Các Vị Thẩm Phán Công Giáo

Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ

với Hiến Pháp Hoa Kỳ và Lề Luật Tự Nhiên

 



Sau cái chết vì ung thư của chánh án Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ là William H. Rehnquist, vào hôm Thứ Hai 5/9/2005, Tổng Thống Bush đã bổ nhiệm thẩm phán John Roberts, 50 tuổi, vị đã được tổng thống Bush trước đây bổ nhiệm thay cho bà thẩm phán tối cao pháp viện Sandra Day O'Connor về hưu, thay thế vào vị trí thẩm phán cao nhất Hoa Kỳ này.

Tại Tòa Bạch Ốc, với vị tân chánh thẩm phán này bên cạnh, Tổng Thống Bush đã nói rằng: “Thật là xứng hợp một vị chánh thẩm phán lớn cần phải được tiếp nối bằng một con người có cùng một lòng tôn trọng Hiến Pháp như ông, hết sức tôn kính Tòa Thượng Thẩm như ông và hoàn toàn dấn thân cho công lý như ông”.

Phần vị tân chánh thẩm phán đã lên tiếng rằng: “Tôi hân hạnh và cảm thấy bất xứng trước lòng tin tưởng tổng thống đã đặt nơi tôi. Và tôi rất ý thức được rằng, nếu tôi cương quyết sẽ tiếp nối một con người tôi hết lòng tôn kính và ca ngợi, một con người rất tử tế với tôi trong 25 năm qua”.

Nhân dịp bổ nhiệm vị thẩm phán trẻ tuổi người Công giáo này, mạng điện toán toàn cầu Zenit đã phỏng vấn ông Douglas Kmiec, chủ tịch của Caruso Family, giáo sư hiến luật ở Đại Học Luật Pepperdine và là đồng tác giả cuốn “Lãnh Vực Hiếp Pháp Hoa Kỳ: Lịch Sử, Sự Vụ và Triết Lý” (LexisNexis), về việc tham dự thích đáng của các vị giám mục Hoa Kỳ vào tiến trình bổ nhiệm này, cũng như về tầm quan trọng của truyền thống luật tự nhiên đối với các vị thẩm phán tương lai của tối cao pháp viện Hoa Kỳ.

Vấn: Hiện nay có 3, và có thể là 4, vị Công giáo ở Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ. Tuy nhiên, họ thường có những quan điểm khác nhau ở một số vấn đề quan trọng. Phải chăng có một đường lối Công giáo trong việc giải thích Hiến Pháp Hoa Kỳ, hay là được phép bất đồng về ý nghĩa của bản hiến pháp này?

Đáp: Các phương tiện để giải thích về hiến pháp đó là bản văn, lịch sử và vấn đề cấu trúc của Hiến Pháp Hoa Kỳ. Một phần của lịch sử này bao gồm Bản Tuyên Ngôn Độc Lập cùng với việc nó qui chiếu tới những sự thật minh nhiên của tạo vật, của vấn đề bình đẳng được thiết lập và các quyền lợi bất khả chuyển nhượng.

Như Lincoln đã chia sẻ là bản Hiến Pháp đã được thiết dựng theo thứ triết lý của Bản Tuyên Ngôn, chứ không phải một cái gì khác. Chính vì để bảo đảm những quyền lợi bất khả nhượng của chúng ta mà “các chính quyền đã được lập nên”. Tất cả những ai muốn đóng vai trò pháp lý cần phải thành tâm cảm nhận được cái giá trị nội tại của con người được phản ảnh nơi Bản Tuyên Ngôn ấy.


Ngoài ra, người ta cũng mong đợi, cả tôi cũng thế, là những ai thực sự được duy trì bởi đức tin Công giáo cũng như bởi gia đình Công giáo, và có lẽ được giáo dục ở các trường học Công giáo, có được một cảm nhận đặc biệt nơi việc học hỏi về truyền thống luật lệ tự nhiên cũng như về việc trực tiếp nó góp của vào lãnh vực những nguyên lý đệ nhất ấy của Hoa Kỳ.

Đối với việc khác biệt nơi thành phần tín hữu, về luật pháp cũng như bất cứ những gì khác, thì đó là những gì thuộc về thân phận của con người. Thật vậy, các vị Thẩm Phán Antonin Scalia, Clarence Thomas và Anthony Kennedy – 3 vị Công giáo hiện có ở Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ – có một mức độ cao, theo thống kê cho thấy, đối với việc đồng ý nơi các vấn đề giải thích pháp luật, mặc dù mỗi vị khác nhau ở vấn đề được huấn luyện và kinh nghiệm về pháp lý, là những gì có thể cho thấy những khác nhau nơi họ hơn là đức tin chung của họ.

Vấn: Mới đây, ĐGM William Slylstad, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, đã gửi một bức thư cho Tổng Thống Bush kêu gọi có một vị thẩm phán Tối Cao Pháp Viện có thể hành sử theo một số cách thức nào đó hợp với hoạt trình qui chế công của các vị giám mục. Hậu quả về luật học ra sao đối với một vị thẩm phán Công giáo nghe theo lời kêu gọi của Giám Mục Skystad?

Đáp: Bức thư của Giám Mục Skylstad là việc bày tỏ hoàn toàn thích đáng với đức tin Công giáo. Bức thư này có thể bị hiểu lầm một cách nào đó về vai trò thực sự của Tối Cao Pháp Viện, thế nhưng người ta cũng có thể khó lòng chê trách được vị giám mục này về điều ấy, vì một số phần tử của Quốc Hội chính họ cũng nghĩ lầm về các vị thẩm phán như là thành phần lập ra các thứ qui chế vậy.

Như vấn đề hiểu biết ngay từ đầu là không gì ở nơi bản Hiến Pháp lại nghịch với bất cứ qui chế nào được các vị giám mục khuyến giục. Chẳng hạn, Bản Hiến Pháp cho phép thực hiện bản án tử hình, không có gì ngăn cản nhân dân Hoa Kỳ nơi các tiểu bang hiện nay của họ chấm dứt hoặc giới hạn việc áp dụng bản án này, nếu dân chúng được thuyết phục bởi chứng từ cùng lời nguyện cầu và hướng dẫn của những người Công giáo – và các người khác – nơi công chúng, như Đức Gioan Phaolô II dạy trong “Phúc Âm Sự Sống”, thì việc áp dụng bản án này hẳn là hiếm xẩy ra.

 

Vấn: Đức tin cùng với những tin tưởng về luân lý của một vị thẩm phán phải đóng vai trò ra sao nơi vị thế của họ với tư cách là một vị quan tòa vô tư không thiên về đảng phái nào?

Đáp: Bản Hiến Pháp Hoa Kỳ đã vượt ra ngoài niềm tin tôn giáo liên quan tới việc chọn lựa và phẩm chất thích đáng. Ở Khoản VI, bản Hiến Pháp ghi rằng: “Không bao giờ có chuyện Kiểm Thí đạo giáo như là một Phẩm Chất Thích Đáng cho bất cứ một Chức Vụ nào hay cho bất cứ Niềm Tin Tưởng chung này ở Hiệp Chủng Quốc”. Niềm tin tưởng về tôn giáo là những gì ngoài giới hạn nơi việc phân xử.

Vấn: Một vị thẩm phán Công giáo theo lương tâm tốt lành của mình có thể nào bác bỏ những luật lệ hạn chế việc phá thai mà họ tin là bất hợp hiến hay chăng? Trường hợp áp dụng những thứ luật bất chính thì thế nào? Vị thẩm phán phải làm sao trong trường hợp xẩy ra tình trạng xung khắc về luân lý?

Đáp: Theo lý lẽ đàng hoàng thì cần phải nhận rằng không một ai, dù có phận sự hay chăng, có thể đặt mình lên trên lề luật thần linh. Tuy nhiên, giáo huấn của Giáo Hội vẫn lập đi lập lại và thận trọng nhắm tới thành phần “viên chức được tuyển chọn” hay tới những ai “bỏ phiếu ở ngành lập pháp”.

Bởi vậy mà, chẳng hạn, không có gì là lạ khi thấy cả ông John Kerry hay Ted Kennedy được Giáo Hội kêu gọi hãy sử dụng những tặng ân lôi cuốn của họ để làm giảm thiểu về ngành lập pháp cái tác dụng của việc phá thai, chứ đừng trở thành những tay tuyên truyền cho vấn đề ấy.

Như thế thì thật là thích đáng khi Đức Giám Mục Slylstad đã viết cho Tổng Thống Bush, một viên chức được tuyển chọn, để kêu gọi thực hiện những qui chế chẳng nhưng tương hợp với niềm tin Công giáo mà còn – khi người ta xem xét đến những qui chế được đề cập tới trong bức thư của ngài – thực sự là những biểu hiện phổ quát cho tình yêu thương tha nhân.

Tuy nhiên, Giáo Hội không bao giờ chính thức hướng dẫn các vị thẩm phán hãy tác hành ở ngoài giới hạn phận vụ pháp lý của họ trong việc họ lấy quyền ban hành luật lệ. Giáo Hội tỏ ra rất tôn trọng đối với vấn đề phân chia quyền bính, ngay cả khi chính những điều công lý ít được trung thành tuân giữ bởi việc ngăn chặn vấn đề xây đắp về hiến pháp này.

Ở đây, Giáo Hội theo hướng dẫn của Thánh Tôma Aquinas, vị đã lập luận là “Tất cả mọi người đều phải tham phần một cách nào đó vào chính quyền; vì có thế mới bảo trì được hòa bình nơi dân chúng, và tất cả mới hài lòng với một việc sắp xếp các thứ như vậy và giữ gìn việc sắp xếp này”.

Dĩ nhiên, trên 30 năm qua có nhiều bất mãn tỏ ra đối với vụ Roe kiện Wade, vì trong số các lý do của mình, nó đã không tôn trọng những chọn lựa dân chủ của dân chúng.

Bởi thế mà trong khi các vị lãnh đạo Giáo Hội, theo quyền lợi công dân của mình, nêu lên trong bản công báo chung hay bản tường trình thân tình về việc các vị tin rằng vấn đề hiểu biết luật lệ một cách xác đáng không ủng hộ vấn đề phá thai theo nhu cầu đòi hỏi, thì một vị thẩm phán Công giáo lại thuộc về một guồng máy pháp lý bao gồm cả vụ Roe ấy nữa.

Trong việc phán quyết những vấn đề như vậy, vị thẩm phán về luân lý không tham phần vào hành động hệ trọng ấy cũng không dự phần vào ý hướng của hành động này. Nếu vấn đề là: thẩm phán John Roberts có một nhiệm vụ Công giáo đặc biệt nào nơi thẩm quyền của mình để hạn chế vấn đề phá thai hay chăng? Thì thẩm phán Scalia đã khéo léo trả lời là: “Một vị thẩm phán… không mắc lỗi lầm gì về luân lý cả đối với những luật lệ xã hội đã thất bại trong việc ban hành”.

Thực tế cho thấy, một khi căn cứ vào nguồn gốc pháp lý lờ mờ của nó, thì những việc biện hộ cho vấn đề phá thai theo nhu cầu đòi hỏi có thể cần phải được lưu ý hơn, nếu vào một ngày gần đây Tối Cao Pháp Viện trở lại với vấn đề phân chia quyền bính và tuân theo luật lệ của Bản Hiến Pháp như được viết ra – một trách nhiệm buộc tất cả mọi vị thẩm phán, dù là Công giáo hay không.

Vấn: Lề luật tự nhiên cần phải đóng một vai trò ra sao nơi công việc của vị thẩm phán? Các vị thẩm phán tìm được ở đâu những nguyên tắc bền vững để có thể hướng dẫn họ trong việc họ phán quyết?

Đáp: Lề luật tự nhiên, một lần nữa, là những gì được trực tiếp qui chiếu trong Bản Tuyên Ngôn, và nó thường được phản ảnh nơi khoa luật học chung ở tầm cấp quốc gia là tầm cấp có thể đóng một vai trò quan trọng nơi việc phân xử theo hiến pháp liên bang – chính thứ luật chung này đã cống hiến một cách rộng rãi ý nghĩa cho những từ ngữ như “của cải”, và cần phải được suy nghĩ một cách một cách sâu xa để có thể làm trọn nghĩa những từ ngữ như “sự sống” và “tự do” nữa.

Bởi vậy, theo phiên tòa đồng thanh nhất loại vào năm 1997, Vị Chánh Án Rehnquist đã thích đáng bác bỏ một điều yêu cầu tòa án cần phải nhìn nhận việc trợ tự tử như là một thứ quyền tự do được hiến pháp bảo vệ, vì “trên 700 năm, truyền thống luật chung của người Anh-Mỹ đã trừng phạt hay đã bác bỏ cả vấn đề tự sát và trợ tự sát”.

Ngoài những quyền lợi được bảo vệ theo văn từ thì chánh án Rehnquist đã viết rằng chỉ có những quyền tự do ‘bắt nguồn một cách khách quan và sâu xa từ lịch sử và truyền thống của Đất Nước này’, và ‘được chất chứa nơi quan niệm của thứ tự do trong trật tự’, như thế có nghĩa là ‘tự do hay công lý không thể nào tồn tại nếu chúng bị hy sinh đi, đều phải yêu cầu được nhìn nhận theo pháp lý – để rồi việc công nhận ấy cần phải ở mức độ tổng quan được “cẩn thận diễn tả”.

Những lập luận của lề luật tự nhiên là những gì hay nhất để hướng dẫn những ai phác họa hay ban hành luật lệ, thế nhưng có một số hiếm trường hợp nếu tòa án cần phải vượt ra ngoài giới hạn của bản văn đã được ban hành, thì những thứ giải thích về pháp lý không được phản lại với chính bản tính của con người, như ý nghĩ thảm thê của Roger Taney trong vụ Dred Scott kiện Sanford năm 1856, khi ông chối bỏ nhân tính của thành phần nô lệ, hoàn toàn coi thường ngôn từ về lề luật tự nhiên bao rộng hơn trong Bản Tuyên Ngôn là “tất cả mọi người đầu được dựng nên bình đẳng như nhau”.

Vấn: Nếu việc dẫn giải của Tối Cao Pháp Viện bắt đầu méo mó lệch lạc thì vị thẩm phán Công giáo cần phải sử dụng đến những phương tiện nào liên quan tới ý nghĩa của gia sản hiến pháp Hoa Kỳ cũng như đến những cách thức thích hợp của việc giải thích hiến pháp?

Đáp: Việc loan tin về diễn tiến của Tối Cao Pháp Viện hiện nay nơi các ngành truyền thông chính là những gì đáng tin ngắn hạn, và tôi thấy rằng Tín Vụ Công Giáo (Catholic News Service) thường cung cấp lời nhận định thích đáng và hợp thời ở các tờ báo giáo phận.

Các trường luật Công giáo cũng phát hành các tạp chí luật khoa thức giả, chẳng hạn như tờ Tạp Chí Luật Notre Dame, tờ Đạo Đức Học và Qui Chế Chung, và Tạp Chí Hoa Kỳ Ngành Luật Khoa, cũng của Notre Dame. Điểm Báo Đại Học Luật Khoa Công Giáo cũng có một thư mục về các nguồn luật pháp Công giáo trên mạng điện toán toàn cầu Đại Học Công Giáo Trường Luật Khoa Hoa Kỳ.

Các trường khác, như Villanova, Fordham và Ave Maria, cũng có những tờ đặc biệt và tiểu luận tập về các quan điểm Công giáo đối với luật lệ.

Ai triệt để chú trọng tới việc nghiên cứu sâu xa có thể khảo sát cuốn sách của tôi có những sự vụ và lịch sử về bản Hiến Pháp Hoa Kỳ từ một người chuyên chất và theo quan điểm luật lệ tự nhiên, đó là cuốn: “Lãnh Vực Hiếp Pháp Hoa Kỳ: Lịch Sử, Sự Vụ và Triết Lý”.

Sau hết, đối với thân hữu Điện Toán toàn cầu, Mirror of Justice blog cũng bao gồm cả một cuộc tham luận về vấn đề tiến triển về hiến pháp theo quan điểm Công giáo.
 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, theo Zenit ngày 29/8/2005