tương lai xứ sở của chúng ta, đến niềm tự trọng của chúng ta cũng như đến nền quân chủ của chúng ta”.

Ở Rôma, trưởng ban tổ chức của đoàn biểu tình là ông Fausto Bertinotti đã nói với hãng thông tấn Reuters rằng: “Bush bị cô lập, nhưng buồn thay cái cô lập này lại có thể dẫn tới một cuộc chiến tranh. Chiến tranh sẽ đẩy thế giới vào tình trạng hỗn loạn”. Tuần vừa rồi thủ tướng Ý kêu gọi quốc hội của ông ủng hộ dự án của tổng thống Bush. Nhưng cuộc thăm dò ý kiến cho thấy 70% dân chúng chống lại tư tưởng tấn công Iraq.

 

27/9 Thứ Sáu


ĐHY McCarrick nhận định về dự định tấn công Iraq của chính phủ Bush


ĐHY TGM Washington đã nói với đài truyền thanh WTOP là: “Hiện nay chúng tôi nghĩ rằng chỉ được phép thực hiện chiến tranh tự vệ ở một số trường hợp mà thôi. Vào trường hợp của Iraq, tôi nghĩ rằng nếu tổng thống thực sự có tín liệu cho thấy chúng ta đang thực sự bị Iraq gây nguy hiểm đến nơi, thì bấy giờ mới là trường hợp quí vị cần phải quan tâm. Tôi không nghĩ rằng các vị giám mục cảm thấy trường hợp này đã xẩy ra. Đó là lý do tại sao chúng tôi xin hãy từ từ đã, hãy cố thấy được tường tận tình hình ra sao trước khi chúng ta ra tay làm một điều gì mà chúng ta phải nói rằng nó không hợp với luân lý”. ĐHY còn nói, ngay cả khi xẩy ra chiến tranh tự vệ, quốc gia cũng phải theo những qui luật về sự tương hợp của phương tiện cũng như về việc tránh gây thương tổn cho dân sự. ĐHY còn thêm là việc ra tay tấn công trước rất là khó biện minh, nếu không biết rõ về những thứ khí giới sinh học. “Tôi nghĩ rằng những gì các vị giám mục hy vọng đó là khi tổng thống và Quốc Hội nói đến vấn đề này, thì chúng ta có cơ hội để cân nhắc theo những giá trị về luân lý, những giá trị họ cũng sẽ chú ý đến nữa”.


Tình Hình Giải Quyết Vấn Đề Iraq


Tổng Thống Bush đã gọi điện thoại cho Tổng Thống Pháp Jacques Chirac để kêu gọi ủng hộ việc chính phủ của ông thúc đẩy Liên Hiệp Quốc giải quyết nạn Iraq bằng hành động quân sự. Thư ký văn phòng báo chí của Tòa Bạch Ốc là Ari Fleischer cho biết tổng thống rất hài lòng về cú điện thoại này, song không cho biết kết quả ra sao. Tuy nhiên, bà Catherine Colonna, phát ngôn viên của Tổng Thống Chirac nói rằng nhà lãnh đạo Pháp đã nói với tổng thống Hoa Kỳ rằng ông vẫn thích con đường hai lối bước: bước thứ nhất là giải pháp trở về với việc thanh tra vũ khí, và giải pháp thứ hai sẽ được phác họa chỉ khi nào Baghdad không chấp nhận việc thanh tra này. “Tổng thống của chúng tôi đã tái xác nhân chủ trương của Pháp với tổng thống Bush là cấn phải giải giới Iraq nhưng phải được thực hiện trong phạm vị của Liên Hiệp Quốc. Tổng Thống Bush đang cố gắng thuyết phục ba nước trong Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc có quyền veto là Pháp, Trung Hoa và Nga để đưa đến giải pháp dùng hành động quân sự tấn công Iraq nếu Iraq không chịu để cho Liên Hiệp Quốc thanh tra vũ khí của họ.


Tổng Thống Saddam Hussein đã đồng ý cho những thanh tra viên của Liên Hiệp Quốc trở lại Iraq vô điều kiện sau gần 4 năm vắng bóng. Trong khi đó, trong một buổi phát hình toàn quốc ở Iraq qua đài Al-Shabab hôm Thứ Năm 26/9/2002, con trai của Tổng Thống Saddam là Uday đã tuyên bố rằng Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ tìm cách đẩy lui chính quyền của cha mình là cố ý chiếm lấy những mỏ dầu lớn của nước Iraq: “Đừng tưởng rằng những người Hoa Kỳ sẽ để quí vị yên đâu nhé, vì quí vị đang ngồi rên một mỏ dầu lớn nhất thế giới”. Iraq cho thấy mình có một mỏ dầu với dung tích chừng 113 tỉ thùng dầu, chỉ thua Saudi Arabia, và có thể có 220 tỉ thùng dầu.


Một nhà ngoại giao của Liên Hiệp Quốc cho biết đã được thấy bản thảo chung của Hiệp Chủng Quốc (US) và Hiệp Vương Quốc (UK), một bản thảo là kết quả của những tuần bàn thảo giữa các viên chức của hai nước này. Sau đây là những điểm chính trong bản thảo đó: Cho phép Saddam Hussein 7 ngày để chấp nhận những điều kiện theo giải pháp mới của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc; Iraq đã “thực sự phạm lỗi” về những hứa quyết trước đây với Liên Hiệp Quốc; Iraq phải để cho các thanh tra viên về vũ khí xem xét tất cả mọi nơi, kể cả dinh tổng thống, xem có các loại vũ khí bị cấm hay chăng; cộng đồng thế giới có thể sử dụng “tất cả mọi phương tiện cần thiết” nếu Iraq không tuân hành; Baghdad có 30 ngày từ khi nhận được bản quyết nghị để “công bố đầy đủ, hết mọi và hoàn toàn” tất cả mọi thứ vũ khí sinh học, hóa học và phóng tỏa; nếu Iraq “khai man trá” hay “giấu diếm” sẽ vi phạm một lần nữa.

 

Thứ Năm 26/9

Những lý lẽ chính đáng của chính phủ Bush để có thể tấn công Iraq.

Hôm Thứ Tư 25/9/2002, cố vấn an ninh quốc gia là bà Condoleezza Rice đã tiết lộ trong cuộc phỏng vấn với PBS rằng chính phủ Hoa Kỳ đã biết rõ “trong quá khứ đã từng có những liên hệ giữa các viên chức kỳ cực của Iraq và các phần tử của nhóm Al Qaeda qua một thời gian rất lâu. Chúng tôi biết rằng có một số những người bị giam giữ, nhất là một số cao cấp bị giam giữ, đã nói rằng Iraq đã thực hiện một số cuộc huấn luyện cho Al Qaeda về việc chế tạo các loại vũ khí hóa học. Đúng, thế là đã có những liên hệ giữa Iraq và Al Qaeda. Chúng tôi biết rằng Saddam Hussein nói chúng đã có một lịch sử dài với vấn đề khủng bố. Và có một số nhân viên Al Qaeda đã đến ẩn nấp ở Baghdad. Rõ ràng là có những liên hệ giữa Al Qaeda và Iraq có thể được ghi nhận”. Tuy nhiên, bà cũng nhận rằng: “không ai đang cố gắng tranh luận về vấn đề Saddam Hussein đã điều hành một cách nào đó những gì xẩy ra vào Ngày 11/9… Đây là chuyện chưa rõ ràng và đang sáng tỏ, chúng tôi đang tìm hiểu thêm…Khi nào bức ảnh rõ nét chúng tôi sẽ tiết lộ tất cả sự thật”.

Vì đang kiếm đủ lý do chính đáng để có thể danh chính ngôn thuận tấn công Iraq trước mặt thế giới, chính phủ Bush cố điều tra xem giữa Đảng khủng bố Al Qaeda và Tổng Thống Saddam Hussein có dính dáng gì với nhau chăng. Cũng hôm Thứ Tư 25/9, Tổng Thống Bush đã đi đến chỗ cho rằng: “Cần phải đương đầu với cả hai. Quí vị không thể phân biệt giữa Al Qaeda và Saddam khi quí vị nói về chiến tranh chống khủng bố”. Đối với đảng Dân Chủ đang chống lại dự án này của mình, Tổng Thống Bush đã phải viện lý chính đáng là: “Tôi thấy trách nhiệm chính của tôi – đó là bảo vệ nhân dân Hoa Kỳ”. Vì Thượng Nghị Sĩ Daschle thuộc đảng Dân Chủ đã tố giác Tòa Bạch Ốc đã làm bùng lên mối đe dọa chiến tranh của Iraq để muốn chiếm thắng lợi về chính trị và đòi vị tổng thống này phải xin lỗi. Ông nói: “Chúng ta cần phải tiến đến một mức độ cao hơn nữa. Các vị cha ông lập quốc của chúng ta sẽ cảm thấy hổ ngươi về những gì chúng ta đang thấy diễn tiến đây. Những người đã chết hy sinh kmạng sống của mình cho những gì tốt đẹp hơn là những gì chúng ta đang cống hiến hiện nay”. Buổi tối cùng ngày, trong bữa tối gây qũi của Đảng Cộng Hòa, Tổng Thống Bush đã lên tiếng nhữ để trả lời về việc yêu cầu xin lỗi của Đảng Dân Chủ như sau: “Rất tiếc, một số ở Thượng Viện, chứ không phải là tất cả ở Thượng Viện, muốn lấy đi quyền hạn mà tất cả mọi vị tổng thống có được từ tổng thống Jimmy Carter, tôi sẽ không chịu như vậy đâu. Thượng Viện phải nghe điều này là, vì nhân chúng Hoa Kỳ hiểu biết, họ không đáp ứng những khuynh hướng ở Washington DC. Họ phải đáp ứng cho khuynh hướng này, đó là khuynh hướng bảo vệ nhân dân Hoa Kỳ tránh khỏi những cuộc tấn công sau này”.

Cũng vào hôm Thứ Tư 25/9, Bộ Trưởng Ngoại Giao Nga là ông Igor Ivanov đã nhận định về tập hồ sơ của Thủ Tướng Tony Blair liên quan đến bí mật quân sự ở Iraq như sau: “Tôi tin rằng chỉ có những chuyên viên và các nhà thông thạo mới có thể phán quyết về vấn đề Iraq có những thứ khí giới hủy diệt hàng loạt hay không. Tuần vừa rồi, Bộ Trưởng Quốc Phòng Nga là Sergei Ivanov nói rằng ông tin tưởng vào việc “dễ dàng thiết lập” những nhóm chuyên viên kiểm soát quốc tế. Ý nghĩ này của ông nghịch với ý nghĩ của Tổng Thư Ký Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ là Donald Rumsfeld là vị ông gặp hôm Thứ Năm cũng tuần vừa rồi, vị không tin rằng những kiểm soát viên quốc tế có thể đi sâu vào những nơi Iraq giấu diếm vũ khí bị cấm.

Trong khi đó, giới trí thức Hoa Kỳ, kể cả thành phần Kitô hữu có tiếng, như George Weigel thuộc Trung Tâm Qui Chế Đạo Đức Và Công Cộng ở Washington, và Robert Royal thuộc Viện Đức Tin và Lý Trí, cũng có khuynh hướng ủng hộ dự định tấn công Iraq của chính phủ Bush.

Trong cuộc phỏng vấn với Màn Điện Toán Zenit và được cơ quan này phổ biến ngày 22/9/2002, George Weigel chủ trương như sau:

“Thật là vô nghĩa về luân lý khi nói rằng Hiệp Chủng Quốc hay cộng đồng quốc tế chỉ có thể ra tay bằng lực lượng quân sự khi đầu đạn nguyên tử của Iraq chất chứa một thứ vũ khí hủy hoại hàng loạt đã được lệnh phóng đi, hay đang chờ lệnh phóng đi… Mới đây có người nói rằng Hoa Kỳ hay khối liên minh không được Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc chấp nhận trước mà tấn công Iraq để giải giới các thứ vũ khí hủy diệt hàng loạt tức là thay thế luật lệ quốc tế bằng thứ ‘luật mạnh được yếu thua’. Tôi thực sự không đồng ý… Tôi đã đề cập đến việc cần phải hoàn chỉnh lại những gì chúng ta có ý nói đến vấn đề gọi là ‘bảo vệ trước cuộc tấn công’ trong một thế giới có những tổ chức khủng bố quốc tế và những quốc gia xảo quyệt, cũng như vấn đề về ‘quyền bính hợp pháp’ trong một thế giới có những khí cụ mới hiện hữu nhưng thường vô hiệu cho việc xây dựng một rật tự thế giới… Tiêu chuẩn về thứ chiến tranh chính đáng liên quan đến ‘biện pháp cuối cùng’ cũng cần phải được hoàn chỉnh nữa: chẳng hạn như, có nghĩa là gì khi nói rằng đã vận dụng tất cả mọi hành động phi quân sự nhưng không thành công khi chúng ta phải đương đầu với một thứ diễn viên quốc tế mới mẻ gây ra chết chóc, một thứ tổ chức khủng bố không cần biết đến một hình thức quyền lực nào ngoài bạo lực, và là một tổ chức khủng bố hầu như bằng chân như vại trước những áp lực về ngoại giao và kinh tế có thể áp đặt trên các quốc gia?”

Trong cuộc phỏng vấn với Màn Điện Toán Zenit và được cơ quan này phổ biến ngày 26/9/2002, Robert Royal, chủ trương như sau:

“Cuộc bùng nổ ngày 11/9 đã cho thấy tất cả những gì là nguy hiểm mới… Chúng ta có thể nói với một xác tín về luân lý ở một cấp độ cao là Saddam Hussein không cần những loại vũ khí như vậy để tự vệ đối với những cuộc tấn công của các nước Hồi Giáo chung quanh hay của Do Thái. Hắn rõ ràng là tiến hành việc đe dọa nhiều mạng sống con người ở Trung Đông, rồi không lâu đến Âu Châu và những mục tiêu xa hơn nữa, mà thậm chí chẳng cần đến việc ra tay khủng bố nữa. Bởi vậy các quốc gia trên thế giới cần phải quyết chọn: một là chúng ta ra tay bây giờ để ngăn ngừa việc đi đêm sau này, việc tấn công hay việc chuyển các loại vũ khí có sức tàn phá hàng loạt cho các bạn bè của Saddam thuộc nhóm khủng bố, hai là chúng ta chờ cho đến khi mối đe dọa đến nơi rồi mới ra tay? Quí vị có quyền tin tưởng là trong khoảng thời gian chờ đợi này có thể tìm thấy những cách thức nào đó để điều đình làm giảm bớt những thứ căng thẳng, nhưng những cuộc thương thảo và trừng phạt chống lại những chế độ như Cuba, Sudan và Iraq sẽ chẳng bao giờ có công hiệu cả, vì những kẻ hung bạo cùng nhóm môn đồ của họ đâu có hứng thú nhiều vào những gì cả thế giới hiểu về công lý hay hòa bình. Chế độ ở Iraq cần phải được thay đổi vì thiện ích của thế giới. Những ai muốn chờ đợi có thể có những lý do về luân lý cao cả hơn là những người thấy trước được rằng việc ra tay bây giờ là một cuộc can thiệp dễ dàng loại trừ hơn… Thế nhưng, Kitô hữu ít nhận ra rằng đôi khi những chế độ hay các nhà cai trị là xấu, hay tối thiểu, việc họ muốn sử dụng những thứ phương tiện xấu để đạt mục đích của họ mà một thế giới văn minh không thể nào chấp nhận được. Đó là một trong những thành quả bất hạnh khi sống trong một thế giới sa đọa này, tuy nhiên, chúng ta không được để cho vấn đề lưỡng lự chần chờ một cách thích đáng trong việc sử dụng võ lực, trừ khi cần thiết, làm cho chúng ta thiếu tin tưởng rằng có những lúc khi mà chỉ có biện pháp sử dụng đến võ lực mới hoàn tất các trách nhiệm Kitô hữu của chúng ta mà thôi”.

 

Phản Ứng của Thế Giới đối với dự định tấn công Iraq của Mỹ.


Đối với việc Mỹ dự định ra tay tấn công Iraq để ngăn ngừa nước này có thể gây nguy hiểm đến nền hòa bình thế giới với các loại vũ khí có sức tàn phá hàng loạt hiện có trong tay của họ, thế giới có những phản ứng phò và chống như sau:


Trước hết là Thủ Tướng Blair của Hiệp Vương Quốc (Great Britian) hôm Thứ Ba 24/9/2002, cho quốc hội của ông biết những chi tiết về Nước Iraq như sau: thứ nhất, Tổng Thống Saddam Hussein chỉ còn một hay hai năm nữa thôi là có thể có bom nguyên tử; thứ hai, tổng thống này có “những dự án quân sự” trong việc sử dụng các loại vũ khí hóa học và sinh học “có thể nổ trong vòng 45 phút khi được lệnh sử dụng chúng”, và thứ ba, Baghdad đang “mua” từ các nước Phi Châu chất uranium để chế bom nguyên tử.


Trong khi đó, bộ nội các của Tổng Thống Saddam Hussein hôm Thứ Tư 25/9/2002, nói rằng hồ sơ của vị Thủ Tướng Blair tuyên bố về kế hoạch vũ khí của Iraq “đang năng động và phát triển” là “dối trá và vô bằng”: “Hồ sơ này đầy những tuyên truyền sai lạc thiếu hẳn những chứng cớ về chất liệu và hợp lý”. Lời tuyên bố của bộ nội các của Tổng Thống Saddam Hussein đã được tuyền hình toàn quốc của nước này phổ biến.


Tiếp theo là Thủ Tướng Silvio Berlusconi của Ý cũng hôm Thứ Tư 25/9/2002 đã trình bày với quốc hội của mình về nạn Iraq để kêu gọi ủng hộ Tổng Thống Bush của Hoa Kỳ: “Lối sống của chúng ta, định mệnh của chúng ta, vừa là những người Âu Châu vừa là những người Ý Quốc, đều gắn liền với lối sống và định mệnh của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ”, ông nói. Ngoài ra, ông còn kêu gọi Liên Hiệp Quốc phải có những giải pháp “mới mẻ, mạnh mẽ, rõ ràng và thúc buộc” về nạn Iraq đến độ có thể ra lệnh sử dụng võ lực nếu Baghdad không tuân lệnh. Ông nói cộng đồng thế giới không thể bất động trước chết độ của Saddam Hussein, nhưng ông không hề đề cập gì đến việc Ý có nhúng tay vào hành động quân sự hay chăng. Ông đã ví chế độ của Saddam Hussein với chế độ Nazi ở Đức trong thời Thế Chiến Thứ II xưa.


Thế nhưng, các quốc gia Âu Châu và thế giới đã tỏ ra hững hờ với những tiết lộ của Thủ Tướng Blair. Chẳng hạn như Pháp và Trung Hoa đều nói rằng bất cứ hành động nào chống lại Tổng Thống Iraq Saddam Hussein đều phải được Liên Hiệp Quốc thông qua. Riêng Pháp còn đòi “nghiên cứu” bản hồ sơ của vị Thủ Tướng này nữa. Hy Lạp chống lại với bất cứ hình thức đơn phương tấn công Iraq, như Thủ Tướng nước này là ông Costas Simitis tuyên bố sau cuộc họp hai ngày giữa Khối Hiệp Nhất Âu Châu và các nhà lãnh đạo Á Châu ở Copenhagen. Đức cũng bất đồng về chiến tranh chống Iraq, như Thủ Tướng của nước này là ông Gerhard Schroeder mới được tái cử hôm Chúa Nhật 22/9/2002 tuyên bố. Quốc Hội Hiệp Vương Quốc tối hôm Thứ Ba 24/9/2002 cũng tỏ ra chống đối thứ chiến tranh này. Cũng như nhiều nước đồng minh thuộc khối NATO, Nga cũng không đồng ý với cuộc đơn phương tấn công Iraq, dù Hoa Kỳ có vận động để Nga nhào vô đẩy Liên Hiệp Quốc ra tay mạnh đối với nạn Iraq.


Chưa hết, các báo chí Âu Châu cũng có những nhận định bất thuận lợi về bản hồ sơ của Thủ Tướng Hiệp Vương Quốc. Chẳng hạn tờ Thời Điểm Tài Chánh cho biết là bản hồ sơ này không có những chứng cớ chắc chắn cho thấy cần phải lập tức thực hiện hành động quân sự. Tờ Giải Phóng của Pháp nhận định về cuộc liên hệ giữa Tổng Thống Bush và Thủ Tướng Blair như sau: “Tony Blair đi đến chỗ hết sức liều mình khi gắn liền số phận của mình với số phận của Bush”. Tờ nhật báo này còn cho biết thêm “ở Hiệp Vương Quốc, những kẻ chống đối việc can thiệp bằng võ lực còn nhiều hơn cả thời xẩy ra cuộc khủng hoảng ở Kosovo nữa, và việc thiếu những mục tiêu chính trị cũng như quân sự rõ ràng trở lại với đường lối của một chiến tranh Vùng Vịnh mới thậm chí còn hơn gấp hai lần”. Ở Đức, tờ Berliner Morgenpost cho rằng bản hồ sơ này “không cung cấp những chi tiết tin tức khách quan”. Ở Tây Ban Nha, tờ El Pais đã gọi bản hồ sơ này như sau: “Bản tường trình thực ra chỉ thể hiện những mối liên hệ công khai trong việc tỏ ra hỗ trợ chủ trương của Bush”. Ở Dublin, tờ Irish Independent mang tựa đề: “Cái chết của 500 ngàn trẻ em Iraq là một tội ác chiến tranh thực sự”, đã viết “’bản hồ sơ’ của Tony Blair về Iraq là một bản văn kiện nẩy lửa. Đọc bản văn kiện này một con người đứng đắn chỉ có thể cảm thấy hổ nhục và uất hận mà thôi”.

Số Phận Kitô Hữu trước cuộc Tây Phương Tấn Công Iraq

Theo tờ nhật báo Ý Avvenire, 24/9/2002 Thứ Ba, vị giám mục người Chaldean là Đức Cha Phụ Tá Jshlemon Warduni ở Baghdad đã cảnh giác là việc tấn công Iraq sẽ liên quan đến Kitô hữu, thành phần đã bị đa số cho rằng có dính dáng với Tây phương và Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Theo ngài, “Là một Giáo Hội địa phương, chúng ta phải làm hết sức có thể để việc tấn công này không xẩy ra, một cuộc tấn công sẽ là một thảm kịch về nhân đạo mới… Trong việc chúng ta dấn thân phục vụ xã hội, chúng ta không phân biệt thành phận hưởng lợi, bất kể tôn giáo hay sắc tộc của họ”. Đối với Saddam Hussein, ĐGM cắt nghĩa là Giáo Hội Công Giáo, nhất là Tòa Thượng Phụ Chaldean, “theo phúc ấm và hợp với huấn quyền của ĐTC Gioan Phaolô II chống lại tất cả mọi thứ chiến tranh và tấn công. Nếu chúng ta không bênh vực nhân quyền, thì thử hỏi chúng ta phải bênh vực ai đây? Không phải là con cái của chúng ta là những nạn nhân đầu tiên của chiến tranh hay sao? Không phải là thành phần già lão và yếu đau, không được chăm sóc và nâng đỡ, có lẽ giống như trường hợp của anh em hay sao? Đối với việc trang bị vũ khí có sức tiêu diệt hàng loạt thì chính quyền Iraq nói rằng họ không có những thứ ấy. Chúng ta không biết điều ấy có đúng hay không, đó không thuộc thẩm quyền của chúng ta để nói lên vấn đề ấy. Trách nhiệm của chúng ta là hoạt động cho hòa bình và sự bảo toàn của các quyền lợi thuộc tất cả mọi người… Chúng ta tin tưởng nơi Thiên Chúa, Đấng sẽ ban cho chúng ta hòa bình và chúng tôi xin tất cả moị Giáo Hội trên thế giới hãy cầu nguyện với chúng tôi xin Chúa soi sáng cho thành phần lãnh đạo các quốc gia hành động theo công bình chính trực”.


Tòa Thánh Vatican Kêu Gọi Những Giải Pháp Thay Thế Giải Pháp Quân Sự Tấn Công Iraq

Hôm Chúa Nhật 22/9/2002 vừa rồi, ở Florence Ý Quốc, ĐTGM Diamuid Martin, quan sát viên thường trực của Tòa Thánh Vatican ở các văn phòng Liên Hiệp Quốc đã ngỏ lời với một hội nghị gồm 60 hiệp hội, nhóm đoàn và phong trào của Giáo Hội là “Chúng ta thiên về việc đối thoại song cũng tôn trọng luật quốc tế nữa”. ĐTGM tiếp tục nhận định trước hội nghị bàn về chủ đề “Hòa Bình: Điều Kiện Thiết Yếu cho Việc Phát Triển Toàn cầu” là “có khoản luật về việc sử dụng võ lực, nhưng quyết định áp dụng khoản luật này chỉ thuộc về Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc mà thôi… Lúc này đây cảm quan trách nhiệm cần hơn bao giờ hết. Việc sử dụng đến võ lực lúc nào cũng vậy và bằng cách nào cũng là một thảm bại”. Viên chức Tòa Thánh này cũng vạch ra rằng Liên Hiệp Quốc “không được trở thành dụng cụ cho những lợi ích của một phía. Cản trở tổ chức này hoàn thành sứ vụ của mình sẽ gây nguy hiểm cả thể cho tất cả đôi bên. Trong những lúc khó khăn này, những ai bác bỏ việc sử dụng võ lực cũng có trách nhiệm cho biết phải làm sao để có thể tránh sử dụng võ lực”. Trong việc chống chọi với khủng bố, ĐTGM kết luận, cần phải “tôn trọng tình trạng về luật lệ và việc chung sống của các dân tộc”.

ĐHY Thánh Bộ Trưởng Tín Lý Đức Tin Ratzinger tuyên bố việc đơn phương tấn công Iraq là bất chính

 

"Quan niệm về một ‘thứ chiến tranh ngăn ngừa’ không có trong Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo"


Bản tin của Màn Điện Toán Zenit Ngày Chúa nhật 22/9/2002 loan tin rằng, ĐHY Thánh Bộ Trưởng này nhìn nhận rằng những vấn đề chính trị không thuộc phạm vi thẩm quyền của mình: “Liên Hiệp Quốc là tổ chức phải đi đến chỗ quyết định. Cộng đồng các quốc gia, chứ không phải một quyền lực riêng biệt nào, cần phải đi đến chỗ quyết định… Sự kiện Liên Hiệp Quốc đang tìm cách tránh né chiến tranh đối với tôi dường như cho thấy đủ chứng cớ là việc thiệt hại sẽ lớn hơn những giá trị người ta hy vọng sẽ ra tay cứu lấy… (Dù) Liên Hiệp Quốc có thể bị phê phán, nhưng tổ chức này là một khí cụ được thiết lập sau chiến tranh để điều hợp chính trị, kể cả luân lý… Quan niệm về một ‘thứ chiến tranh ngăn ngừa’ không có trong Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo… Người ta không thể nói một cách đơn giản rằng giáo lý không cho chiến tranh là hợp lý. Thế nhưng giáo lý thật sự đã đưa ra một tín lý, một đàng, không loại trừ sự kiện về những giá trị cũng như về những con người cần phải được bênh vực ở một số trường hợp; đàng khác, giáo lý cũng nêu lên một tín lý rất chính xác về những giới hạn của những cơ hội này… Bản Thập Điều không phải là sản vật tư riêng của những người Kitô Giáo hay Do Thái. Nó là một biểu hiệu cao quí của lý lẽ về luân lý mà nhờ đó nó cũng được thấy cả ở nơi sự khôn ngoan của các nền văn hóa khác. Thật là thiết yếu trong việc phục hồi lý lẽ bằng việc tái qui chiếu về Bản Thập Điều này”.

 

Bức Thư của Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ gửi Tổng Thống Mỹ về Trận Đánh Araq.

 

Tuần trước, người Hoa Kỳ vừa kỷ niệm biến cố Khủng Bố Tấn Công Hoa Kỳ ngày 11 tháng 9, một tưởng niệm có thể nói còn long trọng hơn bất cứ một ngày Holiday lễ nghỉ hằng năm nào ở Hoa Kỳ. Qua truyền thông, chúng ta đã biết được thêm nhiều chi tiết mới mẻ bí mật trong cuộc khủng bố này, như sự kiện Tòa Bạch Ốc biết trước khủng bố sẽ xẩy ra, hay như việc tổng thống Bush ra lệnh bắn chiếc máy bay bị không tặc ở Pennsylvania v.v. Không biết đây có phải là một khổ nhục kế Hoa Kỳ muốn dùng để có thể danh chính ngôn thuận trước thế giới nhào vô một thị trường khổng lồ với 1 tỉ 200 triệu người thuộc Khối Ả Rập Hồi Giáo vẫn hết sức căm thù Mỹ hay chăng? Tuy nhiên, từ việc tấn công A Phú Hãn để bắt trọn ổ bọn khủng bố quốc tế, nhất là tên đầu đàn của họ, không thành công, (hay không muốn thành công để tiếp tục có cớ nhúng tay quân sự và kinh tế vào vùng này, như trường hợp của một Saddam Hussein 12 năm trước đây), nay lại đến việc dự định tấn công Iraq với đủ mọi lý do viện dẫn biện minh cho việc làm của mình. Thế nhưng, việc Hoa Kỳ dự định tấn công Iraq có chính đáng hay không? Câu trả lời dứt khoát đã được phân tích và khẳng định rõ trong bức thư của ĐGM Gregory, đại diện Hàng Giáo Phẩm Hoa Kỳ gửi tổng thống Bush sau đây.


Thư gửi Tổng Thống Bush về Iraq
Giám Mục Wilton D. Gregory
Ngày 13/9/2002

Ngài George W. Bush
Tòa Bạch Ốc
Washington, D.C. 20500

Tổng Thống quí mến:

Vào cuộc họp của mình tuần vừa rồi, Ủy Ban Quản Trị của Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Hoa Kỳ gồm có 60 thành viên đã xin tôi viết một lá thư để gửi đến tổng thống về tình hình ở Iraq. Chúng tôi hoan nghênh những nỗ lực của tổng thống về việc lôi kéo thế giới chú trọng tới nhu cầu cần phải nói lên vấn đề Nước Iraq đàn áp và theo đuổi thực hiện những loại vũ khí có sức tán sát từng loạt bất tuân lệnh của Tổ Chức Liên Hiệp Quốc. Cuộc họp của Ủy Ban Quản Trị của chúng tôi diễn ra trước bài diễn văn Tổng Thống đọc tại trụ sở Liên Hiệp Quốc, thế nhưng tôi nghĩ rằng tôi cần phải bày tỏ những vấn đề chúng tôi coi là hệ trọng liên quan đến tính cách hợp pháp về luân lý trong việc đơn phương ra tay sử dụng lực lượng quân sự trước để lật đổ chính quyền nước Iraq.

 

Một năm trước đây, vị tiền nhiệm của tôi là ĐGM Joseph Fiorenza đã viết cho tổng thống về vấn đề phản ứng của Hiệp Chủng Quốc đối với cuộc khủng bố tấn công kinh hoàng mà chúng ta vừa cùng nhau tưởng niệm tuần qua. Lúc ấy vị tiền nhiệm của tôi nói cùng tổng thống rằng, theo phán đoán của chúng tôi, việc sử dụng võ lực chống lại A Phú hãn có thể biện minh được, nếu nó được thi hành hợp với những qui chuẩn của một cuộc chiến tranh chính đáng, và nếu nó thuộc về một phần của nỗ lực bao quát hơn hầu như phi quân sự trong việc chống lại vấn đề khủng bố. Chúng tôi tin rằng Iraq là một trường hợp khác hẳn. Cho dù đã xẩy ra những diễn tiến trước đây cùng với những nguy hiểm trong đó, chúng tôi cũng thấy rằng khó mà biện minh cho được việc nới rộng chiến tranh chống khủng bố sang cả Iraq, thiếu hẳn chứng cớ rõ ràng và đầy đủ cho thấy người Iraq có dính dáng đến vụ khủng bố tấn công ngày 11 tháng 9, hay cho thấy một cuộc tấn công tự bản chất trầm trọng của nó có thể xẩy ra bất cứ lúc nào.

Hiệp Chủng Quốc và cộng đồng quốc tế có hai trách nhiệm luân lý nặng nề, đó là trách nhiệm bảo vệ công ích chống lại với bất cứ đe dọa nào của người Iraq có thể gây nguy hại cho nền hòa bình, và trách nhiệm thực hiện việc bảo vệ này bằng một đường lối hợp với những qui chuẩn căn bản về luân lý. Chúng tôi không bị những ảo ảnh về thái độ hay những ý đồ của chính quyền Iraq. Cấp lãnh đạo Iraq cần phải chấm dứt việc đàn áp trong nước, ngưng việc đe dọa các nước láng giềng, thôi ủng hộ nạn khủng bố, loại bỏ việc cố gắng tạo ra những loại vũ khí có sức tàn phá hàng loạt, và tuân theo những giải quyết của Liên Hiệp Quốc. Vấn đề vận động các quốc gia trên thế giới trong việc nhận ra và nói lên cho thấy nạn Iraq đe dọa nền hòa bình và sự bền vững của thế giới, bằng việc Liên Hiệp Quốc cần phải tỏ ra hành động mới và dấn thân chung, hầu bảo đảm được rằng Iraq phải giữ những lời hứa quyết của mình, là vấn đề của một giải pháp hợp pháp và cần thiết để đi đến việc sử dụng lực lượng quân sự đơn phương. Hoan nghênh việc tổng thống quyết định tìm kiếm việc Liên Hiệp Quốc ra tay hành động, thế nhưng những vấn đề về đích nhắm và phương tiện cũng cần phải được đáp ứng nữa.

Không dễõ tìm thấy được những câu giải đáp ở đây. Những người thiện chí có thể áp dụng những nguyên tắc về luân thường đạo lý và tiến đến chỗ có những phán đoán khôn ngoan khác nhau, tùy theo vốn liếng họ có được về các dữ kiện trong tay cùng với các vấn đề khác. Căn cứ vào những dữ kiện chúng tôi biết được, chúng tôi đi đến chỗ kết luận là việc đơn phương sử dụng võ lực để ra tay trước thì khó lòng mà biện minh được vào lúc này đây. Chúng tôi sợ rằng, với những hoàn cảnh này, thì việc sử dụng võ lực không đạt được những điều kiện khắt khe theo giáo huấn Công Giáo để vượt qua cái chủ trương mạnh mẽ chống lại việc sử dụng lực lượng quân sự. Vấn đề về tiêu chuẩn chiến tranh chính đáng theo truyền thống liên quan đến lý do chân chính, thẩm quyền hợp pháp, cơ hội thành công, tính cách tương xứng và sự an toàn của thành phần bất tham chiến là những gì cần phải đặc biệt quan tâm.

Lý do chân chính. Đâu là casus belli, là trường hợp chiến đấu để tấn công Iraq bằng quân sự? Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, khi lập lại những phạm vi theo luân lý và pháp lý được phần đông chấp nhận về lý do có thể sử dụng lực lượng quân sự, đã giới hạn lý do chính đáng vào những trường hợp mà “kẻ tấn công gây tác hại lâu dài, trầm trọng và chắc chắn cho một quốc gia hay cho cộng đồng các quốc gia” (số 2309). Vậy đã có chứng cớ hiển nhiên và đầy đủ về cái dính dáng trực tiếp giữa Iraq và cuộc khủng bố tấn công Ngày 11 Tháng 9 chưa, hay đã có chứng cớ rõ ràng và đầy đủ về một cuộc tấn công trầm trọng xẩy ra bất cứ lúc nào chưa? Có khôn ngoan hay chăng khi nới rộng một cách đáng e ngại những phạm vi về luân lý và pháp lý theo truyền thống đối với lý do chính đáng cho phép sử dụng cả lực lượng quân sự để ngăn ngừa hay để ra tay trước trong việc lật đổ những chế độ nguy hiểm hay trong việc đối đầu với mức leo thang của những loại vũ khí có sức hủy diệt hàng loạt? Có cần phải phân biệt hay chăng giữa những nỗ lực làm thay đổi tác hành bất khả chấp nhận của một chính quyền, với những nỗ lực để kết liễu việc hiện hữu của chính quyền đó?

Thẩm quyền hợp pháp. Thẩm quyền về luân lý liên quan đến việc sử dụng lực lượng quân sự cũng còn lệ thuộc thật nhiều vào vấn đề có thẩm quyền hợp pháp hay chăng trong việc sử dụng võ lực để lật đổ chính quyền của người Iraq. Theo phán đoán của chúng tôi, những quyết định có tính cách hệ trọng như thế đòi phải tuân hợp với những huấn lệnh của hiến pháp Hoa Kỳ, với sự đồng tâm thuận ý rộng rãi trong quốc gia của chúng ta, và với một hình thức thừa nhận nào đó của quốc tế, nhất là của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Đó là lý do tại sao việc tổng thống đã quyết định tiến đến chỗ được quốc hội và Liên Hiệp Quốc chấp nhận là một việc rất ư quan trọng. Cùng với Tòa Thánh Vatican, chúng tôi hết sức thắc mắc nghi ngờ về chuyện đơn phương sử dụng lực lượng quân sự, đặc biệt là trường hợp có dính dáng đến những rắc rối xẩy ra trước đó.

Cơ hội thành công và tính cách tương xứng. Việc sử dụng võ lực phải có “những khả thể nắm chắc thành công” và “không được tạo nên những sự dữ và đảo lộn còn lớn hơn cả sự dữ cần phải loại trừ” (GLGHCG số 2309). Chiến tranh chống Iraq có thể đạt được những thành quả bất khả dự tưởng chẳng những đối với Iraq mà còn đối với cả nền hòa bình và sự bền vững khắp nơi ở Trung Đông. Vậy lực lượng ngăn ngừa hay ra tay trước liệu có thành công trong việc ngăn chặn những đe dọa trầm trọng, hay, thay vào đó, lại gây ra những cuộc tấn công đích danh, những cuộc tấn công đầu tiên chỉ có ý ngăn ngừa? Một cuộc chiến tranh khác ấy ở Iraq sẽ gây tác dụng nơi thành phần dân sự ra sao, cả trong thời gian ngắn hạn lẫn dài hạn? Bao nhiêu là con người vô tội nữa sẽ phải chịu khổ và chết đi, hay trở thành vô gia cư, thiếu những gì là căn bản nhất, mất công ăn việc làm? Hiệp Chủng Quốc và cộng đồng quốc tế có quyết tâm thực hiện một công tác vất vả lâu dài trong việc bảo đảm cho một nền hòa bình chân chính chăng, hay một nước Iraq hậu Saddam tiếp tục bị lũng đoạn bởi tình trạng xung khắc dân sự và đàn áp, cũng như tiếp tục trở thành một lực lượng gây khủng hoảng trong vùng này? Việc sử dụng lực lượng quân sự có dẫn đến một cuộc xung khắc và bất ổn hơn hay chăng? Chiến tranh chống Iraq có làm cho chúng ta phân tâm đối với trách nhiệm của chúng ta trong việc giúp xây dựng một trật tự chân chính và bền vững ở A Phú Hãn, cũng như có làm suy yếu cuộc liên minh rộng lớn ở việc chống lại vấn đề khủng bố hay chăng?

Những qui chuẩn chi phối tác hành chiến tranh. Dù chúng tôi nhận thấy có tiến bộ về khả năng cũng như về những nỗ lực thực sự trong việc trực tiếp tránh nhắm vào thành phần thường dân nơi xẩy ra chiến tranh, thì việc sử dụng lực lượng quân sự đại thể để lật đổ chính quyền hiện thời của Iraq vẫn có thể gây ra những hậu quả khôn lường cho thành phần dân sự vốn đã chịu quá nhiều đau khổ vì chiến tranh, vì bị đàn áp, và vì cái lệnh cấm vận làm con người ra kiệt quệ.

Chúng tôi nêu lên những vấn nạn rắc rối này là để đóng góp vào việc quốc gia chúng ta đang tranh luận sôi nổi về vấn đề đích nhắm và phương tiện, về những nguy cơ và chọn lựa, những vấn đề liên quan đến trách nhiệm của chúng tôi là những vị mục tử và thày dạy. Việc chúng tôi thẩm định về những vấn đề này dẫn chúng tôi đến chỗ tha thiết xin tổng thống hãy tìm kiếm những giải pháp tích cực khác thay cho giải pháp chiến tranh. Chúng tôi hy vọng tổng thống sẽ kiên trì nơi chính những thách đố gay go và khó khăn trong việc tạo được một sự hỗ trợ rộng lớn của quốc tế giành cho đường lối mới mẻ, xây dựng và hiệu lực hơn trong việc ép buộc chính quyền Iraq phải sống đúng với những trách nhiệm quốc tế của họ. Đường lối này có thể là những nỗ lực tiếp tục ngoại giao nhắm đến, một phần nào đó, lập lại những việc kiểm soát nghiêm chỉnh hợp lý; đến việc áp dụng luật lệ cấm vận quân sự; đến việc bảo trì những vấn đề chế tài về chính trị và nhất là những chế tài về kinh tế một cách thận trọng hơn để làm sao đừng gây nguy hại cho cuộc sống của những thường dân Iraq vô tội; đến việc ủng hộ vấn đề phi quân sự cho những ai ở Iraq muốn chấp nhận những giải pháp dân chủ khác; cũng như đến những đường lối hợp pháp khác để kiểm soát và ngăn chặn những hành động hung hăng của Iraq.

Chúng tôi kính cẩn tha thiết xin tổng thống hãy lùi bước trước bờ vực chiến tranh và hãy giúp vào việc dẫn thế giới cùng nhau tác hành trong việc thực hiện một đáp ứng toàn cầu có tác hiệu đối với những đe dọa ở Iraq, một đáp ứng hợp với phạm vị luân lý truyền thống trong việc sử dụng lực lượng quân sự.

Chân thành,

Đức Cha Wilton D. Gregory,
Giám Mục Giáo Phận Belleville,
Chủ Tịch.
 


Tấn Công Khủng Bố Phải Tôn Trọng Luật Lệ


Đức Ông Ettore Balestrero, vị lãnh đạo phái đoán đại biểu của Tòa Thánh Vatican, trong cuộc họp hai tuần thường niên của Cơ Quan Phụ Trách An Ninh Và Hợp Tác Ở Âu Châu (OSCE), được bắt đầu từ hôm Thứ Hai 12/9 vừa rồi tại Warsaw Balan về nhân quyền, trước 500 tham dự viên thuộc 55 quốc gia hội viên, đã nhắn nhở cộng đồng thế giới rằng không thế tấn công khủng bố bằng việc vi phạm các luật lệ và nền tảng của thể chế dân chủ.


“Không thể nào nói cho có kết quả về cái tai ương khủng bố mà lại không nói đến cái qui tắc tác hành của luật pháp. Cần phải tránh cái nguy hiểm đang lung lay tận nền tảng thể chế dân chủ và qui tắc luật pháp, cho dù với lý do tự vệ”.


Đức ông này cũng nêu lên “Thập Giới Hòa Bình” được các vị lãnh đạo tôn giáo công bố ở Assissi, Ý, ngày 24 Tháng Giêng/2002, một văn kiện phủ nhận và lên án “hết mọi việc sử dụng bạo lực và chiến tranh nhân danh Thiên Chúa hay tôn giáo”. Đức ông nhấn mạnh rằng không một “luật dân sự về các cộng đồng tôn giáo có thể được sử dụng trong việc giới hạn những hoạt động diễn đạt quyền tự do tôn giáo của những cộng đồng này cũng như của các phần tử của các cộng đồng ấy. Vì thế, các quốc gia hội viên của OSCE phải loại trừ bất cứ một áp lực nào gây ra… bởi bất cứ niềm tin tôn giáo nào, cho dù , có thể gây tổn hại đến việc diển đạt quyền tự do tôn giáo của các cộng đồng tôn giáo khác. Những áp lực này thật sự cho thấy việc thiếu dung nhượng và có thể làm cản trở việc kiến tạo nền hòa bình chân chính”.