THÁNH ÐỊA - DẤU CHỈ THẦN LINH

Quá Trình Tranh Chấp và Vận Ðộng Hòa Bình

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,

viết và dịch theo tin tức liên tục của CNN và Zenit,

cách riêng tài liệu The Land of Conflict của CNN

 


Tình hình Trung Đông dằng dai và căng thẳng giữa hai phe Palestine và Do Thái cho tới nay khiến cho người viết cứ suy nghĩ về hai câu Thánh Kinh, một câu liên quan đến phe Palestine Ả Rập và một câu liên quan đến phe Do Thái.

Câu Thánh Kinh (Cựu Ước) liên quan đến phe Palestine Ả Rập, đó là câu Thiên Sứ phán với người nữ tỳ Ai Cập Hagar về tương lai của đứa con trai Ishmael đang ở trong bụng chị bấy giờ, đứa trẻ chị sẽ sinh ra cho ông chủ Abram của chị vì bà chủ Sarai của chị bị bất hạnh hiếm muộn: “Nó chống lại mọi người và mọi người chống lại nó” (Gen 16:12). Tình hình an ninh trên thế giới hiện nay cho thấy nạn khủng bố trên thế giới phát xuất từ dân Ả Rập Hồi giáo, và thế giới cũng đang liên kết để chống lại nạn khủng bố gây ra bởi những con người thuộc dân này.

Câu Thánh Kinh (Tân Ước) liên quan đến phe Do Thái là câu Thánh Phaolô Tông Đồ khẳng định về số phận của dân ấy: “Phần dân Do Thái đã bị mù quáng cho tới khi đủ số Dân Ngoại, tới lúc ấy tất cả dân Do Thái sẽ được cứu độ” (Rm 11:25-26). Tình hình hiện nay cho thấy dân Do Thái dường như không cần mong đợi một Vị Cứu Tinh, Vị Thiên Sai nữa, vì họ không bị một quyền lực chính trị nào chi phối, như thời đế quốc Rôma, thời điểm xuất hiện nhân vật Giêsu Nazarét, trái lại, họ còn làm chủ tình hình Trung Đông nói riêng, nhất là, làm điêu đứng cả một thế giới Ả Rập Hồi giáo khổng lồ về địa dư và dân số gấp trăm ngàn lần họ.

Chúng ta không biết dân Do Thái sẽ được cứu độ bằng cách nào, chỉ biết rằng khi đủ số Dân Ngoại thì họ được cứu, thế thôi. Nhưng làm thế nào để biết được còn bao nhiêu Dân Ngoại cần phải trở về nữa mới đủ số, hay ngược lại, cứ khi nào thấy Dân Do Thái bắt đầu tỏ ra nhận biết Giêsu Nazarét là Chúa Kitô, là Đấng Thiên Sai, thì đó là dấu cho thấy đã đủ số Dân Ngoại. Tuy nhiên, trong khi mong chờ điềm trời cho thấy ứng nghiệm lời tiên báo của Thánh Phaolô về số phận của dân Do Thái, chúng ta hãy theo dõi tình hình Trung Đông, một mảnh đất hữu thần và linh thánh nhưng liên lỉ xung khắc và trường kỳ xung đột
 

 

1)    QUÁ TRÌNH TRANH CHẤP

 

Những ranh giới Palestine và Việc Do Thái định cư

 

 

 

 

 

 

 

 

Phe Palestine nhấn mạnh rằng quốc gia của họ cần phải bao gồm tất cả mọi lãnh thổ bị phe Do Thái chiếm đóng từ cuộc chián tranh 1967, tưcùc là bao gồm Giải Gaza và vùng Tây Ngạn kể cả phía Đông Giêrusalem. Phe Do Thái không đồng ý, cho rằng vì nhu cầu an ninh của những người Do Thái mà cần phải có sự hiện diện của họ theo chính sách phác họa của vùng Tây Ngạn, và một số những cuộc định cư của người Do Thái xẩy ra trong những năm họ chiếm đóng cần phải được sát nhập vào nước Do Thái. Ủy ban tìm kiếm dữ kiện của nguyên Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ George Michell đã đề nghị vào ngày 21/5/2001 là chính quyền Do Thái hãy ngưng tất cả mọi hoạt động định cư, bao gồm cả việc phát triển tự nhiên của những cuộc định cư đang có, đồng thời cũng kêu gọi phe Palestine “hãy thực hiện 100% nỗ lực để ngăn cản những cuộc khủng bố và trừng phạt những tay vi phạm”.

Bản đồ những nơi dân Palestine cư trú

Quan điểm đôi bên về những vùng đất tranh giành. Theo phe Do Thái thì cộng đồng định cư Do Thái, lên tới khoảng 200 ngàn người ở vùng Tây Ngạn, cũng như những người bảo thủ đạo giáo thấy rằng vùng này là phần đất thánh kinh của dân Do Thái nên nhất định không chịu bỏ ý định kiểm soát vùng ấy. Những cuộc định cư của dân Do Thái ấy được coi là cần phải được bảo vệ an ninh. Những cuộc định cư ở giải Gaza ít đông dân Do Thái hơn ở vùng Tây Ngạn và là mảnh đất không có tầm quan trọng thánh kinh là bao đối với dân Do Thái. Còn theo phe Palestine thì những người thuộc phe này ngờ vực về những nỗ lực cứ muốn hiện diện của người Do Thái ở những vùng họ chiếm đóng vào năm 1967. Lãnh thổ được Thẩm Quyền Palestine Yasser Arafat bị phân lẻ và chia cắt bởi 144 cuộc định cư thường dân và quân đội Do Thái, làm suy yếu sức sống của việc kiểm soát của chính quyền Palestine. Những cuộc định cư ấy được coi như một khí cụ tiếp tục chiếm đóng với mục đích chia cắt quốc gia Paleatine sau này thành những phần không liên hệ gì với nhau.

Những miền đất bị chiếm đóng là phía Đông Giêrusalem, bao gồm cả trung tâm Cổ Thành xưa. Cả phe Palestine và Do Thái đều cho rằng Giêrusalem thuộc về họ. Đôi bên cũng đang tranh giành nhau giải Gaza và vùng Tây Ngạn. Ngoài ra, còn những điểm then chốt nữa là vùng biên giới giữa Do Thái và Lebanon, nơi chiến đấu quân Hezbollah đã d0ụng độ với quân đội Do Thái, và Cao Nguyên Golan, một bình nguyên ở phía tây năm Syria bị Do Thái chiếm đóng từ năm 1967.

Riêng Giêrusalem là một trong những vấn đề tranh giành đệ nhất nơi những cuộc thương thảo hòa bình giữa hai phe Palestine và Do Thái. Diểm nóng ở Giêrusalem này là ngọn đồi được phe Do Thái cho là Núi Đền Thờ (Temple Mount) và được phe Palestine cho là Thánh Cung Cao Quí (Haram al-Sharif). Sở dĩ đó là điểm nóng là vì nơi ấy được cho rằng có những tàng tích của ngôi đền thờ linh thánh nhất của Do Thái Giáo, một nơi lại bị ngự trị bởi Ngôi Vòm Đá (Dome of the Rock) và đền thờ Al-Aqsa là một dịa điểm đệ tam linh thánh của Hồi Giáo. Tuy nhiên, theo sự phân chia của Liên Hiệp Quốc năm 1947 thì Giêrusalem là một thành đô quốc tế chung cho quốc gia Do Thái và Palestine. Thế nhưng, phe Do Thái đã chiếm vùng phía Tây Giêrusalem sau cuộc chiến tranh giành độc lập của họ và chiếm cả vùng phía Đông Giêrusalem là vùng bao gồm cả Ngôi Vòm Đá năm 1967. Tất nhiên dân Do Thái sống đông đúc ở miền Tây Giêrusalem và dân Ả Rập ở miền Đông Giêrusalem.

Quan điểm đôi bên về vị thế của Giêrusalem: Theo Do Thái thì việc thôi không kiểm soát, ngay cả những vùng lân cận Palestine thuộc phía Đông Giêrusalem hay phía Cổ Thành đi nữa, là một lằn đỏ đối với nhiều người Do Thái coi Giêrusalem là tâm điểm của phong trào Do Thái Phục Quốc và là một phần quan trong thuộc căn tính Do Thái. Họ muốn bảo đảm là họ vẫn có thể đến những địa điểm họ coi là linh thánh và họ không muốn thương thảo về điểm này. Còn theo phe Palestine thì những địa điểm ở Cổ Thành Giêrusalem là nơi có các địa điểm linh thánh của chẳng những người Palestine mà còn của cả thế giới Ả Rập và Hồi Giáo nữa. Thế nhưng, Tổng Thống Yasser Arafat thuộc Thẩm Quyền Palestine đã không thể giải quyết nổi vấn đề này theo những gì ông yêu cầu ở Camp David.

 

Thánh Địa và Trung Đông: Biến Cố Biên Niên
 

1000 BC - Vương Quốc Do Thái: Vào cuối thiên kỷ thứ hai trước Chúa Kitô Giáng Sinh, Moisen dẫn dân Do Thái ra khỏi nước Ai Cập để đến “Đất Hứa” là Canaan. Vào đầu thế kỷ 12 BC, miền này đã bị dân du mục Philistines chiếm cứ khoảng 150 năm. Có những lúc người Hy Lạp và Rôma đã gọi miền này là “Đất của Người Philistines” và tên gọi Palestine được phát xuất từ đó. Dân Do Thái đã thành lập vương quốc của mình dưới thời vua Saolê vào khoảng năm 1020 BC. Đền thờ Giêrusalem được xây cất và hoàn thành vào đời vua thứ ba của vương quốc Do Thái là Solomon. Đến độ năm 950, tức sau đời vua Solomon, thì vương quốc Do Thái trở thành hai nước: nước Israel có thủ đô là Samaria, và nước Giuđa có thủ đô là Giêrusalem.
 

312 AD - Kitô Giáo và Thánh Địa: Qua các thế kỷ, Palestine bị các đế quốc cai trị, như đế quốc Ba Tư, Babylon, Assyria, Hy Lạp và Rôma; đế quốc cuối cùng kéo dài tới cả thời của Chúa Giêsu. Vào năm 312 sau Chúa Kitô Giáng Sinh, Hoàng Đế Rôma Constantine trở lại Kitô giáo, và Giêrusalem trở thành mục tiêu hành hương của Kitô hữu. Truyền thống cho rằng Chúa Giêsu bị đóng đanh và chôn táng ở địa điểm Ngôi Thánh Đường Mồ Thánh ở Giêrusalem bây giờ.
 

691 – Ngôi Đền Hồi Giáo ở Giêrusalem: Những người Ả Rập Hồi Giáo, dưới quyền lãnh đạo của Umar đã chiếm Palestine vào năm 640, và vào năm 691 đã xây cất một trong những đền thờ linh thánh nhất của Hồi Giáo ở đó là Ngôi Vòm Đá, ngay ở vị trí của Ngôi Đền Do Thái đã được vua Solomon xây cất ở Giêrusalem trước kia. Di95a điểm này được chọn để xây đền thờ Hồi Giáo vì chỗ ấy được tin rằng là nơi tiên tri Mohammed về trời.

 

1516 – Đế Quốc Ottomans: Mảnh đất Thánh Địa tranh chấp giữa Do Thái và Palestine này được chấm dứt vào năm 1291 khi đám nô lệ hiếu chiến Mamluks nổi dậy lất đổ những nhà cầm quyền Ai Cập và thiết lập triều đại trong vòng 260 năm ở Trung Đông. Sau đó, họ bị những người Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman lật đổ và chiếm Palestine gần 300 năm.

 

1882 – 1897 – Phong Trào Quốc Gia: Để phản ứng trước tình trạng càng ngày càng tăng về việc chống lại giống dân Semitism (cả Do Thái lẫn Ả Rập) ở Âu Châu vào cuối thế kỷ 19, một số người Do Thái Âu Châu có uy thế đã thành lập một phong trào gọi là Zionism (Do Thái Phục Quốc) với mục đích để tái thiết quê hương Do Thái ở Palestine. Trong những năm trước Thế Chiến I (1914-1918), những nhà Phục Quốc Do Thái thiết lập được 12 thuộc địa ở Palestine giữa một thành phần dân chúng hầu hết là Ả Rập và Hồi Giáo. Nhiều cuộc định cư của người Do Thái đã xẩy ra ở phần đất mua được từ những người Ả Rập. Phong trào quốc gia bấy giờ cũng bắt đầu nổi lên để chống lại việc thống trị của người Thổ Nhĩ Kỳ.
 

1917 – Arhtur J. Balfour: Sau Thế Chiến I, Hiệp Vương Quốc (United Kingdom of Great Britain) kiểm soát Palestine và chấp nhận tư tưởng của Bộ Trưởng Ngoại Giao Arthur J. Balfour về “một ngôi nhà quốc gia” cho những người Do Thái. Hiệp Vương Quốc cũng hứa tôn trọng quyền lợi của những người không phải là Do Thái ở miền ấy, và cho phép các vị lãnh đạo Ả Rập được quyền tự trị. Tuy nhiên, chính vì thế mới có chuyện hiểu lầm tai hại là những người Ả Rập tưởng Palestine là một quốc gia độc lập của người Ả Rập là những gì không đúng với ý định của Hiệp Vương Quốc.
 

1920 – Đụng độ vũ khí: Hiệp Vương Quốc Anh bắt đầu cai trị Palestine năm 1920. Họ tuyên bố sẽ thiết lập một quê hương cho người Do Thái ở vùng này, thế nhưng quê hương này sẽ hiện diện ở Palestine và không bao gồm toàn xứ sở ấy. Bởi thế đã xẩy ra ngay trong năm nay những cuộc nổi loạn của người Ả Rập chống lại phong trào Phục Quốc Do Thái, và năm 1929, một cuộc tranh chấp về Bức Tường Than Khóc đã châm mồi cho cuộc nổi loạn nữa của người Ả Rập và gây nên một cuộc triệu tập Thánh Chiến Hồi Giáo. Kết quả là những người Do Thái bắt đầu tự vệ và cả hai bên gây ra những cuộc khủng bố tấn công nhau.
 

1937 – Đức Quốc Xã Nazi: Cuộc nổi dậy của Đức Quốc Xã ở Âu Châu đã tăng sức cho phong trào Phục Quốc Do Thái, và Hiệp Vương Quốc đã tăng con số di dân Do Thái về Palestine từ 5 ngàn vào năm 1932 lên 62 ngàn vào 3 năm sau đó. Sợ rằng những người Do Thái sẽ nắm quyền kiểm soát, những người Ả Rập đã bắt đấu thực hiện một loạt tấn công và tẩy chay. Một ủy ban của Hiệp Vương Quốc dự định là Palestine phải được phân chia thành nước Do Thái, Ả Rập và Hiệp Vương Quốc, một điều đã được thành phần Phục Quốc Do Thái ưng thuận không cần suy nghĩ. Thế nhưng những người Ả Rập bác bỏ tư tưởng này, cương quyết chống lại dự án thành lập một quốc gia Do Thái. Trong vòng 12 năm, từ 1933 đến 1945, thời gian tế thần (Holocaust) dân Do Thái, Adolf Hitler của Đức Quốc đã bách hại những người Do Thái và các đám dân thiểu số. Đức Quốc Xã đã sát hại khoảng 6 triệu người Do Thái trong khoảng thời gian ấy.
 

1939-1947 - Thế Chiến Thứ Hai: Các người Do Thái tị nạn từ cuộc bách hại để Tế Thần ở Âu Châu đã đổ về Palestine vào thời Thế Chiến Thứ II (1939-1945), khiến cho việc thành lập một quốc gia Do Thái lại càng trở nên khẩn trương. Những người Ả Rập thành lập Hiệp Hội Ả Rập như là một lực lượng chống lại phong trào Phục Quốc Do Thái. Vào năm 1947, Hiệp Chủng Quốc đã bỏ phiếu để phân chia Palestine thành hai quốc gia Ả Rập và Do Thái, trong đó nước Do Thái chiếm 55% lãnh thổ bên phía tây sông Dược-Đăng, còn Giêrusalem được ấn định là một khu vực quốc tế.
 

1948-1949 – Độc lập, chiến tranh và đình chiến: Bản tuyên ngôn của nhà lãnh đạo phong trào Phục Quốc Do Thái David Ben-Gurion ở Tel Aviv ngày 14/5/1948 công nhận Do Thái là một quốc gia độc lập đã châm mồi cho lực lượng đồng minh Ai Cập, Syria, Transjordan, Lebanon và Iraq thực hiện việc tấn công xâm chiếm nước Do Thái. Thế mà, sau 15 tháng, những người Do Thái chẳng những không bị thua mà còn nới rộng quyền lực của mình tới miền bắc Galilê và miền nam Negev. Việc đình chiến bảo đảm đã chia cắt Giêrusalem giữa Do Thái và Jordan, nhưng còn số mệnh của 400 ngàn người Ả Rập Palestine chạy loạn trong thời gian chiến tranh đang ở những lều trại gần biên giới không được giải quyết.
 

1956 – Cuộc chiến ở Sinai: Những cuộc săn bắt và nổi dậy giữa những người Ả Rập và Do Thái, cùng với việc Ai Cập chiếm Kinh Đào Suez đã khiến Do Thái xâm chiếm Đảo Sinai. Trong khi Pháp và Hiệp Vương Quốc kiểm soát kinh đào Suez thì Do Thái chiếm giải Gaza và Sharm el Sheikh ở mũi nhọn Đảo Sinai là chỗ kiểm soát ngõ ra vào Vịnh Aqaba và Ấn Độ Dương. Do Thái đã rút quân vào năm 1957 khi vịnh này được Liên Hiệp Quốc bảo toàn.
 

1959 – Al Fatah và PLO: Yasser Arafat và Abu Jihad (Khalil al-Wazir) thành lập Al Fatah, một từ ngữ viết tắt của Phong Trào Quốc Gia Giải Phóng Palestine (Palestine National Liberation Movement). Phong trào này phát triển nhanh chóng vào thập niên 1960 và trở thành một lực lượng lớn nhất và giầu nhất của phe Palestine. Vào năm 1969, Arafat trở thành chủ tịch của phong trào này PLO (Palestine Liberation Organization), một nhóm được thành lập từ năm 1964 như là một cái dù che chở cho những khối khác nhau đang tham chiến chống đánh Do Thái. Tổng Hội Đồng Liên Hiệp Quốc đã bỏ phiếu ban cho PLO vị thế làm quan sát viên ở Liên Hiệp Quốc vào tháng 11/1974.
 

1967 – Cuộc chiến 6 ngày: Vào Tháng 5/1967, Ai Cập đóng Vịnh Aqaba không cho tầu bè của Do Thái đi lại, và bắt đầu vận động lực lượng tấn công Do Thái. Syria và Jordan cũng tiến đến chỗ tấn công Do Thái. Để đối đầu, Do Thái đã tấn công họ. Từ ngày 5/6, không quân Do Thái đã phá hủy các máy bay của Ai Cập còn ở trên mặt đất. Được yểm trợ bởi không lực trên trời, các đoàn xe tăng và bộ binh của Do Thái đã chiếm đảo Sinai 3 ngày. Ngoài ra, Do Thái cũng làm chủ cả vùng Cao Nguyên Golan, miền Tây Ngạn Sông Dược-Đăng, bao gồm cả Cổ Thành Giêrusalem (là nơi sau này Do Thái chiếm cứ), và giải Gaza. Cuộc chiến này đã được chấm dứt vào ngày 10/6, nhờ Liên Hiệp Quốc can thiệp.
 

1970 – PLO bị đẩy lui: Những cuộc đụng độ bằng những loại súng cối giữa Do Thái và Palestine ở Jordan, cùng với những cuộc không tặc do các tay hiếu chiến Palestine gây ra, đã khiến cho người ta sợ rằng Jordan có thể sẽ bị PLO chiếm cứ. Quân đội Jordan đã đẩy lui PLO ra khỏi xứ sở của họ vào năm 1971, và PLO tái định quân tại Lebanon. Vào Tháng 9/1972, một nhóm hiếu chiến được gọi là Tháng Chín Đen đã giết chết 11 lực sĩ Do Thái tại Thế Vận Hội ở Munich Đức Quốc.
 

1973 – Cuộc chiến tranh Yom Kippur: Ai Cập và Syria cùng nhau tấn công Do Thái vào ngày 6/10 năm này, ngày lễ Yom Kippur của Do Thái. Iraq cũng tham gia cuộc tấn công ấy, và các quốc gia Ả Rập khác ra tay hỗ trợ cuộc tấn công. Bị đánh bất ngờ, Do Thái đã mất mấy ngày để lấy lại thăng bằng, với số tử thương nặng nề, nhưng đã đẩy lui được lực lượng tấn công. Thậm chí Do Thái đã đẩy lực lượng Ai Cập sang bên kia Kinh Đào Suez và chiếm vùng tây ngạn kinh đào này. Do Thái cũng chiếm những vùng lớn của lãnh thổ Syria trước khi các lực lượng Ả Rập đồng ý ngừng chiến do Liên Hiệp Quốc sắp xếp. Qua một loạt hiệp ước năm 1974, Do Thái đã đồng ý rút lực lượng của họ khỏi kinh đào Suez về lại Sinai và tiến đến chỗ ngừng chiến với Syria. Thế nhưng, cuộc chiến này đã làm cho Do Thái trở thành một quyền lực chủ chốt trong vùng.
 

1979 – Những hiệp ước Camp David: Ai Cập và Do Thái đã ký một hiệp ước hòa bình vào ngày 26/3 chính thức chấm dứt tình trạng chiến tranh xẩy ra giữa họ trong 30 năm qua. Để đáp lại việc Ai Cập nhìn nhận Do Thái có quyền hiện hữu, Do Thái đã trả lại cho Ai Cập Đảo Sinai. Hai nước này còn chính thức thiết lập ngoại giao với nhau nữa.

 

1982 – Cuộc chiến ở Lebanon: Chỉ sau ít tuần rút khỏi Sinai, những chiếc phản lực của Do Thái đã dội bom các thành trì của PLO ở Beirut và miền nam Lebanon bằng những cuộc săn đuổi trả đũa. Sau đó ít lâu, quân đội Do Thái đã xâm chiếm Lebanon và bao vây Beirut đang lưỡng lự thương thảo với PLO. Sau 10 tuần lễ hết sức trốn tránh, PLO đồng ý rời Beirut dưới sự bảo vệ của một lực lượng đa quốc và tại định quân ở các quốc gia Ả Rập khác. Giai đoạn này đã làm lũng đoạn vai trò lãnh đạo của PLO. Do Thái đã rút quân khỏi hầu hết ở Lebanon vào năm 1985, nhưng tiếp tục giữ một giải đất dọc theo lãnh thổ của mình do họ chiếm cứ vào năm 1978. Do Thái đã rút quân khỏi miền nam Lebanon vào tháng 5/2000.
 

1987 – Cách mạng Intifada: Sau 20 năm bị chiếm cứ, những người Palestine ở giải Gaza, vùng Tây Ngạn và Giêrusalem nổi loạn chống lại những người Do Thái. Những cuộc cách mạng này tiếp tục xẩy ra nhiều năm, và Yasser Arafat đã tuyên bố rằng PLO là chính phủ lưu vong của “Quốc Gia Palestine”. PLO chính thức công nhận quyền hiện hữu của Do Thái vào năm 1988. Tuy nhiên, trong những cuộc điều đình về hòa bình không có PLO.

 

1993 – Bắt tay hiệp định: Những cuộc điều đình bí mật ở Oslo, Na Uy, giữa Do Thái và PLO đã đưa đến việc nhìn nhận lẫn nhau, giới hạn phe Palestine tự trị ở Jericho và giải Gaza, và những khoản giành cho một hiệp ước vĩnh viễn trong việc giải quyết tình trạng giải Gaza và vùng tây Ngạn. Bản hiệp định này được ký ở Washington, và được đánh dấu lịch sử bằng cái bắt tay giữa Arafat và Thủ Tướng Do Thái Yitzhak Rabin. Rabin, Arafat và Bộ Trưởng Ngoại Giao Do Thái Shimon Peres đã được giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1994 về những nỗ lực của họ.
 

1994 – Cuộc tàn sát và rút lui: Vào tháng Hai năm này, một tay Do Thái cực đoan đã giết 39 người Palestine khi họ đang cầu nguyện ở một đền thờ vùng Tây Ngạn. Tình hình căng thẳng tăng lên. Tuy nhiên, vào tháng Năm, Do Thái đã rút lui khỏi Jericho ở vùng Tây Ngạn và khỏi giải Gaza. Vào tháng Bảy, Arafat tiến vào giải Gaza và đã bắt các phần tử của Thẩm Quyền Palestine phải thề hứa, thành phần kiểm soát việc giáo dục và văn hóa, tình trạng an sinh xã hội, du lịch, sức khỏe và thuế má.
 

1995 – Cuộc ám sát Rabin: Vào tháng Chín, Rabin và Peres đã ký một thỏa ước cho phe Palestine được nới rộng quyền tự trị ở vùng Tây Ngạn cũng như cho Thẩm Quyền Palestine được quyền kiểm soát sáu tỉnh lớn ở Tây Ngạn. Rabin đã bị ám sát ở một cuộc xuống đường hòa bình hai tháng sau đó bởi một sinh viên luật Do Thái có liên hệ với những tay cực đoan khuynh hữu.

 

1996 – Những cuộc bầu cử: Qua những cuộc bầu cử lần đầu tiên chưa bao giờ có của những người Palestine, Arafat đã được nhiệt liệt chọn bầu làm tổng thống của Thẩm Quyền Palestine. Còn bên phía Do Thái thì lại xẩy ra một vụ những tay Hồi Giáo cực đoan cho nổ bom một chiếc xe bus đầy người làm tử thương 25 mạng và gây thương tích cho hằng chục người trong cuộc bầu cử vị thủ tướng Do Thái. Vị lãnh đạo Đảng Likud là Benjamin Netanyahu đã thắng Perez khít khao. Netanyahu và Arafat đã thề hứa hoạt động để đi đến một thỏa ước hòa bình tối hậu. Chính quyền Do Thái sau đó trong cùng năm ấy đã quyết định chấm dứt cuộc ngưng xây cất nơi những vùng chiến đóng. Những cuộc đụng độ đã tiếp tục xẩy ra giữa những người Palestine và kiều dân Do Thái ở những vùng Do Thái chiếm đóng này.
 

1997 – Vấn đề trả đất, gia cư và Hamas: Tỉnh Hebron ở vùng Tây Ngạn được trả về cho quyền kiểm soát của người Palestine sau 30 năm dưới quyền của Do Thái. Thế nhưng Netanyahu đã phê chuẩn một dự án gia cư Do Thái mới rộng lớn ở phía đông Giêrusalem. Cuộc bạo động bùng nổ. Trong số những cuộc bạo động này quan trọng nhất là vụ ôm bom tự tử tại một khu chợ ngoài trời ở Giêrusalem, sát hại 15 mạng và gây thương tích cho 170 người. Một nhóm Palestine cực đoan đã bắt Hamas phải chịu trách nhiệm về vụ ấy, và Nội Các Do Thái nhấn mạnh là việc điều đình hòa bình chỉ có thể tiếp tục chỉ khi nào chấm dứt các cuộc khủng bố tấn công mà thôi.
 

1998 – Hòa ước Wye Mills: Sau cả năm trời thương thảo tắt nghẽn hầu như không đi đến đâu và một cuộc họp căng thẳng 21 tiếng đồng hồ được phối kết bởi tổng thống Bill Clinton, Netanyahu và Arafat đã ký một bản điều đình land-for-peace ngày 23/10 tại Wye Mills ở tiểu bang maryland. Bản điều đình này kêu gọi chấm dứt các cuộc khủng bố, tái phối trí quân đội Do Thái, chuyển 14.2% phần đất thuộc vùng Tây Ngạn cho phe Palestine, mở những lối đi an toàn cho người Palestine giữa giải Gaza và vùng Tây Ngạn, thả 750 người Palestine khỏi ngục tù của phe Do Thái và mở một phi trường cho người Palestine ở Gaza.
 

1999 – Ehud Barak: Trong cuảc bầu cử thủ tướng Do Thái vào Tháng Năm, Ehud Barak thuộc Đảng Lao Động Ôn Hòa đã thắng Netanyahu khít khao. Do Thái đã thả 200 tù nhân Palestine và bắt đầu chuyển vùng đất Tây Ngạn cho thẩm quyền Palestine theo bản điều đình Wye Mills năm trước.


 

2000 – Cuộc chiến không lối thoát tăng thêm: Tổng thống Clinton của Hoa Kỳ đã điều động một cuộc họp thượng đỉnh giữa Barak và Arafat ở Camp David vào Tháng Bảy cho hòa ước cuối cùng được dự định cùng lắm vào ngày 13/9. Thế nhưng, cuộc điều đình đã chấm dứt sau 15 ngày, chẳng có thỏa ước gì với nhau cả. Arafat bác bỏ lời điều đình của Barak về việc cho Palestine kiểm soát hầu hết chứ không phải tất cả lãnh thổ bị Do Thái chiếm đóng từ cuộc Chiến Tranh Sáu Ngày Năm 1967. Vào cuối Tháng Chín, nhà lãnh đạo chống nhóm khuynh hửu Do Thái là Ariel Sharon đã dẫn một phái đoàn đại biểu đến một vị trí ở Giêrusalem mà cả Do Thái lẫn Hồi Giáo đều coi là linh thánh. Những đám đông người Palestine ở giải Gaza và vùng Tây Ngạn đã bắt đầu tấn công các lực lượng an ninh của Do Thái sau chuyến viếng thăm gây rắc rối này. Tình trạng bạo loạn tiếp tục xẩy ra ở cả đôi bên. Bị mất ủng hộ, Barak đã từ chức vào Tháng 12, kêu gọi một cuộc bầu cử thủ tướng vào tháng Hai 2001.
 

2001 – Sharon và tình trạng bạo động mới: Tổng thống Clinton mãn nhiệm kỳ vào tháng Giêng mà hai phe Do Thái và Palestine vẫn xung khắc nhau. Sau những tháng ngày leo thang bạo động giữa phe Palestine và Do Thái, vị lãnh đạo đảng Likud là Ariel Sharon đã thắng Ehud Barak khít khao vào ngày 6/2. Cuộc khủng bố tấn công Hoa Kỳ ngày 11/9 đã làm phát sinh một tiến trình hòa bình mới ở Trung Đông. Thế nhưng tình trạng bạo động lại bùng nổ vào tháng 12, sau những cuộc nổ bom ở Giêrusalem và ở thành phố Haifa ở miền bắc hải cảng Do Thái, làm cho 25 người Do Thái bị thiệt mạng cùng với 3 tay ôm bom tự sát. Những cuộc tấn công này đã khiến cho quân đội Do Thái phải nhắm những mục tiêu Palestine ở vùng Tây Ngạn và giải Gaza, và tình hình bạo loạn mới lại xẩy ra, gây cản trở cho tiến trình hòa bình một lần nữa.
 

2002 – Bạo Lực gia tăng bất chấp nỗ lực ngoại giao: Tình hình Trung Đông càng trở nên trầm trọng hơn bao giờ hết. Các lực lượng Do Thái xâm chiếm các trại tị nạn của người Palestine để truy lùng những gì phe Do Thái gọi là những tay hiếu chiến, trong khi đó xẩy ra vô số cuộc ôm bom tự sát được thực hiện bởi các tổ chức Hamas, Islamic Jihad và Al A qsa Martyrs Brigades. Vua Saudi là Abdullah đã đưa ra một dự án hòa bình, trong đó phe Palestine phải nhìn nhận quyền lợi của phe Do Thái để đánh đổi những ranh giới đã bị phe Do Thái chiếm đóng trước năm 1967. Tứ Khối Trung Đông là Hiệp Chủng Quốc, Nga, Khối Hiệp Nhất Âu Châu và Liên Hiệp Quốc sau đó đưa ra một dự án ba giai đoạn đề nghị thành lập một quốc gia Palestine và hòa ước tối hậu vào năm 2003. Thế nhưng các viên chức phe Palestine và Do Thái đều không tiến đến bất cứ một đồng ý nào chính yếu cả.
 

2003 – “Lộ Trình” tiến đến hòa bình ở Trung Đông: Cuộc cách mạng thứ hai tiếp rục xẩy ra với những cuộc ôm bom tự sát ở Tel Aviv và Haifa. Phe Do Thái trả đũa những tay khủng bố Palestine và những nhà của những tay ôm bom tự sát. Thủ Tướng Sharon tái đắc cử vào Tháng Giêng 2003. Đảng Lao Động chống đối không lấy được lòng dân chúng sau khi vị lãnh đạo của đảng này là Amram Mitzna vận động dự án rút các kiều dân Do Thái và các lính Do Thái khỏi Gaza và tái lập việc thương thảo với người Palestine, kể cả với Yasser Arafat.

 

 

2004 – Bức Tường Rào Cản “Lộ Trình” hòa bình: Sau một thời gian lắng dịu bạo động, ngoại trừ tình trạng vẫn căng thẳng về tình hình an ninh liên quan đến việc thiết dựng bức tường rào cản của Do Thái để ngăn chặn trào lưu khủng bố của Palestine, lại tái diễn cảnh Palestine khủng bố tấn công hôm Thứ Năm 28/1/2004, và Do Thái tấn công khủng bố từ Thứ Sáu 29/1 kéo dài cho đến Chúa Nhật 1/2/2004. Tòa Công Pháp Quốc Tế Liên Hiệp Quốc này ở Hòa Lan hôm Thứ Hai 23/2/2004 đã xử vụ Palestine tố cáo việc thiết dựng các thứ rào cản của Do Thái là bất hợp pháp. Bên Do Thái cho là tòa án này không có thẩm quyền xử việc họ làm, vả lại việc họ làm là vì để ngăn chặn nạn khủng bố của Palestine. Thứ Sáu 9/7/2004, tại Hague, tòa án này đã thúc giục Do Thái hãy hủy bỏ bức tường rào cản này đi ở những vùng đất do họ chiếm đóng. Vì bức tường rào cản này vi phạm đến quyền lợi của dân Palestine. Bức tường rào cản này dài 425 dặm, đã được xây dựng từ năm 2002. Ở một số nơi nó chỉ là hàng rào, và ở các nơi khác nó là một bức tường ximăng cốt sắt. 

2005 - Hòa Bình như một Chớp Sáng Vụt Tắt: Đầu năm 2005 đã mở ra một chân trời rất rạng ngời cho Thánh Địa khi hai vị lãnh đạo cao cấp của Do Thái là Sharon và Tổng Thống Thẩm Quyền Palestine là Abbas gặp nhau vào ngày 8/2/2005, với những lời tuyên ngôn ngưng chiến và quyết tâm tiến tới hòa bình giữa đôi bên. Thế rồi, bên Do Thái, bất chấp những chống đối nội bộ, cũng đã thực hiện lời hứa quyết rút lui khỏi giải Gaza vào ngày 11-12/9/2005, sau 38 năm chiếm đóng khu vực này. Tuy nhiên, vào chiều hôm Thứ Tư 26/10/2005, nhóm Thánh Chiến Hồi Giáo tự nhận mình đã thực hiện cuộc tự sát khủng bố tấn công vào một khu chợ trời, 40 dặm hay 64 cây số ở miền bắc thủ đô Tel Aviv, gây thiệt mạng cho 5 người Do Thái, và làm 28 người bị thương, trong đó có 6 người trọng thương. Trước những cuộc khủng bố tấn công từ bên Palestine như thế, Do Thái đã không nhường nhịn nữa. Bởi thế, sau mấy tiếng đồng hồ Thủ Tướng Sharon thề sẽ đập tan thành phần khủng bố để trả đũa cuộc khủng bố tấn công của họ, chiều tối hôm Thứ Năm, 27/10/2005, lực lượng Do Thái đã dội bom để triệt hạ một chiếc xe chở dân quân Palestine ở phía bắc Thành Gaza, hạ sát 7 người, trong đó có một chỉ huy trưởng Thánh Chiến Quân Hồi Giáo là Shadi Mohanna. Vị thủ tướng Do Thái còn tuyên bố rằng ông sẽ không gặp Tổng Thống Thẩm Quyền Palestine cho đến khi vị lãnh đạo Palestine tỏ ra “những hành động nghiêm trọng và tỏ tường chống lại nạn khủng bố”. Vị thủ tướng này cũng chấp thuận một số biện pháp chống khủng bố tấn công, kể cả việc hạ sát và giam giữ.  

2006 - Khủng Hoảng chia rẽ bên lực lượng Palestine: Thứ Năm, 26/1/2006, bầu trời Trung Đông chấn động vì kết quả cho thấy xuất hiện một đảng phái chủ trương bạo động giành được trong tay quyền lực chính trị ở ngay vùng đất vốn đã nóng bỏng suốt cả nửa thế kỷ 20 vừa qua. Thật vậy, Đảng Fatah, một đảng nắm quyền hạn từ khi thành lập Thẩm Quyền Palestine là năm 1965, đảng được nhà lãnh đạo Palestine đầu tiên là Arafat sáng lập cho tới khi ông qua đời vào tháng 11/2004, giờ đây đã hết thời. Ở vùng Tây Ngạn, thành phần ủng hộ hai đảng phái đã ẩu đả nhau hôm Thứ Năm ở bên ngoài tòa nhà quốc hội khi nhóm ủng hộ đảng Hamas cố gắng dương lá cờ xanh của đảng Hamas lên. Đương kim Tổng Thống Mahmoud Abbas, hôm Thứ Bảy 18/2/2006, đã yêu cầu Hamas thành lập chính phủ tương lai cho Palestine, nhưng yêu cầu những tay hiếu chiến Hồi Giáo nhìn nhận những dự án hòa bình đang có và theo chiều hướng chính sách ôn hòa của ông, bao gồm cả việc điều đình với Do Thái, như là một “sự lựa chọn về sách lược … duy nhất” của người Palestine. Thế nhưng, cũng vào cùng ngày, Hamas đã cự tuyệt những yêu cầu của vị đương kim tổng thống này, quyết không theo những gì vị tổng thống này đề ra cho họ. Họ sẽ hủy diệt Do Thái, chống lại dự án hòa bình của thập niên 1990 và không chịu tỏ ra ôn hòa, bất chấp áp lực của quốc tế và những đe dọa dữ dội của Do Thái, kể cả việc bị Do Thái phong tỏa Giải Gaza. Tuy nhiên, chính vì chủ trương bạo động của Đảng Hamas nắm chính quyền mà Palestine đã gặp trục trặc trong vấn đề viện trợ vốn có từ các cường quốc Hoa Kỳ và Tây phương, đến nỗi một cuộc nội chiến đã bùng nổ giữa Đảng Hamas (của Thủ  Tướng đương nhiệm) và Đảng Fatah (của Tổng Thống đương nhiệm). Mãi cho đến ngày Thứ Năm 25/1/2007 mới được tạm ổn sau khi hai nhà lãnh đạo hai Đảng gặp nhau ở Thánh Đô Hồi Giáo Mecca.

 

2)    VẬN ÐỘNG HÒA BÌNH

 

TỪ CHÍNH GIÁO HOÀNG RÔMA

 

Để thấy được Giáo Hội Công Giáo nói chung và Vị Lãnh Đạo Giáo Hội này nói riêng là Đức Giáo Hoàng nói riêng, chúng ta hãy đọc lại những lời của các vị, từ năm 2001 tới 2007, trong các sứ điệp cho Ngày Hòa Bình Thế Giới đầu năm dương lịch 1/1, cũng như những diễn từ ngỏ cùng phái đoàn ngoại giao chư quốc với Quốc Đô Vatican vào dịp chúc tân niên hằng năm theo truyền thống vào Thứ Hai tuần thứ hai trong Tháng Giêng, khi các vị bày tỏ nhận định và quan tâm, nhất là những lời kêu gọi thực hiện tiến trình hòa bình cho vùng đất đầy nhức nhối hơn nửa thế kỷ này.

 

ĐTC GPII

 

1/1/2002: "Khi suy tư về việc thứ tha, tâm trí chúng ta tự nhiên nghĩ đến một số trường hợp xung khắc không ngừng nuôi dưỡng những mối hận thù sâu đậm và chia rẽ, cùng với thảm cảnh cá nhân cũng như đoàn thể liên tục diễn ra hầu như không thể chấm dứt được. Tôi muốn đặc biệt nói đến những gì đang xẩy ra ở Thánh Địa, nơi ân phúc cho việc Thiên Chúa gặp gỡ loài người ấy là nơi Chúa Giêsu, Vua Bình An, đã sinh sống, tử nạn và phục sinh từ trong cõi chết. Tình hình quốc tế rắc rối hiện nay lại càng thúc đẩy việc cần phải giải quyết vấn đề xung khắc giữa Ả Rập và Yến Duyên, một tình trạng xung khắc xẩy ra cho tới nay đã trên 50 năm… Quyền lợi và đòi hỏi của mỗi bên có thể được cứu xét một cách xứng hợp và phân xử một cách quân bình, trừ phi họ muốn chấp nhận công lý và hòa giải".

 

10/1/2002: “Thánh Địa, nơi Đấng Cứu Thế đã sinh vào trần gian, qua lầm lỗi của con người, vẫn còn là một mảnh đất máu lửa. Không ai có thể làm ngơ trước bất công mà dân Palestina là nạn nhân phải chịu hơn 50 năm qua. Không ai có thể phản đối quyền sống an ninh của dân Do Thái. Thế nhưng, không ai được quên đi những nạn nhân vô tội ở cả hai bên hằng ngày vẫn bị dập vùi dưới những trận bạo lực. Vũ khí và các cuộc tấn công sắt máu không bao giờ là cách đúng đắn về mặt chính trị để nói cho bên kia biết mặt cả. Tôi đã nhiều dịp nói là, chỉ khi nào biết tỏ ra tôn trọng kẻ khác cũng như tôn trọng những ước nguyện hợp pháp của họ, biết áp dụng luật lệ quốc tế, biết giải tỏa những phần đất bị chiếm cứ và tình trạng đặc biệt được quốc tế bảo đảm cho hầu hết các nơi thánh ở Giêrusalem, mới có thể mở màn cho cuộc sống an bình nơi phấn đất thế giới ấy, cũng như mới có thể giải được cái vòng vây nung nấu hận thù và trả đũa”.

 

1/1/2003: "Có lẽ ngày nay không đâu có một nhu cầu hiển nhiên về việc sử dụng xác đáng thẩm quyền chính trị cho bằng ở tình hình thê thảm của Trung Đông và Thánh Địa. Từ ngày này sang ngày khác, năm này sang năm khác, hậu quả chồng chất của việc loại trừ nhau một cách gay cấn, cùng với một chuỗi không ngừng tình trạng bạo loạn và trả đũa đã làm tiêu tán hết mọi nỗ lực cho đến nay trong việc dấn thân đối thoại nghiêm cẩn về những vấn đề thực sự xẩy ra. Tính cách mỏng manh của tình hình này còn được lồng vào một cuộc đụng độ về lợi lộc giữa những phần tử của cộng đồng quốc tế. Cho đến khi những ai hữu trách biết thực hiện một cuộc cách mạng thực sự nơi đường lối họ sử dụng quyền lực của mình và quan tâm tới nền an ninh của phúc hạnh dân chúng, thì khó mà nghĩ được làm sao có thể tiến đến vấn đề hòa bình. Cuộc đối chọi sát hại nhau khiến cho Thánh Địa hằng ngày biến động và gây ra cuộc xung đột nơi những lực lượng hình thành tương lai tức thời của Trung Đông rõ ràng cho thấy rằng những con người nam nữ bằng một niềm xác tin cần phải áp dụng những chính sách một cách mạnh mẽ theo nguyên tắc tôn trọng nhân phẩm và nhân quyền. Những chính sách này có lợi khôn sánh cho hết mọi người hơn là tình trạng tiếp tục xung đột nhau. Có thể bắt đầu thực hiện chính sách ấy dựa trên căn bản của một sự thật chắc chắn giải thoát hơn là tuyên truyền, nhất là khi việc tuyên truyền này góp phần che đậy những ý hướng bất khả chấp nhận".

 

13/1/2003: “Trung Đông, nơi mà hai dân tộc, Do Thái và Palestine, được kêu gọi để sống bên nhau trong sự tương kính, có tự do và chủ quyền như nhau. Không cần phải lập lại ở đây những gì Tôi đã nói với quí vị cũng vào dịp này năm trước, hôm nay Tôi chỉ muốn thêm là, khi phải đối diện với tình hình liên tục suy bại trong cuộc khủng hoảng ở Trung Đông, thì để giải quyết không bao giờ được ép uổng bằng việc sử dụng đến vấn đề khủng bố hay xung đột võ khí, như thể chiến thắng về quân sự có thể mang lại câu giải đáp vậy. Và chúng ta phải nói gì đây về mối đe dọa của một cuộc chiến tranh có thể giáng xuống trên nhân dân Iraq, mảnh đất của các Vị Tiên Tri, một dân tộc đã bị thử thách đớn đau vì bị cấm vận kinh tế hơn 12 năm trời? Chiến tranh không bao giờ biện minh cho phương tiện con người có thể dùng để giải quyết những khác biệt giữa các quốc gia”.

2/6/2003: "Chắc chắn không thể chối cãi là các dân tộc và các quốc gia được thừa hưởng quyền sống an ninh. Tuy nhiên, thứ quyền lợi này bao hàm cả một nhiệm vụ tương xứng, đó là phận sự tôn trọng quyền lợi của kẻ khác. Bởi thế, như bạo lực và khủng bố không bao giờ được coi là phương tiện khả chấp cho việc quyết định về chính trị, thì việc trả đũa cũng không thể nào dẫn đến một nền hòa bình chân chính và bền vững cả. Những hành động khủng bố bao giờ cũng cần phải bị lên án như là những tội ác thực sự phạm đến nhân loại (x Sứ Điệp cho Ngày Thế Giới Hòa Bình 2002, đoạn 4). Hết mọi quốc gia có quyền tự vệ chống lại khủng bố, nhưng quyền này bao giờ cũng phải được thi hành trong phạm vi luân lý và pháp lý về cả mục đích lẫn phương tiện của quyền ấy (cf. ibid, 5).  Như các phần tử khác của cộng đồng quốc tế, và hoàn toàn ủng hộ vai trò cùng với nỗ lực của gia đình các quốc gia lớn hơn trong việc giúp giải quyết cuộc khủng hoảng ở Trung Đông, Tòa Thánh tin tưởng rằng cuộc xung đột hiện nay chỉ được giải quyết chỉ khi nào có hai Quốc Gia độc lập và chủ quyền. Như Tôi đã nói vào đầu năm nay với Phái Đoàn Ngoại Giao: 'Hai dân tộc, Do Thái và Palestine, được kêu gọi sống bên nhau, có tự do và chủ quyền như nhau, trong sự tương kính' (13/1/2003, đoạn 4). Cần cả hai phe tỏ ra cho thấy những dấu hiệu rõ ràng việc họ dứt khoát dấn thân trong việc thực hiện việc sống chung này. Làm như thế, việc đóng góp vô giá mới được thể hiện nhắm đến chỗ xây dựng một mối liên hệ của lòng tin tưởng lẫn nhau và của việc cộng tác với nhau. Về khía cạnh này, Tôi lấy làm hài lòng nhận thấy việc Chính Quyền Do Thái mới đây bỏ phiếu hỗ trợ cho tiến trình hòa bình: đối với tất cả những ai dính dáng đến tiến trình này thì vị thế của Chính Quyền là một dấu hiệu tích cực của hy vọng và phấn khởi. Dĩ nhiên nhiều vấn đề và khó khăn do cuộc khủng hoảng này gây nên cần phải được giải quyết một cách công bằng và hiệu lực. Những vấn đề liên quan đến các người tị nạn Palestine và định cư của người Do Thái chẳng hạn, hay vấn đề phân định ranh giới lãnh thổ và ấn định vị thế của các nơi linh thánh nhất ở Thành Giêrusalem, cần phải là chủ đề cho những cuộc trao đổi cởi mở và thương thảo chân tình. Đừng bao giờ để xẩy ra những quyết định đơn phương. Trái lại, việc tôn trọng, tương kiến và kết đoàn đòi phải tiếp tục đường lối đối thoại không bao giờ được bỏ. Những thất bại thực sự và hiển nhiên cũng không được làm cho đôi bên nản chí trong việc trao đổi và thương thảo. Trái lại, chính trong những hoàn cảnh như vậy mà “họ lại càng phải đồng lòng tái bắt đầu lại trong việc không ngừng đi đến chỗ đối thoại chân tình hơn nữa, bằng việc cất đi những chướng ngại cũng như bằng việc loại trừ những yếu kém nơi vấn đề trao đổi với nhau”. Nhờ đó họ mới có thể cùng nhau bước đi trên con đường 'dẫn đến hòa bình, theo tất cả những gì hòa bình đòi hỏi và cần thiết' (Sứ Điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới 1983, đoạn 5)". (ĐTC GPII với tân lãnh sự Do Thái Oded Ben-Hur)

1/1/2004: "Một thứ cơ cấu pháp lý, hình thành bởi các qui chuẩn ấn định qua những thế kỷ như là một phương tiện giữ kỷ cương cho các mối liên hệ giữa các quốc gia chủ quyền, cảm thấy khó giải quyết đối với những thứ xung khắc liên quan đến các thực thể không có khả năng được coi là quốc gia theo nghĩa truyền thống. Đặc biệt là trường hợp của các nhóm khủng bố. Tình trạng khổ nạn khủng bố này đã trở nên dữ dội hơn nữa trong những năm gần đây, và đã gây ra những cuộc thảm sát dã man độc ác lại càng làm cản trở đường lối đối thoại và thương thảo, tăng thêm căng thẳng và những rắc rối cấp tính, nhất là ở Trung Đông.. Cho dù có xẩy ra như thế đi nữa, nếu cần phải thắng vượt, cuộc chiến chống khủng bố không thể chỉ giới hạn nguyên vào những hoạt động đán áp và thanh trừng. Cần phải lưu ý là việc sử dụng võ lực, ngay cả khi cần thiết, phải được phân tách một cách minh tường và can đảm về những lý do gây ra những cuộc khủng bố tấn công. Cuộc chiến chống khủng bố cần phải được thực hiện ở cả lãnh vực chính trị và giáo dục nữa: một mặt bằng việc loại trừ đi những căn nguyên sâu xa của những tình trạng bất công là những gì thường thúc đẩy dân chúng đến những hành động tuyệt vọng và bạo lực, mặt khác, bằng việc nhấn mạnh đến một thứ giáo dục hướng chiều về việc tôn trọng sự sống con người trong hết mọi hoàn cảnh: ở chỗ, mối hiệp nhất của nhân loại là một thực tại mãnh liệt hơn bất cứ một cuộc chia rẽ nào xẩy ra giữa cá nhân và dân tộc với nhau".

 

12/1/2004: “Hòa bình đã bị đổ vỡ vào những tháng gần đây bởi những biến cố xẩy ra ở Trung Đông, một miền đất, một lần nữa, lại hiện lên như là một miền đất của xung khắc và chiến loạn. Nhiều việc làm được Tòa Thánh thực hiện để ngăn tránh cuộc xung đột đau thương đừng xẩy ra ở Iraq là những gì đã quá rõ. Vấn đề quan trọng hôm nay đó là vấn đề cộng đồng quốc tế giúp cho những người Iraq đã được thoát khỏi một chế độ đán áp họ, để họ có thể lại tiếp tục làm chủ xứ sở của mình, củng cố chủ quyền của họ, quyết định thể chế chính trị và kinh tế một cách dân chủ theo lòng họ mong ước, và để Iraq trở lại làm một phần tử có ưu thế trong cộng đồng quốc tế. Việc thiếu nhất tâm nơi vấn đề của Do Thái và Palestine tiếp tục là một yếu tố thường xuyên bất ổn cho toàn vùng đất này, chưa kể đến những đau khổ khôn xiết giáng xuống trên nhân chúng Do Thái và Palestine. Tôi sẽ không thôi lập lại với các vị lãnh đạo hai quốc gia này là giải pháp võ lực, việc bên này sử dụng nạn khủng bố còn bên kia thì trả đũa, việc hạ nhục đối phương, việc tuyên truyền thù hận chẳng dẫn đi đến đâu cả. Chỉ khi nào biết tôn trọng những ước vọng hợp lý của nhau, khi nào ngồi lại thương thảo với nhau, và khi nào cộng đồng thế giới thực hiện việc dấn thân cụ thể mới có thể bắt đầu giải quyết được vấn đề. Một thứ hòa bình chân thực và bền vững không thể nào trở thành một thứ thuần quân bằng giữa các lực lượng trong cuộc; hoà bình trước hết là hoa trái của hành động luân lý và pháp lý”.

 

1/1/2005: "Thứ văn phạm chung về lề luật luân lý này đòi phải thực hiện việc dấn thân và trách nhiệm hơn nữa trong vấn đề làm sao để bảo đảm sự sống của cá nhân con người cũng như của các dân tộc được tôn trọng và tiến triển. Như thế, những sự dữ có tính chất về xã hội và chính trị đang hành hạ thế giới này, nhất là những sự dữ xuất phát từ các cuộc bùng nổ về bạo lực, là những gì cần phải mạnh mẽ lên án. Tôi nghĩ ngay đến châu lục thân yêu Phi Châu, nơi mà các cuộc xung đột đã gây thiệt hại cho hằng triệu triệu nạn nhân vẫn đang tiếp tục xẩy ra. Hay tình trạng nguy hiểm ở Palestine, Quê Hương của Chúa Giêsu, nơi mà vấn đề hiểu biết nhau, vì bị xâu xé bởi một cuộc xung đột hằng ngày gây ra từ những hành động bạo lực và trả đũa, vẫn chưa thể nào hàn gắn lại trong công lý và sự thật. Và hiện tượng bạo động khủng bố đang xuất hiện để đẩy cả thế giới đến một tương lai sợ hãi và ưu phiền thì sao? Sau hết, làm sao chúng ta lại không thể lấy làm hết sức tiếc xót chứ, trước màn bi kịch đang diễn tiến ở Iraq, một màn bi kịch từng gây ra những tình trạng thê thảm làm xao động và bất ổn đối với tất cả mọi người?".

 

10/1/2005: “Ở Trung Đông, mảnh đất rất thân thương và linh thánh đối với các tín hữu tin tưởng Vị Thiên Chúa của Abraham, tình trạng đụng độ võ trang dường như đang giảm bớt, hy vọng có một cuộc giải quyết về chính trị theo chiều hướng đối thoại và thương thảo”. (xin xem lại chi tiết “Hòa Bình như một Chớp Sáng Vụt Tắt” ở Lược Sử Thánh Địa trong phần Quá Trình Tranh Chấp trên đây).

 

ĐTC BĐXVI

 

9/1/2006: Ở đây tôi xin nhắc lại những lời lẽ khôn ngoan của Đức Gioan Phaolô II: ‘Không thể nào có hòa bình nếu không có công lý, không thể nào có công lý mà lại thiếu th tha’ (Sứ Điệp cho Ngày Hòa Bình Thế Giới 2002). Tôi xin lập lại những lời này một cách khiêm nhượng và với lòng sâu xa yêu mến với các vị lãnh đạo chư quốc, nhất là với những nơi đau thương nhất bởi các cuộc xung đột về thể lý và luân lý và cần đến hòa bình nhất. Người ta nghĩ ngay tới nơi sinh hạ của Chúa Giêsu Kitô, Ông Hoàng của Bình An, Đấng đã ban cho tất cả mọi người một sứ điệp hòa bình và thứ tha; người ta nghĩ tới Lebanon là nơi nhân dân nước này, nhờ việc hỗ trợ của tình đoàn kết quốc tế, cần phải tái khám phá ra ơn gọi lịch sử của mình trong việc cổ võ vấn đề hợp tác chân thành và tốt đẹp giữa các cộng đồng tôn giáo khác nhau; và tới toàn thể Trung Đông, nhất là Iraq là cái nôi của các nền văn minh cao cả, nơi mà trong mấy năm qua hằng ngày đã trải qua những hành động bạo lực của nạn khủng bố”.

 

8/1/2007: “Trung Đông cũng là căn nguyên cho mối quan ngại lớn. Đó là lý do tôi muốn viết một bức thư Giáng Sinh cho những người Công Giáo ở miền này, bày tỏ niềm gắn bó và sự gần gũi thiêng liêng của tôi với tất cả những người trong họ, và phấn khích họ hãy ở lại vùng này, vì tôi tin rằng chứng từ của họ sẽ là những gì trợ lực và hỗ trợ cho một tương lai hòa bình và huynh đệ. Tôi lập lại lời kêu gọi khẩn trương của tôi với tất cả mọi phía có liên quan tới bàn cờ chính trị phức tạp ở miền này, hy vọng thấy được sự củng cố từ những dấu hiệu tích cực được tỏ ra trong mấy tuần gần đây giữa những người Do Thái và Palestine. Tòa Thánh sẽ không bao giờ mệt mỏi khi cần phải lập lại rằng các giải pháp võ trang chẳng đạt được gì hết, như chúng ta đã thấy ở Lebanon vào mùa hè vừa qua. Thật vậy, tương lai của xứ sở này lệ thuộc vào việc hiệp nhất của tất cả mọi yếu tố của nó, cũng như vào những liên hệ huynh đệ giữa những phái nhóm tôn giáo và xã hội. Điều này sẽ tạo nên một sứ điệp hy vọng cho tất cả mọi người. Những giải pháp thiên vị hay đơn phương không còn là những gì khả dĩ. Để chấm dứt cuộc khủng hoảng này cũng như những khổ đau do nó gây ra trong dân chúng, cần phải có một chính sách toàn cầu, không loại trừ một ai khỏi cuộc tìm kiếm thực hiện một cuộc ổn định được thương thảo, chú trọng tới những thiện ích và khát vọng hợp lý của các dân tộc khác nhau trong cuộc. Đặc biệt là nhân dân Labanon có quyền thấy được tính cách nguyên tuyền và chủ quyền của xứ sợ họ được tôn trọng; nhân dân Do Thái có quyền sống bình an ở Quốc Gia của họ; những người Palestine có quyền có được một quê hương tự do và chủ quyền. Khi mà mỗi một thành phần dân chúng trong miền n ày thấy được rằng những niềm mong đợi của họ đưoơc quan tâm tới và vì thế cảm thấy ít bị đe dọa, thì bấy giờ việc tin tưởng lẫn nhau mới được củng cố. Niền tin tưởng này sẽ tăng trưởng nếu một quốc gia như Iran, nhất là đối với vấn đề liên quan tới chương trình nguyên tử của nước ấy, bằng lòng đồng ý đáp ứng những mối quan tâm hợp lý của cộng đồng quốc tế. Những bước tiến được thực hiện theo chiều hướng ấy chắc chắn sẽ giúp vào việc củng cố ổn định cho toàn miền, nhất là Iraq, chấm dứt cuộc bạo lực kinh hoàng đang làm biến dạng quốc  gia đổ máu này, và tạo cơ hội hoạt động cho việc tái thiết và hòa giải giữa tất cả mọi dân cử của nước này”.

 

TỪ TÒA THÁNH VATICAN Ở LIÊN HIỆP QUỐC

Vấn đề Tòa Thánh Vatican vận động Hòa Bình ở Trung Đông nói chung và Thánh Địa nói riêng được thể hiện qua các cuộc họp hằng năm (thường vào ngày Thứ Hai hay Thứ Ba đầu tháng 11) ở Liên Hiệp Quốc liên quan tới “Việc LHQ Hỗ Trợ và Cơ Quan Hoạt Động cho Dân Tị Nạn Palestine ở Cận Đông”.

3/11/2003

"Những phát ngôn viên trước đã nói đến những vấn đề định cư, giới nghiêm, vây hãm, ám sát, ôm bom tự sát khủng bố, cũng như đến ảnh hưởng của các biến cố này nơi việc người Palestine tìm kiếm công ăn việc làm, học vấn và các phương tiện chăm sóc y tế. Giáo Hội Công Giáo với những tổ chức nhân đạo và xã hội của mình, tức qua Văn Phòng Sứ Vụ Tòa Thánh Đối Với Palestine hoạt động ở vùng này từ năm 1949, Hội Caritas Quốc Tế, Các Dịch Vụ Công Giáo Hỗ Trợ, hằng ngày tường trình về những thử thách của thành phần dân chúng được phục vụ. Trong vòng 3 năm qua, những cơ quan này đã càng ngày càng cảm thấy khó khăn hơn nữa nơi việc thi hành sứ vụ của mình.

"Qua sự kiện thất bại mới đây về vấn đề ngưng chiến, mức độ bạo loạn tăng lên kinh khủng, để rồi thành phần thường dân Palestine và Do Thái tiếp tục bị sát hại. Tòa Thánh tin tưởng rằng cuộc xung đột này ở Trung Đông sẽ tìm thấy được một giải pháp bền vững chỉ khi nào có hai Quốc Gia độc lập và chủ quyền sống bên nhau trong an bình và an ninh. Để đạt được mục đích này, những vấn đề liên quan tới thành phần tị nạn Palestine cũng như đến những việc định cư của người Do Thái chẳng hạn, hay vấn đề đặt ranh giới lãnh thổ và phân định tình trạng của các nơi linh nhất nhất ở Thành Giêrusalem, cần phải là chủ đề cho một cuộc đối thoại cởi mở và thương thảo chân tình.

"Cộng đồng quốc tế cần phải hỗ trợ cho mọi phía trong cuộc để họ nhận thức được rằng việc chiếm đóng các lãnh thổ ở vùng Tây Ngạn và giải Gaza cũng như những cuộc khủng bố tấn công là những gì đang châm mồi cho cơn lốc bất tận của các hành động bạo lực và trả đũa giáng xuống trên cả người Palestine lẫn Do Thái. Phần nguyên vẹn của ‘lộ trình’ tiến đến hòa bình hiện nay rõ ràng kêu gọi giải pháp thành lập hai quốc gia. Nó là phận sự của cả hai phe, với sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế, chấp nhận ‘lộ trình’ này như dụng cụ để thương thảo và tin tưởng xây dựng, nhờ đó những vấn đề khác nhau có thể được đề cập đến và những hiệp định giải quyết được ký kết.

"Trong khi những việc thương thảo này hiện nay đang ở ngã tư đường, chúng ta cần phải tiếp tục hỗ trợ những ai gặp phải bạo loạn như cơm bữa. Về phần mình, Văn Phòng Sứ Vụ Tòa Thánh Đối Với Palestine hết sức cậy dựa vào sự hợp tác toàn cầu trong việc cải thiện tình trạng khổ đau của nhiều người nơi những phần đất bị chiếm đóng. Được nâng đỡ bởi một số tổ chức nhân đạo trên khắp thế giới, văn phòng này sử dụng việc giúp đỡ về luân lý và tài chính để phát động những công việc phát triển cộng đồng hăng say lao động để chống lại tình trạng thất nghiệp ở những miền đất bị chiếm đóng trên 60%. Việc nâng đỡ về tài chính của những hợp tác viên này giúp việc giáo dục, từ lớp mẫu giáo đến hết đại học........

"Bất cứ giải pháp nào được nêu lên cho các vấn đề đa diện của miền này cũng sẽ bao gồm cả vấn đề Thánh Thánh Giêrusalem. Theo nhiều diễn tiến bạo động và những tình trạng khắc nghiệt gây ra bởi việc vây hãm, Tòa Thánh xin lập lại lời kêu gọi liên tục của mình về 'những khoản được quốc tế bảo đảm trong việc bảo toàn quyền tự do tôn giáo và lương tâm cho dân cư của thành này, cũng như bảo toàn cách thức thường trực, tự do và phi ngăn trở để tín hữu thuộc các tôn giáo và quốc tịch có thể đến với những nơi thánh' (A/Res/ES 10-2, 5 May 1997). Mức độ bạo loạn hiện nay đã khiến những người hành hương không dám đến Thánh Địa nữa, bởi thế càng chất thêm gánh nặng về kinh tế trên tất cả mọi người trong vùng này, ngoài việc làm ngăn trở quyền lợi của con người trên khắp thế giới trong việc họ viếng thăm và cầu nguyện ở những địa điểm thánh. Đại biểu tôi cũng nhận thấy rằng dân chúng địa phương cũng không dễ dàng đi đến những đền thờ và những nơi thánh....."

1/1/2004


"Việc thực tế phân tích tình trạng này cho thấy rằng có nhiều ngôn từ về việc xây dựng hòa bình nhưng lại ít ý muốn chính trị tỏ ra muốn giải quyết những vấn đề khác biệt. Thái độ lưỡng lự của cộng đồng quốc tế trong việc thách đố vai trò lãnh đạo của người Do Thái cũng như Palestine ngồi lại thương thảo với nhau một cách chân thành đã khiến cho Lộ Trình Hòa Bình chưa được thực hiện.


"Thiếu những cuộc thương thảo rất cần thiết như thế sẽ không có các cơ hội để hòa giải, để thứ tha, để dung hợp hay để cộng tác, về tất cả những điều kiện tiên quyết cho một nền hòa bình bền bỉ ở vùng này. Việc đả thông là những gì thiết yếu để mang đôi bên lại với nhau ở những gì khác biệt. Không thể nào một chính sách tiếp tục phân rẽ lại có thể góp phần hòa bình được cả. UNRWA cùng với các cơ quan nhân đạo khác cần phải tiếp tục cung cấp những dịch vụ cho thành phần tị nạn ở một môi trường tiêu cực như thế...


"Bất cứ giải pháp nào cần phải có để giải quyết vấn đề đa diện này cũng cần phải được bao gồm cả vấn đề thành thánh Giêrusalem. Theo chiều hướng của nhiều vụ bất trắc bạo loạn xẩy ra cùng với cái khó khăn trong việc tự do di chuyển gây ra bởi Bức Tường rào cản, với những trạm kiểm soát và giờ giới nghiêm, Tòa Thánh xin lập lại lời kêu gọi của mình về “những điều khoản được quốc tế bảo đảm cho việc làm sao bảo toàn được vấn đề tự do tôn giáo và lương tâm của cư dân ở đây, cũng như vấn đề di chuyển thường xuyên, tự do không bị cản trở tới các nơi thánh của tín hữu thuộc mọi tôn giáo và quốc tịch” (A/RES/ES-10/2). Giêrusalem, thành thánh, là một gia sản chung của thế giới tín ngưỡng và bất cứ ai nắm quyền quản thủ thành thánh này đều mang trách nhiệm trước cộng đồng quốc tế. Việc quản trị thành thánh này không được coi là một vấn đề thuần túy đối với thẩm quyền này hay thẩm quyền nọ.


"Những mức độ bạo loạn hiện nay đã khiến cho thành phần hành hương lánh xa Thánh Địa, gây ra những sát phạt về kinh tế trầm trọng hơn bao giờ hết trên tất cả mọi thành phần ở trong miền này, ngoài việc ngăn cản quyền lợi của dân chúng từ khắp nơi trên thế giới đến viếng thăm và nguyện cầu ở các địa điểm tôn giáo. Đại biểu tôi đặc biệt ghi nhận rằng thành phần dân chúng địa phương không luôn được tự do lui tới các đền thánh và nơi thánh.


"Lộ Trình Hòa Bình được phác họa chưa mang lại hòa bình cho miền đất này. Khi chúng ta chú ý tới tình trạng bạo loạn đang diễn tiến, tình trạng khủng hoảng về kinh tế, những hạn chế về việc di chuyển và vấn đề không dễ dàng lui tới với các nơi thánh, thì chẳng có gì là lạ khi nhiều người cảm thấy bắt buộc phải vĩnh viễn rời bỏ miền đất này. Thật là đau lòng khi thấy một mảnh đất đã một thời được chất chứa sứ điệp yêu thương, sự sống, huynh đệ và an bình, được nhiều người gọi là Thánh Địa, vào những lúc này đây lại tung ra trước mắt thế giới một sứ điệp khác hẳn, một sứ điệp của chia rẽ, hủy diệt và chết chóc.


"Gia đình của các dân nước cần phải thách thức tất cả mọi diễn viên còn quan tâm đến việc tái lập những nỗ lực của họ trong việc mang lại hòa bình cho miền đất ấy. Chỉ có nền hòa bình chân chính và bền vững, chứ không phải bị áp đặt mà là được bảo toàn bằng việc thương thảo, mới làm mãn nguyện những khát mong hợp lý của tất cả mọi dân tộc ở vùng đất này thôi. Một thành quả như thế lệ thuộc rất nhiều vào việc can đảm sẵn sàng của những ai hữu trách trong việc tỏ ra những thái độ giải hòa mới là những gì thuận hợp với các đòi hỏi của công lý".


1/11/2005

 

"Năm nay chúng tôi buộc phải chú ý tới tình trạng khó khăn gia tăng phải chịu đựng bởi thành phần Kitô hữu Palestine, những người mà, mặc dù họ thuộc về một niềm tin được phát sinh từ chính mảnh đất này, đôi khi lại bị hàng xóm láng giềng của họ ngờ vực. Bị kỳ thị gấp hai lần, thì không có gì là lạ lùng khi biết rằng nhóm nhỏ bé này – chưa đầy 2% của dân chúng Palestine địa phương – đặc biệt bị đẩy ra ngoài lề xã hội.

 

"Tất cả mọi người Palestine đều có quyền được bạn hữu và thẩm quyền chính đáng đối xử và suy nghĩ một cách công bằng. Nạn cực đoan về tôn giáo dưới bất cứ hình thức nào ngấm ngầm trong các cuộc tấn công, lạm dụng hay đe dọa Kitô hữu trong vùng quanh Bêlem mới đây là những gì bất khả chấp. Bất kể là ai trở thành nạn nhân của bạo lực và cuồng tín thì những hành động ấy đều là những vết nhơ nơi lương tâm của con người. Bởi thế, đại biểu tôi đây hy vọng rằng các vị lãnh đạo địa phương sẽ tìm ra những giải quyết cho các nhu cầu của tất cả mọi phần tử của những cộng đồng địa phương đang trải qua tình trạng bạo lực.

 

"Ngoài ra, bức tường an toàn ngăn chặn đường tới một số miền đất và nguồn nước của Palestine, cũng như ngăn chain việc làm ăn, buôn bán, giáo dục, y tế và tự do thờ phượng, tất cả đều là những gì hằng được  quan tâm tới. Đại biểu tôi đây sẵn sàng nhìn nhận quyền lợi của tất cả mọi người được sống trong an bình và an ninh; đàng khác, chúng tôi tin rằng Thánh Địa càng cần phải có những nhịp cầu nối hơn là những bức tường rào cản.

 

"Hy vọng rằng nhiều vấn đề ở miền đất này sẽ được giải quyết bằng việc thương thảo và đối thoại, đại biểu tôi xin nhấn mạnh là giải pháp bền vững cần phải bao gồm cả vấn đề Thánh Thánh Giêrusalem. Căn cứ vào nhiều biến động về bạo lực và tình trạng khó khăn trong vấn đề tự do di chuyển gây ra bởi bức tường an ninh, Tòa Thánh lập lại việc Tòa Thánh ủng hộ “những khoản cam đoan của quốc tế trong việc bảo đảm quyền tự do tôn giáo và tự do lương tâm của cư dân mình, cũng như quyền tín hữu thuộc tất cả mọi tôn giáo và quốc tịch được thường xuyên, tự do và dễ dàng đi lại các nơi thánh” (A/RES/ES-10/2).

 

"Giêrusalem là nhà vốn được công nhận của ba niềm tin theo tổ phụ Abraham, và ai có quyền bảo quản Thành Thánh này thì có trách nhiệm đặc biệt về thành thánh ấy trước cộng đồng quốc tế. Mượn những lời mới đây của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI, chúng tôi hy vọng rằng Giêrusalem một ngày kia sẽ là “một ngôi nhà của hòa hợp và hòa bình” cho tất cả mọi tín hữu.

 

"Thời gian đã quá dài lâu cho việc đối thoại cởi mở huynh đệ để mang lại việc hạ sinh hai quốc gia, bên cạnh nhau, tương kính quyền hiện hữu và phát triển của nhau. Đã có quá nhiều nạn nhân vô tội, là Do Thái hay Palestine, Do Thái, Kitô hữu hay Hồi hữu cũng thế. Chí có một nền hòa bình chân chính và bền vững – nền hòa bình không bị áp đặt mà bằng việc thương thảo – mới làm cho những ước vọng hợp lý của tất cả mọi dân tộc sống ở Thánh Địa được mãn nguyện mà thôi".

 

25/10/2006

 

"Nhiều vấn đề được nêu lên trong bản tường trình của vị tổng đặc phái viên này là những triệu chứng của một vấn đề bao rộng hơn nhiều, một vấn đề mà tất cả chúng ta đều biết là đã từng mưng mủ quá lâu ở miền đất ấy. Mỗi năm, trong cuộc họp này, chúng ta đều kể lại một bản liệt kê khôn cùng về những khó khăn và những khác biệt làm tách biết người Do Thái với người Palestine, thế nhưng chúng là những khác biệt lại càng làm cho vấn đề trở nên khẩn trương hơn nữa đối với các quốc gia trong việc giải quyết trục trặc về tình trạng bất công sâu xa ở tận cốt lõi của vấn đề này.

 

"Việc thực hiện một bản liệt kê về những triệu chứng mà không nói gì tới căn nguyên sâu xa của vấn đề là những gì khó lòng giúp được gì cho đôi bên. Mỗi bên đều bị buộc phải sống dưới những thứ căng thẳng rùng rợn của những hành động kinh hoàng có thể bùng nổ hay những cuộc đột kích quân sự mang lại chết chóc, thương vong và việc hủy hoại các hạ tầng cơ sở.

 

"Không thể coi thường cái cốt lõi nơi cuộc xung đột giữa người Do Thái và Palestine trong tình trạng bất ổn liên tục ở Trung Đông. Đó là lý do tại sao đại biểu tôi đây vẫn tin vào giải pháp hai quốc gia như là nền tảng cho việc giải quyết cuộc khủng hoảng này, một giải pháp giúp cho người Do Thái có thể sống an ninh ở lãnh thổ của họ, và người Palestine sống yên ổn trong một quốc gia có thể sống được của riêng họ. Điều này chỉ có thể đạt được nếu cộng đồng quốc tế, nhất là khối Tứ Tượng, ghé vai gánh vác trách nhiệm tái tấu những cuộc thương thảo chân chính một cách hết sức nhanh gọn.

 

"Thật là một sự kiện đáng buồn khi cộng đồng quốc tế đã thất bại trong việc lôi kéo người Do Thái và Palestine lại với nhau trong một cuộc đối thoại đầy ý nghĩa và nghiêm trọng kèm theo việc giải quyết những giằng co để mang lại tình trạng ổn định và hòa bình cho cả đôi bên. Cộng đồng quốc tế cần phải sử dụng những vai trò tốt đẹp của mình để làm dễ dàng mau chóng hơn một cuộc tái lập mối hữu nghị giữa đôi bên. Dĩ nhiên là những ai trung gian thực hiện những cuộc thương thảo sẽ phải duy trì một đường lối cân bằng, tránh đi việc áp đặt trước những điều kiện đối với bất cứ bên nào.

 

"Việc giải quyết cuộc xung đột giữa người Do Thái và Palestine vẫn là yếu tố chính cho một chuỗi những vấn đề liên quan tới toàn thể Trung Đông, chưa kể tới những hậu quả liên quan tới thế giới.

 

"Trong niềm hy vọng nhiều vấn đề của miền này sau cùng sẽ được giải quyết bằng việc thương thảo và đối thoại, đại biểu tôi muốn nhấn mạnh thêm là một giải pháp lâu bền cần phải bao gồm cả tình trạng của thành thánh Giêrusalem. Trước quá nhiều những bất trắc về bạo lực và những thách đố đối với vấn đề di chuyển gây ra bởi bức tường an ninh, Tòa Thánh lập lại việc Tòa Thánh ủng hộ ‘các điều khoản được quốc tế công nhận  trong việc bảo đảm quyền tự do tôn giáo và lương tâm cho các cư dân sống ở thành này, cũng như việc tín đồ của tất cả mọi tôn giáo và mọi quốc tịch đi lại vĩnh viễn, tự do và không bị ngăn cản đến các Nơi Thánh’ (A/RES/ES-10/2).  

 

"Sau hết, chúng tôi lập lại lời kêu gọi của chúng tôi với cộng đồng quốc tế trong việc làm dễ dàng hóa những cuộc thương thảo quan trọng giữa đôi bên xung khắc. Chỉ có một nền hòa bình chân chính và bền vững – không bị áp đặt, song được bảo đảm bằng những cuộc thương thảo và việc dung hòa hợp lý – mới làm mãn nguyện những ước vọng hợp lý của tất cả mọi dân tộc ở Thánh Địa mà thôi".

 

 

TỪ LÃNH VỰC CHÍNH TRỊ, DÂN SỰ VÀ TÔN GIÁO

7/11/2003

Trong khi đó, ngược lại, ở Ai Cập, sau 4 ngày bàn luận ở một nơi bí mật ở miền nam Cairo, được kết thúc hôm Chúa Nhật 7/11/2003, bên Palestine vẫn không đi đến một giải pháp tốt đẹp nào trong việc giải quyết hòa bình với phe Do Thái. Những ngày bàn luận này nhắm mục đích triệu tập tất cả các đảng phái Palestine lại, nhất là hai đảng Hamas và Thánh Chiến Hồi giáo, những đảng vẫn công khai nhận trách nhiệm về các cuộc khủng bố tấn công những người Do Thái, để tuyên bố chấm dứt các cuộc tấn công như vậy.

Hai đảng chính này tỏ ý là họ sẵn sàng chấm dứt các cuộc tấn công như thế, thế nhưng chỉ khi nào Do Thái ngưng những gì được họ gọi là những cuộc ám sát những chiến đấu quân, chấm đứt các cuộc đột kích vào lãnh thổ Palestine và thả các tù nhân ra. Họ không chịu chấp nhận một thứ ngừng chiến mà không có những điều kiện này, và họ cũng không chịu trao quyền cho Thủ Tướng Ahmed Qorei thay họ thương thảo với phe Do Thái. Họ còn nhất định giữ khoảng cách với “lộ trình hòa bình” của Khối Tứ Tượng (Nga, Mỹ, Liên Hiệp Quốc và Khối Hiệp Nhất Âu Châu).

Đại biểu của đảng Fatah của Tổng Thống Yasser Arafat cho biết những cuộc bàn luận này “giống như thúc vào thân một con ngựa đã chết… Chúng tôi đã bàn luận trong vòng 3 ngày mà vẫn chẳng thể nào quyết định được gì cả”. Đại diện đảng Hamas là Mohamed Nazzal cho biết là Hamas, Islamic Jihad và 3 đảng Palestine khác đều đồng ý rằng, trong tháng 6 vừa rồi, họ đã đồng ý với việc ngưng chiến toàn diện nhưng bên Do Thái đã loại trừ nó bằng việc tiếp tục “tấn công dân chúng Palestine”. Ông này còn nói Hamas “sẽ tiếp tục cuộc chiến đấu võ trang” dưới hình thức “chống cự toàn diện”.

Các vị đại biểu đã thức tới 3 giờ sáng địa phương để nẩy ra những chi tiết cho vào bản thảo văn kiện. Có lúc họ đã đồng ý rằng thôi tấn công dân chúng Do Thái ở miền đất Do Thái, nhưng vẫn tấn công những dân cư Do Thái hay quân đội Do Thái ở những miền thuộc Palestine như Đông Giêrusalem, Gaza và Tây Ngạn. Các đại biểu Ai Cập thúc các đảng phái Palestine tiến đến một thỏa định để Cairô trình lên cho Liên Hiệp Quốc. Thế nhưng những người đại diện đảng Hamas nói rằng chỉ có một đường lối duy nhất để giải phóng các lãnh thổ của Palestine khỏi việc kiểm soát của Do Thái đó là bằng một hình thức chống cự nào đó. Đảng Fatah của Arafat muốn có một cuộc đình chiến toàn diện với Do Thái với điều kiện là Do Thái thôi những cuộc đột kích và bắt đầu áp dụng lộ trình hòa bình.

1/12/2003

Hôm Thứ Hai 1/12/2003, một nhóm người thuộc cả bên Do Thái lẫn Palestine, mỗi nhóm có 30 đại diện, đã họp lại ở Geneva Thụy Sĩ với 400 người của cả đôi bên tham dự để khai trương một dự án bất chính thức về hòa bình ở Thánh Địa. Trong lễ nghi khai mạc có nhiều bậc vị vọng, trong đó có cả cựu tổng thống Carter, dự án hòa bình này, một dự án đã được âm thầm bàn luận và họp hội hai năm trời, được chính thức công khai loan báo. Mỗi bên bày tỏ việc ủng hộ dự án này bằng việc thắp lên những ngọn nến. Bên Do Thái gồm có những chính trị gia chống lại chính phủ của Thủ Tướng Arial Sharon, còn bên Palestine bao gồm những vị bộ trưởng gần gũi với vị lãnh đạo khối Palestine Yasser Arafat. Hai vị tác giả của bản dự thảo này là nguyên Bộ Trưởng Công Lý Do Thái Yossi Beilin và nguyên Bộ Trưởng Thông Tin Palestine Yasser Abed Rabbo.

Bản dự án hòa bình không được hỗ trợ bởi cả hai chính phủ Do Thái và Palestine này kêu gọi hai phe xung khắc ở Trung Đông nhượng bộ nhau. Bản dự án kêu gọi bên Do Thái hoàn toàn rút khỏi Tây Ngạn, ngoại trừ 2% còn lại. Nó cũng kêu gọi phe Palestine chấm dứt những cuộc tấn công của các nhóm chiến đấu quân Palestine, và lấy Giêrusalem làm thủ đô của cả nước Do Thái lẫn quốc gia (dự trù) Palestine. Cả hai bên đều muốn chiếm thành này, một thành đã được phân chia kiểm soát giữa Do Thái và Ả Rập cho tới năm 1967, thời điểm thành bị quân đội Do Thái chiếm đóng trong Trận Chiến Sáu Ngày. Những người Palestine muốn phần bên đông làm thủ đô của họ, còn Do Thái nhấn mạnh là thành này sẽ vĩnh viễn bất phân chia và ở dưới quyền kiểm soát của Do Thái. Bản dự án hòa bình cũng đề cập đến một vấn đề được gọi là “quyền trở lại” cho những người Palestine và giòng dõi của những ai tị nạn đã phải rời bỏ hay bị bắt buộc rời Do Thái khi quốc gia Do Thái được thành lập vào năm 1948. Những người Palestine đòi quyền trở lại với những miền đất hiện nay thuộc về Do Thái.

Ở Thánh Địa, dân chúng Palestine cho những ai tham dự vào cuộc khai trương dự án hòa bình này là “những kẻ phản bội”. Riêng hai vị tác giả viết lên bản dự án hòa bình gợi ý này đã cho biết nhận định của họ như sau.

Ông Beilin: “Phải chấm dứt thời gian tranh cãi này”. và kêu gọi những nhà lãnh đạo Do Thái và Palestine “hãy lập tức trở lại thương thảo với nhau vô điều kiện”. Theo ông việc cả hai bên chấp nhận bản dự thảo bất chính thức này sẽ làm cho việc bắt đầu áp dụng lộ trình hòa bình Trung Đông được dễ dàng hơn: “Chúng tôi đang đặt bản dự án chung của chúng tôi lên bàn của những nhà có quyền quyết định như là một giải pháp có thể để chấm dứt cái vòng lẩn quẩn bạo loạn xấu xa này”.

Ông Rabbo nói thêm: “Hôm nay chúng tôi giang tay của chúng tôi ra trong hòa bình cho vấn đề hòa bình. Những người phê bình của chúng tôi nói rằng những viên chức chính phủ cần phải thực hiện những hiệp định này, chứ không phải là những đãi diện của xã hội dân sự. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý như thế. Nhưng chúng tôi phải làm gì nếu các viên chức chính phủ không gặp gỡ nhau, nếu các chính quyền không thương thảo với nhau đây? Chúng tôi không thể đợi chờ và trông nhìn khi thấy tương lai của hai quốc gia chúng tôi đang rơi sâu xuống vực tai ương. Đây là giải pháp đơn giản cho cuộc xung khắc này, và nó là giải pháp duy nhất. Tại sao lại phải đợi chờ? Tại sao lại gây thêm những hy sinh đẫm máu chỉ để đạt tới cùng một giải pháp chúng tôi có thể đạt tới hôm nay đây chứ?”

Cựu Tổng Thống Carter nói: “Bản thỏa hiệp này sẽ giải quyết được những vấn đề quan trọng nhất của cuộc xung khắc này, bao gồm cả việc phân định ranh giới, việc định cư người Do Thái, việc chiếm cứ quá nhiều đất đai của người Palestine, vấn đề tương lai của thành Giêrusalem cùng các nơi thánh ở đây, và vấn đề rắc rối liên quan đến thành phần tị nạn Palestine. Chúng ta không thể thấy được một nền tảng hòa bình nào hứa hẹn hơn nữa”.

Hội nghị này cũng đọc cả những bức thư khen ngợi của những viên chức Liên Hiệp Quốc, của Khối Hiệp Nhất Âu Châu và của nhiều quốc gia. Nhiều người Palestine và Do Thái lên tiếng nói ở Geneva, nhưng nhiều lơiụi phát biểu xoay quanh việc lên án Do Thái trong khi chỉ có tương đối ít lời nhắc đến việc khủng bố tấn công của người Palestine.

2/12/2003

Ở Giêrusalem, cha David Jaeger, phát ngôn viên của Vai Trò Bảo Quản Viên Thánh Địa do Dòng Phanxicô đảm trách, trong cuộc phỏng vấn với cơ quan SIR của hàng giáo phẩm Ý hôm Thứ Ba 2/12, đã cho biết bản hiệp định này “là một gương mẫu và là một thách đố”.

Thật vậy, về thẩm quyền thì bản hiệp định này là một văn kiện riêng tư giữa những người công dân với nhau, được viết ra và phổ biến “để thách đố chính quyền hiện hành của mình, như thể nói rằng: ‘nếu chúng tôi có thể đạt đến hiệp định này thì quí vị cũng thế, nếu quí vị muốn’. Nó như lời ngấm trách rằng: ‘nếu quí vị không làm việc ấy cho tới nay, và nếu quí vị vẫn không muốn làm điều này, không phải là vì nó không thể làm mà vì quí vị không muốn làm mà thôi’ Tác giả của bản hiệp định này là những con người thận trọng, chẳng những về trí thức mà còn có cả kinh nghiệm làm việc trong chính quyền nữa. Thật ra không ai bảo rằng bản văn kiện này là hoàn hảo cả, nhưng nó bao gồm đầy đủ những chi tiết cho thấy nó là một bản hiệp định hòa bình khả thể”.

Theo chiều hướng thuận lợi này, tại Washington DC, hôm Thứ Ba 2/12/2003, các ĐHY William H. Keeler TGP Baltimore, Theodore E. McCarrick TGP Washington và ĐGM Wilton Gregory, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, cùng với 29 vị lãnh đạo thượng cấp của các tôn giáo khác như Do Thái Giáo, Kitô Giáo và Hồi Giáo đồng thanh tuyên bố thực hiện một nỗ lực hợp tác mới trong việc vận động công chúng ủng hộ vấn đề thúc đẩy vai trò lãnh đạo của Hoa Kỳ tích cực và dứt khoát hơn nơi vấn đề theo đuổi hòa bình ở Trung Đông đối với dân Do Thái, Palestines và các quốc gia Ả Rập. Họ tin rằng việc đình trệ nơi vai trò lãnh đạo của Hoa Kỳ sẽ làm tăng thêm cuộc xung đột, làm suy yếu cuộc chiến chống khủng bố, và đe dọa nền an ninh quốc gia ở miền đó và trên khắp thế giới.
 

15/1/2004

Bản Tuyên Ngôn của Các Vị Giám Mục Âu Châu và Mỹ Châu gặp nhau ở Thánh Địa  

1. Chúng tôi là những Giám Mục Công Giáo ở Âu Châu và toàn Mỹ Châu, đến đây để bày tỏ tình đoàn kết Công Giáo khắp thế giới với Giáo Hội ở Thánh Địa. Đây là lần thứ ba trong nhiều năm chúng tôi đã đến bằng tình hữu nghị với cả nhân dân Do Thái lẫn Palestine, với Kitô hữu, Do Thái lẫn Hồi giáo. Chúng tôi đã thấy bạo lực cả hai cộng đồng này phải trải qua, đó là cuộc tấn công những người Do Thái ở Gaza và cuộc trừng phạt chung các người công dân Palestine. Chúng tôi xin phân ưu về những cái chết xẩy ra trong thời gian chúng tôi ở đây, cũng như xin xác định việc chúng tôi phản đối tất cả mọi thứ đổ máu.

Chúng tôi đã nghe thấy ước vọng mong muốn hòa bình, công lý và hòa giải giữa cả đôi bên Do Thái và Palestine. Chúng tôi cũng rất lấy làm tiếc xót nhận thấy cái thiếu hụt về ý chí chính trị, chẳng những nơi miền đất này mà còn nơi cả cộng đồng thế giới nữa trong việc hoạt động cho một cuộc ổn định êm đẹp. Bởi thế chúng tôi kêu gọi tất cả mọi vị lãnh đạo chính trị của chúng tôi hãy đáp ứng ước vọng hòa bình là những gì nhân dân ở Thánh Địa này sâu xa ấp ủ trong lòng.

2. “Chúng tôi lao nhọc và nỗ lực, vì chúng tôi đặt hết niềm hy vọng của mình nơi Vị Thiên Chúa hằng sống” (1Tim 4:10).

Chúng tôi đã chứng kiến thấy nhiều dấu hiệu hy vọng trong thời gian ngắn ngủi chúng tôi ở Thánh Địa. Trong số những dấu hiệu hy vọng này là lòng quảng đại đối với Giáo Hội hoàn vũ và những việc thể hiện tình đoàn kết của các Kitô hữu ở Do Thái cũng như ở các nơi khác trên thế giới. Tuy nhiên, hy vọng hơn hết là sức sống và việc dấn thân của chính Giáo Hội ở Thánh Địa, bao gồm cả các mối liên hệ huynh đệ giữa các vị lãnh đạo Kitô giáo.

Chúng tôi chúc mừng Hội Đồng Các Đấng Bản Quyền Công Giáo ở Thánh Địa, cùng với tất cả mọi Kitô hữu ở Thánh Địa hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo, về việc áp dụng một cách thành công Công Hội của mình, cũng như chúc mừng các tổ chức cứu trợ Công Giáo đã từng hoạt động rất vất vả để điều hợp những nỗ lực của mình và dồn nỗ lực của mình vào việc hỗ trợ tất cả mọi dân tộc ở Thánh Địa.

3. “Thánh Địa không cần đến những bức tường ngăn mà là những chiếc cầu nối!” theo lời của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ngày 16/11/2003.

Chúng tôi đã thấy hậu quả tàn hại của bức tường đang được xây dựng ngang qua đất đai và nhà cửa của các cộng đồng Palestine. Việc này dường như trở thành một thứ kiến tạo vĩnh viễn, phân chia các gia đình, cô lập hóa vườn ruộng của họ cũng như hoàn cảnh sinh sống của họ, và phân cách các tổ chức tôn giáo. Chúng tôi đã có một kinh nghiệm về cái chán nản và nhục nhã phải chịu đựng mỗi ngày của những người Palestine ở những trạm kiểm soát, ngăn chặn không cho họ trợ cấp cho gia đình họ, đi đến bệnh viện, đi làm việc, đi học hành và đi thăm họ hàng.

Chúng tôi phàn nàn về sự kiện là, mặc dù đã có những cải tiến rõ ràng, có một số linh mục, chủng sinh, nữ tu, nam tu và giáo dân bị từ chối hay bị làm khó dễ trong việc xin giấy thông hành và phép cư ngụ để học hỏi và hoạt động ở Do Thái cũng như ở những phần đất của người Palestine. Những điều này tạo nên những thứ ngăn trở thật sự đối với khả năng của Giáo Hội trong việc thực hiện sứ mệnh phục vụ dân chúng ở Thánh Địa. Sự kiện này thật là đáng tiếc vì Nước Do Thái và Tòa Thánh vừa đánh dấu 10 năm ký kết Hiệp Ước Căn Bản.

Chúng tôi cũng quan tâm đến những thông báo thành văn do thẩm quyền Do Thái trao cho những người hành hương đến Thánh Địa, gây khó dễ cho việc họ viếng thăm những miền thuộc quyền kiểm soát của Thẩm Quyền Palestine, bao gồm nhiều Nơi Thánh của Kitô giáo.

4. “’Lạy Thày, Thày hiện đang ở đâu?’ ‘Hãy đến mà xem!’” (Jn 1:38-39).

Chúng tôi đã thấy được niềm hy vọng nơi việc tăng số tuy nhỏ nhưng đáng kể của những người hành hương đến những Nơi Thánh. Chúng tôi hy vọng rằng cuộc hành trình của chúng tôi sẽ là một gương mẫu và là thứ khích lệ cho Kitô hữu đồng đạo của mình trong việc đến mà xem nơi Chúa Giêsu Kitô đã sống. Việc hành trình và là một kẻ lữ hành là dấu hiệu của hy vọng và của tình đoàn kết đối với Kitô hữu ở Thánh Địa, là một nhắc nhở về sự hiện diện của Giáo Hội sống động này, Giáo Hội Mẹ, và là một chứng từ hòa bình hòa giải ở miền đất quá khổ đau vì xung khắc.

Chúng tôi kêu gọi tất cả mọi tín đồ thân hữu hãy làm chứng cho chân lý của sứ điệp được ngỏ với Kitô hữu ở Thánh Địa trong những ngày này là “Anh chị em không lẻ loi một mình đâu!”