Ðức Thánh Cha Gioan-Phaolô II với
Phái Đoàn Ngoại Giao Các Nước Tại Tòa Thánh
Về Tình Hình Thế Giới 2003
Theo thông lệ hằng năm, thường vào tuần lễ thứ hai của tân niên, (năm 2002 vào ngày Thứ Hai mùng 10/1, năm 2003 vào ngày Thứ Hai 13/1/2003, và năm nay 2004 vào ngày Thứ Hai 12/1) Phái Đoàn Ngoại Giao Các Nước Tại Tòa Thánh đến chúc xuân ĐTC GPII, vị thủ lãnh của Quốc Đô Vatican, và được Ngài chúc lại. Như mọi năm, ĐTC đã cùng họ ôn lại tổng quan Tình Hình Thế Giới trong một năm qua, nhưng bao giờ Ngài cũng nêu lên nhận định của mình về tình hình thế giới này và kêu gọi cộng đồng thế giới cùng nhau xây dựng hòa bình theo tinh thần và chiều hướng của Sứ Điệp Hòa Bình đầu năm của Ngài.
Trọng kính Các Ngài,
Quí Tôn Vị Nữ Nam,
Tôi bao giờ cũng lấy làm vui được gặp gỡ quí vị vào lúc mở màn cho một tân niên nhân dịp chúc mừng nhau theo truyền thống này. Tôi đặc biệt cám ơn những lời chúc tốt đẹp được vị đại diện quí vị là Ngài Lãnh Sự Giovanni Galassi gửi đến Tôi. Tôi chân thành cám ơn những cảm mến cao quí của quí vị cũng như việc quí vị hằng ngày tha thiết quan tâm tới sinh hoạt của Tòa Thánh chúng tôi. Qua con người của quí vị, Tôi cảm thấy gần gũi với nhân dân mà quí vị là đại diện. Tất cả mọi người chắc chắn được hưởng lời nguyện cầu và lòng cảm mến của vì Giáo Hoàng này, người muốn mời gọi họ hãy liên kết khả năng và tài nguyên để cùng nhau xây dựng một tương lai hòa bình và thịnh vượng chung!
Cơ hội này cũng cho Tôi cơ hội thuận lợi để cùng quí vị nhìn thoáng qua thế giới đúng như nó đang được hình thành bởi những con người nam nữ của thời đại này.
Việc cử hành Lễ Giáng Sinh nhắc nhở chúng ta về lòng nhân ái của Thiên Chúa đối với nhân loại, lòng nhân ái được biểu lộ nơi Đức Giêsu, và một lần nữa vẫn còn vang vọng một sứ điệp Bêlem vẫn mới mẻ là: “Bình an dưới thế cho người Chúa yêu!”.
Sứ điệp này một lần nữa được gửi đến chúng ta năm nay trong khi nhiều người tiếp tục phải trải qua các hậu quả của những cuộc tranh đấu võ trang, chịu đựng nghèo khổ, trở thành những nạn nhân của các thứ bất công xấu xa hay của những thứ dịch khó có thể chế ngự. Ngài lãnh Sự Galassi đã lập lại những điều này một cách chính xác như tất cả chúng ta đều nhận thấy như ông. Về phần mình, Tôi xin chia sẻ với quí vị bốn xác tín đã làm Tôi hết sức suy nghĩ và nguyện cầu trong dịp đầu năm 2004 này.
1. Hòa bình bị đe dọa hơn bao giờ hết
Hòa bình đã bị đổ vỡ vào những tháng gần đây bởi những biến cố xẩy ra ở Trung Đông, một miền đất, một lần nữa, lại hiện lên như là một miền đất của xung khắc và chiến loạn.
Nhiều việc làm được Tòa Thánh thực hiện để ngăn tránh cuộc xung đột đau thương đừng xẩy ra ở Iraq là những gì đã quá rõ. Vấn đề quan trọng hôm nay đó là vấn đề cộng đồng quốc tế giúp cho những người Iraq đã được thoát khỏi một chế độ đán áp họ, để họ có thể lại tiếp tục làm chủ xứ sở của mình, củng cố chủ quyền của họ, quyết định thể chế chính trị và kinh tế một cách dân chủ theo lòng họ mong ước, và để Iraq trở lại làm một phần tử có ưu thế trong cộng đồng quốc tế.
Việc thiếu nhất tâm nơi vấn đề của Do Thái và Palestine tiếp tục là một yếu tố thường xuyên bất ổn cho toàn vùng đất này, chưa kể đến những đau khổ khôn xiết giáng xuống trên nhân chúng Do Thái và Palestine. Tôi sẽ không thôi lập lại với các vị lãnh đạo hai quốc gia này là giải pháp võ lực, việc bên này sử dụng nạn khủng bố còn bên kia thì trả đũa, việc hạ nhục đối phương, việc tuyên truyền thù hận chẳng dẫn đi đến đâu cả. Chỉ khi nào biết tôn trọng những ước vọng hợp lý của nhau, khi nào ngồi lại thương thảo với nhau, và khi nào cộng đồng thế giới thực hiện việc dấn thân cụ thể mới có thể bắt đầu giải quyết được vấn đề. Một thứ hòa bình chân thực và bền vững không thể nào trở thành một thứ thuần quân bằng giữa các lực lượng trong cuộc; hoà bình trước hết là hoa trái của hành động luân lý và pháp lý.
Tôi có thể đề cập tới những căng thẳng và những cuộc xung đột khác, nhất là ở Phi Châu. Ảnh hưởng của các tình hình này trên dân chúng thật là thảm khốc. Hậu quả của bạo lực còn phải kể đến tình trạng bần cùng hóa và hư hoại hóa guồng máy cơ cấu, khiến cả quốc gia rơi vào tình trạng chán chường thất vọng. Người ta cũng phải nghĩ tới sự nguy hiểm vẫn còn gây ra do việc sản xuất và mua bán các thứ vũ khí, những thứ tiếp tục cung cấp cho những miền đang ở trong tình trạng nguy hiểm này.
Sáng nay, Tôi muốn đặc biệt kính nhớ đến ĐTGM Michael Courtney, vị khâm xứ tòa thánh ở Burundi mới bị sát hại. Như tất cả mọi vị khâm xứ cũng như tất cả mọi vị lãnh sự, ngài trước hết muốn phục vụ hòa bình và đối thoại. Tôi nghiêng mình trước việc ngài, vì thừa tác vụ giáo phẩm của mình cũng như vì việc ngoại giao của mình, đã can đảm và quan tâm nâng đỡ nhân dân Burundia theo đường lối của họ tiến tới hòa bình và tình huynh đệ tốt đẹp hơn. Cũng thế, Tôi nhớ tới Ông Sergio Viera de Mello, đại diện đặc biệt của Liên Hiệp Quốc ở Iraq bị sát hại trong một cuộc tấn công trong khi ông đang thi hành sứ vụ của mình. Tôi cũng nhớ tới tất cả mọi phần tử của phái đoàn ngoại giao, trong năm qua, đã bị thiệt mạng hay phải chịu khổ đau vì sứ vụ của họ.
Và làm sao người ta lại không đề cập tới nạn khủng bố quốc tế là những gì, trong khi gieo rắc sợ hãi, hận thù và cuồng tín, đang thất kính với tất cả những căn nguyên được nó tìm cách phục vụ? Tôi chỉ xin nói rằng hết mọi văn minh đích danh đều bao hàm việc dứt khoát loại trừ những dính dáng tới bạo lực. Đó là lý do Tôi muốn nói cùng cả một hội trường có những vị ngoại giao đoàn đây là chúng ta không thể nào khoanh tay chấp nhận một cách thụ động để cho bạo lực bắt hòa bình làm con tin được!
Vấn đề khẩn trương hơn bao giờ hết là hãy trở về với một thứ an ninh chung hiệu nghiệm hơn là thứ an ninh thuộc về vị thế và vai trò xứng hợp với Liên Hiệp Quốc. Hơn bao giờ hết cần phải học những bài học thuộc quá khứ xưa kia và mới đây. Tóm lại, một điều tỏ tường là chiến tranh không thể nào giải quyết được những thứ xung khắc giữa các dân tộc!2. Đức tin là quyền lực xây dựng hòa bình
Mặc dù nhân danh Giáo Hội Công Giáo Tôi sẽ lên tiếng nói ở đây, song Tôi biết rằng các anh chị em Kitô hữu khác cùng với tín đồ thuộc các tôn giáo khác cũng coi mình là những chứng nhân của một Vị Thiên Chúa của công lý và hòa bình.
Khi chúng ta tin rằng hết mọi con người đều nhận được từ Tạo Hóa một phẩm vị đặc thù, rằng mỗi một người trong chúng ta là chủ thể của những thứ quyền lợi và quyền tự do bất khả nhượng, rằng việc phục vụ người khác là lớn lên về nhân tính, và nhất là khi người ta cho mình là môn đệ của Đấng đã phán: ‘Cứ dấu này mà tất cả mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ của Thày, đó là các con yêu thương nhau’ (Jn 13:35), người ta mới có thể rõ ràng hiểu được cái chính yếu biểu hiện cho các cộng đồng tín hữu trong việc xây dựng một thế giới bình an thái hòa.
Về phần mình, Giáo Hội Công Giáo cố gắng thực hiện tất cả những gương mẫu của mình về mối hiệp nhất và tính cách đại đồng, tất cả mọi chứng từ của nhiều vị thánh đã tỏ ra yêu thương kẻ thù của mình cũng như của nhiều con người nam nữ thuộc lãnh vực chính trị đã tìm thấy nơi Phúc Âm lòng can đảm để sống đức bác ái trong những cuộc xung khắc. Ở đâu hòa bình gặp thách đố ở đó Kitô hữu minh chứng bằng lời nói và việc làm rằng hoa bình là những gì khả dĩ. Đó là ý nghĩa về những cuộc can thiệp của Tòa Thánh vào những cuộc tranh luận quốc tế như quí vị đã quá biết.
3. Tôn giáo trong xã hội: việc hiện hữu và đối thoại
Các cộng đồng tín hữu hiện hữu trong tất cả mọi xã hội như là một biểu hiện cho chiều kích tín ngưỡng của con người. Bởi thế, các tín hữu có lý để mong muốn được tham dự vào cuộc đối thoại trao đổi công cộng. Tiếc thay, dầu sao cũng phải công nhận là không phải bao giờ cũng xẩy ra như thế. Chúng ta là những nhân chứng, trong những thời gian gần đây, tại một số quốc gia ở Âu Châu, thấy có một thái độ có thể tác hại cho việc tôn trọng quyền tự do tôn giáo cần phải có. Mặc dù cả thế giới đều đồng ý vấn đề tôn trọng cảm quan tôn giáo của cá nhân, vẫn không có vấn đề tôn trọng ở biến cố tôn giáo, tức là ở chiều kích xã hội của tôn giáo, khi người ta quên đi những quyết tâm đã tỏ ra chấp nhận theo chiều hướng của những gì bấy giờ được gọi là “Hội Nghị về Vấn Đề Hợp Tác và An Ninh ở Âu Châu”.
Vấn đề thường được nại vào nguyên tắc của chủ nghĩa trần thế là những gì tự nó hợp lý nếu được hiểu như một thứ phân biệt giữa cộng đồng chính trị với các tôn giáo (x Gaudium et Spes, 76). Thế nhưng, việc phân biệt này không có nghĩa là vô thức! Chủ nghĩa trần thế không phải là chủ nghĩa phi giáo hội! Nó chính là vấn đề quốc gia tôn trọng tất cả mọi niềm tin, bảo đảm việc tự do thờ phượng và tâm linh, tự do hoạt động văn hóa và bác ái của các cộng đồng tín hữu.
Trong một xã hội đa dạng thì chủ nghĩa trần thế là vấn đề đả thông giữa các truyền thống linh thiêng khác nhau với quốc gia dân tộc. Mối liên hệ giữa giáo hội và quốc gia có thể và phải giành chỗ cho việc trân trọng đối thoại trao đổi, một cuộc đối thoại trao đổi truyền đạt các kinh nghiệm cùng với các giá trị tốt đẹp cho tương lai của quốc gia. Cuộc đối thoại lành mạnh giữa quốc gia với các giáo hội – không phải là với các luồng tư tưởng mà là với các phần tử – chắc chắn sẽ thuận lợi cho việc phát triển toàn vẹn của con người cũng như cho tình trạngỉ hòa hợp của xã hội.
Cái khó khăn trong việc chấp nhận yếu tố tôn giáo nơi sinh hoạt quần chúng đã được chứng thực một cách điển hình nơi trường hợp tranh luận gần đây về các thứ căn gốc Kitô giáo của Âu Châu. Một số người đã đọc lại lịch sử qua lăng kính của những ý hệ hẹp hòi, quên đi những gì Kitô giáo đã đóng góp vào văn hóa cùng các cơ cấu của châu lục này: đó là phẩm vị con người, là quyền tự do, là cảm quan về toàn cầu, về học đường và đại học đường, về những hoạt động liên đới kết đoàn. Vấn đề là ở chỗ, ngoài các truyền thống tôn giáo khác, Âu Châu đã được thiết lập cùng một lúc với việc lục địa này được truyền bá phúc âm hóa. Theo đức công bằng, cũng cần phải nhắc lại là, mới ở vào khoảng thời gian ngắn trước đây, thành phần Kitô hữu, trong việc cổ võ tự do và các quyền lợi của con người, đã đóng góp vào việc biến đổi êm đẹp những chế độ độc tài cũng như vào việc vãn hồi nền dân chủ ở Trung Âu và Đông Âu.
4. Tất cả mọi Kitô hữu đều có trách nhiệm đối với hòa bình và mối hiệp nhất gia đình nhân loại
Quí vị biết rằng việc dấn thân đại kết là một trong những gì được giáo triều của Tôi chú trọng. Thật vậy, Tôi tin rằng, nếu các Kitô hữu có thể thắng vượt những thứ chia rẽ của mình thì thế giới này sẽ trở thành đoàn kết hơn. Bởi thế, Tôi bao giờ cũng thích có những cuộc hội họp và những bản tuyên ngôn chung, vì Tôi thấy nơi mỗi một thứ này một điển hình và là một kích tố cho mối hiệp nhất của gia đình nhân loại.
Hỡi Kitô hữu, chúng ta có trách nhiệm đối với “Phúc Âm hòa bình” (Eph 6:15). Tất cả chúng ta có thể đóng góp một cách hữu hiệu vào việc tôn trọng sự sống, vào việc bảo toàn phẩm giá con người cùng với những quyền lợi bất khả nhượng của họ, vào việc bảo toàn đức công bằng xã hội cũng như vào việc bảo trì môi sinh. Hơn thế nữa, việc thực hành lối sống phúc âm khiến cho Kitô hữu có thể giúp đồng loại của mình chế ngự những thứ bản năng của họ, có thể bày tỏ những cử chỉ thông cảm và tha thứ, có thể cùng nhau đến giúp đỡ thánh phần túng thiếu. Thứ giá trị thiếu hụt, được trao cho quyền lực tác tạo hòa bình là những gì liên kết Kitô hữu, có thể ở ngay trong cộng đồng của họ, cũng như ở trong xã hội dân sự.
Tôi nói đến điều này không phải chỉ để nhắc nhở tất cả những ai kêu cầu Đức Kitô về nhu cầu khẩn trương cần phải dứt khoát thực hiện đường lối dẫn đến mối hiệp nhất theo ý của Đức Kitô, mà còn mong muốn các vị lãnh đạo thuộc các xã hội thấy được các nguồn gia sản Kitô giáo cùng với nguồn nhân lực đã sống gia sản này.
Về lãnh vực này, có thể trưng dẫn một thí dụ cụ thể, đó là việc giáo dục về hòa bình. Quí vị có thể nhận thấy những lời này đề tài của Sứ Điệp của Tôi cho ngày 1/1 năm nay. Theo ánh sáng của lý trí và đức tin, Giáo Hội nêu lên một thứ sư phạm về hòa bình để sửa soạn cho những thời điểm tốt đẹp hơn. Giáo Hội muốn cống hiến cho tất cả mọi người những thứ nghị lực thiêng liêng của mình, với lòng tin tưởng rằng “công bình cần phải được bác ái bổ khuyết” (đoạn số 10). Đây là những gì chúng tôi xin nêu lên cho tất cả mọi người thiện chí, vì “Kitô hữu chúng tôi cảm thấy, như là một đặc tính riêng của tôn giáo chúng tôi, nhiệm vụ cần phải đào luyện bản thân mình và người khác về hòa bình” (đoạn 3).
Đó là những ý tưởng Tôi muốn chia sẻ với quí vị Đấng Bậc, quí bà và quí ông, vào dịp đầu năm nay. Những tư tưởng ấy đã được thấu đáo trước máng cỏ, trước Chúa Giêsu là Đấng đã chia sẻ và yêu chuộng sự sống con người. Người tiếp tục là người đồng thời đối với mỗi một người trong chúng ta cũng như đối với mỗi một quốc gia được đại diện nơi đây. Tôi xin ký thác cho Thiên Chúa bằng lời nguyện cầu những dự án và việc thực hiện của họ, và Tôi xin cho quí vị, bản thân quí vị cùng với các người thân yêu của quí vị được hưởng muôn vàn phúc lành. Chúc quí vị một Tân Niên Phúc Hạnh!
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến ngày 12/1/2004.
Nhận định của www.thoidiemmaria.net: Trong bài diễn từ đầu năm ngỏ với Phái Đoàn Ngoại Giao gần 200 quốc gia trên thế giới này, vị lãnh đạo tối cao của Giáo Hội Công Giáo Rôma đã nhấn mạnh đến 4 vấn đề chính yếu và quan trọng trong năm qua, đó là vấn đề Iraq liên quan đến Hoa Kỳ, vấn đề Thánh Địa giữa Do Thái và Palestine, vấn đề Khối Hiệp Nhất Âu Châu (một vấn đề Ngài đã đề cập đến từ bài Diễn Từ ngỏ với Phái Đoàn Ngoại Giáo năm ngoái cũng vào dịp đầu năm như thế này), và vấn đề Hiệp Nhất Kitô Giáo liên quan đến Hòa Bình Thế Giới.
Vấn đề Iraq liên quan đến Hoa Kỳ: “Vấn đề quan trọng hôm nay đó là vấn đề cộng đồng quốc tế giúp cho những người Iraq đã được thoát khỏi một chế độ đán áp họ, để họ có thể lại tiếp tục làm chủ xứ sở của mình, củng cố chủ quyền của họ, quyết định thể chế chính trị và kinh tế một cách dân chủ theo lòng họ mong ước, và để Iraq trở lại làm một phần tử có ưu thế trong cộng đồng quốc tế”.
Phải chăng qua câu nói này ĐTC có ý nhấn mạnh rằng Hoa Kỳ cần phải rút lui khỏi Iraq để cho họ làm chủ xứ sở của họ bằng việc nắm chủ quyền của họ và quyết định một cách dân chủ về thể chế chính trị và kinh tế của họ?
Vấn đề Thánh Địa giữa Do Thái và Palestine: “Việc thiếu quyết tâm nơi vấn đề của Do Thái và Palestine tiếp tục là một yếu tố thường xuyên gây bất ổn cho toàn vùng đất này, chưa kể đến những đau khổ khôn xiết giáng xuống trên nhân chúng Do Thái và Palestine. Tôi sẽ không thôi lập lại với các vị lãnh đạo hai quốc gia này là giải pháp võ lực, việc bên này sử dụng nạn khủng bố còn bên kia thì trả đũa, việc hạ nhục đối phương, việc tuyên truyền thù hận chẳng dẫn đi đến đâu cả. Chỉ khi nào biết tôn trọng những ước vọng hợp lý của nhau, khi nào ngồi lại thương thảo với nhau, và khi nào cộng đồng thế giới thực hiện việc dấn thân cụ thể mới có thể bắt đầu giải quyết được vấn đề. Một thứ hòa bình chân thực và bền vững không thể nào trở thành một thứ thuần quân bằng giữa các lực lượng trong cuộc; hoà bình trước hết là hoa trái của hành động luân lý và pháp lý”.
Ở đây ĐTC nhận định lý do tại sao hai phe Do Thái và Palestine vẫn chưa thể nào và không thể nào giải quyết được tình trạng xung khắc và xung đột trường kỳ với nhau, là vì họ “thiếu quyết tâm”. Bởi thế, ĐTC đề nghị riêng họ hãy tôn trọng ước vọng hợp lý của nhau bằng việc ngồi lại thương thảo với nhau, thay vì hành động khúng bố tấn công và tấn công khủng bố nhau, và chung cộng đồng thế giới cũng phải thực hiện những dấn thân cụ thể để giúp họ nữa mới được. Theo Ngài, “hoà bình trước hết là hoa trái của hành động luân lý và pháp lý”, chứ không phải ở tại tình trạng lực lượng quân sự giữa đôi bên trong cuộc.
Vấn đề Khối Hiệp Nhất Âu Châu: “Cái khó khăn trong việc chấp nhận yếu tố tôn giáo nơi sinh hoạt quần chúng đã được chứng thực một cách điển hình nơi trường hợp tranh luận gần đây về các thứ căn gốc Kitô giáo của Âu Châu. Một số người đã đọc lại lịch sử qua lăng kính của những ý hệ hẹp hòi, quên đi những gì Kitô giáo đã đóng góp vào văn hóa cùng các cơ cấu của châu lục này: đó là phẩm vị con người, là quyền tự do, là cảm quan về toàn cầu, về học đường và đại học đường, về những hoạt động liên đới kết đoàn. Vấn đề là ở chỗ, ngoài các truyền thống tôn giáo khác, Âu Châu đã được thiết lập cùng một lúc với việc lục địa này được truyền bá phúc âm hóa. Theo đức công bằng, cũng cần phải nhắc lại là, mới ở vào khoảng thời gian ngắn trước đây, thành phần Kitô hữu, trong việc cổ võ tự do và các quyền lợi của con người, đã đóng góp vào việc biến đổi êm đẹp những chế độ độc tài cũng như vào việc vãn hồi nền dân chủ ở Trung Âu và Đông Âu”.
Cũng như trong bài diễn từ năm ngoái trong dịp đầu năm như thế này với Phái Đoàn Ngoại Giao liên hệ với Tòa Thánh, ĐTC đã cương quyết giữ vững lập trường của mình về tình trạng Âu Châu hầu như muốn phủ nhận căn gốc Kitô giáo làm nên văn hóa và thể chế của mình. Trong bài diễn từ năm nay, Ngài đã nêu lên lý do tại sao Khối Hiệp Nhất Âu Châu nói chung (nhất là Pháp nói riêng, trưởng nữ của Giáo Hội) đã viện dẫn để nhất định không chịu chấp nhận căn gốc Kitô giáo của mình, đó là vì họ chủ trương thực hiện chủ nghĩa trần tyhế, phân biệt thần quyền ra khỏi thế quyền. Tuy nhiên, Ngài đã nhận định và phân tích chủ nghĩa trần thế của họ như sau:
“Vấn đề thường được nại vào nguyên tắc của chủ nghĩa trần thế là những gì tự nó hợp lý nếu được hiểu như một thứ phân biệt giữa cộng đồng chính trị với các tôn giáo (x Gaudium et Spes, 76). Thế nhưng, việc phân biệt này không có nghĩa là vô thức! Chủ nghĩa trần thế không phải là chủ nghĩa phi giáo hội! Nó chính là vấn đề quốc gia tôn trọng tất cả mọi niềm tin, bảo đảm việc tự do thờ phượng và tâm linh, tự do hoạt động văn hóa và bác ái của các cộng đồng tín hữu. Trong một xã hội đa dạng thì chủ nghĩa trần thế là vấn đề đả thông giữa các truyền thống linh thiêng khác nhau với quốc gia dân tộc. Mối liên hệ giữa giáo hội và quốc gia có thể và phải giành chỗ cho việc trân trọng đối thoại trao đổi, một cuộc đối thoại trao đổi truyền đạt các kinh nghiệm cùng với các giá trị tốt đẹp cho tương lai của quốc gia. Cuộc đối thoại lành mạnh giữa quốc gia với các giáo hội – không phải là với các luồng tư tưởng mà là với các phần tử – chắc chắn sẽ thuận lợi cho việc phát triển toàn vẹn của con người cũng như cho tình trạng hòa hợp của xã hội”.Vấn đề Hiệp Nhất Kitô Giáo liên quan đến Hòa Bình Thế Giới: “Hỡi Kitô hữu, chúng ta có trách nhiệm đối với ‘Phúc Âm hòa bình’ (Eph 6:15). Tất cả chúng ta có thể đóng góp một cách hữu hiệu vào việc tôn trọng sự sống, vào việc bảo toàn phẩm giá con người cùng với những quyền lợi bất khả nhượng của họ, vào việc bảo toàn đức công bằng xã hội cũng như vào việc bảo trì môi sinh. Hơn thế nữa, việc thực hành lối sống phúc âm khiến cho Kitô hữu có thể giúp đồng loại của mình chế ngự những thứ bản năng của họ, có thể bày tỏ những cử chỉ thông cảm và tha thứ, có thể cùng nhau đến giúp đỡ thánh phần túng thiếu. Thứ giá trị thiếu hụt, được trao cho quyền lực tác tạo hòa bình là những gì liên kết Kitô hữu, có thể ở ngay trong cộng đồng của họ, cũng như ở trong xã hội dân sự”.
Đây là lần đầu tiên trong các bài diễn từ ngỏ với Phái Đoàn Ngoại Giáo thế giới với Tòa Thánh ĐTC đã nhấn mạnh đến vai trò của Kitô hữu trong sứ vụ xây dựng hòa bình thế giới. Đó là lý do Ngài đã hết sức chú trọng đến tình trạng hiệp nhất Kitô giáo trong giáo triều của Ngài. Thật vậy, nếu “các con là ánh sáng thế gian” (Mt 5:14) thì thế gian tăm tối là vì thiếu ánh sáng thế gian, thiếu gương sáng của Kitô hữu. Chủ trương này của Ngài đã được Ngài nói rõ với giới trẻ Bulgaria chiều Chúa Nhật 26/5/2002 là “Quí bạn trẻ thân mến, quí bạn đừng bao giờ quên rằng một khi đấu bột không dậy men, thì không phải là do lỗi của đấu bột mà là của men. Khi ngôi nhà bị tối tăm tức là ánh sáng đã bị tắt mất. Thế nên, ‘các con hãy chiếu sáng trước mắt con người để họ nhìn thấy các việc lành của các con mà tôn vinh Cha các con trên trời’ (Mt 5:16)” (đoạn 6). Đó là lý do, Ngài đã thẳng thắn tuyên bố với cả thế giới được đại diện bởi Phái Đoàn Ngoại Giao với Tòa Thánh là:
“Thật vậy, Tôi tin rằng, nếu các Kitô hữu có thể thắng vượt những thứ chia rẽ của mình thì thế giới này sẽ trở thành đoàn kết hơn”.
www.tinmungsusong.org (số 175 - 18/1/2004) Áp Dụng Sống Ðạo
Trong bài diễn từ đầu năm ngỏ với Phái Đoàn Ngoại Giao gần 200 quốc gia trên thế giới này, vị lãnh đạo tối cao của Giáo Hội Công Giáo Rôma đã nhấn mạnh đến 4 vấn đề chính yếu và quan trọng trong năm qua, đó là vấn đề Iraq liên quan đến Hoa Kỳ, vấn đề Thánh Địa giữa Do Thái và Palestine, vấn đề Khối Hiệp Nhất Âu Châu (một vấn đề Ngài đã đề cập đến từ bài Diễn Từ ngỏ với Phái Đoàn Ngoại Giáo năm ngoái cũng vào dịp đầu năm như thế này), và vấn đề Hiệp Nhất Kitô Giáo liên quan đến Hòa Bình Thế Giới. Tuy đây là một bài diễn từ với thành phần chính trị, nhưng Đức Thánh Cha, với tư cách là vị lãnh đạo tinh thần của một Vương Quốc tuy ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian này đã khéo léo đem vùi chút men luân lý Phúc Âm vào đống bột chính trị ngoại giao này. Bởi vì, con người sống không nguyên bởi bánh kinh tế, chính trị và xã hội mà còn sống bởi những gì phát xuất từ miệng lưỡi thần linh là mạc khải, đức tin và luân thường đạo lý nữa.
Đó là lý do chúng ta thấy trong bài diễn từ đầu năm với phái đoàn ngoại giao gần 200 quốc gia với Tòa Thánh Vatican hay với Giáo Hội Công Giáo Rôma, Đức Thánh Cha của chúng ta đã nhắc đến một số nguyên tắc luân lý và sống đạo mà con người nói chung và Kitô hữu nói riêng cần phải ý thức và áp dụng thực hành mới đúng như ý muốn của Thiên Chúa, tức mới “Vinh danh Thiên Chúa trên trời”, để rồi từ đó mới gặt hái được thành quả là “Bình an dưới thế cho người Chúa thương”. Đọc kỹ bài diễn từ này, chúng ta thấy có hai điểm sống đạo liên quan riêng tới Kitô hữu, đó là vấn đề quí chuộng căn gốc Kitô giáo của mình và vấn đề hiệp nhất Kitô giáo để xây dựng gia đình nhân loại.
Trước hết, về vấn đề quí chuộng căn gốc Kitô giáo của mình, ĐTC đã nhận định như thế này:
“Cái khó khăn trong việc chấp nhận yếu tố tôn giáo nơi sinh hoạt quần chúng đã được chứng thực một cách điển hình nơi trường hợp tranh luận gần đây về các thứ căn gốc Kitô giáo của Âu Châu. Một số người đã đọc lại lịch sử qua lăng kính của những ý hệ hẹp hòi, quên đi những gì Kitô giáo đã đóng góp vào văn hóa cùng các cơ cấu của châu lục này: đó là phẩm vị con người, là quyền tự do, là cảm quan về toàn cầu, về học đường và đại học đường, về những hoạt động liên đới kết đoàn. Vấn đề là ở chỗ, ngoài các truyền thống tôn giáo khác, Âu Châu đã được thiết lập cùng một lúc với việc lục địa này được truyền bá phúc âm hóa. Theo đức công bằng, cũng cần phải nhắc lại là, mới ở vào khoảng thời gian ngắn trước đây, thành phần Kitô hữu, trong việc cổ võ tự do và các quyền lợi của con người, đã đóng góp vào việc biến đổi êm đẹp những chế độ độc tài cũng như vào việc vãn hồi nền dân chủ ở Trung Âu và Đông Âu”.
Trong bài diễn từ năm nay, Ngài đã nêu lên lý do tại sao Khối Hiệp Nhất Âu Châu nói chung (nhất là Pháp nói riêng, trưởng nữ của Giáo Hội) đã viện dẫn để nhất định không chịu chấp nhận căn gốc Kitô giáo của mình, đó là vì họ chủ trương thực hiện chủ nghĩa trần thế, phân biệt thần quyền ra khỏi thế quyền. Tuy nhiên, Ngài đã nhận định và phân tích chủ nghĩa trần thế của họ như sau:
“Vấn đề thường được nại vào nguyên tắc của chủ nghĩa trần thế là những gì tự nó hợp lý nếu được hiểu như một thứ phân biệt giữa cộng đồng chính trị với các tôn giáo (x Gaudium et Spes, 76). Thế nhưng, việc phân biệt này không có nghĩa là vô thức! Chủ nghĩa trần thế không phải là chủ nghĩa phi giáo hội! Nó chính là vấn đề quốc gia tôn trọng tất cả mọi niềm tin, bảo đảm việc tự do thờ phượng và tâm linh, tự do hoạt động văn hóa và bác ái của các cộng đồng tín hữu. Trong một xã hội đa dạng thì chủ nghĩa trần thế là vấn đề đả thông giữa các truyền thống linh thiêng khác nhau với quốc gia dân tộc. Mối liên hệ giữa giáo hội và quốc gia có thể và phải giành chỗ cho việc trân trọng đối thoại trao đổi, một cuộc đối thoại trao đổi truyền đạt các kinh nghiệm cùng với các giá trị tốt đẹp cho tương lai của quốc gia. Cuộc đối thoại lành mạnh giữa quốc gia với các giáo hội – không phải là với các luồng tư tưởng mà là với các phần tử – chắc chắn sẽ thuận lợi cho việc phát triển toàn vẹn của con người cũng như cho tình trạng hòa hợp của xã hội”.
Tóm lại, về vấn đề quí chuộng căn gốc Kitô giáo của mình, chúng ta thấy là một vấn đề rất quan trọng. Chính vì đa số Kitô hữu Âu Châu đã phủ nhận hay ơ hờ với gia sản Kitô giáo cao quí làm nên văn minh Âu Châu nói riêng và qua Âu Châu làm nên văn minh thế giới hiện nay nói chung, mà tự họ đã đi đến chỗ quay cuồng với nền văn hóa sự chết, đã gieo rắc nền văn hóa sự chết này khắp thế giới, như họ đã truyền bá phúc âm hóa văn hóa sự sống xưa kia khắp thế giới vậy. Giờ đây, thực tế cho thấy, ví mất gốc, họ đã đi đến chỗ, như cha Trần Văn Khoa cho biết trong cuộc phỏng vấn với chúng tôi hôm 30/11/2003, là trong giáo xứ có 2500 giáo dân của cha chỉ có 50 người đi dự lễ Chúa Nhật hằng tuần nếu trời yên mây tạnh, bằng không con số này sẽ thụt xuống còn 30. Một lần nữa, chúng ta hãy cầu nguyện cho anh chị em Kitô hữu Công Giáo của chúng ta ở Âu Châu để cùng nhau chúng ta biết quí chuộng và sống căn gốc Kitô giáo của mình. Bởi vì, chỉ có Chúa Kitô và Phúc Âm của Người mới có thể cứu thế giới mà thôi.
Sang vấn đề thứ hai, vấn đề hiệp nhất Kitô giáo để xây dựng gia đình nhân loại, ĐTC đã kêu gọi như sau:
“Hỡi Kitô hữu, chúng ta có trách nhiệm đối với ‘Phúc Âm hòa bình’ (Eph 6:15). Tất cả chúng ta có thể đóng góp một cách hữu hiệu vào việc tôn trọng sự sống, vào việc bảo toàn phẩm giá con người cùng với những quyền lợi bất khả nhượng của họ, vào việc bảo toàn đức công bằng xã hội cũng như vào việc bảo trì môi sinh. Hơn thế nữa, việc thực hành lối sống phúc âm khiến cho Kitô hữu có thể giúp đồng loại của mình chế ngự những thứ bản năng của họ, có thể bày tỏ những cử chỉ thông cảm và tha thứ, có thể cùng nhau đến giúp đỡ thánh phần túng thiếu. Thứ giá trị thiếu hụt, (ôû ñaây ÑTC coù yù noùi ñeán tình traïng thieáu huït tinh thaàn ñoaøn keát nôi Kitoâ höõu) được trao cho quyền lực tác tạo hòa bình là những gì liên kết Kitô hữu, có thể ở ngay trong cộng đồng của họ, cũng như ở trong xã hội dân sự”.
Đây là lần đầu tiên trong các bài diễn từ ngỏ với Phái Đoàn Ngoại Giáo thế giới với Tòa Thánh ĐTC đã nhấn mạnh đến vai trò của Kitô hữu trong sứ vụ xây dựng hòa bình thế giới một cách minh nhiên và thật là mãnh liệt. Đó là lý do Ngài đã hết sức chú trọng đến tình trạng hiệp nhất Kitô giáo trong giáo triều của Ngài. Thật vậy, nếu “các con là ánh sáng thế gian” (Mt 5:14) thì thế gian tăm tối là vì thiếu ánh sáng thế gian, thiếu gương sáng của Kitô hữu. Chủ trương này của Ngài đã được Ngài nói rõ với giới trẻ Bulgaria chiều Chúa Nhật 26/5/2002 là “Quí bạn trẻ thân mến, quí bạn đừng bao giờ quên rằng một khi đấu bột không dậy men, thì không phải là do lỗi của đấu bột mà là của men. Khi ngôi nhà bị tối tăm tức là ánh sáng đã bị tắt mất. Thế nên, ‘các con hãy chiếu sáng trước mắt con người để họ nhìn thấy các việc lành của các con mà tôn vinh Cha các con trên trời’ (Mt 5:16)” (đoạn 6). Đó là lý do, Ngài đã thẳng thắn tuyên bố với cả thế giới được đại diện bởi Phái Đoàn Ngoại Giao với Tòa Thánh là:
“Thật vậy, Tôi tin rằng, nếu các Kitô hữu có thể thắng vượt những thứ chia rẽ của mình thì thế giới này sẽ trở thành đoàn kết hơn”.
Chúng ta có chấp nhận được điều ĐTC xác tín và tuyên bố như thế hay chăng? Nếu không, tại sao chúng ta không thử xem có đúng không, bằng cách không tỏ ra những đố kị hay phát biểu những lời phê bình chỉ trích anh chị em Kitô hữu của mình, trái lại, hãy đoàn kết với nhau để phục vụ công ích xã hội. Nếu chúng ta công nhận điều ĐTC xác tín và tuyên bố là đúng, thì chúng ta đã thực sự hiệp nhất với anh chị em Kitô hữu của mình hay chưa? Một dấu hiệu rõ ràng cho thấy chúng ta đã có tinh thần hiệp nhất Kitô giáo đó là chúng ta đoàn kết yêu thương nhau trong chính cộng đồng hay cộng đoàn Công giáo của mình.
Về Tình Hình Thế Giới Năm 2002
Theo thông lệ hằng năm, vào dịp đầu năm Dương Lịch, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II gặp Ngoại Giao Đoàn gồm tất cả những vị lãnh sự (năm nay tất cả là 177, năm trước 172) các quốc gia trên thế giới đang có liên hệ với Tòa Thánh, và chia sẻ nhận định cùng quan tâm của mình về tình hình thế giới ở khắp nơi trong năm qua. Sau đây là bài diễn từ của Ngài ngỏ với Lãnh Sự Đoàn Thế Giới hôm Thứ Hai 13/1/2003 (năm trước ngày 10/1), trong đó, ở đoạn 3 và 4, Ngài chẳng những nhấn mạnh đến những nguyên tắc cụ thể, 3 điều tích cực cần phải làm và 3 điều tiêu cực cần phải tránh, để có thể thay đổi tình hình thế giới biến loạn, mất thăng bằng, choáng váng đang lao mình xuống vực thẳm hiện nay, mà còn, ở đoạn 5, Ngài nêu lên hai trường hợp điển hình liên quan đến Âu Châu và Phi Châu, cho 6 điểm cần phải áp dụng thực hành như Ngài đã nêu lên và kêu gọi.
Ngài Trưởng Ngoại Giao Ðoàn,
Quí Vị Tôn Nữ Tôn Nam,
1. Cuộc gặp gỡ hôm nay ở vào lúc mở màn cho một Tân Niên là một truyền thống tốt đẹp hiến cho Tôi được dịp vui mừng đón tiếp quí vị, và qua vai trò đại diện của quí vị, một cách nào đó, gắn bó cả với tất cả mọi dân tộc của quí vị nữa! Vì qua quí vị và nhờ quí vị mà Tôi biết được những niềm hy vọng và khát vọng của họ, những thành đạt và suy thoái của họ. Hôm nay, Tôi xin nhiệt tình nguyện chúc cho xứ sở của quí vị được hạnh phúc, an bình và thịnh vượng.
Ở ngưỡng cửa của Tân Niên này, bằng lời nguyện cầu, Tôi cũng xin chúc cho tất cả quí vị, gia đình của quí vị và công dân của quí vị được tràn đầy phúc lành thần linh.
Trước khi chia sẻ với quí vị một số suy tư về hiện tình trên thế giới cũng như trong Giáo Hội, Tôi phải cám ơn Vị Trưởng Phái Đoàn của quí vị là Lãnh Sự Giovanni Galassi, về những lời lẽ tốt đẹp và chúc mừng nồng hậu ông đã nhân danh mọi vị ở đây chân thành bày tỏ về con người và tác vụ của Tôi. Xin nhận nơi đây lòng biết ơn sâu xa của Tôi!
Thưa Ông Lãnh Sự, ông cũng vạch ra cho thấy những mong đợi sâu xa của con người nam nữ tân tiến ngày nay, tất cả những niềm mong đợi rất hay thường bị bị tiêu tán bởi những cuộc khủng hoảng về chính trị, bởi cuộc bạo động quân sự, bởi những xung khắc xã hội, bởi nghèo khổ hay những tai ương thiên nhiên. Chưa bao giờ nhân loại cảm thấy thế giới họ đang hình thành đây bị bấp bênh như ở vào lúc mở màn cho một tân thiên niên kỷ này.
2. Bản thân Tôi đã xúc động trước cảm giác sợ hãi thường ngự trị trong tâm can con người đương thời của chúng ta. Một cuộc khủng bố bất ngờ có thể xẩy ra bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu; vấn đề không giải quyết nổi ở Trung Đông, trong đó có Thánh Địa và Iraq; tình trạng hỗn loạn gây đổ vỡ ở Nam Mỹ Châu, nhất là ở Á Căn Đình, Colombia và Venezuela; những cuộc xung đột gây cho nhiều quốc gia Phi Châu không thể tập trung nổi vào việc phát triển; những thứ bệnh hoạn lây nhiễm và chết chóc; tình trạng đói khát trầm trọng, nhất là ở Phi Châu; thái độ vô trách nhiệm làm cạn kiệt các nguồn nhiên liệu của trái đất này, tất cả những điều này là các thứ dịch đe dọa sự sống còn của nhân loại, tình trạng an bình của con người cũng như tình trạng an ninh của các xã hội.
3. Tuy nhiên, mọi sự đều có thể đổi thay. Nó lệ thuộc vào mỗi một người trong chúng ta. Mỗi người có thể đều có thể kiến tạo nơi bản thân mình cái khả năng tin tưởng, thành tín, tôn trọng nhau và dấn thân phục vụ người.
Hiển nhiên là nó cũng tùy thuộc vào các nhà lãnh đạo chính trị nữa, thành phần được kêu gọi để phục vụ công ích. Quí vị sẽ không lấy làm lạ lùng khi thấy Tôi, trước một hội đồng các nhà ngoại giao đây, về vấn đề này, Tôi nói lên một số đòi hỏi mà Tôi tin rằng cần phải có để tất cả các dân nước, ngay cả chính nhân loại, không bị chìm xuống vực thẳm.
Trước hết, đó là “PHÒ SỰ SỐNG”! Hãy tôn trọng chính sự sống và mạng sống của con người: hết mọi sự được bắt đầu ở chỗ này, vì quyền lợi trọng yếu nhất của loài người phải là quyền sống. Phá thai, trợ an tử, tạo sinh theo kỹ thuật phi tính dục cloning chẳng hạn, đều là những nguy cơ hạ con người xuống thành một đối vật thuần túy, ở chỗ có thể sử dụng sự sống và sự chết tùy ý! Khi loại trừ tất cả mọi qui tắc về luân lý thì việc nghiên cứu khoa học liên quan đến các nguồn mạch sự sống trở thành việc chối bỏ bản vị và phẩm giá của con người. Chính chiến tranh là một cuộc tấn công sự sống con người, vì nó gây ra khổ đau và chết chóc. Cuộc chiến đấu cho hòa bình bao giờ cũng là một cuộc chiến đấu cho sự sống vậy!
Sau nữa, đó là TÔN TRỌNG LUẬT LỆ. Sinh hoạt trong xã hội, nhất là sinh hoạt quốc tế, đặt ra những nguyên tắc chung bất khả vi phạm, với mục đích là để bảo toàn nền an ninh và quyền tự do của cá nhân người công dân cũng như của các quốc gia. Những qui luật hành động này là nền tảng cho sự bền vững của quốc gia và quốc tế. Hôm nay đây các vị lãnh đạo chính trị đang có trong tay những văn bản và những thiết định rất thích đáng. Chỉ cần mang chúng ra thực hiện mà thôi. Thế giới sẽ hoàn toàn trở nên khác hẳn nếu người ta bắt đầu áp dụng một cách thẳng thắn những hiệp ước đã ký kết với nhau!
Sau hết, đó là PHẬN VỤ ĐOÀN KẾT. Trong một thế giới tràn ngập những tín liệu, thế nhưng, ngược đời thay, lại là những gì rất khó truyền đạt, ở những nơi điều kiện sinh sống chênh lệch một cách đáng hổ ngươi, cần phải hết sức nỗ lực để bảo đảm rằng hết mọi người đều cảm thấy mình có trách nhiệm đối với việc phát triển và phúc hạnh của tất cả mọi người. Tương lai của chúng ta đang gặp nguy hiểm. Người trẻ bị thất nghiệp, người tật nguyền bị loại trừ, người lão thành bị bỏ bê, các quốc gia quằn quại với đói khát và bần cùng: tất cả những tình trạng này thường làm cho con người thất vọng và trở thành mồi ngon cho khuynh hướng khép kín bản thân hay vùng vẫy bằng võ lực.
4. Đó là lý do tại sao cần phải thực hiện những quyết chọn để nhân loại vẫn còn thấy được tương lai của mình. Bởi thế, các dân tộc trên trái đất này, cùng với các nhà lãnh đạo chính trị của họ, đôi khi phải biết can đảm nói lên tiếng “không”.
“KHÔNG VỚI SỰ CHẾT!” Tức là chối từ tất cả những gì tấn công phẩm giá vô giá của hết mọi con người, bắt đầu từ phẩm giá của những thai nhi. Nếu sự sống thực sự là một kho tàng thì chúng ta cần phải biết làm sao để có thể bảo trì nó và làm cho nó sinh hoa kết trái mà không làm nó bị méo mó. “Không” với tất cả những gì làm suy yếu đời sống gia đình là tế bào gốc của xã hội. “Không” với tất cả những gì hủy hoại nơi trẻ em cái cảm quan tranh đấu, lòng tôn trọng bản thân chúng và tha nhân, cũng như cảm quan phục vụ.
“KHÔNG VỚI VỊ KỶ!” Nói cách khác, đó là chối từ tất cả những gì thúc đẩy con người đi đến chỗ tự vệ bản thân mình trong ốc đảo của một thứ giai cấp xã hội ân huệ hay của một thứ sảng khoái văn hóa tẩy chay các nền văn hóa khác. Cần phải xét lại lối sống của thành phần giầu thịnh, kiểu cách hưởng thụ của họ, căn cứ vào ảnh hưởng của những cách hưởng thụ này tác dụng trên những xứ sở khác. Chúng ta hãy đề cập đến vấn đề như nguồn nhiên liệu về nước là những gì Tổ Chức Liên Hiệp Quốc đã xin tất cả chúng ta hãy lưu ý tới trong năm 2003 này. Vị kỷ còn là thái độ dửng dưng của các quốc gia giầu thịnh đối với các quốc gia bị lạnh lẽo bên ngoài. Tất cả mọi dân nước đều có quyền lãnh hưởng một phần công bằng nơi những sản vật của thế giới này, cũng như nơi những kỹ thuật của các quốc gia tân tiến hơn. Chẳng hạn chúng ta làm sao lại không nghĩ đến phương tiện để mọi người có thể hưởng được những thứ thuốc men về di truyền cần thiết để tiếp tục chống lại những chứng bệnh đang lan tràn khắp nơi hiện nay, một phương tiện mà, than ôi, thường gặp trở ngại bởi những yếu tố kinh tế ngắn hạn?
“KHÔNG VỚI CHIẾN TRANH!” Chiến tranh không phải lúc nào cũng bất khả tránh. Nó bao giờ cũng là một vấn đề thảm bại đối với nhân loại. Luật lệ quốc tế, thành tâm đối thoại, tình đoàn kết giữa các Quốc Gia, việc làm cao quí của ngành ngoại giao, đó là những phương pháp xứng hợp với cá nhân cũng như quốc gia trong việc giải quyết những cái khác biệt. Tôi nói đến điều này khi Tôi nghĩ đến những ai vẫn còn đặt niềm tin vào các thứ vũ khí hạch nhân, cũng như đến muôn vàn tất cả những vụ xung đột tiếp tục bắt anh chị em trong nhân loại của chúng ta làm con tin. Vào Ngày Lễ Giáng Sinh, Bêlem đã nhắc chúng ta nhớ đến cuộc khủng hoảng khó giải quyết ở Trung Đông, nơi mà hai dân tộc, Do Thái và Palestine, được kêu gọi để sống bên nhau trong sự tương kính, có tự do và chủ quyền như nhau. Không cần phải lập lại ở đây những gì Tôi đã nói với quí vị cũng vào dịp này năm trước, hôm nay Tôi chỉ muốn thêm là, khi phải đối diện với tình hình liên tục suy bại trong cuộc khủng hoảng ở Trung Đông, thì để giải quyết không bao giờ được ép uổng bằng việc sử dụng đến vấn đề khủng bố hay xung đột võ khí, như thể chiến thắng về quân sự có thể mang lại câu giải đáp vậy. Và chúng ta phải nói gì đây về mối đe dọa của một cuộc chiến tranh có thể giáng xuống trên nhân dân Iraq, mảnh đất của các Vị Tiên Tri, một dân tộc đã bị thử thách đớn đau vì bị cấm vận kinh tế hơn 12 năm trời? Chiến tranh không bao giờ biện minh cho phương tiện con người có thể dùng để giải quyết những khác biệt giữa các quốc gia. Như Bản Hiến Chương của Tổ Chức Liên Hiệp Quốc và chính luật lệ quốc tế đã nhắc nhở chúng ta là không thể đi đến chỗ chiến tranh, cho dù là vấn đề cần phải bảo đảm cho công ích, trừ khi không còn chọn lựa nào khác, những chọn lựa phù hợp với những điều kiện ngặt nghèo, liên quan đến các thành quả xẩy ra cho thành phần thường dân cả trong khi lẫn sau khi xẩy ra những cuộc đụng độ quân sự.
5. Thế nên, chúng ta có thể thay đổi được cục diện của những biến chuyển, một khi chúng ta có thiện chí, biết tin tưởng nhau, trung thành với những cuộc dấn thân và hợp tác giữa thành phần hữu trách. Tôi xin đưa ra hai thí dụ điển hình.
Âu Châu ngày nay, một địa lục đã có một thời hiệp nhất và vươn rộng. Âu Châu đã thành công trong việc phá đổ những bức tường làm nó hổ ngươi ê mặt. Nó đã dấn thân phác họa và kiến tạo nên một thực thể mới có khả năng liên kết tính cách duy nhất và đa diện, chủ quyền quốc gia và sinh hoạt chung, tiến bộ kinh tế và công lý xã hội. Tân lục địa Âu Châu này là nơi mang những giá trị đã từng sinh hoa trái qua hai ngàn năm ở “nghệ thuật” suy nghĩ và sinh hoạt mang lại thiện ích cho toàn thế giới. Trong số những giá trị này phải kể đến vị thế nổi bật của Kitô Giáo, vì tôn giáo này đã làm phát sinh ra một nền nhân bản làm thấm nhuần lịch sử Âu Châu cùng các cơ chế của lục địa này. Nhắc đến gia sản này, Tòa Thánh Vatican và tất cả mọi Giáo Hội Kitô Giáo đã thôi thúc những ai phác họa Bản Hiệp Định Hiến Pháp sau này của Khối Hiệp Nhất Âu Châu hãy bao gồm cả chi tiết liên quan đến các Giáo Hội và các định chế tôn giáo. Với tấm lòng hoàn toàn tôn trọng quyền bính trần thế, chúng tôi tin tưởng là ba yếu tố bổ túc cho nhau sau đây đáng phải được nhìn nhận, đó là quyền tự do tôn giáo, không phải chỉ liên quan đến khía cạnh cá nhân và lễ nghi, mà còn đến cả những chiều kích xã hội và cơ cấu nữa; tính cách thích hợp của các cấu trúc để trao đổi và tham vấn giữa những Cơ Cấu Cai Trị và các cộng đồng tín hữu; việc tôn trọng tính cách pháp nhân của các Giáo Hội cũng như của các định chế tôn giáo thuộc các Quốc Gia Phần Tử của Khối này đã được hưởng. Một Âu Châu chối bỏ quá khứ của mình, phủ nhận sự kiện tôn giáo, và không có một chiều kích thiêng liêng, sẽ hoàn toàn trở thành hèn yếu trước một dự án đầy tham vọng cần đến mọi nỗ lực của nó trong việc kiến tạo nên một Âu Châu cho tất cả mọi người!
Cả Phi Châu nữa, hôm nay cũng cho chúng ta cơ hội để hoan hỉ: đó là một Angola đã bắt đần được tái thiết; một Burundi đã đi vào con đường có thể dẫn đến hòa bình và đang mong đợi cộng đồng thế giới thông cảm hỗ trợ về tài chính; một Cộng Hòa Dân Chủ Congo đang thực sự dấn thân vào một cuộc đối thoại quốc gia để tiến đến một nền dân chủ. Nước Sudan cũng đã cho thấy thiện chí, cho dù con đường dẫn đến hòa bình vẫn còn dài dòng và khổ công. Dĩ nhiên chúng ta phải cảm nhận được những dấu hiệu tiến bộ này và chúng ta phải khuyến khích các vị lãnh đạo chính trị đừng bỏ qua một nỗ lực nào trong việc bảo đảm từ từ là dân chúng Phi Châu cảm thấy những mầm mống nhú lên của một tiến trình hòa bình mang theo thịnh vượng, của một thứ an toàn không còn những đối chọi chủng tộc, khỏi tình trạng thay đổi bất thường và băng hoại. Vì lý do này chúng ta lấy làm thương tiếc về những đụng độ trầm trọng xẩy ra đã làm rung chuyển cả nước Côte-d’Ivoire cũng như nước Cộng Hòa Trung Phi, và kêu gọi nhân dân của những xứ sở này hãy bỏ khí giới xuống, hãy tôn trọng hiến pháp hiện hành của họ và hãy đi đến chỗ đối thoại nội bộ quốc gia. Thế nên mới cần phải bao gồm tất cả mọi yếu tố của cộng đồng quốc gia vào việc phác họa một xã hội có chỗ đứng cho hết mọi người. Ngoài ra, chúng ta còn để ý thấy là những người Phi Châu đã càng ngày càng cố gắng tìm kiếm những giải quyết hợp với những vấn đề của họ, nhờ sinh hoạt của Khối Hiệp Nhất Phi Châu và những hình thức tác hiệu của việc dàn xếp theo từng miền.
6. Quí Vị Tôn Nữ Tôn Nam, rất cần phải ghi nhận là nền độc lập của các Quốc Gia không thể hiểu được nếu không nói đến vấn đề liên thuộc. Tất cả mọi Quốc Gia đều có tương quan liên hệ với nhau để trở nên tốt đẹp hơn cũng như trở thành tệ hại hơn. Đó là lý do, và thực sự là thế, chúng ta cần phải phân biệt lành với dữ và điểm đích danh của chúng. Như lịch sử đã dạy cho chúng ta hết lần này đến lần khác là chính lúc tình trạng ngờ vực hay lầm lẫn về những gì đúng sai làm chủ tình thế thì con người lại sợ những sự dữ cả thể nhất xẩy ra.
Nếu chúng ta tránh khỏi tình trạng chao đảo này, theo Tôi, cần phải hội đủ hai điều kiện. Điều kiện thứ nhất đó là việc tái nhìn nhận nơi Quốc Gia và giữa các Quốc Gia cái giá trị tối cao của lề luật tự nhiên là nguồn khơi lên những quyền lợi của quốc gia cũng như những công thức đầu tiên của lề luật quốc tế. Cho dù ngày nay vẫn còn một số người đặt vấn đề giá trị của lề luật tự nhiên này, Tôi vẫn xác tín rằng những nguyên tắc chung và phổ quát của nó vẫn có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn mối hiệp nhất của loài người, cũng như giúp chúng ta nuôi dưỡng việc phát triển lương tâm của cả những ai có trách nhiệm cai trị lẫn những ai thuộc quyền cai trị. Điều kiện thứ hai là chúng ta cần đến hoạt động kiên trì của những Vị Chính Quyền thành tâm và vô tư. Thật vậy, khả năng chuyên nghiệp bất khả thiếu của các vị lãnh đạo chính trị không thể nào thuận hợp, trừ phi khả năng này của họ gắn liền với những niềm xác tín mạnh mẽ về luân lý. Làm sao người ta có thể cho rằng mình hành sử công việc của thế giới mà lại không để ý gì tới một bộ những nguyên tắc làm căn bản cho “công ích đại đồng” được Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII nói đến trong bức Thông Điệp Hòa Bình Dưới Thế của ngài chứ? Một vị lãnh đạo bao giờ cũng có thể hành động hợp với niềm xác tín của họ trong việc loại bỏ những tình trạng bất công hay tình trạng băng hoại về cơ cấu, hoặc đi đến chỗ chấm dứt chúng. Chính là điểm này mà Tôi tin rằng chúng ta đang tái khám phá ra cái ngày nay chúng ta gọi là “việc cai trị tốt đẹp”. Tình trạng phúc hạnh về vật chất lẫn tình thần của nhân loại, việc bảo vệ tự do và các quyền lợi của con người, việc vô tư phục vụ cộng đồng, việc gần gũi với những hoàn cảnh sống cụ thể, tất cả những điều này cần phải đi trước tất cả mọi dự phóng chính trị và phải kiến tạo nên một thứ nhu cầu luân lý tự nó là những gì bảo đảm nhất cho nền hòa bình nơi các quốc gia cũng như hòa bình giữa các Quốc Gia.
7. Đối với các tín hữu thì những động lực này thực sự đã được thăng hoa bởi niềm tin vào một Vị Thiên Chúa là Đấng Hóa Công và là Cha của tất cả mọi người, Đấng đã trao phó cho con người vai trò làm quản lý trái đất cùng với nhiệm vụ yêu thương anh em mình. Đó là lý do tại sao, vì thiện ích riêng của mình, Quốc Gia cần phải bảo đảm là tất cả mọi người được thi hành một cách hiệu lực quyền tự do tôn giáo, một quyền tự nhiên, tức là một thứ quyền của cá nhân cũng như xã hội cùng một lúc. Như Tôi đã có dịp nhắc đến trong quá khứ, các tín hữu cảm thấy đức tin của mình được tôn trọng và cộng đồng của họ được hưởng tính cách pháp nhân, sẽ thâm tín dấn thân hoạt động hơn nữa cho dự án chung để xây dựng một xã hội dân sự mà họ là phần tử. Thế nên quí vị mới hiểu là tại sao Tôi đã nói lên thay cho tất cả mọi Kitô hữu, từ Á Châu đến Âu Châu, thành phần tiếp tục trở thành những nạn nhân của bạo động và bất dung nhượng, như mới xẩy ra trong cuộc cử hành lễ Giáng Sinh vừa rồi. Cuộc đối thoại đại kết giữa Kitô hữu cũng như việc kính cẩn liên hệ với các tôn giáo khác, nhất là với Hồi Giáo, là phương dược hay nhất để chữa trị những sứt mẻ về giáo phái, về sự cuồng tín hay về vấn đề khủng bố tôn giáo. Liên quan đến Giáo Hội Công Giáo, Tôi muốn đề cập đến một trường hợp duy nhất đã khiến Tôi hết sức đau lòng, đó là tình hình của các cộng đồng Công Giáo nơi Liên Bang Nga, một tình hình hiện nay qua nhiều tháng trời đã chứng kiến thấy một số vị Mục Tử của các cộng đồng này bị ngăn cản không được trở về với họ vì những lý do trị sự. Tòa Thánh mong các vị có thẩm quyền trong Chính Phủ có những quyết định cụ thể để chấm dứt cuộc khủng hoảng này, và giữ đúng những hiệp định quốc tế được một Nước Nga tân tiến và dân chủ đồng ý. Những người Công Giáo Nga muốn sống như những người anh em của họ trên khắp thế giới, được hưởng cùng một thứ quyền tự do và cùng một phẩm giá.
8. Quí Vị Tôn Nữ Tôn Nam, chớ gì tất cả chúng ta hợp nhau ở chốn này đây, một biểu hiệu của việc trao đổi và hòa bình thiêng liêng, bằng những hoạt động hằng ngày của mình, đóng góp vào việc thăng tiến tất cả mọi dân tộc trên trái đất, trong công lý và hòa hợp, cho việc tiến bộ của họ hướng đến những điều kiện tạo cho họ một đời sống hạnh phúc hơn và công bằng hơn, thoát được tình trạng nghèo khổ, bạo lực và những mối đe dọa chiến tranh! Xin Thiên Chúa tuôn đổ muôn vàn phúc lành của Ngài xuống trên quí vị và tất cả mọi người quí vị đại diện. Chúc Mừng Tân Niên cho tất cả mọi người!
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ bản Anh ngữ do Zenit phổ biến ngày 13/1/2003, tài liệu nguyên ngữ Pháp văn của Vatican Press Office).
Về tình hình thế giới năm 2001
ĐTC tiếp phái đoàn ngoại giao các nước để trao đổi những lời chúc Tân Niên theo truyền thống. Hiện diện trong buổi gặp gỡ Tân Niên truyền thống này có 172 Quốc Gia hoàn toàn có liên hệ ngoại giao với Tòa Thánh, ngoài ra còn có Khối Hiệp Nhất Âu Châu, Khối Thượng Binh Malta, Liên Bang Sô Viết Vụ và Cơ Quan Tổ Chức Giải Phóng Palestina (PLO). Sau khi nghe vị đại diện phái đoàn ngoại giao này là ông Gionanni Galassi, lãnh sự của Nước Cộng Hòa San Marino chúc xuân, ĐTC Gioan Phaolô II đã đáp từ với những trích dẫn chính yếu như sau:
“Chân trời thực sự đã trở nên mù mịt, nhiều kẻ thuộc lớp người đã trải qua cuộc đại biến động tìm về tự do cùng với những biến đổi của thập niên 1990, hôm nay đây, họ đã bàng hoàng thấy rằng mình lọt vào một gọng kìm lo âu sợ hãi trước một tương lai lại trở thành bất định.
“Thế nhưng, đối với những ai đặt tin tưởng và hy vọng vào Chúa Giêsu,… thì sứ điệp thiên thần lại vang lên trong đêm Giáng Sinh tĩnh lặng… Ánh sáng của Giáng Sinh chiếu tỏa ý nghĩa cho tất cả mọi nỗ lực của con người trong việc làm cho trái đất của chúng ta trở thành một trái đất hữu nghị và thân tình hơn, trở nên một nơi chốn sinh sống tốt đẹp, cũng như làm sao để bảo đảm rằng phán quyết cuối cùng không bao giờ sẽ là tách biệt, bất công và hận thù.
“Một trong những lý do làm cho chúng ta lấy làm mãn nguyện cần phải nhắc đến đó là tình trạng phát triển của mối hiệp nhất chung Aâu Châu, điển hình nhất là mới đây 12 quốc gia ở châu này đã thừa nhận một hệ thống tiền tệ chung… Thế nhưng, việc nới rộng Khối Hiệp Nhất Aâu Châu vẫn cần phải tiếp tục là một việc ưu tiên. Tôi cũng biết đến vấn đề đã được quan tâm tới đó là một Hiến Chế thích hợp cho Khối Hiệp Nhất ấy. Đối với vấn đề này, cần phải minh bạch hơn nữa về những mục tiêu của tiến trình xây dựng Châu Aâu, cũng như về những giá trị nền tảng của nó. Bởi thế, Tôi hơi đáng tiếc thấy rằng những cộng đồng tín hữu đạo giáo trong số những người đã cộng tác góp phần suy tư làm nên bản ‘Nghị Kiến Chung’ đã không được đề cập đến một cách rõ ràng … Việc loại trừ các tôn giáo ra ngoài, những tôn giáo đã góp phần và tiếp tục đóng góp cho văn hóa và nền nhân bản làm cho Aâu Châu hãnh diện, đã làm cho Tôi sững sờ cho đó vừa là một sự bất công và sai lầm về quan điểm. Việc nhận biết một sự kiện lịch sử bất khả phủ nhận đó không có nghĩa là gạt ra ngoài nhu cầu tân thời đòi phải có tính chất phi tôn giáo nơi các Quốc Gia, cũng là nơi Châu Âu vậy!
“Tôi cũng lấy làm hài lòng nhắc đến một tin vui từ lâu mong mỏi, đó là các nhà lãnh đạo của hai cộng đồng ở đảo Cyprus đã bắt đầu trực tiếp thương thảo với nhau. Một dấu hiệu tiên báo khác cho thấy một tương lai dân chủ hơn ở Kosovo là họ đã có một quốc hội hợp pháp. Từ tháng 11 vừa qua, các vị đại biểu của Nhân Dân Cộng Hòa Trung Quốc cũng như của Nước Cộng Hòa Trung Quốc đã có chỗ của mình trong Tổ Chức Thương Mại Thế Giới… Cần phải khích lệ những cuộc đàm đạo đang diễn tiến giữa đôi bên xung khắc nhau, một cuộc xung khắc đã dai dẳng xâu xé Sri Lanka. Những sự kiện này là những tiến triển quan trọng trên con đường sống bình an thái hòa giữa con người với nhau cũng như giữa các dân tộc với nhau.
“Thế nhưng, ánh sáng phát ra từ hang Bêlem đồng thời còn chiếu sáng cả… những mập mờ và chầp chờn trong những việc chúng ta đảm trách nữa…. Than ôi, (chúng ta), buộc lòng phải nhận thấy rằng Thánh Địa, nơi Đấng Cứu Thế đã sinh vào trần gian, qua lầm lỗi của con người, vẫn còn là một mảnh đất máu lửa. Không ai có thể làm ngơ trước bất công mà dân Palestina là nạn nhân phải chịu hơn 50 năm qua. Không ai có thể phản đối quyền sống an ninh của dân Do Thái. Thế nhưng, không ai được quên đi những nạn nhân vô tội ở cả hai bên hằng ngày vẫn bị dập vùi dưới những trận bạo lực. Vũ khí và các cuộc tấn công sắt máu không bao giờ là cách đúng đắn về mặt chính trị để nói cho bên kia biết mặt cả.
“Tôi đã nhiều dịp nói là, chỉ khi nào biết tỏ ra tôn trọng kẻ khác cũng như tôn trọng những ước nguyện hợp pháp của họ, biết áp dụng luật lệ quốc tế, biết giải tỏa những phần đất bị chiếm cứ và tình trạng đặc biệt được quốc tế bảo đảm cho hầu hết các nơi thánh ở Giêrusalem, mới có thể mở màn cho cuộc sống an bình nơi phấn đất thế giới ấy, cũng như mới có thể giải được cái vòng vây nung nấu hận thù và trả đũa.
“Cuộc chiến hợp pháp chống khủng bố, điển hình nhất trong những cuộc tấn công kinh khiếp là cuộc khủng bố vào ngày 11 tháng Chín vừa rồi, một lần nữa đã làm cho tiếng vũ khí lại vang lên. Cuộc tấn công và sát hại dã man ấy chẳng những gây nên vấn đề tự vệ hợp pháp mà còn cả đến vấn đề sử dụng phương sách hữu hiệu nhất để khử trừ khủng bố, đến vấn đề tìm hiểu những yếu tố nào ngấm ngầm gây ra những hành động ấy, cũng như đến những giải pháp cần phải thực hiện để mang lại tiến trình ‘chữa lành’ hầu chế ngự nỗi sợ hãi cũng như tránh khỏi tình trạng làm cho sự dữ chất chồng trên sự dữ, bạo lực trên bạo lực. Bởi thế, cần phải khuyến khích tân chính phủ ở Kabul nỗ lực đạt đến tình trạng an bình tốt đẹp cho toàn dân A Phú Hãn. Sau hết, Tôi phải đề cập đến những căng thẳng lại xẩy ra giữa Ấn Độ và Pakistan, để tha thiết yêu cầu các vị lãnh đạo hai đại quốc này hãy hết lòng giành ưu tiên cho việc đối thoại và thương thảo với nhau.
“Chúng ta cũng cần lắng nghe vấn đề xẩy ra cho chúng ta phát xuất từ đáy vực này, đó là vấn đề về vị trí và về tác dụng của tôn giáo nơi cuộc sống của con người cũng như của các xã hội. Ở đây, một lần nữa, Tôi muốn nói trước toàn thể cộng đồng quốc tế là hành động nhân danh Thiên Chúa để sát hại là một hành động lộng ngôn phạm thượng và bại hoại về tôn giáo. Sáng hôm nay đây, Tôi muốn lập lại những gì Tôi đã viết trong Sứ Điệp cho Ngày 1/1, đó là ‘Làm tục hóa đạo giáo khi nhân danh Thiên Chúa cho mình là một kẻ khủng bố, lấy danh Ngài vi phạm kẻ khác. Việc tấn công khủng bố là hành động phản nghịch lại với niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng Tạo Dựng nên con người, săn sóc con người và yêu thương con người’
“Khi gặp phải những cuộc bạo lực bùng nổ vô loài và bất chính này, cái nguy hiểm nhất đó là có những trường hợp sẽ xẩy ra bất ngờ làm cho cả khối người bị rơi vào số phận buồn thảm.
“Tôi đang nghĩ đến Phi Châu, cũng như đến tình hình nguy cấp về sức khỏe cùng với những đối chọi bằng vũ lực đang hủy diệt đi từng loạt dân lành của mình. Mới đây, trong cuộc tranh luận ở Công Nghị của Tổ Chức Liên Hiệp Quốc người ta thấy có 17 vụ xung khắc đang xẩy ra ở đại lục Phi Châu! Trong trường hợp này thì việc thành lập một ‘Khối Hiệp Nhất Phi Châu’ tự nó là một tin mừng. Tổ Chức Liên Hiệp Quốc cần phải giúp phác họa những nguyên tắc chung có thể hiệp nhất tất cả mọi Quốc Gia phần tử, liên quan đến những thách đố chính, như việc ngăn ngừa những xung khắc, việc giáo dục cũng như việc chống lại tình trạng nghèo khổ.
“Làm sao Tôi lại không đề cập đến Mỹ Châu Latinh là nơi Tôi quí mến được? Nơi một số quốc gia thuộc đại lục này đang liên tục xẩy ra những chênh lệch về xã hội, việc buôn bán thuốc phiện, tình trạng bại hoại và bạo chiến là những gì có thể tác hại đến nền tảng của chủ nghĩa dân chủ và làm mất uy tín của đẳng cấp chính trị. Gần đây nhất là tình hình khó khăn xẩy ra ở Á Căn Đình đã làm xáo trộn cộng đồng, khiến cuộc sống dân chúng phải chịu đựng đau thương.
“Tôi hết lòng muốn khuyến khích nhân dân Mỹ Châu Latinh, nhất là nhân dân Á Căn Đình, hãy giữ vững niềm hy vọng ngay giữa những khốn khó hiện nay, đừng quên rằng, với những nguồn lợi về nhân lực và thiên nhiên sẵn có trong tay, tình hình hiện nay, với sự giúp đỡ của mọi người, không thể nào bất khả lật ngược và chế ngự. Để điều này xẩy ra, cần phải loại trừ lợi lộc cá nhân và phe phái, cũng như cần phải cổ võ hết cách thiện ích của quốc gia, bằng việc trở về với những giá trị luân lý, với việc đối thoại cởi mở thẳng thắn, cũng như với việc từ bỏ những gì là dồi dào dư dật để giúp đỡ những ai gặp phải thiếu thốn. Trong tinh thần này, cần phải nhớ rằng hoạt động chính trị trước hết là một hoạt động phục vụ cao quí, cần thiết và quảng đại cho cộng đồng.
“Chúng ta đừng choáng váng trước tình trạng buồn thảm trong lúc này đây. Trái lại, chúng ta hãy mở lòng trí của mình ra trước những thách đố lớn lao đang hiện lên trước mắt chúng ta: Đó là việc bảo vệ tính cách linh thánh của sự sống con người trong tất cả mọi hoàn cảnh, nhất là trong trường hợp liên quan đến những khó khăn gây ra do việc méo mó nơi ngành di giống – Đó là việc nâng đỡ đời sống gia đình, cơ cấu nền tảng của xã hội – Đó là việc loại trừ tình trạng nghèo khổ, bằng những nỗ lực cổ võ phát triển, giảm nợ và mở rộng thương vụ quốc tế – Đó là việc tôn trọng quyền lợi con người trong tất cả mọi trường hợp, đặc biệt là những quyền liên quan đến thành phần dễ bị vi phạm nhất là trẻ em, phụ nữ và tị nạn – Đó là việc giải giới, là bớt đi việc buôn bán vũ khí cho các nước nghèo, cùng với việc củng cố hòa bình sau khi chấm dứt các vụ xung khắc – Đó là việc chống lại các thứ tật bệnh chính yếu và giúp cho người nghèo có cơ hội được chăm sóc sức khỏe và thuốc uống – Đó là việc bảo vệ môi sinh cũng như việc ngăn ngừa cho khỏi những vụ hủy hoại thiên nhiên – Đó là việc áp dụng nghiêm ngặt lề luật và công ý quốc tế.
“Dỉ nhiên là còn nhiều những đòi hỏi khác nữa cũng cần phải được nhắc đến. Thế nhưng, một khi những việc ưu tiên này trở thành mối quan tâm chính yếu của các vị lãnh đạo chính trị; một khi con người thiện chí lấy chúng làm những nỗ lực thực hiện hằng ngày của mình; và một khi tín đồ các tôn giáo thực hành giáo huấn của mình, thì thế giới này chắc chắn sẽ là một nơi hoàn toàn khác hẳn”.
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ bản Anh ngữ do Zenit phổ biến ngày 10/1/2002, tài liệu nguyên ngữ Pháp văn của Vatican Press Office).