Tòa Thánh Vatican tại Liên Hiệp Quốc 2006
Với Tổng Hội Nghị ngày 16/10/2006 về những biện pháp loại trừ nạn khủng bố quốc tế
Về việc giải giới vũ khí hạt nhân 5/10/2006
Với cơ quan nguyên tử năng LHQ
Với Cuộc Họp của Hội Đồng Kinh Tế và Xã Hội ngày 5/7/2006
Với Hội Nghị ngày 28/6/2006 về việc bán bất hợp pháp các thứ Vũ Khí Nhỏ
Với Tân Hội Đồng về Nhân Quyền
Về Việc Chiến Đấu Chống Hội Chứng Liệt Kháng
Về Tình Trạng Bạo Hành Phạm Đến Nữ Giới
Với Hội Nghị của Cơ Quan Lương Nông
ĐTGM Celestino Migliore Đại Diện Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc Nữu Ước Hoa Kỳ với một khóa họp của Tổng Hội Đồng ngày 13/12/2006 liên quan tới “Các Vấn Đề về Nhân Quyền… “
Thưa Bà Chủ Tịch,
Nhân dịp chấp nhận Bản Công Ước Về Các Quyền Lợi Của Những Người Khuyết Tật, đại biểu tôi muốn chuyển niềm cảm nhận của mình tới các Vị Lãnh Sự L. Gallegos và D. McKay về vai trò dẫn đầu của các vị đối với những cuộc thương thảo lâu dài này.
Việc bảo vệ các thứ quyền lợi, phẩm vị và giá trị của những người khuyết tật vẫn là mối quan tâm chính yếu của Tòa Thánh. Tòa Thánh đã nhất trí kêu gọi cho những người bị khuyết tật được hoàn toàn và thương cảm hội nhập vào xã hội, với niềm xác tín rằng họ có đầy đủ những quyền lợi bất khả coi thường của con người. Bởi thế mà ngay từ đầu, đại biểu tôi đã từng là một cộng tác viên xây dựng và chủ động trong các cuộc thương thảo ấy.
Bản Công Ước này có nhiều điều khoản lợi ích, bao gồm cả những khoản nói đến vấn đề giáo dục và đến chính vai trò rất quan trọng của gia cư và gia đình, nhưng thực sự cái cốt lõi sống động của bản văn kiện này là ở chỗ nó tái khẳng định quyền sống. Vì đã quá lâu và trước quá nhiều người thì mạng sống của thành phần bị khuyết tật đã từng bị coi nhẹ hay được ho là có một phẩm vị và giá trị kém cỏi. Đại biểu tôi đã ân cần làm việc để làm cho bản văn này được đặt trên một căn bản nhờ đó lật ngược lại cái quan niệm ấy và để bảo đảm việc thành phần khuyết tật được hoàn toàn hoan hưởng tất cả mọi quyền lợi của con người. Đó là lý do tại sao giờ đây tôi xin làm sáng tỏ chủ trương của Tòa Thánh ở một số điều khoản của Bản Công Ước này.
Về Khoản 18, liên quan tới quyền tự do di chuyển và quốc tịch, và Khoản 23 về vấn đề gia cư và gia đình, Tòa Thánh hiểu rằng những khoản này có ý muốn bảo đảm những quyền chính yếu và bất khả coi thường của cha mẹ.
Hơn nữa, đại biểu tôi hiểu tất cả mọi từ ngữ và thành ngữ liên quan tới những dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, điều hòa vấn đề sinh sản và hôn nhân ở Khoản 23, cũng như chữ ‘giống tính’, như nó đã thực hiện theo các thứ ý nghĩ và lời phát biểu được biểu lộ ở các hội nghị quốc tế ở Cairô và Bắc Kinh.
(Biệt chú của người dịch Việt ngữ: Hội Nghị Cairô ở Ai Cập về Dân Số năm 1994, và hội nghị Bắc Kinh ở Trung Quốc về Nữ Giới năm 1995, hai hội nghị này cũng tranh đấu cho v ấn đề phá thai toàn cầu và quyền hạn của nữ giới trong vấn đề sức khỏe sinh sản, và tất cả những gì được hai hội nghị này muốn phát động theo chiều hướng phò phá thai và văn hóa sự chết đều bị Tòa Thánh cực lực chống đối đến cùng).
Sau hết, và quan trọng nhất, liên quan tới khoản 25 về vấn đề sức khỏe, nhất là liên quan tới sức khỏe tính dục và sinh sản, Tòa Thánh hiểu rằng việc có thể hưởng dụng sức khỏe sản sinh như là một thứ quan niệm toàn diện không coi việc phá thai hay tìm cách phá thai như là một chiều kích của những từ ngữ ấy. Ngoài ra, chúng tôi đồng ý với việc đồng thuận rộng rãi từng được lên tiếng ở văn phòng này, cũng như với ‘travaux préparatoires’ là điều khoản này không phải là những gì tạo nên bất cứ những quyền lợi quốc tế mới nào và chỉ có mục đích bảo đảm là tật nguyền của con người không được trở thành nguyên do để họ bị từ chối hưởng dịch vụ về sức khỏe.
Tuy nhiên, ngay cả hiểu như thế, chúng tôi cũng đã chống lại việc bao gồm một cụm từ như thế vào điều khoản này, vì ở một số quốc gia thì những dịch vụ về sức khỏe sinh sản bao gồm cả vấn đề phá thai, như thế là chối bỏ quyền sống bẩm sinh của hết mọi người là những gì được xác nhận ở Điều Khoản 10 của Bản Công Ước đây. Thật là thê thảm ở chỗ, khi nào xẩy ra tình trạng khiếm khuyết của bào thai là điều kiện tiên quyết cho việc cống hiến hay sử dụng việc phá thai, thì cùng Bản Công Ước được viết ra để bảo vệ những người khuyết tật khỏi bị tất cả mọi thứ kỳ thị khi họ hành sử quyền lợi của họ, lại có thể được sử dụng để chối bỏ chính quyền sống căn bản của những thai nhi tật nguyền.
Chính vì lý do này, và bất kể nhiều điều khoản hữu ích chất chứa trong Bản Công Ước này, Tòa Thánh vẫn không thể ký nhận nó.
Tóm lại, đại biểu tôi cho rằng cái khả năng tích cực của Bản Công Ước này sẽ chỉ được hiện thực khi nào các điều khoản pháp lý của quốc gia và việc áp dụng thực hànhcủa tất cả mọi phần tử hoàn toàn tuân hợp với Điều Khoản 23 về quyền sống của người khuyết tật.
Tôi yêu cầu lời phát biểu này được cho vào bản tường trình của buổi họp hôm nay.
Xin cám ơn Bà Chủ Tịch
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 14/12/2006
ĐTGM Celestino Migliore Đại Diện Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc Nữu Ước Hoa Kỳ với Tổng Hội Đồng ngày 17/11/2006 trong phiên họp khẩn đặc biệt lần 10 về ‘Những Hoạt Động Bất Hợp Pháp của Do Thái ở Vùng Đông Giêrusalem Bị Chiếm Đóng và Phần Lãnh Thổ Bị Chiếm Đóng Khác của người Palestine’
Thưa Bà Chủ Tịch,
Nhân dịp Tổng Hội Đồng LHQ nhóm họp khóa đặc biệt lần thứ 10 về tình hình ở Lãnh Thổ Palestine bị chiếm đóng, đại biểu tôi đây xin lợi dụng cơ hội này để bày tỏ lòng gắn bó với thành phần dân sự đang chịu khổ đau gây ra bởi những hậu quả từ cuộc bạo động vừa rồi. Tôi cũng xin chuyển lời mời gọi của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI trong việc hợp với ngài để nguyện cầu ‘xin Thiên Chúa hãy soi sáng cho các vị Thẩm Quyền Do Thái và Palestine, cũng như những quốc gia có trách nhiệm đặc biệt trong vùng này, để họ có thể làm mọi sự trong tầm tay chấm dứt cuộc đổ máu ấy, gia tăng nhữn g hoạt động cứu trợ nhân đạo và phấn khích việc tái tấu ngay những cuộc thương thảo trực diện, nghiêm chỉnh và cụ thể’.
Trong khi cảm thấy tiếc xót trước con số tử vong mới và lên án cơn lốc bạo lực gây ra bởi cả những cuộc hành quân và những cuộc khủng bố tấn công này, chúng ta không thể nào không nhận thấy rằng những biến cố kinh khiếp này làm nên một phần của một vấn đề rộng lớn hơn nhiều là những gì, như tất cả chúng ta đều biết, đã từng làm mưng mủ quá lâu ở miền đầt này. Mỗi một lần chúng ta tổ chức một cuộc họp khẩn như thế này, chúng ta đều lập lại một bản liệt kê hầu như bất tận về những khó khăn và những khác biệt phân rẽ giữa người Do Thái và Palestine, những gì càng trở thành khẩn trương đối với các quốc gia trong việc giải quyết vấn đề bất chính cốt yếu ở ngay cốt lõi của vấn đề. Việc liệt kê các thứ triệu chứng mà không giải quyết căn nguyên sâu xa thì không giúp gì lắm cho bất cứ một bên nào. Mỗi bên bị bắt buộc phải sống trong những tình trạng căng thẳng rùng rợn của những hành động khủng bố có thể bùng nổ hay của những cuộc đột kích quân sự gây ra tử vong, tai biến và hủy hoại các hạ tầng cơ sở.
Không thể coi thường cái trọng tâm của cuộc xung đột giữa người Do Thái và Palestine trong tình trạng liên lỉ bất ổn ở Trung Đông. Thật là một sự kiện đáng buồn khi cộng đồng quốc tế đã thất bại trong việc lôi kéo người Do Thái và Palestine lại với nhau trong một cuộc đối thoại đầy ý nghĩa và nghiêm trọng kèm theo việc giải quyết những giằng co để mang lại tình trạng ổn định và hòa bình cho cả đôi bên. Cộng đồng quốc tế cần phải sử dụng những vai trò tốt đẹp của mình để làm dễ dàng mau chóng hơn một cuộc tái lập mối hữu nghị giữa đôi bên.
Đây là một thời điểm vừa có tính cách khẩn trương vừa có tính cách thời cơ: khẩn trương là vì tình hình này không phải là những gì bất dịch, trái lại, nó suy thoái tồi tệ từng phút, như khóa họp khẩn đặc biệt này chứng thực; thời cơ là vì ngoài một số yếu tố thuận lợi trong cảnh ngộ chính trị này, thành phần dân sự khắp nơi đã chứng kiến thấy và đã chịu đựng những cảnh tàn phá gây ra bởi các cuộc xung đột và chắc chắn không muốn gì hơn là một thứ hòa bình được tôn trọng.
Thứ hòa bình duy nhất có thể bền bỉ ở miền này sẽ là một thứ hòa bình thực sự toàn diện. Nó bao gồm tất cả mọi thành phần diễn viên ở miền Trung Đông và nó cần phải được căn cứ vào những thỏa ước hòa bình song phương và những hiệp định đa phương về tất cả những vấn đề quan tâm chung, bao gồm cả nước nôi, môi trường và mậu dịch. Để thực hiện điều này cần phải có một nhãn quan mới mẻ và bao trùm có thể dẫn tới những dự án cụ thể cho hòa bình.
Xin cám ơn Bà Chủ Tịch
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày
19/11/2006
Xin so sánh bài trên đây cũng của ĐTGM Celestino Migliore Đại Diện Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc Nữu Ước Hoa Kỳ, là bài có khá nhiều tư tưởng và văn vẻ giống hệt bài ngài nói ở Hội Nghị ngày 25/10/2006 với đệ tứ tiểu ban của khóa họp thứ 61 của Tổng Hội Đồng LHQ về Điều Thực Hiện 83 liên quan tới ‘Vấn Đề Cứu Trợ của LHQ và Cơ Quan Hoạt Động cho Thành Phần Tỵ Nạn Palestine ở Cận Đông’
ĐTGM Silvano Tomasi Đại Diện Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc Geneva Thụy Sĩ với Khóa Họp Đặc Biệt thứ 3 của Hội Đồng Nhân Quyền ngày 15/11/2006
Thưa Ông Chủ Tịch,
1. Trong giòng lịch sử ngắn ngủi của mình, Hội Đồng Nhân Quyền đã phải đối diện với những thách đố nẩy lửa với những cuộc vi phạm liên tục đến nhân quyền ở một số miền đất trên thế giới, những vi phạm không phải lúc nào cũng được giải quyết một cách công bằng và nhất trí bởi những khuynh hướng lợi lộc thiển cận về chính trị và kinh tế. Thế nhưng, một Hội Đồng Nhân Quyền mà không góp phần làm thay đổi phẩm chất đời sống của dân chúng một cách vững chắc, trong các công việc hằng ngày và những hoạt động bình thường của họ, thì đang thật sự có nguy cơ bị mất đi uy tín.
Đối với phái đoàn đại biểu của Tòa Thánh thì dường như vấn đề ưu tiên của hội đồng này đó là một bước tiến về phẩm chất trong việc kiến tạo nên lòng tin tưởng, việc chấp nhận một phương pháp thực sự đối thoại can đảm cho phép mang lên bàn họp những vấn đề thực sự cần phải giải quyết, bất kể những quan điểm khác biệt ngay từ đầu. Với niềm tin tưởng ấy, Khóa Họp Đặc Biệt này có thể được coi là một cơ hội để kiến tạo. Cuộc xung đột giữa người Do Thái và Palestine đã bị cuốn hút vào một cái vòng bạo lực, mà, như kinh nghiệm cho thấy, chẳng dẫn đi tới đâu hết. Cần phải chấm dứt cơn lốc thảm thương đầy khổ đau này.
2. Cần phải thực hiện 2 bước tiến. Thứ nhất, hai dân tộc trong cuộc cần phải nhìn nhận nhân tính và quyền bình đẳng của nhau, để bắt đầu tiến trình nhìn nhận nhau trên căn bản công lý và tôn trọng các thứ nhân quyền căn bản cũng như luật lệ quốc tế và nhân đạo. Cuộc chung sống hòa hợp vẫn là những gì khả dĩ nếu công lý và hòa giải tạo nên bối cảnh cho việc hợp tác và nền an ninh chung.
Thứ hai, gia đình chư quốc có một trách nhiệm luân lý trong việc cổ võ một tâm thức hòa bình; trong việc hợp tác bằng những biện pháp thực tiễn trong việc loại trừ đi những gốc rễ sâu xa về văn hóa, xã hội và kinh tế gây ra bạo lực; trong việc hỗ trợ và giúp cho đôi bên có thể cùng dấn thân thực hiện một cuộc hợp tác tốt đẹp. Trách nhiệm này trước hết cần phải tỏ ra đối với thành phần dân sự, với nữ giới và trẻ em bị khốn đốn bởi cuộc bạo lực phi lý, với mạng sống của người lính trẻ bị mất đi với những mộng mơ chưa tròn. Bạo lực là những gì bù đắp được mà còn làm phát sinh ra những sầu thương mới. Việc tôn trọng những nhân quyền căn bản, trước hết là quyền được sống, không phải là một mối quan tâm trừu tượng, mà là một đường lối góp phần vào những thứ lợi tức đầu tư dồi dào có được nơi những thành quả về chính trị của nó: Nó làm khả dĩ việc gặt hái và hoan hưởng những hoa trái của hòa bình.
Thưa Ông Chủ Tịch,
3. Theo quan điểm của phái đoàn đại biểu này thì cuộc xung đột giữa người Palestine và Do Thái, như là một nguyên nhân chính yếu gây ra tình trạng bất ổn định ở Trung Đông, đang trở thành một cái vòng luẩn quẩn tệ hại gây ra tình trạng bất ổn ở toàn vùng ấy. Ngược lại, tình trạng bất ổn này làm cho tình hình dân chúng Palestine và Do Thái càng tồi tệ hơn và việc tiến đến những mục tiêu hòa bình lại càng trở nên khó khăn hơn. Nếu các xứ sở trong cuộc ở miền này và đang cố gắng giúp vào việc tìm kiếm một giải pháp đáng tôn trọng và chân chính mang lại thành quả cho cuộc xung đột, là họ cung cấp một dịch vụ quan trọng cho toàn thế giới và một lần nữa cho thấy lòng tôn trọng nhân quyền là những gì nuôi dưỡng hòa bình ra sao và hòa bình là những gì duy trì kẻ sống nhờ nhân quyền như thế nào.
Thưa Ông Chủ Tịch,
4. Xin cho phép tôi được kết luận bằng những lời mới đây của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI nói về tình trạng suy thoái ở Giải Gaza và bày tỏ viê 5c ngài tỏ ra gần gũi với thành phần dân sự khi xin cùng Thiên Chúa ‘soi sáng cho các vị thẩm quyền Do Thái và Palestine, cũng như những vị thẩm quyền các quốc gia có trách nhiệm đặc biệt ở miền ấy, để các vị biết làm hết sức có thể trong việc kết thúc cuộc đổ máu này, gia tăng những hoạt động cứu trợ nhân đạo và phấn khích việc tái tấu ngay những cuộc thương thảo một cách trực tiếp, nghiêm trọng và cụ thể’.
Xin cám ơn Ông Chủ Tịch
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến
ngày 16/11/2006
ĐTGM Celestino Migliore Đại Diện Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc Nữu Ước Hoa Kỳ với đại hội Khóa Họp 61 của Tổng Hội Đồng ngày 13/11/2006 về khoản 69 (A): “Củng Cố Việc Hợp Tác Việc Trợ Giúp Nhân Đạo Khẩn Cấp của LHQ”
Thưa Bà Chủ Tịch,
Phái đoàn đại biểu của tôi xin góp tiếng bày tỏ mối quan tâm sâu xa về việc hủy hoại gây ra bởi những tai họa nhân tạo và thiên tạo mới đây. Trong mọi trường hợp, những tai ương này cũng đều giúp vào việc tái khẳng định cái giá trị đệ nhất của luật nhân đạo và nhiệm vụ kèm theo đó trong việc bảo đảm quyền được hưởng trợ cấp nhân đạo của thành phần dân chúng và tị nạn khổ đau. Từ bão tố tới động đất, từ hạn hán tới chiến tranh, năm vừa rồi đã cho thấy rằng tất cả mọi dân tộc và tất cả mọi xứ sở đang bị tổn thương trước những hậu quả thảm khốc của những thứ tai họa, và cần phải có một điều hợp việc đáp ứng khẩn cấp để ngăn ngừa tình trạng chết chóc, phục hồi lại các cộng đồng và thiết lập những sách lược cho việc tái phát triển dài hạn.
Đó là lý do tại sao chúng tôi tin rằng vẫn còn là những gì rất quan trọng trong việc làm sáng tỏ vấn đề là những tình hình nhân đạo vẫn chưa được cộng đồng quốc tế chú trọng và vẫn còn ở trong tình trạng bị hụt hẫng về tài trợ rất nhiều. Chúng tôi hoan hô những nỗ lực đề cao những cuộc khủng hoảng bị lãng quên này, cũng như những nỗ lực bảo toàn các khoản tài trợ cho các hoạt động thiết yếu trong việc cứu vớt mạng sống con người.
Như quá rõ, Tòa Thánh, qua Hội Đồng Đồng Tâm của Tòa Thánh và những tổ chức như Hội Caritas Quốc Tế, đang hoạt động trợ giúp nhân đạo một cách vô tư ở khắp nơi trên thế giới. Như cuộc biển động sóng thần tsunami 2004, trận động đất ở Pakistan 2005 và mùa bão lụt cùng năm 2005 đã cho thấy, mối quan tâm cho anh chị em của chúng tôi đã vượt biên cương bờ cõi của các cộng đồng quốc gia và càng nới rộng chân trời của mình đến toàn thể thế giới.
Những văn phòng này đã nghe thấy nhiều cuộc bàn luận về các khía cạnh khác nhau nơi vấn đề toàn cầu hóa, thế nhưng nếu hiện tượng toàn cầu hóa này có một khía cạnh đặc biệt tích cực, thì đó là khả năng của nó trong việc sắp xếp một loạt phương tiện để phân phát việc trợ giúp nhân đạo. Việc đáp ứng đáng khen và càng ngày càng được toàn cầu hóa đối với những trường hợp khẩn cấp nhân đạo ấy cần phải được điều hợp làm sao để cẩn thận cân bằng được tính cách hiệu năng liên quan tới việc tự động cứu trợ của các diễn viên nhân đạo khác nhau.
Để đạt được mục đích ấy, không cần phải nói cũng thấy rằng vấn đề điều hợp các hoạt động cứu trợ cho những trường hợp khẩn cấp là những gì thiết yếu và Liên Hiệp Quốc phải là cơ quan đóng vai trò điều hợp này. Tuy nhiên, không phải nguyên tắc điều hợp mà là những phương thức của nguyên tắc này cần phải được thích ứng một cách xây dựng để đáp ứng các nhu cầu của tất cả mọi người và mọi cơ quan. Trước cái mục tiêu càng ngày càng dồn lên, chúng ta cần phải tỏ ra tôn trọng những tổ chức nhân đạo có những đặc tính, những khả năng và những mối cảm thông trong công cuộc của họ.
Những phối hợp viên cần phải đóng một vai trò trọng yếu trong việc thu góp và truyền bá tín liệu, trong việc bắt liên lạc với các thẩm quyền địa phương cũng như trong việc cố vấn cho các tổ chức nhân đạo. Ngoài ra, việc hợp tác giữa các điều hợp viên và các cơ quan nhân đạo là những gì hệ trọng để hình thành các thỏa hiệp và các chính sách tỏ ra tôn trọng những gì là chuyên biệt và sứ vụ của các cơ quan nhân đạo, trong khi cho họ được tiếp tục hoạt động một cách xây dựng tùy trường hợp.
Cần phải có một loạt những qui chuẩn trong việc tạo nên một cuộc hợp tác trọn vẹn có tính cách toàn diện và trân trọng.
Trước hết, bất cứ một thể chế điều hợp nào cũng c ần phải tôn trọng tín h cách độc lập và tự lập của các tổ chức nhân đạo.
Thứ hai, cơ cấu điều hợp không được chỉ ngả về phía các tổ chức nhân đạo lớn mà cũng buộc phải để cho các tổ chức nhân đạo cỡ trung bình hay nhỏ có khả năng đóng vai trò hợp lý trong việc cứu trợ nữa.
Thứ ba, các cơ cấu của LHQ không được làm giảm uy tín về khả năng hoạt động hay tính cách hiệu năng của các cơ quan ngoài chính phủ trong lãnh vực này, nhất là những tổ chức quá quen với các dân tộc đang bối rối và cần giúp đỡ. Những nguyên tắc này có thể giúp vào vấn đề bảo đảm rằng việc đáp ứng muôn mặt trước các cuộc khủng hoảng nhân đạo vẫn là những gì thuận lợi ở tất cả nơi gặp tai ương.
Về phương diện tài trợ, việc mới đây thiết lập cơ quan trợ cấp của Ngân Quĩ Đáp Ứng Cấp Cứu Trung Ương CERF (Central Emergency Response Fund's) là những gì hứa hẹn trở thành một yếu tố quan trọng trong việc bảo đảm rằn g tiền bạc cứu trợ cấp cứu đáng tin cậy sẵn sàng cung ứng khi nhận được báo cáo ngắn hạn. Hy vọng rằng Điều Hợp Viên Cứu Trợ Khẩn Cấp sẽ hòa hợp hoạt động của CERF này với hoạt động của các ngân quĩ cứu trợ liên chính phủ và ngoài chính phủ khác để đạt được hiệu năng của vấn đề sử dụng các nguồn tài trợ.
Ngoài ra, những thứ ngân quĩ cứu trợ lớn, như của CERF, không được trở thành những gì hạn chế khả năng của xã hội dân sự và của các tổ chức cứu trợ nhân đạo về tôn giáo trong việc kêu gọi những đóng góp tư riêng và của chính phủ.
Tòa Thánh mong được tham dự một cách chủ động vào cuộc tranh cãi về vấn đề rất quan trọng này, vì, nhờ việc trao đổi tư tưởng và các việc làm tốt đẹp nhất, chúng ta mới có thể và cần phải tìm thấy những phương tiện hiệu nghiệm nhất để làm giảm bớt đau thương và tái thiết các cộng đồng.
Xin cám ơn Bà Chủ Tịch.
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày
20/11/2006
ĐTGM Celestino Migliore Đại Diện Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc Nữu Ước Hoa Kỳ với ủy ban của Tổng Hội Đồng LHQ ngày 8/11/2006 về ‘Bản Tường Trình của Cao Ủy Tị Nạn, Những Vấn Đề liên quan tới những người Tị Nạn, những người trở về và những người phân tán cùng các Vấn Đề Nhân Đạo’.
Thưa Ông Trưởng Ban,
Để mở đầu, Tòa Thánh cảm thấy vui mừng lập lại việc Tòa Thánh tiếp tục cảm nhận về hoạt động tích cực của Cao Ủy Tị Nạn LHQ và của Ông Guterres trong việc bảo vệ những nhóm người khác nhau đang được cơ quan Cao Ủy này phục vụ.
Qua nhiều năm, thể chế pháp lý thích ứng với những nhu cầu biến đổi của một thực tại đổi thay và phức tạp đã là những gì được khai triển để có thể bảo vệ những ai cần đến nó. Những trường hợp điển hình gần đây nhất đó là việc chấp thuận thể chế Giải Quyết Tình Trạng Nữ Giới và Nữ Nhi gặp Nguy Hiểm và Giải Quyết về Việc Nhận Diện, Ngăn Ngừa và Giảm Bớt Tình Trạng Không Có Tư Cách Công Dân và Bảo Vệ Những Người Vô Tổ Quốc.
Thậm chí Cao Ủy Tị Nạn LHQ cũng dấn thân vào việc bảo vệ cả Những Người Di Tản Nội Quốc, nơi mà trong theo đường lối dính chùm, nó lãnh nhận trách nhiệm lãnh đạo trong việc bảo vệ, cung cấp nơi cư trú khẩn cấp và điều hành các trại tạm cư, cũng như công việc quản trị.
Đó là một diễn tiến tích cực mới trong vấn đề vươn tới những ai phải di tản trong bản quốc, một tiến trình được bắt đầu bằng việc khai triển mới mẻ Các Nguyên Tắc Hướn g Dẫn Về Vấn Đề Di Tản Nội Quốc, và được tác động bởi việc gia tăng ý thức của cộng đồng quốc tế đối với trách nhiệm của nó trong việc bảo vệ những ai cần đến. Thực tại của vấn đề này cần phải được thẩm lượng hơn nữa đối với trách nhiệm ấy cũng như với việc nới rộng trách nhiệm bao gồm cả những người phải di tản nội quốc, mà không xao lãng những đặc tính về thành phần tị nạn và về việc bảo vệ họ.
Việc bảo vệ là những gì cần thiết vượt ra ngoài cả cấu trúc tốt đẹp về pháp lý nữa: ở chỗ, việc hợp tác và ý muốn chính trị cũng cần phải có để làm cho cơ cấu ấy thực hiện một cách thích đáng. Tiếc thay, tình hình đang xẩy ra là quan niệm pháp lý về thành phần tìm nơi nương trú dường như bị suy yếu một cách nào đó, khi có một số quốc gia thiên về luật pháp quốc gia hay những thỏa thuận song phương đối với luật tị nạn quốc tế.
Ngoài ra, phương thế giành cho thàn h phần tìm nơi nương trú cũng càng trở nên khó khăn hơn vì hiện tượng hỗn hợp di chuyển này; và một số xứ sở không công nhận hay chấp nhận những quyền lợi được quốc tế ấn định theo luật lệ bản quốc của họ, chẳng hạn như quyền tự do di chuyển, quyền làm việc, và việc nhìn nhận các khả năng chuyên môn.
Hơn thế nữa, các chương trình trợ giúp phần lớn vẫn thiếu ngân khoản tài trợ, gây ra từ cái lỗ hổng chính yếu giữa việc trợ giúp với việc điều hành thành phần tị nạn. Những khẩu phần về lương thực không theo các tiêu chuẩn quốc tế và thường bị giảm bớt hay được cung cấp một cách thất thường, trong khi đó thì các qui chuẩn tối thiếu được ấn định về sức khỏe, giáo dục, canh nông, kiếm lợi tức và các việc phục vụ cộng đồng không phải lúc nào cũng đạt được chỉ tiêu.
Cũng may, có một số cuộc xung đột đang tiến tới chỗ kết thúc, nhờ đó giúp cho dân chúng có thể hồi hương, và nếu điều ấy xẩy ra thì cần phải có một sự hợp tác liên kết mạnh mẽ giữa các cơ quan dấn thân vào việc giúp cứu trợ và việc phục hồi hậu chiến, nhờ đó, cùng với việc tái thiết cơ sở hạ tầng xã hội cùng kinh tế ở địa phương, bảo đảm việc trở về khả trợ trong an toàn và xứng đáng của họ.
Mỗi người cần phải làm sao để có thể hành sử quyền được bảo vệ, một quyền được bảo đảm hay được phục hồi, như vốn hiện hữu nơi nhiều thỏa ước quốc tế. Một giải pháp lâu bền cho vấn đề tị nạn và di tản nội quốc chẳng những ảnh hưởng tới họ mà còn ảnh hưởng liên quan tới toàn thể nhân loại nữa. Những qui tắc bảo vệ những ai đang cần đến nó là những gì cần phải được áp dụng ở tầm cấp quốc gia, theo miền và quốc tế khi có thể. Các thứ quyền lợi cùng phẩm vị của những con người đồng loại đau thương của chúng ta đang gặp nguy hiểm, bởi thế, họ đáng được chúng ta hết sức quan tâm và nỗ lực hết sức để bảo vệ họ.
Xin cám ơn Ông Trưởng Ban.
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày
9/11/2006
ĐHY Chủ Tịch Hội Đồng Tòa Thánh Về Công Lý và Hòa Bình Renato Martino ngày 4/11/2006 với Tổ Chức Lương Nông LHQ ở Rôma về việc áp dụng quyền nhân đạo về vấn đề thực phẩm
1. Dẫn Nhập
Trước hết, xin cho phép tôi được bày tỏ lòng biết ơn cùng Ông Jacques Diouf, vị tổng giám đốc của Tổ Chức Liên Hiệp Quốc Về Lương Nông, đối với lời mời gọi tốt lành của ông để tham dự vào biến cố đặc biệt này liên quan tới Việc Hiện Thực Quyền Con Người Được Hưởng Lương Thực. Thật thế, tôi cảm thấy vui mừng được ở cùng quí vị đây, và trong dịp này được cùng tới với nhau như là các phần tử quan tâm về gia đình nhân loại đối với thảm họa hằng hiện hữu gây khốn khổ cho biết bao nhiêu là triệu con người anh chị em chúng ta. Tôi hy vọng rằng, qua việc bàn luận của chúng ta hôm nay đây, tất cả chúng ta có thể ra khỏi chỗ này với một quyết tâm mạnh mẽ trong việc dựng xây các thứ xã hội, các tổ chức và các cơ cấu có thể bảo đảm tất cả mọi người đều có đầy đủ cơm ăn nước uống.
2. Nghèo khổ là một hiện tượng xã hội có nhiều chiều kích. Những định nghĩa về nghèo khổ cùng với những căn nguyên của nó thì khác nhau theo giống tính, tuổi tác, văn hóa và những bối cảnh khác về xã hội và kinh tế. Chẳng hạn, ở cả những miền quê lẫn thị thành trên thế giới, những người nam cho nghèo khổ liên quan tới tình trạng thiếu thốn các sản vật về thể chất, trong khi đó nữ giới lại cho nghèo khổ như là những gì bất ổn về thực phẩm. Cái khác nhau về vấn đề nghèo khổ cũng xẩy ra tùy theo thế hệ nữa. Những con người trẻ ở một số phần đất trên thế giới thì coi khả năng kiếm được lợi tức là những sản vật quan trọng nhất, trong khi thành phần lão thành ở những phần đất khác trên thế giới lại coi tình trạng liên quan tới các lối sống nông nghiệp truyền thống là những gì quan trọng nhất.
Tình trạng và địa điểm của một người cũng ảnh hưởng tới căn nguyên nghèo khổ. Chẳng hạn, ở một số vùng thì những người nông dân liên kết vấn đề nghèo khổ với tình trạng bị hạn hán; thành phần nghèo ở thành thị lại cho nghèo khổ liên quan tới vấn đề tăng giá cả và khan hiếm việc làm; và người giầu liên kết nghèo khổ với tình trạng suy thoái nơi các lãnh vực mậu dịch bản quốc và thế giới, với việc lơ là về những tập tục và truyền thống được tôn trọng qua giòng thời gian, với việc thiếu động lực nơi một số tầng lớp và phái nhóm dân chúng, với giá cả bị thất thoát và giảm thiểu, với việc thiếu giáo dục, và với tình trạng thiếu chính phủ. Nghèo khổ không bao giờ bị gây ra bởi sự thiếu thốn một điều duy nhất, mà bởi nhiều yếu tố liên hệ với nhau được thể hiện nơi các kinh nghiệm của người nghèo.
Những khía cạnh nghèo khổ về vật chất là những gì quá rõ ràng. Tình trạng đói khổ và bất ổn về lương thực vẫn là mối quan tâm chính yếu. Đối với các gia đình nghèo thì việc chiến đấu hằng ngày của họ đó là làm sao thỏa mãn được những nhu cầu chính là thực phẩm, nước nôi và nơi cư trú; điều này càng gay go hơn nữa khi xẩy ra tình trạng thất nghiệp hay hiếm việc, hoặc thiếu đất sản xuất hay thiếu những vốn liếng sinh lợi tức khác.
Thêm vào tình trạng không đủ lương thực thuận lợi ấy là tình trạng thiếu phương tiện về thể lý và kinh tế để kiếm lương thực, tình trạng cơ thể kém tiếp thu lương thực, những việc làm kém cõi về sức khỏe và phương tiện được hưởng nước nôi có thể uống được, đấy là chưa kể tới những yếu tố khác về chính trị, kinh tế và xã hội, là những gì đã làm cho nạn đói dữ dội cứ tiếp tục gây khốn khổ cho biết bao nhiêu là triệu con người nam nữ cùng trẻ em trên khắp thế giới.
3. Vào ngày 19/10/2006, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã gửi một sứ điệp cho Ông Jacques Diouf nhân dịp Ngày Thế Giới Lương Thực. Trong sứ điệp này, vị Giáo Hoàng đã viết:
‘Hành động quốc tế chống lại nạn đói rất nhiều khi bỏ quên yếu tố con người, nhưng lại ưu tiên cho các lĩnh vực kỷ thuật và xã hội, kinh tế. Các cộng đồng địa phương cần được tham gia vào các lựa chọn và quyết định liên quan đến cách sử dụng đất đai, vì đất nông nghiệp ngày càng bị chuyển sang các mục tiêu khác, thường gây nên nhiều tác hại trên môi trường và khả năng phát triển lâu dài của vùng đất. Nếu con người được đối xử như là thành phần đóng vai chính thì rõ ràng các lợi lộc kinh tế ngắn hạn phải được cân nhắc trong bối cảnh kế hoạch dài hạn tốt hơn để bảo đảm lương thực, vừa về chất lượng lẫn số lượng’.
Trong khi nghèo khổ là những gì có tính cách vật chất, nó còn có cả những ảnh hưởng về tâm lý nữa – như tâm trạng buồn thảm khi không thể nuôi dưỡng con cái, hay cảm thấy bất an khi không biết bữa ăn tới sẽ ra sao, hoặc cảm thấy tủi hổ vì không có của ăn. Thường thì cha mẹ kể lại rằng họ giải quyết v ấn đề bấp bênh về lương thực bằng cách nhịn đói để khỏi phải nhìn thấy con cái của họ bị chết đói.
Chúng ta phải tiếp tục tìm kiếm những giải pháp hữu hiệu và đúng lúc cho hoàn cảnh khốn khổ của những người bị đói khổ. Chúng ta cần phải làm việc với nhau như là một gia đình nhân loại, và như là một gia đình chư quốc, nhờ đó những ai đói khổ và những ai không thiếu thốn gì cả, những người rất nghèo và những ai rất giầu, những người thiếu những phương tiện cần thiết và những ai phung phí b ừa bãi những phương tiện này, không còn sống bên nhau nữa. Những thứ tương phản giữa giầu nghèo này là những gì bất khả chấp đối với nhân loại.
Quyền được có đủ của ăn là những gì quan yếu và bất khả khinh thường đối với hết mọi người cũng như đối với gia đình của họ. Đó là công việc của các quốc gia, của các vị lãnh đạo quốc gia, những quyền lực kinh tế quốc gia, và tất cả những ai thiện chí tìm hết mọi dịp để thực hiện một cuộc chia sẻ công bằng hơn về các thứ nguồn lợi vốn không thiếu thốn cũng như về các thứ sản vật tiêu thụ; vì nhờ việc chia sẻ này mà tất cả mọi người mới thể hiện một tình đoàn kết thực sự xuất phát từ việc ý thức và cảm nhận phẩm vị của hết mọi người.
4. Để đáp ứng nhu cầu khẩn trương này, cần phải nói năng và suy tư nhiều về việc làm thế nào để đạt tới tình trạng ‘an toàn về lương thực’ cho tất cả mọi dân chúng. Quan niệm này cần phải được đặt trên căn bản là lòng ước mong muốn tìm kiếm những giải pháp sâu xa hơn xuất phát từ tình đoàn kết sâu xa giữa tất cả mọi dân tộc. Tình trạng an toàn về lương thực cần phải nhấn mạnh đến những yếu tố như: việc sản xuất một số lương đầy đủ về thực phẩm, việc cung cấp vững chắc cho cả năm, phương tiện để mọi người được hưởng lương thực, việc phân phối một cách chính đáng và công bằng, và việc dốc lòng cung cấp những chất cần thiết cho việc kiêng cữ một cách quân bình và lành mạnh hợp với những tập tục dinh dưỡng địa phương.
Cần phải thực hiện những nỗ lực cụ thể để thực hiện một cuộc cải cách nông nghiệp thực sự. Chẳng hạn, ở một số quốc gia, chỉ có 1% dân số là thành phần nắm trong tay 50% đất đai. Việc phân phối đất đai công bằng hơn, nhờ đó gia tăng việc tham gia vào vấn đề sản xuất thực phẩm, nhất là nơi người nghèo, là một yếu tố quan trọng cho bất cứ một giải pháp nào như thế. Về vấn đề này, cũng cần phải mạnh mẽ tái khẳng định là nữ giới cũng có quyền được hưởng đất đai nữa.
Xin cho tôi được chia sẻ cùng quí vị một vài thí dụ cụ thể về cách thức làm sao Giáo Hội trên khắp thế giới đang dấn thân vào việc chống lại tình trạng đói khổ.
- Một khởi động đang gây một tác dụng tích cực nơi nữ giới và vai trò của họ trong vấn đề an toản về lương thực được gọi là Hiệp Hội Nông Gia Nữ Giới Quốc Gia NAWFA (National Women Farmer's Association). Hiệp hội này có trên 30 ngàn nông gia nữ giới trồng mè/vừng được Chương Trình Thị Trường Chuyên Về Vừng Của Dịch Vụ Cứu Trợ Công Giáo ở Gambia nâng đỡ. Chương trình này nhắm đến việc cải tiến tình trạng an toàn về lương thực gia đình cho các gia đình ở miền quê, bằng việc cải tiến phương tiện kinh tế của họ đối với các thứ sản vật và dịch vụ. Nhờ chương trình này, Các Dịch Vụ Cứu Trợ Công Giáo CRS (Catholic Relief Services) nâng đỡ các hoạt động như việc phổ biến vấn đề tìm kiếm thị trường, việc huấn luyện tập đọc tập viết và các năng khiếu thủ công, và việc huấn nghệ nông nghiệp, tất cả những điều này đã làm cho lợi tức của nữ giới gia tăng đáng kể.
- Chương Trình Dallol Maouri Village Banking, cũng được CRS nâng đỡ, đang cung cấp những dịch vụ về tài chính và phi tài chính cho trên 2.500 hãng thầu nữ giới nghèo ở các vùng quê thuộc miền nam Niger. Các thân chủ được huấn luyện để biết đọc biết viết hẳn hoi và biết căn bản về thương mại, các việc làm về thị trường và kế toán để có thể điều hành tốt đẹp hơn những hoạt động mang lại lợi tức của họ.
- CRS/chương trình tiểu tài trợ của Niger, một chương trình vào cuối năm 2006, sẽ cung cấp những thứ trương mục tiết kiệm và các dịch vụ tín dụng cho 5 ngàn thân chủ. Ngoài ra, có một tiểu ban bao gồm Giáo Hội Công Giáo và các thành viên địa phương đang hoạt động với CRS để bảo đảm là chương trình tiểu tài trợ khả tồn này được chuyển thành một cơ cấu khả trợ.
- Hội Caritas Niger, một hội mà, giữa nạn hạn hán và đói khổ trầm trọng ở miền này, đã bắt đầu phân phối trên 1 ngàn tấn dự trữ lương thực cấp cứu. Khoảng 43 ngàn người được cung cấp cho những phần lương thực cấp cứu ở miền này.
- Khởi Động An Toàn Lương Thực, được nâng đỡ bởi CRS và các cơ quan ngoài chính quyền khác, nhắm đến việc gia tăng tình trạng an toàn về lương thực ở 120 ngôi lành thuộc những Hạt Tanout và Dogondoutchi ở Sudan, bằng việc dạy cho họ biết những khả năng mới trong việc canh nông và vườn tược, giúp duy trì việc sản xuất về c anh nông, bảo vệ nguồn lợi thiên nhiên của cộng đồng, và cải tiến khả năng xây dựng những tổ chức địa phương.
- Chương Trình Cứu Trợ của Dòng Tên và Cơ Quan Caritas ở Sri Lanka, cả hai tiếp tục nâng đỡ những nỗ lực cứu trợ khẩn cấp cho trăm ngàn dân chúng chạy loạn vì tình hình gia tăng bạo động ở những miền nam và đông của Sri Lanka. Các Chương Trình Cứu Trợ của Dòng Tên là một trong 3 cơ quan nhân đạo chính duy nhất được chuẩn nhận của chính quyền Sri Lanka vào Tháng 8 để được phép tới cung cấp cho các vùng được chính quyền giới hạn trọng hạt Batticaloa. Đó là một vùng mà việc tiến tới được với dân chúng đang thiếu thốn cũng như việc chuyển vận các thứ cung cấp cứu trợ từng bị giới hạn nghiêm ngặt.
Đó chỉ là một ít trong nhiều thí dụ về cách thức làm thế nào các cơ cấu và tổ chức Công Giáo khắp thế giới đã từng và đang tiếp tục thực hiện những chương trình cải tiến tình trạng thuận lợi về lương thực cho các gia đình, bằng cách gia tăng việc sản xuất thực phẩm và gia súc chính, việc vườn tược tại gia, b ằng viêä cải tiến những cơ sở chất chứa và đầu tư vào các thứ hạ tầng nông nghiệp. Những cơ quan này đã khai triển những chương trình nhắm tới việc cải tiến phương tiện của gia đình hưởng thực phẩm bằng cách gia tăng lợi tức và những khoản tiết kiệm không phải từ nông nghiệp, bao gồm cả những chương trình tiểu tài trợ và gia tăng việc sản xuất trồng cấy để thu hoa lợi. Ngoài ra, những cơ cấu này đã dấn thân vào những dự án nhắm cải tiến khả năng cá nhân trong việc tận dụng lương thực, bằng cách nâng đỡ các chương trình về sức khỏe cho việc sống còn của trẻ em, cho sức khỏe của người mẹ và đứa con, và cải tiến những cơ sở hạ tầngvề tình trạng vệ sinh, cũng như việc giáo dục về Vi Khuẩn Liệt Kháng hay Hội Chứng Liệt Kháng.
Trên bình diện quốc tế, cần phải duy trì việc phát triển nông nghiệp khả trợ bằng cách khuyến khích việc học hỏi và phát triển những thứ mùa màng có sản lượng cao. Quan trọng hơn nữa là, bất cứ nơi đâu có thể, các thành quả của việc phát triển này cần phải trở nên thuận lợi cho các phần đất khác trên thế giới, những nơi có việc sản xuất về nông nghiệp đang bị yếu kém. Ngoài ra, không thể tiếp tục để xẩy ra những chính sách về kinh tế bắt nguồn từ một cuộc phân phối không chính đáng lương thực có trong tay đủ để nuôi toàn thể nhân số trên thế giới.
Nếu thế giới cần phải có một nền nông nghiệp khả trợ, thì cộng đồng quốc tế cần phải nhìn nhận rằng hòa bình là điều kiện tiên quyết và chính yếu. Chiến tranh chẳng những gây ra nghèo khổ chúng còn đẻ ra đói khát, bằng việc bắt buộc dân chúng phải kéo nhau ra đi và gây ra cho đất đai của họ không còn an toàn hay không hợp với việc gia tăng lương thực nữa.
Khi chúng ta cứu xét tới những điều kiện cho vấn đề an toàn về lương thực và nền canh nông khả trợ bằng cách chấm dứt nạn đói khổ, chúng ta cần phải công nhận rằng trong thời của chúng ta đây vẫn còn hiện hữu những gì được vị Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II từng gọi là ‘các cấu trúc của đói khổ’, một cấu trúc chỉ có thể được thắng vượt bằng một thái độ đoàn kết liên quan tới hết mọi khía cạnh của vấn đề phát triển, như việc đào luyện và sử dụng vốn liếng, các việc đầu tư, những thứ thặng dư, và việc sản xuất cùng các đường lối phân phối. Mỗi lãnh vực đều có một chiều kích căn bản về luân lý và đạo lý. Thật vậy, chính những chính sách về kinh tế không thể nào tách khỏi mối quan tâm về đạo lý.
5. Ở đây, một lần nữa, chúng ta cũng thấy được cái đòi hỏi về mục đích phổ quát của các sản vật. Quyền làm chủ về xã hội liên quan tới quyền đối với sản vật riêng tư bởi thế thường là những gì được diễn tả nơi công pháp để làm sáng tỏ những việc con người tỏ ra không tuân hợp với đòi hỏi ấy. Những việc con người không tuân hợp với đòi hỏi này gồm có lòng ước muốn hưởng giầu sang quá độ, những thứ lợi lộc bệnh hoạn và rất nhiều đường lồi khác trong việc hành sử chủ quyền, quyền sở hữu, và kiến thức, cùng với việc phủ nhận sự kiện là những sản vật được tạo dựng bao giờ cũng là để giành cho hết mọi người một cách cân bằng.
Tất cả mọi người thiện chí có khả năng thấy được những vấn đề đạo lý này là những gì đang gặp nguy hiểm và là những gì liên hệ tới tương lai của nền kinh tế thế giới: đó là vấn đề chiến đấu chống đói khổ và thiếu dinh dưỡng, là việc góp phần vào tình trạng an toàn về lương thực và việc phát triển nông nghiệp non nớt của các quốc gia đang phát triển, là việc gia tăng khả năng xuất cảng của những quốc gia ấy và là việc bảo trì các nguồn tài nguyên thích hợp cho toàn trái đất này.
Giáo huấn về xã hội của Giáo Hội thấy tất cả những điều này như là những yếu tố cấu tạo nên công ích phổ quát, một thứ công ích cần phải được nhân diện và duy trì bởi các quốc gia tân tiến. Những yếu tố ấy cũng cần phải trở thành mục tiêu thiết yếu của các tổ chức kinh tế toàn cầu và là một thách đố đối với cuộc toàn cầu hóa mậu dịch. Cái công ích phổ quát này, một khi nó được công nhận, cần phải trở thành tác động để củng cố nội dung về pháp lý, về tổ chức và về chính trị chi phối mậu dịch thế giới. Vấn đề này đòi thành phần lãnh đạo của các tổ chức xã hội, chính quyền và khối mậu dịch cần phải can đảm, vì ngày nay rất khó đặt định các lợi lộc của mỗi một cá nhân vào một thứ nhãn quan nhất trí với cái công ích ấy.
6. Kết luận
Ngày nay, hơn bao giờ hết, trước những cuộc khủng hoảng cứ tái diễn và trước việc theo đuổi tư lợi hẹp hòi, các quốc gia cần phải hợp tác và đoàn kết, mỗi một quốc gia cần phải chú trọng tới những nhu cầu của thành phần công dân yếu kém nhất, thành phần đầu tiên chịu đau khổi vì nghèo. Không có tình đoàn kết này thì sẽ xẩy ran guy cơ hạn chế hay thậm chí ngăn cản thế giới của các tổ chức quốc tế muốn rat ay chiến đấu tình trạng đói khổ và thiếu dinh dưỡng.
Sau hết, một lần nữa, theo những lời của cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thì ‘cá nhân cũng như tất cả mọi dân tộc cuối cùng sẽ bị lịch sử phân xử liên quan tới cách họ thực sự làm trọn trách nhiệm của mình trong việc góp phần vào thiện ích của đồng loại của họ…. Hy vọng rằng hết mọi người – cá nhân, phái nhóm, nhưng cơ quan tư và những tổ chức công – sẽ thực hiện việc chăm sóc thích đáng thành phần thiếu thốn nhất, bằt đầu là quyền căn bản của họ trong việc được hết đói khổ’ (Pope John Paul II, Nov. 10, 1985). Xin cám ơn Ông.
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày
10/11/2006
ĐTGM Celestino Migliore Đại Diện Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc Nữu Ước Hoa Kỳ với Tổng Nghị LHQ ngày 3/11/2006 về việc vun trồng một nền văn hóa hòa bình
Thưa Bà Chủ Tịch,
Việc bảo tồn, bênh vực và cổ võ hòa bình trên thế giới là tột đỉnh của những phận vụ và là những ưu tiên của Liên Hiệp Quốc. Bằng niềm xác tín và kinh nghiệm nhiều năm, tổ chức này tin rằng hòa bình trước hết và trên hết là một thứ văn hóa hơn là một thứ cơ cấu liên hệ hòa bình giữa các quốc gia là những gì được gắn liền với thể chế qui tắc và cấu trúc của luật lệ quốc tế.
Qua tất cả những năm hoạt động của LHQ, Tòa Thánh đã bày tỏ lòng tin tưởng nơi tổ chức này như là một thứ diễn đàn đặc biệt, nơi các quốc gia có thể làm việc hòa hợp với nhau để cổ võ hòa bình và cống hiến phần đóng góp của họ vào việc thấy được các dấu chỉ thời đại được sâu xa suy nghĩ, và nhất là vào việc tập hợp toàn thể các cộng đồng trên thế giới để nuôi dưỡng và bảo trì một nền văn hóa hòa bình.
Vào lúc mở màn cho năm nay, Đức Biển Đức XVI đã ngỏ cùng tất cả mọi con người nam nữ thiện tâm một sứ điệp tựa đề “Hòa Bình trong Chân Lý”.
Khi thấy được những dấu chỉ thời đại của chúng ta, một thời đại mà cuộc chung sống an bình đang bị đe dọa bởi nạn khủng bố, của chủ nghĩa tuyệt mạng và chủ trương bảo thủ cuồng tín, vì Giáo Hoàng này đã nhấn mạnh đến mối liên hệ bất khả phân ly giữa hòa bình và sự thật.
Hòa bình là những gì chất chứa một sự thật chung cho tất cả mọi dân tộc vượt ra ngoài những thứ đa dạng về văn hóa, triết học và tôn giáo. Nó là một quan niệm về phẩm giá của hết mọi con người sâu xa gắn liền với siêu việt thể. Bởi vậy mà hòa bình chỉ đạt được khi nào nó được hiểu biết và thực hiện như là một cuộc hiện thực chân lý chung này, bằng việc tương kính tính cách đa dạng về văn hóa.
“Việc tôn vinh quá đáng về những cái khác biệt là những gì đụng độ với sự thật nồng cốt này. Chúng ta cần phải tái nhận thức là chúng ta có cùng một định mệnh là những gì siêu việt tối hậu, nhờ đó tối đa hóa những khác biệt về lịch sử và văn hóa của chúng ta, không phải ở chỗ kình chống nhau mà là hợp tác với thành phần thuộc về các nền văn hóa khác” (khoản 6). Để đạt được mục đích ấy, chúng ta cần phải khẳng định quyết tâm chung này trong việc phát động những tổ chức và những phương pháp liên hợp hoạt động và cộng tác giữa các dân tộc và các quốc gia, nhất là trong việc nuôi dưỡng vấn đề giáo dục hòa bình, ở một mức độ tốt đẹp vượt trên cả những gì là cần thiết và hy vọng có được những cải tiến về cấu trúc.
Theo chiều kích ấy, phái đoàn đại biểu tôi xin lập lại việc chúng tôi ủng hộ Thập Niên Quốc Tế 2001-2010 cho Một Nền Văn Hóa Hòa Bình và Bất Bạo Động đối với Trẻ Em trên Thế Giới đang diễn tiến đây. Tất cả chúng ta đều có một trọng trách huấn luyện các thế hệ tương lai. Đó là lý do tại sao Hội Đồng Tòa Thánh Về Đối Thoại Liên Tôn sẽ triệu tập một cuộc họp ở Assisi vào ngày mai cho giới trẻ đến từ khắp các châu lục khác nhau và thuộc các cảm nghiệm văn hóa cũng như văn hóa khác nhau, liên kết họ lại trong một cuộc dấn thân mình vào việc đối thoại, nguyện cầu và giáo dục về tính cách nhân nhượng và hòa bình.
Việc thiết vắng sự thật nền tảng hòa bình này ở lãnh vực văn hóa chắc chắn sẽ gây ra những hậu quả hủy hoại qua nhiều năm, và sẽ vẫn tiếp tục có những nền văn hóa cùng ý hệ thậm chí cho tới cả ngày nay chối bỏ nó. Điển hình thê thảm nhất đó là nạn khủng bố quốc tế. Những mưu đồ tội ác của nạn khủng bố quốc tế bắt nguồn từ những gốc rễ sai lạc về văn hóa là những gì phủ nhận việc hiện hữu của mối liên hệ giữa sự thật và sự sống con người. Những gốc rễ ấy có thể được nhận diện nơi chủ nghĩa tuyệt mạng cũng như nơi chủ trương bảo thủ cuồng tín, cả hai đều là những đường lối sai lầm liên quan tới sự thật. cả chủ nghĩa tuyệt mệnh và chủ nghĩa cực bảo thủ được chúng ta đang nói đến đây đều có cùng một thứ liên hệ sai lầm đối với sự thật, ở chỗ, thành phần tuyệt mệnh chối bỏ chính sự hiện hữu của sự thật, trong khi thành phần bảo thủ cuồng tín chủ trương có thể áp đặt sự thật bằng võ lực. Cho dù có nguồn gốc và bối cảnh văn hóa khác nhau, cả hai đều cho thấy thái độ nguy hiểm tỏ ra khinh thường con người và sự sống con người, trên hết là chính Thiên Chúa” (khoản 10).
Những căn nguyên gây ra tình trạng vắng bóng hòa bình trên thế giới không thể chỉ bị giới hạn vào những căn nguyên hoàn toàn có tính cách xã hội hay chính trị. Nạn khủng bố, chiến tranh, tội diệt chủng và các thứ bất công thuộc lãnh vực quốc gia và quốc tế, tức những gì tỏ ra kỳ thị, đàn áp và loại trừ tất cả mọi thành phần đói khổ và bất lực, những gì ngăn cản hay đe dọa quyền hiện hữu của các quốc gia, cũng có thể được giải thích vì chúng gây ra bởi những động lực sâu xa hơn có tính chất văn hóa, ý hệ, triết lý và thậm chí tôn giáo. Hành v I xã hội và những chọn lựa về chính trị thường là những gì cứ thế mà theo. Về lãnh vực này, cần phải hình thành những chính sách hòa bình cho cả quốc gia lẫn quốc tế, những chính sách sẽ bao gồm sự thật về hòa bình và xa lánh những gì gian trá như là một hệ thống đối với các mối liên hệ hay quản trị.
Qua văn kiện Đúc Kết Thượng Nghị 2005, tổ chức này đã chấp nhận nguyên tắc về trách nhiệm cần phải bảo vệ như là một chuyển giao thực tiễn về việc hành sử chủ quyền và quản trị. Trách nhiệm bảo vệ này bao gồm khả năng và ý muốn loại trừ đi những thứ đe dọa, trong việc thiết lập những mối liên hệ và những cơ cấu có thể tiếp tục ngăn ngừa nhân loại khỏi việc giải quyết những thứ tranh cãi của họ bằng việc sử dụng võ lực, và thay thế võ lực bằng luật lệ bao nhiêu có thể.
Trách nhiệm bảo vệ này là những gì sâu xa liên hệ và trực tiếp tương xứng với việc tôn trọng sự thật về hòa bình, cho dù vấn đề có là việc quyết định sử dụng võ lực trong trường hợp thái quá, việc hành sử trong và sau cuộc xung đột, việc chi tiêu về quân sự, việc mậu dịch về các thứ vũ khí, việc giải giới và việc leo thang nguyên tử lực, việc dân số hay đường lối phát triển.
Để hiện thực hòa bình ở lãnh vực xã hội và chính trị cần phải tái thiết mối liên hệ xác đáng giữa sự thật và hòa bình ở lãnh vực văn hóa.
Xin cám ơn Bà Chủ Tịch.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 7/11/2006
ĐTGM Celestino Migliore Đại Diện Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc với một tiểu ban của Tổng Hội Nghị ngày 27/10/2006 về “Việc Cổ Võ và Bảo Vệ Nhân Quyền: Những Vấn Đề Về Nhân Quyền, Bao Gồm Những Biện Pháp Cải Tiến Việc Hoan Hưởng Thực Sự Nhân Quyền và Tự Do Căn Bản”
Thưa Ông Trưởng Ban,
Tôi xin lợi dụng cơ hội này để chúc mừng 6ong về việc ông được tuyển chọn và về vai trò lãnh đạo Tiểu Ban này của ông, cùng cám ơn Vị Đặc Phái Viên về quyền tự do tôn giáo hay tin tưởng được bà tường trình liên quan tới vấn đề loại trừ đi tất cả mọi hình thức bất nhân nhượng về lãnh vực tôn giáo.
Có 3 đề tài được quan tâm trong cuộc bà viếng thăm Vatican vào tháng 6/2006, đó là việc chung sống giữa các tôn giáo khác nhau và các cộng đồng tôn giáo khác nhau, việc truyền bá đạo giáo, bao gồm vấn đề tế nhị liên quan tới việc dụ giáo, và mối liên hệ giữa quyền tự do phát biểu và tôn giáo. Đại biểu tôi đồng quan điểm với chủ trương của Vị Đặc Phái Viên về nhu cầu hết sức quan trọng trong việc cần phải thực hiện việc đối thoại liên tôn ở tất cả mọi tấng cấp, chẳng những để giải quyết những tranh cãi, mà còn để duy trì việc chung sống hòa bình là những gì giúp cho tất cả mọi tôn giáo có thể sống bên nhau và tôn trọng nhau.
Vì chúng ta đang cử hành kỷ niệm 25 năm chập thuận Bản Tuyên Ngôn 1981 Về Việc Loại Trừ Đi Tất Cả Mọi Hình Thức Bất Nhân Nhượng và Kỳ Thị Đối Với Tôn Giáo hay Tin Tưởng, đại biểu tôi cảm thấy hết sức quan ngại là quyền tự do tôn giáo hay tin tưởng không phải là những gì thực hữu đối với cá nhân cũng như cộng đồng, nhất là nơi thành phần thiểu số về tôn giáo, ở nhiều phần đất trên thế giới. Chúng tôi cũng quan ngại là tình trạng bất bao dung về tôn giáo cao độ ở một số xứ sở đang là nhữn g gì đưa tới một mức độ báo động của việc phân rẽ và kỳ thị. Chúng tôi thông cảm với trách nhiệm nặng nề trong việc cùng nhau đảo ngược lại chiều hướng ấy.
Vì việc chấp nhận tôn giáo đôi khi mang đặc tính như là việc chấp nhận hay cho phép những niềm tin tưởng về tôn giáo và thực hành sống đạo bất hợp với những gì của riêng mình, mà đã đến lúc cần phải vượt ra ngoài loại chấp nhận tôn giáo ấy, và thay vào đó, áp dụng những nguyên tắc về một thứ quyền tự do tôn giáo đích thực.
Quyền tự do tôn giáo là quyền được tin tưởng, tôn thờ, chủ trương và làm chứng cho niềm tin tưởng của mình. Nó cho phép có được cơ hội và tạo nên những dịp để dân chúng tự do tuyên xưng những điều họ tin tưởng. Hơn thế nữa, nó bao gồm cả quyền được thay đổi tôn giáo và tự do theo đạo khác để bày tỏ các niềm xác tín tôn giáo của mình. Việc nhân nhượng về tôn giáo chỉ là khởi điểm, là căn bản cho quyền tự do tôn giáo phổ quát, và không thể nào hoàn toàn nhân nhượng về tôn giáo mà lại không thực sự nhìn nhận quyền tự do tôn giáo.
Chúng ta quá biết rằng, theo lịch sử, việc nhân nhượng đã từng là một vấn đề sinh sự giữa các tín hữu thuộc các niềm tin khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta cần phải tiến tới khúc quanh của lịch sử là lúc đòi hỏi chúng ta hơn nữa, bao gồm việc dấn thân thực hiện vấn đề đối thoại liên tôn. Đồng thời đại biểu tôi đây càng ngày càng xác tín về tầm quan trọng bất khả thiếu nơi tính chất hỗ tương là những gì tự nó có thể bảo đảm việc tự do hành sử đạo giáo ở tất cả mọi xã hội.
Tòa Thánh tiếp tục quan tâm tới một số những trường hợp xẩy ra vấn đề thực hữu của những biện pháp về lãnh vực lập pháp và hành pháp đã được ban hành hay đang được dự thảo trong việc đặt giới hạn đối với việc thực hành, tuân giữ hay truyền bá tôn giáo. Tòa Thánh cũng quan tâm tới những trường hợp tôn giáo hay quyền tự do tôn giáo được sử dụng như là một thứ bình phong hay một thứ biện minh để vi phạm các thứ nhân quyền khác.
Ngoài ra, còn xẩy ra cả trường hợp tái diễn thái độ bất nhân nhượng khi những lợi lộc phái nhóm hay những đấu tranh quyền lực tìm cách ngăn cản những cộng đồng tôn giáo trong việc hướng dẫn lương tâm nhờ đó giúp cho họ có thể tác hành một cách tự nguyện và hữu trách theo những đòi hỏi thực sự của công lý. Cũng thế, thật là việc bất nhân nhượng khi tỏ ra nhạo báng khinh dể các cộng đồng tôn giáo và loại trừ họ ra khỏi cuộc tranh cãi và hợp tác chung, chỉ vì họ không hợp với những chọn lựa hay không tuân hợp với những việc thực hành ngược lại với nhân phẩm.
Việc quyết định trong quốc gia và quốc tế, những thể chế về pháp lý và chính trị, và tất cả mọi người thiện tâm cần phải hợp tác để bảo đảm những bày tỏ về tôn giáo đa dạng không bị hạn chế hay bịt miệng. Hết mọi cá nhân và nhóm hội cần phải được thoát khỏi bị kìm kẹp và không một ai bị ép buộc tác hành ngược lại với những niềm tin tưởng của họ, dù chung hay riêng, dù một mình hay với những người khác. Ở đây cần phải đặc biệt chú trọng tới nhu cầu của các nhóm người yếu kém nhất, bao gồm nữ giới, trẻ em, thành phần tị nạn, thành phần tôn giáo thiểu số và những người bị cướp đoạt tự do. Cần phải tỏ ra hết sức hối tiếc về những dấu hiệu bất nhân nhượng tôn giáo đáng quan ngại, một thứ bất dung nhượng đã từng gây rắc rối một số miền đất và một số quốc gia, có những lúc ảnh hưởng ngay đến cả đa số các nhóm tôn giáo.
Một phần thuộc nét đặc trưng nền tảng của LHQ là quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo. Bởi thế, nhiệm vụ của Cuộc Họp này là tiếp tục cung cấp vai trò lãnh đạo có thể bảo đảm và bảo vệ các thứ quyền lợi nền tảng ấy và duy trì quyền tự do tôn giáo trọn vẹn ở hết mọi miền đất.
Trong thế giới đa dạng và hằng biến chuyển của chúng ta đây thì tôn giáo không phải chỉ là vấn đề nội tại của tư tưởng và lương tâm. Nó có khả năng thắt kết chúng ta lại với nhau như là các phần tử bình đẳng trong gia đình nhân loại. Chúng ta không thể coi thường vai trò tôn giáo trong vấn đề nuôi nấng kẻ đói khổ, cho kẻ trần trụi áo mặc, chữa lành kẻ bệnh hoạn tật nguyền và viếng thăm kẻ bị giam cầm.
Chúng ta cũng không được coi nhẹ quyền n ăng của nó, nhất là ở giữa những xung khắc và chia rẽ, trong việc hướng tâm trí chúng ta tới những ý nghĩ bìn h an, trong việc giúp cho thành phần thù địch có thể nói chuyện với nhau, trong việc nâng đỡ những ai cảm thấy xa lạ nắm tay nhau một cách thân tình, và trong việc giúp cho các quốc gia cùng nhau biết tìm kiếm đường lối an bình. Tôn giáo là một quyền lực quan trọng cho thiện ích, hòa hợp và an bình giữa tất cả mọi dân tộc, nhất là trong những lúc gian nan khốn khó.
Xin cám ơn Ông Trưởng Ban
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày
30/10/2006
ĐTGM Celestino Migliore Đại Diện Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc Nữu Ước Hoa Kỳ với Hội Nghị ngày 25/10/2006 với đệ tứ tiểu ban của khóa họp thứ 61 của Tổng Hội Đồng LHQ về Điều Thực Hiện 83 liên quan tới ‘Vấn Đề Cứu Trợ của LHQ và Cơ Quan Hoạt Động cho Thành Phần Tỵ Nạn Palestine ở Cận Đông’
Thưa Ông Trưởng Ban,
Sau khi cẩn thận đọc lại bản tường trình của vị tổng phái viên của Cơ Quan Liên Hiệp Quốc Cứu Trợ và Hoạt Động Cho Những Người Tị Nạn Palestine ở Cận Động, đại biểu tôi xin có lời khen tặng công việc của cơ quan này trong việc đối đầu với những thách đố mới ngay trong lúc xẩy ra bạo lực và hoạt động quân sự ở trong miền này.
Nhiều vấn đề được nêu lên trong bản tường trình của vị tổng đặc phái viên này là những triệu chứng của một vấn đề bao rộng hơn nhiều, một vấn đề mà tất cả chúng ta đều biết là đã từng mưng mủ quá lâu ở miền đất ấy. Mỗi năm, trong cuộc họp này, chúng ta đều kể lại một bản liệt kê khôn cùng về những khó khăn và những khác biệt làm tách biết người Do Thái với người Palestine, thế nhưng chúng là những khác biệt lại càng làm cho vấn đề trở nên khẩn trương hơn nữa đối với các quốc gia trong việc giải quyết trục trặc về tình trạng bất công sâu xa ở tận cốt lõi của vấn đề này.
Việc thực hiện một bản liệt kê về những triệu chứng mà không nói gì tới căn nguyên sâu xa của vấn đề là những gì khó lòng giúp được gì cho đôi bên. Mỗi bên đều bị buộc phải sống dưới những thứ căng thẳng rùng rợn của những hành động kinh hoàng có thể bùng nổ hay những cuộc đột kích quân sự mang lại chết chóc, thương vong và việc hủy hoại các hạ tầng cơ sở.
Không thể coi thường cái cốt lõi nơi cuộc xung đột giữa người Do Thái và Palestine trong tình trạng bất ổn liên tục ở Trung Đông. Đó là lý do tại sao đại biểu tôi đây vẫn tin vào giải pháp hai quốc gia như là nền tảng cho việc giải quyết cuộc khủng hoảng này, một giải pháp giúp cho người Do Thái có thể sống an ninh ở lãnh thổ của họ, và người Palestine sống yên ổn trong một quốc gia có thể sống được của riêng họ. Điều này chỉ có thể đạt được nếu cộng đồng quốc tế, nhất là khối Tứ Tượng, ghé vai gánh vác trách nhiệm tái tấu những cuộc thương thảo chân chính một cách hết sức nhanh gọn.
Thật là một sự kiện đáng buồn khi cộng đồng quốc tế đã thất bại trong việc lôi kéo người Do Thái và Palestine lại với nhau trong một cuộc đối thoại đầy ý nghĩa và nghiêm trọng kèm theo việc giải quyết những giằng co để mang lại tình trạng ổn định và hòa bình cho cả đôi bên. Cộng đồng quốc tế cần phải sử dụng những vai trò tốt đẹp của mình để làm dễ dàng mau chóng hơn một cuộc tái lập mối hữu nghị giữa đôi bên. Dĩ nhiên là những ai trung gian thực hiện những cuộc thương thảo sẽ phải duy trì một đường lối cân bằng, tránh đi việc áp đặt trước những điều kiện đối với bất cứ bên nào.
Việc giải quyết cuộc xung đột giữa người Do Thái và Palestine vẫn là yếu tố chính cho một chuỗi những vấn đề liên quan tới toàn thể Trung Đông, chưa kể tới những hậu quả liên quan tới thế giới.
Trong niềm hy vọng nhiều vấn đề của miền này sau cùng sẽ được giải quyết bằng việc thương thảo và đối thoại, đại biểu tôi muốn nhấn mạnh thêm là một giải pháp lâu bền cần phải bao gồm cả tình trạng của thành thánh Giêrusalem. Trước quá nhiều những bất trắc về bạo lực và những thách đố đối với vấn đề di chuyển gây ra bởi bức tường an ninh, Tòa Thánh lập lại việc Tòa Thánh ủng hộ ‘các điều khoản được quốc tế công nhận trong việc bảo đảm quyền tự do tôn giáo và lương tâm cho các cư dân sống ở thành này, cũng như việc tín đồ của tất cả mọi tôn giáo và mọi quốc tịch đi lại vĩnh viễn, tự do và không bị ngăn cản đến các Nơi Thánh’ (A/RES/ES-10/2).
Sau hết, chúng tôi lập lại lời kêu gọi của chúng tôi với cộng đồng quốc tế trong việc làm dễ dàng hóa những cuộc thương thảo quan trọng giữa đôi bên xung khắc. Chỉ có một nền hòa bình chân chính và bền vững – không bị áp đặt, song được bảo đảm bằng những cuộc thương thảo và việc dung hòa hợp lý – mới làm mãn nguyện những ước vọng hợp lý của tất cả mọi dân tộc ở Thánh Địa mà thôi.
Xin cám ơn Ông Trưởng Ban.
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày
3/11/2006
ĐTGM Celestino Migliore Đại Diện Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc Nữu Ước Hoa Kỳ với Hội Nghị ngày 25/10/2006 với đệ nhị tiểu ban của khóa họp thứ 61 của Tổng Hội Đồng LHQ về vấn đề phát triển khả thủ và môi sinh.
Thưa Bà Trưởng Ban,
Nếu chúng ta muốn làm cho cuộc phát triển khả trợ trở thành một thực tại vững chắc lâu dài thì chúng ta cần phải kiến tạo một nền kinh tế thực sự khả trợ.
Ngay cả trong bối cảnh của việc chuyển tiếp và trưởng thành nhanh chóng của mình, nền kinh tế của chúng ta tiếp tục chính yếu dựa vào mối liên hệ của nó với thiên nhiên. Hạ tầng bất khả thiếu của nó là đất, nước và khí hậu, và vấn đề mau chóng trở nên sáng tỏ hơn bao giờ hết là nếu những thứ ấy, những hệ thống trợ sinh của thế giới ấy, mà bị hư hoại hay bị phá hoại bất khả chữa trị thì sẽ chẳng có một thứ kinh tế có thể tồn tại đối với bất kể một ai trong chúng ta. Bởi thế, thay vì đứng ngoài hay loại trừ kinh tế, các nhà lập pháp cần phải hiểu những mối quan tâm về môi trường như là những gì nền tảng chống đỡ tất cả mọi hoạt động về kinh tế – thậm chí về cả con người nữa.
Đó là lý do tại sao việc hoàn thành những quyết tâm cho những trụ cột phát triển về kinh tế, môi trường và xã hội của Thượng Nghị Về Trái Đất năm 1992 là đáp ứng rất tối thiểu cần có hiện nay đối với các quốc gia và tất cả mọi diễn viên liên quan tới môi trường. Các hậu quả về môi trường gây ra bởi hoạt động kinh tế của chúng ta hiện nay là một trong những vấn đề ưu tiên đệ nhất của thế giới.
Vấn đề môi trường chẳng những là một vấn đề quan trọng về đạo đức và khoa học mà còn là một vấn đề về chính trị và kinh tế nữa, và là một cái xương của việc cạnh tranh trong tiến trình toàn cầu hóa nói chung. Nó không những nhắm đến việc hội nhập việc phát triển khả trợ vào các chương trình giảm nghèo và phát triển, mà còn phản ảnh c ác mối bận tâm cùng những vấn đề về môi trường nơi những sách lược an ninh , cũng như nơi những vấn đề về phát triển và nhân đạo ở các cấp quốc gia, miền và quốc tế. Tóm lại, thế giới cần một cuộc hoán cải môi sinh để cẩn thận cứu xét tới những mẫu tư tưởng hiện tại, cũng như những mẫu sản xuất và tiêu thụ.
Bởi thế, đại biểu tôi đây hoan hô sự tiến bộ được đề cập tới về vấn đề áp dụng thực hành Chương Trình Hành Động 21, những Chương Trình Áp Dụng Thực Hành Hơn Nữa Hoạch Trình 21 cùng những thành quả của Thượng Nghị Thế Giới về Vấn Đề Phát Triển Khả Trợ, ở bản tường trình của vị tổng thư ký LHQ giờ đây đang có trong tay của Tiểu Ban này. Việc nhấn mạnh hơn nữa tới năng lượng có thể đổi mới, những thứ kỹ thuật về khí đốt và làm sạch, và việc chính ngạch hóa các sách lược phát triển khả trợ của quốc gia vào việc thiết lập chính sách dường như đã nhúc nhích, mặc dù tất cả mọi diễn viên, bắt đầu là các quốc gia, cần phải thực hiện nhiều hơn nữa để ngăn chặn và lật ngược chiều hướng trong vấn đề tiêu thụ và phóng uế.
Cả hai Thượng Nghị G-8 năm 2005 và 2006 đã chú trọng nhiều tới năng lượng cần thiết cho việc phát triển khả trợ cũng như tới việc thay đổi khí hậu và việc phát triển kỹ nghệ cũng như vấn đề phóng uế bầu khí quyển. Những hiện tượng này có một ảnh hưởng hiển nhiên về môi trường, sâu xa tác dụng tới nền an ninh của quốc gia và quốc tế, cũng như đến khả năng của cộng đồng quốc tế trong việc đạt tới các mục tiêu phát triển ngàn năm MDGs. Cộng đồng quốc tế cần phải tiếp tục sâu xa hiểu biết những mối liên hệ giữa hòa bình và vấn đề phát triển nhân bản, nhất là ở các nơi nghèo nhất với khả năng kém thích ứng.
Đối với việc áp dụng thực hành những công ước khác nhau về môi trường của LHQ, đại biểu tôi cũng hoan nghênh cái động lực có được từ Những Hiệp Ước Marrakesh, nhờ đó làm cho Nghị Định Kyoto được trọn vẹn hoạt động. Tòa Thánh hy vọng rằng những cơ hội như thế là những gì thuận lợi cho việc áp dụng một sách lược về năng lượng có tính cách vừa toàn cầu vừa chung nhau lâu dài, có khả năng đáp ứng những nhu cầu năng lượng toàn cầu ngắn hạn và dài hạn, bảo về sức khỏe của con người và môi trường, và thiết lập những việc dấn thân thực sự có thể hiệu nghiệm đương đầu với vấn đề thay đổi khí hậu.
Trong khi đó, nếu những thứ khí đốt dưới lòng đất đang thuộc về chúng ta cho một ‘tương lai khả đoán’, và nếu các quốc gia đang lệ thuộc vào ‘giải pháp lai ghép hỗn hợp năng lực’, như vị tổng thư ký đề nghị, thì việc đầu tư chung thật sự vào kỹ thuật làm sạch là những gì cần phải kèm theo tính cách thực dụng này như là một yếu tố khẩn trương của những sách lược quốc gia và quốc tế, trong việc giảm thiểu nhanh bao nhiêu có thể tầm ảnh hưởng của tình trạng phóng uế gây ra từ việc di chuyển trên không và dưới biển, cũng như việc những lãnh vực này tiếp tục sử dụng thứ kỹ thuật cổ hủ. Sự tiến bộ đang đạt được một cách chầm chậm nơi các thứ kỹ thuật làm sạch ở các lãnh vực khác, bao gồm thậm chí cả lãnh vực di chuyển của xe hơi. Thế nhưng, đã đến lúc thực hiện việc đầu tư chính yếu vào những kỹ thuật làm cho việc di chuyển trên không và dưới biển được sạch hơn trước khi vấn đề cân bằng về môi sinh bị nghiêng ngả vì thái độ coi thường đáng trách.
Về vấn đề nước nôi, Bản Tường Trình Phát Triển Nước Trên Thế Giới thứ hai của LHQ đã cho thấy rằng vấn đề chính yếu làm ngăn trở việc hoàn thành những đòi hỏi về nước không phải là vì tình trạng thiếu lượng nước cho nhu cầu của con người mà là thiếu việc quản trị những nguồn nước, nhất là những vấn đề về điều hành, hạ tầng cơ sở, kỹ thuật và tài trợ. Việc cai quản những nguồn nước cần phải được dựa vào việc áp dụng thi hành nguyên tắc trách nhiệm chung của tầm cấp quốc tế, chú trọng đặc biệt tới nguyên tắc phụ trợ, một nguyên tắc cần đến sự tham dự của các cộng đồng địa phương trong tiến trình quyết định.
Về một đề tài liên hệ, LHQ đã ấn định năm 2006 là Năm Quốc Tế về Các Sa Mạc và Tình Trạng Hoang Vu Hóa, chắc chắn là một trong những tiến trình lo ngại nhất của tình trạng suy thoái môi trường, kèm theo một ảnh hưởng tiêu cực mạnh mẽ chẳng những trên môi trường mà còn ở các lãnh vực về kinh tế và xã hội nữa. Việc hoang vu hóa và hạn hán giờ đây đang ảnh hưởng tới trên một phần sáu dân chúng trên thế giới. Cộng đồng quốc tế cần phải thực hiện những hành động cụ thể để đảo ngược những hiện tượng báo động này bằng những đáp ứng có tính cách hợp tác quốc tế.
Sau hết, thành phần sống ở làng mạc, nơi chi phối ¾ số người đói khổ, đang bị suy thoái hơn bao giờ hết. Những nhận định của Hội Nghị Quốc Tế Về Việc Cải Cách Canh Nông Và Phát Triển Nông Thôn ở Porto Alegre vào đầu năm nay đã có lý nhấn mạnh tới tầm quan trọng của vai trò cải cách nông nghiệp và phát triển nông thôn để chiến đấu với tình trạng đói khổ và nghèo khổ, để cổ võ việc phát triển khả trợ và sự an toàn về lương thực, để bảo toàn việc cổ võ nhân quyền, cũng như để chiếm đạt những mục tiêu phát triển ngàn năm MDGs. Các nhà lập pháp không thể nào tiếp tục coi thế giới nông thôn như là một thứ thường hạng.
Xin cám ơn Bà Trưởng Ban
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày
26/10/2006
Với Tổng Hội Nghị ngày 16/10/2006 về những biện pháp loại trừ nạn khủng bố quốc tế
Thưa Ông Chủ Tịch:
Trong những năm gần đây, nạn khủng bố đã gia tăng thành một cơ cấu tinh vi, liên kết với nhau về chính trị, kinh tế và kỹ thuật, vượt biên cương bờ cõi quốc gia, bao trùm toàn thế giới. Vì nguy cơ của nó thì nhiều, làm cho tất cả chúng ta đều lo âu, càng thấy được tầm quan trọng của một Công Ước Toàn Diện về Nạn Khủng Bố Quốc Tế có tính cách bó buộc toàn thế giới.
Đại biểu tôi tin rằng trong cuộc tranh luận để chấp nhận một bản công ước như thế, cần phải xác nhận ngay từ đầu là những biện pháp hiệu nghiệm để chống khủng bố và việc bảo vệ nhân quyền không được là những mục tiêu tương khắc. Thật thế, những biện pháp chống khủng bố cần phải phục vụ cho việc bảo vệ nhân quyền, vì việc bảo vệ nhân quyền là mục tiêu của bất cứ sách lược chống khủng bố nào.
Cái tính cách hoàn toàn bất khả chấp của nạn khủng bố chính là ở sự kiện nó sử dụng thành phần vô tội làm phương tiện để đạt cùng đích của nó, như thế là tỏ ra khinh bỉ và hoàn toàn coi thường sứ sống con người và phẩm vị con người. Cái coi thường sự sống này tiến đến độ bất chấp cả thủ đoạn trong việc sử dụng những cá nhân vô tội và cả một đám dân chúng như là những thứ khiên thuẫn con người để giấu diếm và bảo vệ thành phần khủng bố cùng với những thứ khí giới của họ.
Ngoài ra, sách lược chống khủng bố không được trở thành những gì hy sinh các nhân quyền căn bản nhân danh vấn đề an ninh. Trái lại, cần phải hạn chế việc áp dụng những biện pháp được chọn lựa; bằng không, nó sẽ làm tiêu hao đi chính những giá trị được nó có ý bảo vệ, gây xa cách phần lớn dân số trên thế giới và làm suy yếu đi sức mạnh về luân lý của một sách lược như thế.
Về phía các quốc gia ra tay hành động cũng không được đối xử với thành phần khủng bố bằng một thứ lệch lạc như thế, vì nó chỉ có thể xứng hợp trước mắt của một số người những gì họ cảm thấy phiền trách để biện minh cho hành vi lầm lạc của họ. Trái lại, cho dù thành phần khủng bố có tỏ ra thái độ coi thường mạng sống con người và phẩm vị con người đi chăng nữa cũng không thể vì thế mà không chịu đối xử với họ theo các qui chuẩn nhân đạo quốc tế và nhân quyền.
(Biệt chú của thoidiemmaria: Phải chăng Tòa Thánh ở đây, qua hai đoạn trên đây, muốn nói tới hành động của chính phủ Bush trong việc thiết lập các nhà tù bí mật để giam nhốt thành phần tình nghi khủng bố và hành hạ họ như ở trường hợp nhà tù Gitmo ở Guantanamo Bay, Cuba. Tin tức hôm Thứ Năm 19/10/2006 cho biết Tổng Thống Bush, nhân danh việc bảo vệ mạng sống và tự do của nhân dân, đã ký chuẩn đạo luật cho phép thiết lập các nhà tù giam giữ thành phần tình nghi khủng bố, tước đi một số quyền hạn pháp lý của họ và được quyền hành hạ tù nhân).
Vì phạm vi pháp lý và tính cách hiệu năng của luật pháp là cốt lõi của việc bênh vực nhân quyền mà Bản Công Ước Toàn Diện về Nạn Khủng Bố Quốc Tế cần phải làm sáng tỏ là không có lý do nào, bất kể là chính đáng đến đâu, có thể viện cớ hay hợp pháp hóa việc cố ý sát hại hay làm thương tật thành phần dân sự. Thậm chí ngay cả đến quyền hợp lệ để chống lại những thẩm quyền bất chính, cũng như quyền được tự quyết và giải phóng quốc gia, cũng không được trở thành những gì đe dọa tới cơ cấu xã hội và trật tự quần chúng quốc nội, cả hai thứ quyền này bình thường cũng không được trở thành những hành động chiến tranh hay áp đảo bất hợp pháp.
Nạn khủng bố là một hình thức về văn hóa – theo chiều hướng phản văn hóa và phản văn minh – liên quan tới những quan niệm lệch lạc về thực tại, tới những gì rắc rối trong việc bài ngoại, tới thái độ tỏ ra khinh thường kẻ khác, tới việc thấy kẻ khác như là một mối đe dọa, tới việc khinh khi lạm dụng tôn giáo. Đương đầu với một hiện tượng như thế, các biện pháp về pháp lý cũng như những võ trang vẫn không đủ, chúng ta còn cần phải đáp ứng bằng những phương tiện về văn hóa có khả năng chinh phục bao gồm những giải phát bất bạo động trong việc hàn gắn những phiền trách đích đáng. Lịch sử đã từng cho thấy những mẫu chống đối bất bạo động có thể chỉnh đốn lại các tổ chức và cơ cấu bất chính, và hàn gắn lại những phiền trách chính đáng một cách hiệu nghiệm và lâu bền.
Những câu truyện thành đạt ấy cũng nhắc nhở chúng ta rằng việc chiến đấu chống nạn khủng bố cần phải bao gồm cả một cuộc dấn thân can đảm và dứt khoát về chính trị, ngoại giao và kinh tế trong việc làm giảm thiểu đi những tình trạng đàn áp và loại trừ là những gì dễ góp phần vào mưu đồ của thành phần khủng bố.
Thường nhận thấy rằng việc tuyển mộ thành phần khủng bố trở thành dễ dàng hơn nơi những trường hợp quyền lợi bị chà đạp và những gì bất công được dung túng trong một thời gian dài. Cũng cần phải nhấn mạnh rằng những thứ bất công đang hiện diện trên thế giới này không bao giờ được sử dụng như căn cớ để thực hiện các hành động khủng bố, và cần phải nhận định rằng thành phần nạn nhân của tình trạng lũng đoạn trật tự sâu nặng được nạn khủng bố tìm cách lợi dụng trước hết bao gồm hằng triệu con người nam nữ vô số kể là thành phần ít có thể đứng vững nổi trước sự sụp đổ của tình đoàn kết quốc tế. Việc thành phần khủng bố chủ trương ra tay hành động thay cho người nghèo là một thứ sai lầm xảo quyệt.
Các tôn giáo và việc đối thoại liên tôn đặc biệt đóng một vai trò trọng yếu trong vấn đề phản bác việc thành phần khủng bố giảng dạy thù ghét và bạo động như là một thứ phản đề với đạo giáo đích thực, trong vấn đề cổ võ một nền văn hóa hòa bình và tương kính, cũng như trong vấn đề giúp cho thành phần cảm thấy bị phiền phức biết chọn lựa những phương tiện bất bạo động. Nhiệm vụ hệ trọng này là những gì thuộc về các tôn giáo, nhưng các quốc gia và gia đình chư quốc vẫn có thể cộng tác bằng việc duy trì một môi trường làm triển nở các tôn giáo và việc đối thoại liên tôn.
Xin cám ơn
Ông Chủ Tịch.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến
ngày 16/10/2006
Đức Ông Anthony Frontiero, viên chức của Hội Đồng Tòa Thánh về Công Lý và Hòa Bình, với cuộc họp thường niên của 56 quốc gia thành viên của Tổ Chức An Ninh và Hợp Tác ở Âu Châu về những dấn thân trong lãnh vực nhân quyền, được tổ chức ở Warsaw, Balan 2-13/10/2006.
Thưa Ông Điều Hợp Viên,
Tòa Thánh xin cám ơn về cơ hội được tham dự vào Cuộc Họp Áp Dụng Nhân Bản của Tổ Chức An Ninh và Hợp Tác ở Âu Châu OSCE, và muốn xác nhận những nỗ lực của cơ quan này cùng những tổ chức và cơ cấu chi n hánh của nó trong việc phục vụ cho dân chủ và nhân quyền.
Làm như thế là Tòa Thánh muốn lập lại niềm xác tín của mình là nền dân chủ đích thực chỉ có thể trở thành khả dĩ trong một tình trạng được cai trị bằng luật pháp, và trên nền tảng của một quan niệm đúng đắn về con người cùng với phẩm vị vốn có nơi mỗi người.
C ần phải hội đủ những điều kiện cho viêc tiến triển này cả từ cá nhân, nhờ được giáo dục và đào luyện theo những lý tưởng chân thực, lẫn từ ‘vai trò chủ thể’ của xã hội, bằng việc tạo nên những cấu trúc cho vấn đề tham gia và chia sẻ trách nhiệm.
Tuy nhiên, trong việc theo đuổi cao quí cho nền dân chủ cần phải chống lại khuynh hướng cho rằng chủ trương bất khả thần tri và chủ trương tương đối nghi hoặc là thứ triết lý và là thái độ căn bản tương hợp với các hình thức dân chủ nơi đời sống chính trị.
Thường xẩy ra là, những người tin rằng họ biết được sự thật và chặt chẽ gắn bó với sự thật ấy được cho là không đáng tin theo một quan điểm dân chủ nào đó, vì họ đã không chấp nhận sự thật là những gì cần phải được quyết định bởi số đông, hay nó tùy thuộc vào sự biến đổi tùy theo các chiều hướng chính trị khác nhau.
Tòa Thánh cũng xin lập lại niềm tin tưởng của mình là, nếu không có một sự thật tối hậu để hướng dẫn và điều khiển hoạt động chính trị thì các ý nghĩ và niềm xác tín có thể dễ dàng bị mạo dụng vì những lý do quyền lực. Như lịch sử đã chứng to 3, một nền dân chủ mà không có n hững thứ giá trị có thể dễ dàng biến thành một thứ độc tài chuyên chế công khai hay lộ liễu trá hình.
Ngoài ra, nền dân chủ đích thực và các cấu trúc của nó cũng cần đến những nỗ lực phát triển và nâng đỡ cái nền tảng thu nhập trong việc hỗ trợ cho các sản vật công cộng toàn cầu, bao gồm vấn đề về môi trường, những hiệp định công nhận nhân quyền, việc gia tăng dự phần và đại diện trong các chính sách qua tổ chức vàv các cơ cấu địa phương, miền và đa phương của công dân – tất cả đều giúp vào việc áp dụng thi hành công ích.
Sau hết, Thưa Ông Điều Hợp Viên, nguyên tắc phụ trợ bao hàm là ‘xã hội dân sự là một mảnh đất mà ở đó các mầm mống của xá hội tính nhân loại tăng trưởng’. Tính cách phụ trợ của các c ộng đồng địa phương và các hiệp hội là những gì cần thiết cho công ích của chính quyền dự phần.
Chính vì dấu ấn xã hội nơi phẩm giá của con người mà Tòa Thánh đã nhất trí liên kết nhân quyền với trách nhiệm, và nhìn nhận rằng chính quyền vẫn có trách nhiệm cai trị bằng hành động phụ trợ, hay cải tiến hành động phụ trợ đang gây thiệt hại cho thiện ích của toàn thể hay gây tổn thương cho phúc hạnh của một số phấn tử.
Xin cám ơn Ông Điều Hợp Viên
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 26/10/2006
ĐTGM Silvano Tomasi Đại Diện Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc Geneva Thụy Sĩ ngày 4/10/2006 với ủy ban hành sự của Cao Ủy Tị Nạn LHQ
Thưa Ông Trưởng Ban,
Phái đoàn đại biểu của Tòa Thánh xin bày tỏ lòng cảm nhận về vai trò lãnh đạo dấn thân đầy khả năng của ông, cũng như của tiểu ban hành sự thuộc Cao Ủy Tị Nạn LHQ, tranh đấu cho thành phần tị nạn và những người bị bắt buộc phải ra đi ra quê hương xứ sở của mình.
1. Biết bao nhiêu là những trăm nạn nhân, thành phần đã bỏ mạng sống trong những tuần lễ và những tháng ngày mới đây khi vô vọng tìm kiếm một cuộc sống an ninh hơn và xứng đáng hơn, là một thứ đèn đỏ báo nguy cho thấy trong thế giới được toàn cầu hóa của chún g ta đây, cộng đồng quốc tế đang thất bại trong việc theo đuổi các mục tiêu đoàn kết và bảo vệ của mình. Trên khắp thế giới, trên biển cả cũng như trong sa mạc, dân chúng đang cố gắng để thoát khỏi chiến tranh, khỏi những gì vi phạm tới các thứ nhân quyền của họ, khỏi bị đói khát.
Vấn đề hỗn tạp giữa các động cơ và những làn sóng tị nạn là một thách thức chính yếu đối với trách nhiệm bảo vệ, đối với chúng ta thì đó là trách nhiệm bảo vệ chung chung. Trong khi có những cơ cấu khác nhau cùng với những định liệu có tổ chức đang thực hiện để giải quyết những thứ di chuyển khác nhau của dân chúng thì vấn đề rõ ràng ở đây là tất cả những người ấy cần phải được bảo vệ. Vấn đề phân biệt thực sự giữa thành phần di dân, thành phầm tìm nơi nương trú và thành phần tị nạn đã từng trở thành những gì lu mờ.
Dường như đã thấy hiện lên một thứ lưỡng lự và mệt mỏi nào đó trong việc bảo trì vấn đề phân biệt này một cách công bằng, nên làm suy yếu đi vai trò bảo vệ theo Công Ước 1951 về Tình Trạng Tị Nạn cùng với Nghị Định Thư 1967 liên hệ, cũng như theo Công Ước 1969 của Hội Nghị Hiệp Nhất Phi Châu Trông Coi Những Khía Cạnh Đặc Biệt Về Vấn Đề Tị Nạn Ở Phi Châu.
Có thể là hợp lý, cả ở những làn sóng dân chúng thuộc miền nam với nam và nam với bắc, trong việc quyết định thừa nhận thành phần di chuyển này mà Cao Ủy Tị Nạn LHQ cần phải bổ xung đường lối chính trị thường thấy của các quốc gia, để bảo đảm được phẩm chất của tiến trình ấy, nhờ sự hiện hữu của nó hay nhờ vào việc áp dụng những hướng dẫn đặc biệt của nó về việc chọn lựa thành phần di chuyển. Như thế, những người tìm nơi nương trú, thành phần ít oi trong những cuộc di chuyển này, thành phần có quyền được nhìn nhận như tị nạn, sẽ không bị loại trừ.
2. Việc ý thức hơn nữa nơi trách nhiệm bảo vệ cũng cần phải phấn khích một nỗ lực hơn nữa trong việc làm giảm bới tình trạng khốn khó của những người tìm nơi nương trú, thành phần mà, với cuộc sống sinh tồn và ở trong một tình trạng thực sự là bị lãng quên, đang bị tản mát ở những miền khác nhau, chẳng hạn như những làn sóng người Iraq mới đây ở khắp Trung Đông. Họ đặc biệt là những người sống trong tình trạng mang manh yếu kém. Những cuộc xung đột không cho phép họ trở về, trong khi đó ở quốc gia tạm trú họ lại không được nhìn nhận; hầu như họ là những con người vô tổ quốc.
Nhu cầu về chính trị là những gì hạn chế ý nghĩa về công ước tị nạn, cho dù thực tại xẩy ra, thường được các tổ chức xã hội dân sự chứng kiến thấy thực sự, đòi phải nhìn nhận những cá nhân ấy và những giá đình ấy có quyền được bảo vệ và trợ giúp theo Công Ước. Vấn đề trở nên hiển nhiên trong các cuộc bàn luận hiện nay là cần phải có nhiều phương tiện hơn nữa để đáp ứng tất cả những đòi hỏi về việc bảo vệ và giải quyết chẳng những cho thành phần dân chúng đang ở trong tình trạng bị lãng quên, mà còn cả 5.7 triệu trong khoảng 9 triệu người tị nạn trên thế giới đang sống trong những tình trạng tị nạn bị kéo dài, hơn 4 triệu người tị nạn Palestine, và khoảng 24 triệu người di tản trong quốc nội.
Nếu tình đoàn kết quốc tế được gắn liền với ngân quĩ của nó về vấn đề trợ cấp cho những người tị nạn chỉ cần một phần nhỏ trong vấn đề gia tăng chi tiêu cho các thứ võ trang – từ 1996 đến 2005 chi khoản quân sự tăng 34% ở mức 1.118 (một ngàn một trăm 18) tỉ Mỹ kim – thì sẽ đạt được một bước tiến bộ lớn lao trong việc đáp ứng đầy đủ với các thứ khổ đau của con người đang bị mất chỗ đứng (SIPRI Yearbook 2006: Armaments, Disarmaments, and International Security. Oxford University Press, 2006, pp. 259-386).
3. Các thứ ngân sách là một đòi hỏi cần thiết song chưa đủ. Cần phải có ý muốn chính trị trong việc thực hiện trách nhiệm bảo vệ toàn diện vấn đề theo đuổi việc n găn ngừa những thảm trạng bắt buộc phải di tản. Cần phải thay thế đường lối xung đột bằng đường lối đối thoại và tôn trọng nhân quyền. Những trại tị nạn, chính thức hay không chính thức, không còn là những địa điểm làm hoen ố bản đồ thế giới nữa. Trong khi chờ đợi thì công việc trong tầm tay đó là việc giải tán những trại tị nạn này bằng những chính sách cổ điển là vấn đề tự nguyện hồi hương, vấn đề hội nhập vào địa phương và vấn đề tái định cư.
Phái đoàn đại biểu này cảm thấy rằng đối với một số phức tạp hiện nay thì giải pháp tái định cư là những gì cần phải tái diễn. Nhiều quốc gia hơn nữa có thể đón nhận một số lớn tị nạn hơn là những người đang hăm hở bắt đầu một cuộc sống mới trong tự do và tự lực. Đó không phải chỉ là một thứ trách nhiệm về đạo đức mà còn là một sự thuận lợi thực tiễn, vì một số quốc gia phát triển đón nhận đang phải đối diện với tình trạng khan hiếm về nhân lực cho nền kinh tế của họ cũng như cho tình trạng dân số khả tồn.
Trong việc sửa soạn cho thành phần tị nạn được tái định cư, các tổ chức ngoài chính quyền cũng như thuộc tôn giáo có thể hợp tác và cung cấp sự trợ giúp theo khả năng của mình. Thật vậy, như là những gì bày tỏ của xã hội dân sự thì các tổ chức ngoài chính phủ cũng như thuộc tôn giáo này có thể trở thành những cộng tác viên tốt, nhờ việc họ gần gũi với thực tại diễn tiến, nhờ kinh nghiệm c ủa họ và nhờ khả năng của họ trong việc tạo nên luồng dư luận thuận lợi cho thành phần mới đến. Thế nhưng, việc hợp tác hữu hiệu này cũng cần phải chú trọng tới sự an ninh của cả nhân viên họ nữa, và nhất là ở các quốc gia chậm tiến nhất, chú trọng tới tổng chi phí của họ không thể tìm thấy nơi các nguồn lợi ở địa phương.
Thưa Ông Trưởng Ban,
4. Những khởi động được thực hiện để làm cho Cao Ủy Tị Nạn LHQ trở nên hiệu năng hơn và linh động hơn, ‘đường lối dính chùm’, việc tái tổ chức lại vấn đề ngân quĩ, tất cả đều đáng được ủng hộ, và chúng cho thấy việc dấn thân và cảm thức của cơ quan này đối với dung nhan của con người ở đằng sau tất cả mọi thứ thống kê. Chung xã hội cũng cần phải làm mới lại cảm quan trách nhiệm bảo vệ của mình.
Trước hết, việc giáo dục có thể truyền đạt những thứ giá trị của tình đoàn kết và lòng hiếu khách. Việc huấn luyện cho các viên chức thi hành luật pháp và biên phòng là những gì giúp họ có thể nhận ra thành phần tìm nơi nương trú. Những nghiệp đoàn lao động, thành phần chủ nhân, các học đường và những cộng đồng tôn giáo có thể sửa soạn cho các phần tử của mình để thường xuyên gặp gỡ càng ngày càng gia tăng với những người thiếu thốn, và tiếp nhận họ để xây dựng một tương laic hung. Nếu lấy con người và phẩm giá của họ làm chính yếu trong việc quan tâm của mình, thì trách nhiệm bảo vệ sẽ có được một khả năng sáng tạo trong việc đáp ứng một cách nhân đạo và công bằng trước những diễn tiến mới ngày nay.
Xin cám ơn Ông Trưởng Ban.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 16/10/2006
"Vẫn cần phải tìm được 150 tỉ nữa thì Những Mục Tiêu Phát Triển Ngàn Năm MDGs mới có thể thành đạt".
ĐTGM Celestino Migliore Đại Diện Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc Nữu Ước Hoa Kỳ với Hội Nghị ngày 10/10/2006 với đệ nhị tiểu ban của khóa họp thứ 61 của Tổng Hội Đồng LHQ về việc ‘theo dõi và áp dụng Thánh Quả của Hội Nghị Quốc Tế về vấn đề Tài Trợ Phát Triển”.
Thưa Bà Trưởng Ban,
Đại biểu tôi đây hoan nghênh việc bàn luận về chủ đề Tài Trợ Cho Việc Phát Triển này, nhất là về những đề nghị đặc biệt trong bản tường trình có mục đích mang lại thành quả nơi hoạt động áp dụng cụ thể.
Ngay từ đầu nó trùng hợp với việc nhấn mạnh đến vấn đề chiến đấu với tất cả mọi hình thức băng hoại cũng như đến tầm quan trọng ở chỗ có được một cơ cấu quản trị lành mạnh cũng như những tổ chức mạnh mẽ có thể vận động hóa phương sách cách hiệu nghiệm. Đồng thời cũng cần phải công nhận rằng công việc cải tiến những cấu trúc quản trị hiện hữu nơi các quốc gia đang phát triển cần phải trở thành một tiến trình từ từ phát triển.
Đại biểu tôi đây cũng đồng ý với quan điểm là các quốc gia đang phát triển có lợi tức thấp đương gặp phải những khó khăn lớn lao nhất trong việc vận động các nguồn lợi phát triển trong nước. Những xứ sở này bởi thế cần phải là những đối tượng cần phải đặc biệt chú trọng, nhất là từ khi việc trực tiếp đầu tư hải ngoại FDI (foreign direct investment) dường như không còn đáng kể nữa, chỉ vì nó không nhắm tới chỗ giải quyết những trục trặc của nạn nghèo khổ và của việc phát triển như thế, song nó giúp làm như vậy nếu hợp với những gì được qui định.
Những Giấy Tờ Về Chính Sách Giảm Nghèo PRSPs (Poverty Reduction Strategy Papers), được soạn thảo bởi các chính quyền thuộc quốc gia đang phát triển bằng những tiến trình dự phần, có một vai trò quan trọng trong tiến trình này, vì chúng có thể cung cấp một cơ cấu thích hợp cho việc ấn định những sách lược phát triển của quốc gia. Về vấn đề này thì mức tiến bộ phấn khởi của 70 quốc gia đang phát triển có lợi tức thấp trong việc hoàn tất 50 PRSPs vào tháng 6/2006 là những gì tự mình là một chứng từ cho thấy tầm quan trọng được những thứ giấy tờ về chính sách ấy đạt được đối với việc gia tăng các nguồn lợi quốc nội.
PRSPs cũng có thể cống hiến một mối liên hệ quan trọng trong việc đạt được các Mục Tiêu Phát Triển Ngàn Năm MDGs (Millennium Development Goals) nơi các quốc gia đang phát triển có lợi tức thấp, trong đó có nhiều quốc gia đang ở rất xa các mục tiêu cần phải đạt tới vào năm 2015. Trước vai trò quan trọng của PRSPs đối với vấn đề giảm nghèo, Tòa Thánh muốn phấn khích tất cả mọi cơ cấu trên thế giới đã quyết tâm thực hiện việc giảm nghèo ở các quốc gia bần cùng nhất trên thế giới hãy c hủ động tham gia vào tiến trình này và là thành phần thanh tra chặt chẽ, nếu được thì hằng năm, mức tiến bộ của mỗi một quốc gia này đối với MDGs được họ muốn nhắm tới.
Khó có thể ngờ vực được về tầm quan trọng của việc huy động các thứ tài trợ cho thế giới đang phát triển cùng với việc họ sử dụng hữu hiệu trong những thứ kỹ nghệ ấy, cho dù thực tại hợp với quyết tâm bao giờ cũng là những gì cần phải cải tiến . Công việc đối với những quốc gia về vấn đề này có thể là việc cổ võ những môi trường trong tầm tay của họ có thể làm dễ dàng hóa việc huy động các nguồn tài trợ cho vấn đề phát triển, chẳng những bằng việc làm dễ dàng hóa FDI mà còn nhờ những khởi động liên tục riêng của các nước này nữa.
Theo chiều hướng này, cũng đáng mãn nguyện thấy rằng bản tường trình ghi nhận là, như thành quả của những quyết tâm được bày tỏ ở Monterrey, tình trạng suy giảm ra sao nơi việc trợ giúp phát triển chính thức ODA (official development assistance) đã được lật ngược, một khuynh hướng tích cực đáng đón nhận và rất cần thiết, nếu các quốc gia phát triển cương quyết thực hiện các quyết tâm của mình. Tuy nhiên, vẫn cần phải tìm được 150 tỉ nữa thì MDGs mới có thể thành đạt.
Cũng hoan hỉ khi thấy được việc đồng thuận đang gia tăng nơi thành phần đóng góp cũng như các chính quyền thụ nhận đối với những hành động cần phải có để duy trì những thành quả phát triển tốt đẹp hơn. Tiến trình này hướng tới tính cách trách nhiệm hỗ tương hơn nữa về những thành quả phát triển đã đạt tới giây phút quan trọng từ Hội Nghị Monterrey, đặc biệt ở Diễn Đàn Cao Cấp ở Rôma về Việc Hòa Hợp Hóa và Diễn Đàn Cao Cấp ở Paris về Việc Liên Hợp Tiến Bộ Hướng Tới Vấn Đề Hiệu Năng Gia Tăng Trợ Cấp. Những nguyên tắc về quyền sở hữu, về việc hòa hợp hóa, về vấn đề liên kết, về những thành quả và trách nhiệm hỗ tương, đều cho thấy là những gì lành mạnh, và hy vọng là sẽ tiến bộ hơn nữa trên con đường hiệu năng về việc trợ cấp.
Nợ nần hải ngoại, một thứ nợ nần làm què quặt nhiều thứ kinh tế qua nhiều thập niên, cũng vẫn là một mối quan tâm, mặc dù có một vài khởi động hữu dụng đang được thực hiện đi sâu vào vấn đề ấy. Bản dự thảo của Khối G-8 hồi Tháng 7/2006 mà IMF, mà Hiệp Hội Phát Triển Quốc Tế, mà IDA (International Development Association) và Ngân Quĩ Phát Triển Phi Châu đã hủy bỏ 100% những nợ nần của mình đối với những quốc gia nghèo nhất, hầu hết ở Phi Châu, cũng là những gì đáng hoan nghênh ngoài những khởi động khác về vấn đề này.
Bởi thế, bản tường trình này đã họa lên một bức tranh tích cực chung chung về việc dấn thân trong lãnh vực này từ Hội Nghị Monterrey, thế nhưng, nếu MDGs cần phải được đạt tới vào năm 2015, thì tất cả mọi quốc gia phần tử cần phải tham gia và giải quyết những vấn đề về cơ cấu, nhất là những vấn đề liên quan tới những việc kiến tạo và bảo trì một hệ thống cân bằng về tiền tệ, tài trợ và mậu dịch công bằng, cởi mở và có khả năng hỗ trợ việc phát triển.
Xin cám ơn Bà Trưởng Ban
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 12/10/2006
Bài diễn văn của Tòa Thánh ở LHQ về việc giải giới vũ khí hạt nhân
Sau đây là bài diễn văn hôm Thứ Năm 5/10/2006 của ĐTGM Celestino Migliore, vị quan sát viên thường trực của Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc, ngỏ cùng ủy ban thứ nhất của Tổng Hội Đồng LHQ, được nhóm họp để tranh luận chung về các vấn đề nghị sự liên quan tới việc giải giới và nền an ninh quốc tế.
Chiến Tranh Không Có Hiệu Quả
Kính thưa bà chủ tịch,
Phái đoàn của chúng tôi xin gởi lời chúc mừng đến bà nhân dịp bà được tuyển bầu vào chức vụ này cùng với việc cam đoan sẽ nhiệt liệt ủng hộ bà và các đồng nghiệp trong cơ quan của bà.
Một mặt thì người ta cảm thấy nản lòng trong mùa hè 2006 này, bởi những cuộc xung đột, những hủy hoại và mất mát mạng sống. Cuộc Hội Thảo về Những Thứ Vũ Khí Nhỏ đã không mang lại hiệu quả gì cụ thể. Kho dự trữ các vũ khí hạt nhân với con số 27.000 vẫn còn ở mức báo động. Chi phí quân sự trên thế giới đã vượt qua một ngàn tỷ Mỹ kim hai năm liền.
Mặt khác lại có sự biến chuyển đang diễn ra trong lương tâm con người, khiến cho họ cảm thấy rằng chiến tranh là những gì vô hiệu. Lực lượng quân sự không mang lại thêm những lợi ích chung như được mong đợi. Những cuộc chiến mới đây đã buông thả những mãnh lực vẫn đang làm suy yếu đi các nền văn minh, và tình trạng đau khổ của nhân loại bởi đó mà ra là những gì bất khả bào chữa trong thời đại có đủ những cơ chế cho việc đàm phán, điều đình, hòa giải, và duy trì hòa bình.
Mặc dầu tình trạng ảm đạm hiện nay, nhưng cũng có những dấu hiệu tích cực có thể thấy được trong lãnh vực an ninh bao rộng hơn, như bản phúc trình của Ủy ban Vũ khí tiêu diệt hàng loạt đề cập đến. Những cuộc xung đột giữa các nước đang giảm bớt. Những nỗ lực duy trì an ninh đang ngăn cản việc bắn nhau ở nhiều nơi. Ủy ban Xây dựng hòa bình đã chuẩn bị để hỗ trợ các nước đang thoát khỏi cảnh chiến tranh, vì thế hạn chế nguy cơ trở lại tình trạng bạo lực.
Ủy ban này, trong phạm vi của nó, nên giúp cộng đồng quốc tế tìm ra những lợi ích trong một thế giới ngày càng liên thuộc nhau. Để đạt được mục tiêu trên cần phải thực hiện việc đối thoại, và cần phải thực hiện việc đối thoại tốt đẹp hơn nữa trong các cuộc diễn đàn ở Liên hiệp quốc về việc giải giới. Lý do là vì hiện nay, cuộc tranh cãi này xem vẫn còn bị tắt nghẽn. Các cuộc bàn cải về các thứ vũ khí nhỏ và những loại vũ khí hạt nhân quá nhiều lần chỉ được thực hiện bằng những ngôn từ trừu tượng theo những lập trường sẵn định, cho thấy ít có dấu chỉ muốn sẵn sàng học hỏi.
Nếu nhấn mạnh đến chiều kích nhân bản là nền tảng cho vấn đề các thứ vũ khí nhỏ, thì có thể đạt tới Hiệp Ước Buôn Bán Vũ Khí rất thiết yếu. Việc mỗi năm có đến 4 tỷ Mỹ kim vũ khí nhỏ được buôn bán là những gì chưa được thế giới thỏa thuận một cách toàn diện. Thay vào đó là những phần chắp vá bao gồm những thứ luật xuất khẩu của quốc gia, những thứ luật mà người mua bán vũ khí vô lương tâm có thể tránh né. 640 triệu trong những thứ vũ khí này đang lưu hành trên thế giới này đang giết hay hay gây thương tật cho hàng chục nghìn người, tạo ra những cuộc khủng hoảng tị nạn, làm suy yếu luật pháp, và khiến nảy sinh ra một thứ văn hóa bạo lực mà không bị trừng phạt.
Đó là khía cạnh nhân bản của cuộc tranh luận về các thứ vũ khí nhẹ cũng có một tầm mức ảnh hưởng sâu xa đến trẻ em. Chắc chắn việc chú trọng tới một số rất đông những ai bị khổ đau gây ra bởi việc lan tràn bất hợp pháp các thứ vũ khí nhỏ là những gì thúc bách chúng ta đạt tới Hiệp Ước Mậu Dịch về Vũ Khí.
Tòa Thánh muốn dùng cơ hội này để lại một lần nữa kêu gọi cộng đồng quốc tế hãy thành lập một cơ chế luật pháp bắt buộc với mục đích kiểm soát việc buôn bán tất cả các loại vũ khí thường, cũng như kiểm soát phương pháp và kỹ thuật sản xuất. Về khía cạnh này, phái đoàn chúng tôi ủng hộ bản thảo nghị quyết nhắm mục tiêu thành lập các tiêu chuẩn quốc tế chung trong việc nhập khẩu, xuất khẩu, và chuyển nhượng các vũ khí thường, đây là một bước tiến trong việc đạt được một cơ chế quy mô và ràng buộc cho cả thế giới về vấn đề ấy. Ngoài ra, chương trình Đăng ký vũ khí thường của LHQ là những gì cần phải được ủng hộ mạnh mẽ hơn. Có thêm sự minh bạch trong vấn đề vũ khí là điều thiết yếu, nếu chúng ta muốn tiến tới những biện pháp xây dựng niềm tin tưởng.
Cần phải đề xuất viêc đối thoại trong lĩnh vực vũ khí hạt nhân. Sự cấp thiết của việc này ngày càng gia tăng. Gần đây, ông tổng bí thư đã cho hay thế giới đã tiến tới một giao điểm trong vấn đề này. Một lối có thể sẽ đưa chúng ta đến tình trạng leo thang các loại vũ khí hạt nhân bị hạn chế cũng như đến chỗ quay qua sự tin tưởng nhau, đối thoại với nhau và thỏa thuận với nhau bằng việc đàm phán. Còn lối kia thì dẫn đến tình trạng thế giới ngày càng có các quốc gia cảm thấy rằng họ phải tự vệ bằng cách sở hữu những vũ khí hạt nhân, và đến chỗ gia tăng nguy cơ khủng bố bằng hạt nhân. Phái đoàn của chúng tôi đồng ý là cộng đồng quốc tế dường như chập choạng bước vào con đường thứ hai, không phải do sự lựa chọn tỉnh táo nhưng là do tính toán sai lầm, do việc bàn cãi bị tắc nghẽn, và tình trạng tê liệt trong các cơ chế đa phương trong việc xây dựng lòng tự tin tưởng và giải quyết vấn đề xung đột.
Đây là một cáo trạng mạnh mẽ kêu gọi tất cả các thành phần liên quan phải dấn thân cách rõ ràng để thực hiện Hiệp Uớc Không Gia Tăng Vũ Khí Hạt Nhân, để tạo điều kiện cho sự ràng buộc của Hiệp Uớc Cấm Toàn Diện Việc Thử nghiệm, để đàm phán về một Hiệp Ước Ngăn Chặn Chất Liệu Phân Ly Phản Ứng Nguyên Tử, để hợp pháp hóa Những Bảo Đảm Vấn Đề An Ninh ở Lãnh Vực Tiêu Cực, và để tránh khỏi tình trạng khá báo động về vũ khí hạt nhân. Những bước tiến rất quan trọng này là những gì sẽ làm giảm nguy cơ sử dụng, hạn chế trường hợp người khủng bố sở hửu các vũ khí tiêu diệt, và gia tăng sự ủng hộ đối với việc chống tăng nhanh vũ khí hạt nhân.
Tòa Thánh đã lên tiếng nhiều lần về đề tài này, kêu gọi các chính phủ sở hửu vũ khí hạt nhân, công khai hay bí mật, hay là những chính phủ đang có kế hoạch chế vũ khí hạt nhân, hãy thay đổi hướng đi bằng những quyết định rõ rệt và cứng rắn, và hướng tới việc giải giới vũ khí hạt nhân. Các chính sách ngăn cản vũ khí hạt nhân, thường thấy trong Chiến tranh lạnh, có thể và cần được thay thế bởi những biện pháp giải trừ vũ khí cụ thể dựa trên việc đối thoại và đàm phán đa phương.
Xin cám ơn bà Chủ tịch.
Rev Anthony Lê Ngọc Đức Phúc, SVD, theo tài liệu Anh ngữ được Zenit phổ biến ngày 6/10/2006
ĐTGM Celestino Migliore Đại Diện Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc Nữu Ước Hoa Kỳ với Hội Nghị ngày 12/10/2006 với đại hội của Tổng Hội Đồng LHQ về Vấn Đề Hợp Tác Mới cho Việc Phát Triển Phi Châu (NEPAD: New Partnership for Africa's Development)
Thưa Bà Chủ Tịch,
Từ khi được chấp thuận 5 năm trước đây, NEPAD đã trở thành một bản hướng dẫn cho các khởi động khác đã từng được áp dụng để làm trọn những hứa hẹn được thực hiện cho nhân dân Phi Châu.
NEPAD đã từng được hoan nghênh vì nó đã là một tiến trình do nhân dân Phi Châu làm chủ và nhân dân Phi Châu dẫn đầu, phản ảnh một nhãn quan chung của nhân dân Phi Châu và đồng quyết tâm nhổ tận gốc rễ nghèo khổ để đưa các quốc gia, chung cũng như riêng, vào con đường tăng trưởng và phát triển khả thủ. Những mục tiêu này cũng hợp với các quyết tâm của cộng đồng thế giới trong việc chiếm đạt các mục tiêu phát triển ngàn năm MDG - Millennium Development Goals, và nhất là làm giảm thiểu phân nửa tình trạng cực bần cùng vào năm 2015.
NEPAD cũng đáng kể là vì nó là một cấu trúc phát triển Phi Châu thích đáng đầu tiên trong việc đạt được mục tiêu ấy. Thật vậy, cái mãnh lực của việc khởi động này là khả năng của nó trong việc liên hợp thân hữu giữa các chính phủ Phi Châu với các nhân dân của họ cũng như với lãnh vực tư riêng và xã hội dân sự. Đó là lý do tại sao vai trò đại biểu tôi đây tin rằng rất cần phải có tí nh cách sáng tạo liên tục nơi lãnh vực này.
Cần phải có một chiều hướng mới vững chắc liên quan tới sáng kiến NEPAD này, đó là cần phải tạo nên những hình thức mới nơi tình đoàn kết ở cấp song phương và đa phương bằng một quyết tâm dứt khoát hơn nữa nơi phần của tất cả mọi phía, với một niềm hoàn toàn xác tín rằng tình trạng phúc hạnh của n hân dân Phi Châu là một điều kiện bất khả châm chước cho việc đạt tới công ích phổ quát.
Cần phải có một nền văn hóa chính trị mới trong việc đạt được mục tiêu ấy, nhất là trong lãnh vực hợp tác quốc tế. Cần phải khẩn trương giải quyết tất cả những gì là trì trệ trong việc tôn trọng các quyết tâm về Vấn Đề Trợ Giúp Phát Triển Chính Thức ODA - Official Development Assistance, vấn đề vẫn chưa được giải quyết liên quan tới nợ nần hải ngoại và việc lưỡng lự cống hiến cho các quốc gia trong cuộc mối quan tâm đặc biệt nơi các liên hệ về thương mại quốc tế.
Ngày nay, hơn bao giờ hết, điều kiện quyết liệt trong việc mang lại hòa bình cho thế giới đó là việc nhìn nhận tính cách liên thuộc giữa các quốc gia giầu thịnh và các quốc gia nghèo khổ, nhờ đó việc phát triển mới được hiểu như là một tác vụ chung đối với tất cả chúng ta; bằng không, nó sẽ trải qua một tiến trình suy thoái, cho dù một số nơi có dấu tiến bộ cho tới nay. Tòa Thánh vì thế cảm thấy hân hoan khi thấy được một số quan tâm này được vang vọng nơi bản tường trình đang ở trước mắt chún g ta đây.
Như là một phương tiện để giúp vào việc xây dựng mối hợp tác quốc tế và củng cố tình đoàn kết, vai trò đại biểu tôi đây một lần nữa kêu gọi các chính phủ hãy tôn trọng những lời hứa hẹn được tuyên bố liên quan tới vấn đề giảm nợ hay tha nợ cũng như làm hoàn thành lời hứa cống hiến .7% của tổng sản lượng quốc gia GNP cho ODA. Chính nhờ những loại chương trình này mà các chính phủ mới có thể bắt đầu tập trung vào việc cung cấp những ngân quĩ cho hạ tầng cần thiết và cho các chương trình phát triển kinh tế xã hội.
Các vấn đề hợp lý khác được nói tới trong bản tường trình của vị tổng thư ký là những gì liên quan tới nhu cầu tạo cơ hội giáo dục cho cả các em gái lẫn trai, cũng như những chương trình dạy chữ thiết yếu để đạt tới những mục tiêu phát triển.
Hơn nữa, Tòa Thánh còn nhận thấy tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường thiên nhiên như là phương tiện hành sử việc quản trị thiên nhiên của nhân loại và việc bảo đảm những nguồn phong phú của trái đất cho các thế hệ tương lai.
Thưa Bà Chủ Tịch, những phát triển hứa hẹn trong năm qua đã cho thấy rằng có một cái đà mới trong việc ủng hộ vấn đề phát triển Phi Châu. Chương trình hành động NEPAD bao gồm một loạt những thứ ưu tiên nhắm đến chỗ gây một ảnh hưởng khả thức trong việc phục hồi tình trạng ổn định và tăng trưởng ở Phi Châu.
Việc áp dụng hiệu nghiệm những thứ ưu tiên này nơi tình đồng hữu là yếu tố chính yếu để hiện thực những gì được nó hứa hẹn. Cơ hội được nó cung cấp cho cần phải được các vị lãnh đạo Phi Châu cũng như tất cả mội cộng tác viên phát triển của họ nắm bắt khi họ hoạt động để làm cho những hứa hẹn đó thành hành động.
Xin cám ơn Bà
Chủ Tịch.
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày
15/10/2006
Bản văn của Hội Đồng Công Lý và Hòa Bình của Tòa Thánh phổ biến hôm 10/10/2006 để ủng hộ bản dự quyết liên quan tới vấn đề kiểm soát việc nhập/xuất cảng và di chuyển các thứ vũ khí qui ước, trong thời gian hội họp lần 61 của Đệ Nhất Tiểu Ban về Vấn Đề Giải Giới và An Ninh Quốc Tế thuộc Tổng Hội Đồng LHQ
1. Từ khi thành lập Liên Hiệp Quốc, cộng đồng quốc tế này đã thực hiện một số bước tiến căn bản về pháp lý và chính trị để kiểm soát việc leo thang vũ khí nguyên tử, để cấm đoán các loại vũ khí đại cống phá khác, và để đặt giới hạn trên việc sử dụng các thứ vũ khí gây ra những ảnh hưởng chết chóc bất tương xứng. Tuy nhiên, đề tài về việc hoàn toàn giải giới chung, một đề tài từ năm này qua năm khác vẫn ở trong chương trình hành động của Tổng Hội Đồng, đã chưa đạt được mức tiến bộ chính yếu và tổng quát hóa.
2. Những thứ khí giới qui ước, bao gồm cả những loại khí giới nhẹ và những loại có nòng súng nhỏ, là một yếu tố của hết mọi cuộc xung đột trong lãnh vực quốc tế và dân sự, cũng như của hết mọi thứ sử dụng võ lực bất hợp pháp, và chúng tạo nên một trong những khí cụ thông dụng nhất cho những cuộc vi phạm tới các quyền lợi của con người và coi thường luật nhân đạo. Hệ thống quốc tế về việc kiểm soát việc bất leo thang các thứ vũ khí, nhất là những thứ đại công phá, đã từng là một trong những phương tiện chính yếu được vấn đề ngoại giao sử dụng để tránh đi những cuộc xung đột ở một tầm cỡ lớn, thế nhưng nó vẫn không giúp vào việc tránh đi được những cuộc xung đột theo vùng, và ở địa phương dù ít xẩy ra hơn.
Thật vậy, nhiều triệu nạn nhân trong các cuộc xung đột trên 60 năm qua đã gây nên bởi các loại vũ khí qui ước và đặc biệt là nhẹ này. Ngoài ra, sự thiếu vắng của những guồng máy thanh tra hiệu nghiệm về việc buôn bán vũ khí đã gây ảnh hưởng tiêu cực chẳng những cho tiến trình hòa bình, hòa giải và tái thiết hậu chiến, mà còn trên tình trạng bền vững của các cơ cấu cũng như trên vấn đề phát triển khả thủ nữa. Vấn đề bán hay di chuyển xả láng các loại vũ khí qui ước là một phần gắn liền với những vấn đề liên hệ tới nạn khủng bố quốc tế, tới việc thuyên chuyển bất hợp pháp các nguồn lợi quí hóa hay sách lược, cũng như tới những bộc lộ đê tiện nhất của tội ác có tổ chức như việc buôn người hay thuốc phiện.
3. Trước một thực tại như thế, Tòa Thánh phải công nhận là LHQ cùng với các cơ quan theo vùng và xã hội dân sự đã thực hiện nhiều khởi động để tránh cuộc thi đua võ trang, để cổ võ niềm tin tưởng nhau giữa các quốc gia bằng việc hợp tác, bằng việc trao đổi tín liệu và bằng việc minh bạch trong vấn đề chiếm hữu và mua bán các thứ vũ khí. Tuy nhiên, Tòa Thánh khuyến khích cộng đồng thế giới hãy lãnh nhận trách nhiệm của mình trong việc thiết lập một cơ cấu pháp lý thắt buộc nhắm tới chỗ qui định vấn đề buôn bán các thứ vũ khí qui ước bất cứ loại nào, cũng như kỹ thuật và kiến thức để sản xuất chúng.
Bởi thế, Tòa Thánh, với tư cách là quan sát viên ở Tổng Hội Đồng LHQ, muốn bày tỏ việc hoàn toàn ủng hộ dự án được phác họa bởi váv chính phủ Á Căn Đình, Úc Đại Lợi, Costa Rica, Phần Lan, Nhật Bản, Kenya và Hiệp Vương Quốc trong việc thiết lập một nhóm chuyên viên thuộc chính phủ, trong LHQ, để bàn thảo thương lượng về một dụng cụ bắt buộc về pháp lý đối với việc nhập cảng, xuất cảng và trao đổi các thứ vũ khí qui ước.
4. Không thể coi các thứ vũ khí như là bất cứ một thứ sản vật nào khác được trao đổi trên thị trường thế giới, trong vùng hay quốc gia. Việc chiếm hữu chúng, sản xuất chúng và buôn bán chúng có những ý nghĩa sâu xa về đạo lý và xã hội, và chúng cần phải được chỉnh lý bằng việc chú trọng xứng với các nguyên tắc đặc biệt theo trật tự về luân lý và pháp lý. Trong số các nguyên tắc ấy có nguyên tắc về sự thẩm quyền là nguyên tắc cho phép các quốc gia có thể chiếm hữu chỉ những phương tiện cần thiết để bảo đảm việc bảo vệ hợp pháp dân chúng của mình (Holy See, Pontifical Council for Justice and Peace, Compendium of the Social Doctrine of the Church, 508). Bởi thế, việc chấp thuận những phương tiện và những phương sách bó b uộc về pháp lý đối với vấn đề kiểm soát việc buôn bán các thứ vũ khí qui ước trên hoàn vũ, theo miền và quốc gia là những gì thiết yếu và khẩn trương (Pope John Paul II, Message for the World Day of the Peace 1999, No. 11).
Tòa Thánh tin tưởng rằng một công ước như thế có thể là một bước tiến quan trọng hướng tới một thứ văn hóa hòa bình chân thực, trong đó, các quốc gia, xã hội dân sự và kỹ nghệ quân sự hợp tác với nhau theo trách nhiệm và tình đoàn kết để hoạt động cho một thế giới an bình hơn và an ninh hơn . Theo quan điểm ấy, các phương tiện bắt buộc về pháp lý đối với những thứ vũ khí được buôn bán sẽ là một dấu hiệu cho thấy ý muốn chính trị quyết liệt muốn thực hiện hòa bình và công lý trên thế giới. Đó là một sứ vụ của LHQ và là niềm hy vọng của toàn thể gia đình nhân loại vậy.
ĐHY Renato Martino
Chủ Tịch Hội Đồng Tòa Thánh Về Công Lý và Hòa Bình
Giám Mục Giampaolo Crepaldi
Thư Ký.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 11/10/2006
ĐTGM Celestino Migliore Đại Diện Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc Nữu Ước Hoa Kỳ ngày 2/10/2006 tại khóa họp của Tổng Hội Đồng về ‘Bản Tường Trình của Vị Tổng Thư Ký về Hoạt Động của Tổ Chức LHQ’
Thưa Bà Chủ Tịch,
Khi chúng ta đang cứu xét tới bản tường trình của vị tổng thư ký về hoạt độn g của Tổ Chức này, vai trò đại biểu tôi đây xin gửi đến ông lời cám ơn cũng như đến nhân viên của ông, về việc làm của họ trong lãnh vực này cũng như về toàn bộ bản tường trình.
Như vẫn thường được nói tới, ‘canh tân’ không phải là một biến cố mà là một tiến trình, và năm nay là năm đánh dấu một cơ hội quan trọng để bảo đảm cho các tiến trình này được tiếp tục. Theo chiều hướng ấy, chúng tôi hoan nghênh những nỗ lực của vị tổng thư ký trong việc tiếp tục thúc đẩy vấn đề canh tân. Đặc biệt là việc thiết lập một thứ khả năng hỗ trợ trung gian trong Phân Bộ Chính Trị Vụ là một thí dụ cho thấy n hững thứ cơ cấu hiện hành cần phải được cải tiến một cách hiệu nghiệm ra sao trong việc giải quyết những nhu cầu hoàn vũ. Tuy nhiên, cho dù có đạt được tiến bộ, vẫn còn nhiều việc cần phải làm trong những lãnh vực khác nhau.
Chúng tôi có cùng những quan điểm của vị tổng thư ký về tầm quan trọng của việc ngăn ngừa xung khắc và trách nhiệm bảo vệ. Đồng thời chúng ta cũng muốn nhấn mạnh đến nhu cầu cần phải liên kết một cách hiển nhiên hơn nữa và hiệu nghiệm hơn nữa giữa lãnh vực an ninh và phát triển. Việc thiếu tiến bộ hiện nay trong những lãnh vực trợ giúp phát triển và canh tân vấn đề mậu dịch là những gì đe dọa đến nền an ninh và phúc hạnh của mọi người. Trái lại, việc hoàn trọn những mục tiêu phát triển ngàn năm MDGs [Millennium Development Goals] là những gì hứa hẹn cho việc tiến bộ về kinh tế, về việc giảm nghèo, về việc giảm khủng bố và về vấn đề gia tăng cuộc sống hòa hợp trong xã hội.
Ở những cuộc hội họp và hội nghị gần đây về vấn đề giải giới, vai trò đại biểu tôi đây đã tỏ ra hết sức quan tâm đến tình trạng khựng lại của các cuoôc thương thảo đa phương về vấn đề giải giới và thôi leo thang vũ khí nguyên tử. Toàn thể guồng máy LHQ cần phải nắm lấy cơ hội này để nhận thấy được những móc nối giữa vấn đề giải giới, phát triển và các mối quan tâm về nhân đạo, và dấn thân thực hiện các sách lược và chương trình giảm thiểu nhu cầu đòi hỏi các thứ vũ khí cũng như tình trạng bạo động võ trang.
Trong lãnh vực trợ giúp về nhân đạo, việc thiết lập Ngân Quĩ Đáp Ứng Khẩn Cấp Chính Yếu và canh tân lại guồng máy hợp tác liên hệ này là những thứ chỉnh đốn quan trọng đối với hệ thống trợ giúp về nhân đạo hiện nay. Vai trò đại biểu tôi đây mong thấy được những tiến triển của chúng. Trong việc điều hợp trợ giúp về nhân đạo, LHQ cần phải tiếp tục đóng vai trò dẫn đầu trong vấn đề cân bằng quyền tự lập của các tác nhân xã hội dân sự với nhu cầu cần phải cung cấp việc trợ giúp hiệu năng cho thành phần yếu kém nhất.
Vai trò đại biểu tôi đây xin đồng ý với bản tường trình là đã có nhiều tiến bộ nơi các lãnh vực ngăn ngừa, chữa trị và chăm sóc cho Hội Chứng Liện Kháng hay Vi Khuẩn Liệt Kháng. Tuy nhiên, trong khi nạn dịch này dường như bị kiềm chế ở một số quốc gia, thì nhiều quốc gia khác lại tỏ ra hầu như ba1â lực trong việc chặn đứng việc làn tràn chúng. Chúng ta cần phải làm hết sức để đối phó với vấn đề này bằng những khởi động tập trung hơn, chẳng hạn, bằng việc học biết từ hành động đặc biệt ở lãnh vực nợ nần hải ngoại với những quốc gia nghèo khổ nhất với chồng chất nợ nần (HIPCs - highly indebted poorest countries). Việc tập trung vào các nguồn tài chính, hậu cần và nhân bản là những gì sẽ giúp cho các quốc gia bị ảnh hưởng nhất bởi Hội Chứng Liệt Kháng hay Vi Khuẩn Liệt Kháng ấy có thể chấm dứt tai hoạ này và củng cố niềm hy vọng là nhân loại sẽ khăé phục được nạn dịch này trên khắp thế giới.
Thưa Bà Chủ Tịch, trong lúc cần hoạt động hơn nữa để bảo đảm rằng tất cả mọi quyết tâm của năm 2005 được nên trọn, cần phải hiểu rằng chiều rộng của những quyết tâm ấy đã được thực hiện rồi. Bản Văn Kiện Đúc Kết Thượng Nghị Thế Giới này đã là một văn kiện được thảo luận kỹ lưỡng và soạn thảo cẩn thận trong việc tìm cách cân bằng những quan điểm được mạnh mẻ chủ trương. Bởi thế, khi áp dụng văn kiện này chúng ta rất cần phải làm sao để bảo đảm được việc tồn tại của vấn đề tôn trọng sự cân bằng tế nhị ấy. Theo chiều hướng này, cần phải tái xác nhận rằng ‘việc bảo đảm cho vấn đề có thể hưởng được sức khỏe sản sinh vào năm 2015’, như được đề cập tới trong Đoạn 24, được các vị lãnh đạo của chúng ta thấy như là một phương tiện đạt mục tiêu giảm bớt tử vong cho người mẹ hơn là tự nó và bởi nó là chính mục tiêu.
Sau hết, chúng tôi hy vọng rằng khóa họp này của Tổng Hội Đồng sẽ tiếp tục tiến triển từ những quyết tâm sang hành động, và LHQ có thể tiếp tục tiến bộ trong việc biến mình thành một cơ cấu sẵn sàng chiến đấu với các thánh đố của thế kỷ 21.
Xin cám ơn Bà Chủ Tịch
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày
3/10/2006
ĐTGM Silvano Tomasi Đại Diện Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc Geneva Thụy Sĩ trong Khóa Họp Thứ Hai của Hội Đồng Nhân Quyền ngày 21/9/2006
Thưa Ông Chủ Tịch,
Cám ơn ông về thời gian được phân phối để bàn về những vấn đề nhân nhượng và tự do tôn giáo, những đề tài chắc chắn cần phải suy tư cẩn thận và kéo dài cho tới những năm tới đây. Hiện nay chỉ cần thấy rằng đâu có ngờ vực thì người dẫn giải hay nhất của một bản văn đó là chính tác giả của nó. Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã giải thích những gì ngài có ý muốn nói. Cũng tốt thôi khi chú ý tới lời lẽ này của ngài.
1. Hai mươi năm năm trước đây, cộng đồng thế giới đã đồng lòng chấp nhận Bản Tuyên Ngôn quan trọng về Việc Loại Trừ Tất Cả Mọi Hình Thức của Những Gì Là Bất Nhân Nhượng và Kỳ Thị về Tôn Giáo hay Niềm Tin [1]
2. Ngày nay, việc áp dụng bản tuyên ngôn này vẫn còn xa vời với mục tiêu của nó, một công việc đang trên đà tiến triển đòi phải hành động hòa hợp với nhau để cổ võ những tiêu chuẩn về quyền tự do tôn giáo được cộng đồng quốc tế nhìn nhận. Nơi một số quốc gia thì tình trạng bất dung nhượng và các hành động bạo lực nhắm tới đặc biệt thành phần dân chúng và cộng đồng thuộc những tôn giáo khác là những gì phạm đến quyền lợi của họ bằng những cách thức khác nhau.
3. Vai trò đại biểu của Tòa Thánh nhận thấy rằng những cấu trúc về pháp lý ở mọi nơi không dấn thân đủ trong việc bảo vệ thành phần thiểu số về tôn giáo và các phần tử của họ, ngay cả khi họ là thành phần công dân của các xứ sở trong cuộc nữa.
4. Ảnh hưởng nhanh chóng của vấn đề thông tin và các kỹ thuật truyền thông đang cống hiến một ý nghĩa mới cho ngôi làng hoàn vũ này, vượt cả ra ngoài những guồng máy về kinh tế của nó. Tính cách đa dạng của những ý nghĩ và văn hóa đang được xích lại gần nhau hơn và đang hòa trộn với nhau ngay cả ở những xó xỉnh trên thế giới, và những cuộc di chuyển rộng lớn của thành phần di dân là những gì làm cho các tư tưởng và văn hóa ấy trở thành hiện hữu và cụ thể trong cuộc sống thường nhật.
Cái xuất hiện ở đây đó là những gì có thể gây ra lo sợ và xung khắc, hay một giai đoạn mới của một thứ làm phong phú nhau và tôn trọng nhau là những gì tạo cơ hội chuyên chở những đóng góp của tất cả mọi người vào việc xây dựng một nền hòa bình chân chính hơn và bền vững hơn. Bởi thế càng khẩn trương hơn bất cứ một thứ luật lệ nào có khuynh hướng muốn áp đặt những lo sợ và xung khắc ấy, hơn là thái độ cởi mở và chấp nhận nhau, hơn là việc giáo dục lòng trí trong việc nhìn nhận và coi trọng mỗi một người như là một phần tử bình đẳng của gia đình nhân loại. Việc truyền thông đại chúng và các sách giáo khoa cần phải góp phần vào nỗ lực này chứ đừng làm bùng lên những cảm xúc theo các ý nghĩa mơ hồ hay sai lầm gây nên thái độ bất dung nhượng và khép kín lòng trí lại trước một tương lai vui tươi mừng rỡ.
5. Để xây dựng một tương lai như thế cần phải hiểu biết sâu xa hơn: 1) về vai trò nền tảng và việc đóng góp của tôn giáo nơi đời sống của cá nhân cũng như của các cộng đồng; 2) về những cái khác biệt giữa các tôn giáo để có thể thực hiện một cuộc đối thoại chân thành và hiệu quả; 3) về khoa địa chính trị vì những căn tính theo miền đất và tôn giáo không nhất thiết phải là những gì trùng hợp, và do đó nó là những gì cần phải được điểu chỉnh về quan niệm.
6. Tôn giáo và lý lẽ cho vấn đề dung nhượng tôn giáo là những gì được bắt nguồn từ con người, dù là người có tín ngưỡng hay chăng. Việc chú trọng vào các thứ ý hệ hơn là vào dân chúng và các cộng đồng tín hữu chất chứa nguy cơ biến những chủ trương tôn giáo thành tư lợi về chính trị.
Thưa Ông Chủ Tịch,
7. Để kết thúc, tôi muốn dùng những lời được Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI ngỏ cùng những vị đại diện thuộc các cộng đồng Hồi Giáo năm ngoái, đó là: ‘Những bài học trong quá khứ cần phải là những gì giúp chúng ta tránh đi việc tái vấp lại cùng những lầm lỗi. Chúng ta cần phải tím kiếm những đường lối hòa giải và biết sống tôn trọng các căn tính của nhau. Việc bênh vực quyền tự do tôn giáo, hiểu như thế, là một trách nhiệm vĩnh viễn vậy’ (bài nói trong chuyến Tông Du Đức Quốc 18-21/8/2005).
Xin cám ơn Ông Chủ Tịch
[1] Phẩm giá và sự bình đẳng tất cả mọi người được thừa hưởng, một nguyên tắc căn bản của Bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, được coi như bị vi phạm nặng nề khi quyền tự do tư tưởng, tự do sống theo lương tâm và tôn giáo được con người chủ trương và hành sử bị coi thường, một quyền tự do ‘theo cá nhân hay cộng đồng, và ở nơi chung hay riêng, muốn biểu lộ tôn giáo hay niềm tin tưởng tôn thờ, tuân giữ, thực hành và giảng dạy’ (Khoản 1.1).
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày
21/9/2006
Thưa Bà Chủ Tịch,
Mặc dù cả việc tiến bộ đạt được bởi các quốc gia chậm tiến nhất - least developed countries (LDCs), lẫn việc đồng bạn chính thức gia tăng trợ giúp phát triển - official development assistance (ODA) cho các quốc gia chậm tiến ấy đều là những gì hết sức đáng ca ngợi, song vẫn còn đồng ý là việc tăng trưởng mới đây vẫn còn là những gì hết sức yếu ớt, vì nó dựa trên hầu như hoàn toàn vào vấn đề xuất cảng những thứ nguyên liệu, nhất là dầu hỏa, và chưa mang lại tiến bộ tổng quan về việc giảm nghèo hay cải tiến phúc hạnh của con người.
Tòa Thánh liên kết với những ai cho thấy rằng việc cải tiến lãnh vực đại kinh tế tương đối và mong manh này là những gì không được làm sao lãng đi mối quan tâm nghiêm trọng tới các vấn đề cơ bản trầm trọng chưa được giải quyết, hay không được khiến cho chúng ta quên đi tính cách khẩn trương thê thảm của những vấn đề ấy.
Các dữ kiện kinh tế hiện nay cũng cần phải được chú trọng theo chiều hướng của các thực tại nghiêm trọng khác nữa, như chiến tranh – thứ chiến tranh ảnh hưởng tới một số khá nhiều các nước chậm phát triển nhất – tình trạng suy thoái và hoang tàn về môi sinh, tình trạng đói khổ liên lỉ và thiếu dinh dưỡng trẻ em, và những thạm nạn liên tục về Hội Chứng Liệt Kháng, bệnh sốt rét, bệnh lao phổi và nhiều chứng bệnh khác liên hệ tới tình trạng nghèo khổ.
Ngoài ra, cuộc chiến đấu không ngừng của vô số dân chúng ở những miền nghèo khổ hướng tới những miền đất phát triển hơn trên thế giới đã gây ra những trục trặc trầm trọng cho các quốc gia chậm tiến nhất, một khi thực tại về học vấn và khoảng cách thực sự gõ cửa các quốc gia giầu có. Thảm trạng này nhấn mạnh đến nhu cầu cần phải thực hiện một cuộc dấn thân thực sự toàn cầu để đạt được mau chóng những mục tiêu của Chương Trình Hành Động Brussels - Brussels Program of Action (BPoA), tái chú trọng tới những điều kiện sống xứng đáng và hoạt động sản xuất như là những yếu tố thiết yếu.
Bởi thế, cũng như trách nhiệm khẩn trương về luân lý trong việc đoàn kết về kinh tế đối với các quốc gia nghèo khổ, dựa trên mối hiệp nhất của nhân loại và phẩm vị bình đẳng giữ atất cả mọi người, chúng ta ngày nay đang phải đối diện với một công tác khẩn trương trong việc chữa trị một tình trạng mà, thiếu vắng những giải quyết hiệu nghiệm, công bằng và tôn trọng các quyền lợi của con người, sẽ vẫn tiếp tục gây ra thiệt hại bất khả chấp nơi các quốc gia chậm phát triển nhất và chắc chắn gây ra một tình trạng mãi mãi bất ổn nơi cơ cấu xã hội ở các quốc gia phát triển.
Việc kiến tạo nên một cách tổng quan công ăn việc làm xứng đáng là những gì quan trọng như hai cột trụ được trình bày trong BPoA, đó là phẩm chất căn bản của đời sống và những điều kiện tổng quan về chính trị cũng như lãnh vực đại kinh tế. Tất cả những yếu tố ấy là những gì bất khả phân ly và lệ thuộc vào nhau.
Công ăn việc làm sinh lợi chỉ có thể xẩy ra nếu dân chúng lành mạnh và được giáo dục. Cũng thế, việc chiếm đạt và bảo tồn một phẩm chất nào đó của đời sống là thành quả của một khả năng sản xuất của quốc gia có thể làm phát sinh những nguồn lợi cho phép xã hội và chính quyền đạt tới mục tiêu ấy. Khả năng sản xuất, về phần mình, bao giờ cũng bị chio phối bởi môi trường hòa bình, bởi việc quản trị tốt đẹp cũng như bởi những điều kiện đại kin h tế thuận lợi bề ngoài.
Sách Lược Cotonou hiển nhiên cho thấy các trách nhiệm của những nước chậm tiến nhất cùng với hành động cần có từ các thành viên phát triển khác. Các chính phủ của những quốc gia chậm tiến nhất cần phải bảo đảm rằng tất cả mọi chính sách cần phải lấy dân chúng làm chính, áp dụng các biện pháp nhở tận gốc rễ tình trạng băng hoại, bảo đảm tính cách tron g sáng và qui tắc luật lệ, và áp dụng các chính sách làm gia tăng khả năng sản xuất của quốc gia mình.
Việc chủ động tham dự của các đồng hữu quốc tế là những gì không thể thiếu. Điều này không được coi như là một cái gì đó bổ khuyết hay như một thứ nhượng bộ tùy nghi có thể trì hoãn trước những mối quan tâm khẩn trương của quốc gia. Nó là một trách nhiệm nặng nề và bất khả châm chước về luân lý, do bởi mối hiệp nhất của loài người, bởi phẩm giá chung và bởi cùng chung số phận giầu nghèo như nhau, những gì được tiến trình toàn cầu hóa lôi kéo lại gần nhau hơn bao giờ hết.
Những điều kiện buôn bán giao thương hiển nhiên thuận lợi cho các quốc gia chậm tiến nhất cần phải được bảo trì bao nhiêu có thể và cần phải tạo nên cho có những nơi chưa có. Trong số những điều kiện ấy là việc mở rộng những thị trường phát triển, cống hiến một thứ thị trường phi thuế má và phi lượng định cho 100 % các sản phẩm có thể xuất cảng từ các nước chậm phát triển nhất mà không đình trệ và loại trừ đi hơn nữa tất cả những thứ buôn bán giao thương làm méo mó các rào cản, trong đó có việc đánh thuế nhập khẩu hết cỡ và gia tăng mức thuế nhập khẩu, nâng cao những thứ trợ cấp và các phương pháp cùng việc làm bất lợi cho những thứ xuất cảng từ các quốc gia chậm phát triển nhất.
Cũng cần phải có những khoản bãi bỏ nhanh chóng, hoàn toàn và vô điều kiện nợ nần hải ngoại của các quốc gia chậm phát triển nhất cùng với phương tiện bảo đảm là các quốc gia ấy không rợi lại tình trạng nợ nần không thể trả. Các quốc gia phát triển cần phải nhắc nhở và áp dụng trách nhiệm của mình vào việc hoàn toàn tuân hợp với những quyết tâm liên quan tới vấn đề viện trợ hải ngoại.
Cấn phải thực hiện nhiều vào việc đầu tư các nguồn lợi trong việc nghiên cứu và phát triển thuốc men chữa trị Hội Chứng Liệt Kháng, sốt rét và lao phổi cùng các chứng bệnh nhiệt đới khác. Có thể nói rằng thách đố tiên khởi và trên hết về khoa học đối với các quốc gia phát triển đó là việc khám phá ra một loại chủng ngừa chống lại bệnh sốt rét. Cũng cần thiết như vậy việc chuyển kỹ thuật về y học và dược học cùng với kiến thức chuyên môn về việc chăm sóc sức khỏe mà không kèm theo những điều kiện về luật pháp hay kinh tế. Đó mới chỉ là một số thách đố đối với tất cả mọi phần tử thuộc cộng đồng quốc tế.
Các vị đại diện của cuộc họp giữa các nước chậm phát triển nhất ở Cotonou có lý nhận thức rằng việc thành thực của các viên chức chính quyền, tính cách sống động của các cơ cấu dân chủ và qui tắc lề luật là những yếu tố thiết yếu để phát triển những chính sách lấy con người làm chính và xây dựng khả năng của con người. Về khía cạnh này, cộng đồng quốc tế cần phải tiếp tục hoạt động để giảm bớt thật nhiều việc buôn bán các thứ vũ khí qui ước hợp lệ và bất hợp lệ, việc buôn bán bất hợp lệ những thứ chất liệu quí hóa và việc thất thoát vốn liếng. Công dân của các quốc gia phát triển làm băng hoại các viên chức của các nước nghèo hay dính dáng tới những việc chuyển ngân tiền bạc cần phải được trừng phạt như thể họ đã phạm những tội ác này tại nguyên quán của họ vậy.
Như đã quá biết, Giáo Hội Công Giáo đã thực hiện nhiều khởi động trong thập niên qua để làm cho các phần tử của mình cũng như tất cả mọi người thiện chí ý thức hơn trách nhiệm chung liên quan tới các vấn đề xuất phát từ việc giao thương buôn bán và tiền bạc quốc tế.
Ngày nay, nhiều phần tử của Giáo Hội, từ các quốc gia giầu đến quốc gia nghèo như nhau, liên kết nhiều lãnh vực rộng lớn của các tổ chức, đang dấn thân nâng đỡ các quốc gia nghèo khổ nhất. Cũng thế, nhừ một hệ thống bao gồm những trung tâm huấn luyện và chăm sóc sức khỏe, chúng tôi đã góp phần chủ động ủng hộ tất cả một cấp độ nỗ lực của các quốc gia nghèo khổ nhất.
Điều này đang xẩy ra ở việc giáo dục các cấp, lãnh vực mà các nhà lãnh đạo tương lai học biết các trách nhiệm xứng hợp của mình. Cũng đang xẩy ra nơi lãnh vực chăm sóc sức khỏe rộng lớn, từ trận chiến đấu chống lại tình trạng trẻ em thiếu dinh dưỡng đến việc chăm sóc người già và thành phần bệnh nhân bất trị. Nơi lãnh vực ấy, các tổ chức của chúng tôi đang thực hiện nhiều đóng góp dồi dào và quan trọng trong việc chiến đấu với Hội Chứng Liệt Kháng, bệnh sốt rét và lao phổi.
Tòa Thánh tiếp tục khuyến khích cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các quốc gia có lợi tức tiến triển và trung bình hãy nâng đỡ việc áp dụng BPoA, và kêu gọi một cuộc gia tăng tình đoàn kết. Thế giới cần đến việc gia tăng tình đoàn kết đối với các quốc gia nghèo khổ nhất. Việc chấp nhận những biện pháp được đề ra ở Sách Lược Cotonou có thể trở thành đắt giá đối với các quốc gia phát triển cũng như với thành phần công dân của các nước này, thế nhưng họ sẽ it1 bị gánh nặng về xã hội hơn trong cùng một quốc gia ấy trong một thời hạn trung bình nếu các vấn đề trục trặc không được giải quyết cho các quốc gia chậm phát triển nhất.
Hai mươi năm trước đây, ý kiến quần chúng cảm thấy cảm kích trước những kẻ sẵn sàng liều mạng leo qua hàng rào từng giữ họ làm tù nhân cho các chế độ độc tài. Ngày nay, nhiều triệu người đang liều mạng để thoát khỏi cái độc tài của nạn nghèo khổ. Những hàng rào cản sẽ không thể nào ngăn chặn được họ.
Vì sự thiện của họ cũng như vì tình trạng thịnh vượng của tất cả chúng ta, các nước tân tiến và các quốc gia chậm phát triển nhất đều phải áp dụng những chính sách hiệu năng như những chính sách được thấy nơi BPoA, nhờ đó thành phần công dân của các quốc gia chậm phát triển nhất sẽ được tự do chọn lựa ở lại quốc gia của mình, nơi họ có thể đạt được cho bản thân họ, gia đình họ và quê hương họ, công ăn việc làm và những điều kiện sống thực sự được gọi là xứng đáng.
Xin cám ơn Bà Chủ Tịch
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến
ngày 19/9/2006
Đức Ông Pietro Parolin Đại Diện Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc ở Vienna ngày 18/9/2006 với Tổng Hội Nghị lần 50 của Cơ Quan Năng Lực Nguyên Tử Quốc Tế International Atomic Energy Agency (IAEA).
…
Thưa Ông Chủ Tịch, quí tôn vị đại biểu, quí vị nữ nam,
Trong năm mừng kỷ niệm này, cơ quan đây có thể hài lòng nhìn lại những gì đã đạt tới từ khi được thành lập theo 3 chiều hướng thuộc sứ vụ của nó, đó là vấn đề kỹ thuật, an toàn và kiểm chứng. Nhiều thách đố vẫn còn phải đối đầu trong tương lai. Một trong những thách đố đó là mối quan tâm chính của Tòa Thánh, đặc biệt về việc bất tuân hợp với Hiệp Định Thôi Leo Tháng Nguyên Tử - Nuclear Nonproliferation Treaty (NPT) cùng với những việc bảo toàn cho các bó buộc của bản hiệp định này.
Tòa Thánh coi NPT như là nền tảng cho chính sách thôi leo thang nguyên tử toàn cầu, như là căn bản để theo đuổi việc giải giới và là một yếu tố quan trọng để phát triển hơn nữa việc áp dụng nguyên tử lực vào các mục đích hòa bình. Vì NPT là dụng cụ đa phương duy nhất đang có trong tay, nhắm đến một thế giới phi vũ khí nguyên tử mà chúng ta khôn g được để cho nó bị suy yếu đi. Nhân loại cần đến việc trọn vẹn hợp tác của tất cả mọi quốc gia trong vấn đề quan trọng ấy.
Về vấn đề này, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã viết trong Sứ Điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới 2006 như sau: ‘Cũng có thể nói gì nữa về những chính quyền cậy dựa vào các thứ vũ khí nguyên tử như là phương tiện bảo đảm an ninh cho quê hương của họ? Cùng với vô vàn những người thiện chí, người ta có thể nói rằng quan điểm này chẳng những là những gì độc hại mà còn hoàn toàn sai lầm nữa. Trong cuộc chiến tranh nguyên tử sẽ không có kẻ chiến thắng mà chỉ có nạn nhân mà thôi. Chân lý về hòa bình cần tất cả mọi người – dù là những chí nh quyền đang công khai hay ngấm ngầm chiếm hữu các thứ vũ khí nguyên tử, hay những chính phủ đang dự tính chiếm hữu chúng – đồng lòng thay đổi cục diện của mình bằng những quyết định mạnh mẽ và minh bạch, và nỗ lực thực hiện một cuộc giải giới nguyên tử một cách tiến triển và hòa hợp’.
Những Bản Thỏa Ước Bảo Toàn toàn diện cùng với Những Nghị Định Thêm Thắt của cơ quan này là yếu tố thiết yếu của chính sách thôi gia tăng nguyên tử toàn cầu đang cung cấp những gì là bảo đảm chắc chắn cho việc tránh làm lệch đi việc sử dụng những thứ chất liệu nguyên tử cũng như việc âm thầm thực hiện những hoạt động nguyên tử bất chính thức. Tòa Thánh ủng hộ tất cả mọi nỗ lực trong việc củng cố hiệu năng và hiệu quả của đường lối bảo toàn của IAEA, và kêu gọi tất cả các quốc gia hãy sử dụng những phương tiện ấy để củng cố hệ thống bảo toàn nguyên tử. Việc toàn cầu hóa Các Nghị Định Thêm Thắt này sẽ là những gì củng cố c ho chính sách thôi leo thang và giải giới nguyên tử toàn cầu, cùng gia tăng niềm tin tưởng vào những việc sử dụng năng lực nguyên tử cho mục đích hòa bình.
Bản Hiệp Định Hủy Bỏ Toàn Diện Việc Thử Nguyên Tử - The Comprehensive Nuclear Test Ban Treaty (CTBT) là yếu tố chính yếu cho nền an ninh toàn cầu, một nền an ninh không dựa vào các thứ vũ khí nguyên tử và cho thấy một niềm hy vọng đẹp nhất đối với việc ngăn chặn việc leo thang nguyên tử. Treong năm kỷ niệm 10 năm bắt đầu ký kết bản hiệp định này, Tòa Thánh tái khẳng định việc ủng hộ của mình với bản hiệp định ấy, một bản hiệp định như là một phương tiện chính yếu trong lãnh vực giải giới và thôi leo thang nguyên tử. Tòa Thánh xin liên kết với các quốc gia khác trong việc kêu gọi tất cả các quốc gia chưa thực hiện việc ấy hãy ký kết và chấp nhận bản hiệp định này ngay, nhất là những quốc gia cần phải phê chuẩn để nó trở thành công hiệu.
Về Nghị Định Thư Các Số Lượng Nhỏ - Small Quantities Protocol (SQP), vai trò đại biểu tôi đây hân hoan thông báo cùng Tổng Hội Đồng rằng Tòa Thánh mới đây đã kết thúc việc trao đổi thư từ với vị tổng giám đốc về việc cống hiến hiệu năng cho bản văn được tiêu chuẩn hóa cùng với các qui chuẩn được điểu chỉnh lại.
Tuy nhiên, việc sử dụng năng lực nguyên tử vào các mục tiêu hòa bình cũng cần đến nhiều nỗ lực nơi các quốc gia để nắm vững được việc bảo vệ cho công dân của mình cùng môi sinh, cũng như để giải tỏa những âu lo hợp lý về tương lai của trái đất này. Năm nay chún g ta tưởng nhớ đến tai biến Chernobyl 20 năm. Việc tưởng niệm tại họa kinh hoàng ấy cùng với những hậu quả đau thương mà nhiều người phải chịu, nhất là trẻ em vào hôm ấy, là m ột tiếng chuông cảnh báo cho cộng đồng quốc tế trong việc đề cao cảnh giác về sự an toàn nơi các cơ sở nguyên tử trên khắp thế giới.
Thưa Ông Chủ Tịch,
Việc giải giới là bước tiến trên con đường dẫn tới hòa bình, và ngày nay, hơn bao giờ hết, hòa bình là sự thiện tối hậu của các dân nước và là niềm khát vọng cao cả nhất của toàn thể nhân loại; niềm khát vọng mà bất hạnh thay đã bị đe dọa bởi chiến tranh cùng khủng bố, và đã trở nên trống rỗng nơi nhiều phần đất trên thế giới.
Đối với Trung Đông, Tòa Thánh cũng cảm thấy quan tâm tới tình hình bất ổn đang gia tăng. Hy vọng là tất cả mọi quốc gia ở miền này cùng với cộng đồng quố ctế khởi xướng lên một cuộc đối thoại nghiêm chỉnh để tạo nên một miền Trung Đông phi các thứ vũ khí đại công phá và những loại vũ khí nguyên tử. Ngoài ta, việc đúc kết của tất cả mọi quốc gia trong vùng này về Bản Thỏa Ước và Các Nghị Định Bảo Toàn Toàn Diện sẽ là những gì đóng góp lớn lao vào nền an ninh cho toàn vùng.
Về những tiến triển mới đây trong các cuộc thương thảo quốc tế đối với chương trình nguyên tử của Iran, vai trò đại biểu tôi đây xin lập lại là Tòa Thánh mạnh mẽ tin tưởng rằng những khó khăn hiện tại có thể và cần phải thắng vượt bằng những đường lối ngoại giao, sử dụng tất cả mọi phương tiện có được về vấn đề ngoại giao và nếu cần thì loại trừ đi tất cả những yếu tố khách quan gây trở ngại cho niềm tin tưởng nhau.
Chương Trình Hợp Tác Về Kỹ Thuật của IEAE là một trong những phương tiện hiệu nghiệm nhất cho mục đích phát triển nguyên tử an bình. Việc áp dụng các thứ kỹ thuật nguyên tử và việc lợi dụng các chất đồng vị đặc biệt nơi các lãnh vực canh nông, thủy học, an ninh thực phẩm và thuốc men đều là những gì nhắm đến chổ cải tiến các điều kiện sống của nhiều người và đã góp phần rất nhiều cho việc chiếm đạt mục tiêu ấy.
Tòa Thánh cảm nhận được những nỗ lực và những chiếm đạt của IEAE trong lãnh vực hợp tác về kỹ thuật và khuyến khích cơ quan này hãy tiếp tục và củng cố những hoạt động ấy một cách đặc biệt, ở chỗ cổ võ cho trẻ em có được một sức khỏe tốt đẹp hơn, chiến đấu với tình trạng thiếu dinh dưỡng, điều trị bệnh ung thư và khoa ung thư phóng xạ được thi hành bởi Chương Trình Hoạt Động Cho Vấn Đề Trị Liệy Ung Thư - Program of Action for Cancer Therapy (PACT), và việc nghiên cứu những lợi ích trong vấn đề sử dụng các kỹ thuật nguyên tử để cải tiến dinh dưỡng, sức khỏa và phúc hạnh của thành phần bị nhiễm khuẩn liệt kháng HIV.
Tòa Thánh cũng quan tâm tới một lãnh vực khác là vấn đề nước uống an toàn, vì nhu cầu căn bản này không có sẵn cho hơn một phần sáu dân số trên thế giới. Không được coi thường tính cách khẩn trương của việc giải quyết cho nhu cầu trên khắp thế giới này, vì nó là một điều kiện tiên khởi cho bất cứ một thứ phát triển khả thủ nào.
Thưa Ông Chủ Tịch, để kết luận, tôi xin gửi lời chúc tốt đẹp nhất c ho tương lai của IAEA là cơ quan được Tòa Thánh được hân hạnh là một phần tử hình thành nó: Chớ gì cơ quan này giành tất cả mọi nỗ lực của mình vào việc hiện thực nhãn quan ‘Nguyên Tử cho Hòa Bình’ để bảo đảm an ninh cho toàn thể gia đình nhân loại.
Cám ơn Ông Chủ Tịch
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến
ngày 5/10/2006
Bài diễn văn của Tòa Thánh tại cơ quan nguyên tử năng LHQ
Sau đây là bài diễn văn hôm Thứ Năm 18/9/2006 của Đức Ông Pietro Parolin, vị đại diện của Tòa Thánh, ngỏ cùng Tổng Nghị của Cơ Quan Nguyên Tử Năng, được nhóm họp ở Vienna Áo quốc hôm 18/9/2006.
“Không được làm suy yếu” Hiệp Ước Gia Tăng Vũ Khí Hạt Nhân
Kính thưa ông Chủ tịch,
Tôi rất hân hạnh được gởi đến ông Chủ tịch, ông tổng giám đốc của Cơ quan nguyên tử năng quốc tế (IAEA), tiến sĩ Elbaradei, và tất cả các đại biểu đang tham dự cuộc Hội thảo lần thứ 50 của IAEA lời chúc tốt đẹp và chào hỏi thân thiết của Đức Thánh Cha Benedictô XVI.
Kính thưa ông Chủ tịch,
50 năm trôi qua từ ngày Cơ quan năng lương nguyên tử quốc tế (IAEA) được thành lập, cơ quan này vẫn là điểm tựa không thể thiếu được cho sự hợp tác quốc tế đối với vấn đề mục đích sử dụng và phát triển năng lượng hạt nhân. Tòa Thánh hân hoan chào đón các nước Malawi, Montenegro, Mozambique, và Palau đã trở thành các thành viên mới trong gia đình IAEA.
Giải Nobel Hòa Bình năm ngoái được trao cho cơ quan và các vị chỉ huy, tượng trưng cho việc nhìn nhận rất xứng đáng đối với sự đóng góp của IAEA trong tất cả các hoạt động của cơ quan. Công sức của IAEA đối với cộng đồng quốc tế trong việc đẩy mạnh nỗ lực không gia tăng vũ khí hạt nhân và đóng góp vào quá trình giải giới vũ khí hạt nhân là những gì hết sức đáng được tuyên dương.
Kính thưa ông Chủ tịch, các đại biểu, và tất cả các quý vị,
Trong năm mừng kỷ niệm này, cơ quan có thể nhìn lại và hài lòng với những gì đã thực hiện từ khi được thành lập theo sứ mệnh bao gồm ba lãnh vực chính yếu là kỹ thuật, sự an toàn, và việc chứng thực. Tuy nhiên vẫn còn nhiều thách đố cần phải đối phó trong tương lai. Trong đó có vấn đề mà Tòa Thánh rất quan tâm, là việc không tuân theo Hiệp ước không gia tăng vũ khí hạt nhân (Nuclear Nonproliferation Treaty – NPT), cũng như các điều ràng buộc về những thứ bảo toàn trong hiệp ước.
Tòa Thánh cho rằng NPT là viên đá góc tường của chính sách không gia tăng vũ khí hạt nhân trên toàn thế giới, là nền tảng để theo đuổi việc giải giới các loại vũ khí hạt nhân, và là yếu tố quan trọng đối với sự phát triển năng lượng hạt nhân cho các mục đích hòa bình. Vì NPT là dụng cụ đa phương duy nhất có được, với chí hướng là mang lại một thế giới không có vũ khí hạt nhân, chúng ta không thể để cho nó bị suy yếu đi. Nhân loại rất đáng được tất cả các quốc gia hết sức hợp tác trong vấn đề quan trọng này.
Về khía cạnh ấy, Đức Thánh Cha Benedicto XVI đã trình bày trong Thông điệp vào Ngày hòa bình thế giới 2006: “Có thể nói gì về các quốc gia lệ thuộc vào vũ khí hạt nhân để bảo đảm sự an toàn cho chính mình? Cùng với vô số người thiện chí, chúng ta có thể khẳng định rằng quan điểm này không chỉ tai hại mà còn hoàn toàn lệch lạc. Trong chiến tranh hạt nhân không có người chiến thắng, chỉ có các nạn nhân. Sự thật về hòa bình đòi hỏi tất cả - cho dù đó là các chính phủ có sở hữu vũ khí hạt nhân cách công khai hay bí mật, hoặc những thành phần đang có kế hoạch sở hữu – phải đồng ý thay đổi hướng đi một cách rõ rệt và kiên quyết, cùng với nỗ lực thực hiện việc gia tăng và điều hợp vấn đề giải giới các vũ khí hạt nhân”.
Những Hiệp Định về Những Thứ Bảo Toàn toàn diện và những Nghị Định Phụ Thêm của cơ quan này là một yếu tố thiết yếu của chính sách không gia tăng nguyên tử trên toàn thế giới, khi cung cấp những gì bảo đảm khả tín trong việc không làm trệch đi các nguyên liệu hạt nhân cũng như trong việc thiếu báo cáo về các hoạt động hạt nhân. Tòa Thánh ủng hộ tất cả các nỗ lực nhằm tăng hiệu quả và hiệu lực nơi hệ thống bảo vệ của IAEA, và kêu gọi tất cả các quốc gia hãy thực hiện những phương tiện ấy để củng cố hệ thống bảo toàn hạt nhân. Tính cách phổ quát hóa các Nghị Định Phụ Thêm ấy chắc chắn sẽ là những gì củng cố chính sách không gia tăng vũ khí nguyên tử và việc giải giới, cũng như gia tăng niềm tin tưởng vào việc sử dụng nguyên tử lực một cách an lành.
Hiệp Ước Cấm Thử Nghiệm Hạt Nhân quy mô (CTBT) là một thứ yếu tố mang lại nền an ninh cho thế giới không cậy dựa vào các thứ vũ khí hạt nhân, và cho thấy niềm hy vọng lớn nhất trong việc hạn chế vấn đề gia tăng vũ khí hạt nhân. Trong dịp kỷ niệm 10 năm bản hiệp ước bắt đầu được ký kết này, Tòa Thánh tái khẳng định sự ủng hộ của Tòa Thánh đối với hiệp ước như là một dụng cụ quan trọng trong lĩnh vực giải giới và không tăng nhanh vũ khí hạt nhân. Tòa Thành liên kết với các quốc gia khác để kêu gọi tất cả mọi quốc gia chưa ký kết vào bản hiệp ước thì nên làm ngay việc này, đặc biệt là các quốc gia cần có sự ưng chuẩn của họ để bản hiệp ước có hiệu lực.
Về Nghị Định Các Thứ Tiểu Lượng (Small Quantities Protocol – SQP), phái đoàn của chúng tôi hân hoan thông báo cùng Tổng Nghị rằng Tòa Thánh gần đây đã đúc kết việc trao đổi các lá thư với vị tổng giám đốc để mang lại tác dụng cho bản văn được tiêu chuẩn hóa và các tiêu chuẩn được điều chỉnh lại.
Tuy nhiên, việc sử dụng năng lượng hạt nhân cách an bình vẫn cần đến nhiều nỗ lực nơi các quốc gia để bảo đảm rằng người dân nước họ và môi trường được bảo vệ một cách có hiệu quả, cũng như để đáp ứng các quan ngại chính đáng về tương lại của hành tinh chúng ta. Năm nay chúng ta kỷ niệm 20 năm biến cố xẩy ra ở Chernobyl. Việc hồi tưởng về thảm họa ghê gớm đó và hệ quả đau khổ mà nhiều người, đặc biệt trẻ em, phải trải qua cho tới ngày hôm nay, là một hồi chuông báo động cho cộng đồng quốc tể phải nâng cao sự an toàn trong tất cả các nhà máy hạt nhân trên khắp thế giới.
Kính thưa ông Chủ tịch,
Việc giải giới là bước tiến trên con đường hòa bình, và ngày nay, hơn bao giờ hết, hòa bình là sự thiện tối hậu của các dân tộc và là hoài bảo lớn nhất của nhân loại; đây là hoài bảo mà rất tiếc chiến tranh và nạn khủng bố đã đe dọa và làm cho nhiều nơi trên thế giới bị hụt hẫng.
Liên quan đến vùng Trung Đông, Tòa Thánh chia sẻ mối quan ngại về sự thiếu an ninh ngày càng gia tăng. Vấn đề được ước mong đó là tất cả các quốc gia trong vùng và trong cộng đồng quốc tế hãy khởi xướng lên một cuộc đối thoại nghiêm túc để đưa đến một vùng Trung Đông không có các thứ vũ khí tiêu diệt hàng loạt và các loại vũ khí hạt nhân. Ngoài ra, sự tham gia của tất cả các quốc gia trong vùng vào Thỏa Ước và Nghị Định Bảo Toàn Quy Mô sẽ là sự đóng góp lớn lao mang lại an ninh cho cả vùng.
Liên quan tới những diễn tiến gần đây trong các cuộc thương thảo quốc tế về chương trình hạt nhân của Iran, phái đoàn đại biểu tôi xin lập lại rằng Tòa Thánh mạnh mẽ xác tín rằng những khó khăn hiện nay có thể và cần phải được thắng vượt bằng những đường lối ngoại giao, bằng cách sử dụng tất cả mọi phương tiện ngoại giao có thể và cho rằng cần thiết để loại trừ tất cả mọi yếu tố khách quan ngăn trở lòng tin tưởng nhau.
Chương Trình Hợp Tác Về Kỹ Thuật của IAEA là một trong những phương tiện có hiệu lực nhất đối với mục đích phát triển hạt nhân một cách an bình. Việc áp dụng kỹ thuật hạt nhân và cách sử dụng các chất đồng vị đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, thủy học, an ninh thực phẩm, và y học là hướng đến việc gia tăng mức sống của nhiều người và đã đóng góp đáng kể vào việc đạt đến mục tiêu này.
Tòa Thánh cảm kích các nỗ lực và thành tích của IAEA trong lĩnh vực hợp tác kỹ thuật, và khuyến khích cơ quan tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động, đặc biệt: gia tăng sức khỏe trẻ em, chống nạn thiếu dinh dưỡng, kiểm soát ung thư và chữa ung thư bằng bức xạ được thực hiện bởi Chương Trình Hành Động Trị Liệu Ung Thư của cơ quan này, và việc nghiên cứu về những lợi ích trong vấn đề dùng kỹ thuật hạt nhân để gia tăng dinh dưỡng, sức khỏe, và đời sống của người bị nhiễm khuẩn liệt kháng HIV.
Vấn đề có được nước uống an toàn là một lĩnh vực quan tâm của Tòa Thánh, bởi vì hơn 1/6 dân số thế giới không có được nhu cầu căn bản này. Một giải pháp cấp thiết đáp ứng đòi hỏi của toàn thế giới không nên được coi thường, bởi đây là điều kiện trước hết đối với sự phát triển lâu dài.
Cuối cùng, kính thưa ông Chủ tịch, chúng tôi muốn bày tỏ những ước muốn tốt đẹp nhất cho tương lai của IAEA, mà Tòa Thánh hân hạnh là một trong những thành viên sáng lập. Mong rằng cơ quan sẽ đầu tư tất cả sức lực của mình vào việc thực hiện viễn tượng “Nguyên tử cho hòa bình” vì sự an ninh của toàn gia đình nhân loại.
Xin cám ơn ông Chủ tịch.
Rev Anthony Lê Ngọc Đức Phúc, SVD, theo tài liệu Anh ngữ được Zenit phổ biến ngày 6/10/2006
Thưa Ông Chủ Tịch,
1. Mục đích của việc phát triển quân bình thường được thực hiện bởi Hội Đồng Kinh Tế và Xã Hội ECOSOC (Economic and Social Council) đã tiến đến một khúc quanh mới mẻ và hợp thời trong khóa họp này. ECOSOC chú trọng tới một đề tài vừa hợp thời vừa có kế hoạch, ở chỗ ‘tạo nên một môi trường thuộc các cấp quốc gia và quốc tế, dẫn đến chỗ làm phát sinh ra đầy đủ công ăn việc làm dồi dào và công việc làm xứng đáng với tất cả mọi người, cùng với ảnh hưởng của nó trên việc phát triển khả thủ’.
Đại Biểu của Tòa Thánh tôi hoàn toàn tán thành chương trình hoạt động này, một chương trình nhấn mạnh tới vị thế chính yếu của con người, tới giá trị của việc con người làm, và cho thấy đường lối để thắng vượt tình trạng nghèo khổ kinh niên và sống bên lề xã hội. Thật vậy, việc làm xứng đáng là những gì bao gồm phẩm chất của đời sống vượt lên trên cả vấn đề sản xuất nữa: nó là một khía cạnh về chính bản thân con người, thành phần cống hiến cho việc làm giá trị cao cả nhất của nó.
Việc dân chúng tìm kiếm và hy vọng có việc làm lại thấy mình bị thất nghiệp là tình trạng đang luôn ở mức độ cao, kéo theo một nguy cơ trầm trọng mà việc chiến đấu chống nghèo cũng như việc chiếm đạt những Mục Đích Phát Triển Ngàn Năm MDG (Millennium Development Goals) sẽ bị lũng đoạn, để rồi tình trạng khủng hoảng này sẽ gây ra tác hành lệch lạc, và chắc chắn làm cho thế giới ít được an toàn hơn. Đức Phaolô VI vào năm 1967 đã nói rằng: ‘Phát triển là một danh xưng mới của hòa bình’ (Thông Điệp Phát Triển Các Dân Tộc Populorum Progressio, 76).
Bây giờ là cơ hội để hỏi lý do tại sao việc trực tiếp trợ giúp nhiều về tài chính và việc trao đổi về kỹ thuật chưa được hiệu lực như dự tính, đồng thời cũng là dịp để tái xét mối liên hệ giữa việc phát triển và những mục đích lớn lao hơn của việc hợp tác quốc tế.
2. Nếu các cá nhân và những nhóm cùng các hiệp hội khác nhau làm nên xã hội lãnh nhận trách nhiệm chính yếu nơi lãnh vực kinh tế có tính cách phù trợ lành mạnh, thì việc dấn thân của địa phương mới có thể đẩy mạnh nền kinh tế.
Tận căn bản của vấn đề đó là việc tạo nên các thứ công ăn việc làm mới để làm cho nền kinh tế được sôi động. Việc chủ động tham gia vào việc làm làm bật ra những khả năng sáng tạo và những năng lực của từng người trong một thời điểm đặc biệt cũng như nơi tầm mức phát triển của quốc gia. Từ từ tình trạng nghèo khổ bị giảm đi, việc di dân trở thành một chọn lựa hơn là một nhu cầu, các tiểu chuẩn xã hội bắt đầu phát triển, dân chúng được thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn của bần cùng và những điều kiện sống bất xứng. Vấn đề ở đây đã trở nên rõ ràng, ở chỗ, ‘nền tảng chính yếu của giá trị việc làm đó là con người vậy’ (John Paul II, Laborem exercens, 6).
Để đạt được mục đích này cho các xã hội đang bị kìm kẹp bởi nạn thất nghiệp, cần phải thích ứng việc trợ giúp về khả năng xây dựng với tầm mức phát triển của mỗi xứ sở. Nhờ đó, mới tránh được làm phung phí đi các nguồn lợi. Thành phần trao ban sẽ thấy tình đoàn kết của họ sinh lợi đối với các quốc gia thụ lãnh, và về lâu về dài đối với cả chính các quốc gia trao tặng nữa.
Nơi mối liên hệ tương giao hiện nay thì trách nhiệm giúp đỡ dân chúng ở các xứ sở kém phát triển nhất có được việc huấn luyện và kỹ thuật khiến họ có cơ hội công bằng trong việc cạnh tranh là những gì tương đương với nhu cầu cần sửa soạn các sản phẩm cho thị trường toàn cầu. Việc hợp tác thực tiễn đặt ưu tiên cho những chọn lựa được căn cứ vào khả thể của các hoạt động kinh tế gia tăng về lao động được điều hành một cách thành thực và theo khả năng hữu trách giúp thoát khỏi hiện trạng ngột ngạt khó thở.
Một đường lối kiến tạo việc làm như thế là những gì ngăn ngừa cái hiệu quả bất ngờ của một sự trợ giúp phát triển chính thức nào đó đưa đến chỗ làm giầu cho một nhóm nhỏ các công ty hay một nhóm nhỏ con người là thành phần bấy giờ có khuynh hướng muốn ngăn chặn việc dân chủ hóa và thậm chí còn muốn chấp nhận cả tình trạng băng hoại nữa.
3. Khi tiến trình biến đổi xã hội xẩy ra thì công việc xứng đáng là những gì đóng góp một chiều kích quan trọng khác, chiều kích của một cảm quan về tương lai hy vọng và cống hiến những gì có thể trong việc giành lại được vai trò chủ chốt của cá nhân và niềm tự trọng, thuận lợi cho một cơ cấu xã hội thống nhất hơn nữa. Thật vậy, gia đình thì được nâng đỡ, trẻ em không bị ép buộc làm việc và có thể đến trường, các giá trị về việc tổ chức và tham gia được học hỏi. Như thế, việc làm là một yếu tố chính yếu trong việc con người nam nữ tự viên trọn bản thân mình vậy.
4. Bởi thế, con đường trước mặt đó là việc chấp nhận về chính trị những điều kiện giúp cho vấn đề công ăn việc làm gia tăng về lao công ở địa phương, và vấn đề kiến tạo nên các thứ công ăn việc làm này sẽ là những gì chống nghèo và đưa đến chỗ làm đổi thay xã hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh của việc toàn cầu hóa ngày nay, trong lúc tình trạng giầu thịnh gia tăng thì khoảng cách giữa giầu nghèo vẫn còn tốn tại.
Việc qui tụ hay liên kết các diễn viên quốc tế nơi lãnh vực kinh tế và phát triển là những gì có thể tăng bội những thành quả trong việc tạo thêm công ăn việc làm, và điều này bao hàm việc hợp tác hơn nữa về các chính sách đầu tư tài chính, về những thứ cải cách canh nông và khả năng tham gia các thị trường, về việc quản trị tốt đẹp. Việc loại trừ đi mỗi ngày một hơn những thứ nợ nần quốc ngoại sẽ là thành quả của sách lược này.
Nếu những cuộc thương thảo về vấn đề mậu dịch Doha không kết thúc bằng một số thỏa thuận tích cực, thì thành phần nghèo nàn và đói khổ trên thế giới sẽ là thành phần phải chịu thiệt thòi, và cơ hội đối với việc tăng trưởng của họ, việc phát triển của họ, cũng như cho công ăn việc làm xứng đáng sẽ bị tan biến lâu dài.
Lòng can đảm và thiện chí chính trị để thực hiện những thỏa hiệp cần thiết, trái lại, có thể dẫn đến một cuộc cải tiến hoạt động chung và chứng tỏ một việc dấn thân cụ thể cho vấn đề loại trừ đi tình trạng nghèo khổ toàn cầu là những gì vẫn còn là một tệ nạn và là một mối đe dọa cho hòa bình và nền an ninh.
Vào khúc quanh lịch sủ này, khi mà gia đình quốc tế chư quốc muốn cổ võ ‘những tiêu chuẩn sống tốt đẹp hơn với những quyền tự do nhiều hơn’, khi mà những lợi lộc đặc biệt của các cơ quan và của các quốc gia cần phải nhường bước trước những cơ hội gắn bó hoạt động cho công ích, cho một thức chia sẻ công bằng bởi tất cả mọi người nơi việc mậu dịch, nơi việc thực hiện các quyết định, cũng như nơi những thiện ích về vấn đề phát triển.
5. Công ăn việc làm và vấn đề phát triển đòi phải có một sự đổi thay nơi vấn đề trọng yếu và ưu tiên, để môi trường khả dĩ cho hòa bình, cho việc đối thoại, cho việc tôn trọng tính cách phụ trợ và tham gia có thể giúp vào vấn đề gia tăng công việc làm xứng đáng và trên hết là việc phát triển của mọi người.
Bản ‘Thập Niên cho Vấn Đề Công Ăn Việc Làm Đầy Đủ và Hiệu Năng, cũng như cho Việc Làm Xứng Đáng với Tất Cả Mọi Người’ được dự thảo có thể được coi như là một giai đoạn suy tư và hành động về các thứ ưu tiên ấy.
Những qui tắc của kinh tế và mậu dịch, việc tiến bộ về kỹ thuật chúng ta chứng kiến thấy hằng ngày, việc nỗ lực chính trị để thực hiện một trật tự thể giới chính đáng: tất cả những thứ này đều là những yếu tố của một môi trường có thể đẩy mạnh việc bảo toàn phẩm giá và tính cách sáng tạo của hết mọi người và bảo đảm một tương lai công lý và hòa bình cho toàn thể gia đình nhân loại.
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày
7/7/2006
Thưa Ông Chủ Tịch,
Tất cả chúng ta ở đây đều có một trách nhiệm lớn lao, một trách nhiệm xuất phát từ ý thức rằng thành quả của cuộc họp này có thể ảnh hưởng lâu dài trên một tiến trình mà từ năm 2001 đã có được một động lực mạnh mẽ ban đầu đối với qui chế các thứ vũ khí nhỏ và khí giới nhẹ (SALW: small arms and light weapons) cũng như đường lối pháp lý của nó. Qui chế này giờ đây đang thành hình và là bước cuối cùng trên con đường chắc chắn dẫn tới việc hiệu năng cỗ võ nhân quyền và luật lệ nhân đạo quốc tế.
Việc bất hợp pháp bán các thử vũ khí nhẹ và các loại khí giới nhẹ là một thứ đe dọa cho hòa bình, phát triển và an ninh. Nó là một mối đe dọa xuất phát chẳng những từ cuộc xung khắc mà còn từ tình trạng bất ổn về dân sự, từ tình trạng tội ác có tổ chức, từ việc buôn bán con người, từ nạn khủng bố, và thậm chí từ tình trạng nghèo khổ, và nó gia tăng nhanh chóng trong một thế giới được liên hệ hóa và toàn cầu hóa. Bởi thế Tòa Thánh ủng hộ những ai kêu gọi một phương sách chung để chiến đấu, chẳng những với việc buôn bán các thứ vũ khí bất hợp pháp mà còn với cả các hoạt động liên quan tới nó nữa, như nạn khủng bố, tổ chức tội ác, và việc buôn lậu thuốc phiện và các thứ đá quí, song vẫn không quên các chiều kích về đạo lý, xã hội và nhân đạo của những thứ khổ nạn ấy.
Trong số thành phần đầu tiên được hưởng phương sách chung này sẽ là các quốc gia nghèo, những quốc gia vì đã từng nghe thấy rất nhiều lời hứa hẹn, có lý để đòi hỏi việc áp dụng một cách cụ thể quyền phát triển của mình. Về khía cạnh này, đại biểu tôi đây muốn nhìn nhận và ủng hộ Bản Tuyên Ngôn Geneva về Việc Bạo Động và Phát Triển Khí Giới, một bản tuyên ngôn được chấp thuận ngày 7/6/2006, và căn cứ vào bản tuyên ngôn này, có khoảng 42 quốc gia đã quyết tâm cổ võ việc hội nhập việc kiểm soát các loại vũ khí nhỏ vào những dự án phát triển.
Hôm nay, đại biểu tôi đây cũng muốn nhấn mạnh tới một số khía cạnh về chương trình hành động đáng chú trọng hơn nữa, bắt đầu từ vấn đề được đặt ra là, vì có một mối liên hệ chặt chẽ giữa các thứ khí giới với tình trạng bạo động, giữa những thứ khí giới với việc phá hoại, giữa các thứ khí giới với hận thù và phân tán xã hội, nên không thể coi các thứ vũ khí như là những thứ sản phẩm thương mại giống như những sản phẩm khác.
Trước hết, hội nghị 2006 này cần phải đồng lòng thiết lập các chương trình hợp tác quốc tế chính yếu, những cơ cấu và những hướng dẫn để phát động những phần chính yếu cho chương trình hành động, một chương trình có thể bao gồm cả việc thiết lập những tiêu chuẩn xứng hợp cho vấn đề quản trị và an ninh của các kho chứa vũ khí ấy; xác định các qui chuẩn rõ ràng về việc xuất cảng các thứ vũ khí; các cơ cấu thu góp và hủy hoại đi các thứ vũ khí như là một yếu tố trong tiến trình hòa bình; việc tái củng cố khả năng thi hành việc áp dụng luật lệ nhắm đến vấn đề buôn bán các thứ vũ khí bất hợp pháp; việc hợp tác hơn nữa theo vùng, bao gồm việc khôn ngoan chú trọng tới việc chuyển các thứ vũ khí dọc theo các biên giới; và các việc kiểm soát hơn nữa theo qui định của quốc gia, bằng những phương tiện sắc bén hơn về khả năng hữu trách, theo dõi và triệt tiêu việc sản xuất và chuyển các thứ SALW.
Bởi vậy, cần phải thận trọng xem xét việc thương thảo về một phương tiện có hiệu lực về pháp lý trong việc giải quyết vấn đề buôn bán các thứ vũ khí bất hợp pháp, chẳng hạn như một hiệp ước được đặt căn bản trên những nguyên tắc thích đáng của luật lệ quốc tế, bao gồm những nguyên tắc về nhân quyền và luật nhân đạo. Vì một phương tiện như thế sẽ giúp vào việc nhổ tận gốc rễ việc buôn bán các thứ vũ khí bất hợp pháp, việc thương thảo của nó cần phải bao gồm cả các quốc gia phát triển và đang phát triển, các quốc xuất cảng, nhập cảng và chuyển giao, những kỹ nghệ về quân đội, những tổ chức ngoài chính quyền, và tổ chức dân sự nữa.
Các quốc gia đặc biệt có nhiệm vụ nặng nề về lãnh vực này, và cần phải thành thật thương thảo và áp dụng một hiệp định như thế. Tòa Thánh đặc biệt mạnh mẽ ủng hộ dự thảo của Hiệp Vương Quốc về việc thương thảo ở Liên Hiệp Quốc về một hiệp định bắt buộc phải thi hành đối với việc chuyển các thứ vũ khí qui ước, như là một khởi động vững chắc có những đường lối hiệu nghiệm trong việc áp dụng và kiểm tra. Đại biểu tôi hy vọng rằng ý nghĩ giá trị này sớm được các thủ đô đón nhận một cách rộng rãi.
Sau nữa, vai trò đại biểu tôi lấy làm hài lòng nhận thấy rằng nhiều điều chia sẻ đóng góp trong những ngày này tập trung – như chúng ta thấy trong dự án hành động – vào nhu cầu cần phải giải quyết chẳng những tính cách thuận lợi dễ dàng của các thứ vũ khí, mà còn giải quyết cả nhu cầu cần đến các thứ vũ khí, một đòi hỏi hiển nhiên nếu các quốc gia thành thực muốn tránh khỏi cái lệch lạc của các thứ vũ khí nhẹ và các thứ khí giới nhẹ đối với thị trường bất hợp pháp. Nếu chúng ta nghĩ về cái giá con người phải trả cho các thứ vũ khí nhỏ và các loại khí giới nhẹ, cũng như những liên hệ, đôi khi tinh vi, đôi khi lộ liễu, giữa chúng và việc tiến bộ chầm chậm nơi vấn đề phát triển khả thủ, những hành động nhắm vào việc giảm thiểu đòi hỏi các thứ vũ khí nhẹ và các loại khí giới nhẹ, chắc chắn là những gì đáng chú trọng nhiều hơn nữa.
Hoạt động để giải quyết vấn đề đòi hỏi là những gì cần đến việc nghiên cứu vững chắc về những đường lối xung đột, tội ác và bạo lực. Một tín liệu có căn cứ rõ ràng như thế mới có thể làm cái nền cho việc khôn ngoan hoạt động nhắm tới việc cổ võ một nền văn minh hòa bình thực sự giữa chúng ta. Tất cả mọi kẻ nắm quyền cai trị quốc gia cần phải hành động một cách hữu trách đối với vấn đề áp dụng những hoạt động giáo dục cũng như đối với những hoạt động nhận thức để chiến đấu với nền văn hóa bạo động, bằng cách minh bạnh cho thấy cái ý muốn chính trị.
Với cuộc hội nghị kiểm điểm 2006 này, các quốc gia cần phải nắm lấy cơ hội để nhận ra những mối liên hệ giữa việc giải giới, phát triển và các quan tâm về nhân đạo, cùng quyết tâm thực hiện các chính sách và chương trình giảm thiểu nhu cầu cần đến các thứ vũ khí và bạo động võ trang.
Sau hết, liên quan tới những hiệp định tốt đẹp hơn và việc giảm thiểu nhu cầu, là ảnh hưởng xấu xa của việc buốn bán thành phần yếu kém nhất trong xã hội, nhất là trẻ em. Tòa Thánh cảm thấy có trách nhiệm lớn lao đối với nhu cầu đặc biệt của trẻ em bị ảnh hưởng bởi các cuộc xung đột võ trang, việc các em đoàn tụ với gia đình của mình, việc các em tái hội nhập vào xã hội và việc các em phục hồi cách thích đáng. Nơi một số cuộc xung đột, trẻ em đặc biệt có khuynh hướng phải chịu một sự dữ nhị bội, mợt mặt thì từ việc gặp nguy hiểm, một đàng thì bị ép làm thành phần quân nhi.
Những tình trạng như thế cần phải có phản ứng nhất loạt về phía cộng đồng quốc tế, một cộng đồng chắc chắn bắt buộc phải tỏ ra đặc biệt quan tâm tới trẻ em trong những hoàn cảnh của các em, và làm mọi sự có thể để hỗ trợ các em để các em trở lại với công việc bình thường của vấn đề lớn khôn trong một môi trường yêu thương và an toàn. Những vấn đề dự phòng về việc giải giới, giải ngũ và tái hội nhập đã chú ý tới nhu cầu của thành phần quân nhi; điều này có thể vượt ra ngoài cả những hiệp định hòa bình là những gì đã được đồng ý chung, và có thể được coi là thêm thắt vào các dự án gìn giữ hòa bình và xây dựng hòa bình, cũng như vào các chương trình phát triển, sử dụng phương sách lấy cộng đồng làm căn bản.
Bởi thế, để đạt được các mục đích ấy, việc tích cực tham dự của tất cả mọi diễn viên là cần thiết: các chính quyền mang trách nhiệm chính yếu đối với việc thành đạt của cuộc hội nghị kiểm điểm này, những tổ chức quốc tế, và các tổ chức ngoài chính quyền là những tổ chức đã đẩy mạnh tiến trình này.
Niềm hy vọng của vai trò đại biểu tôi đây đó là thành quả của cuộc hội nghị 2006 này sẽ là những gì khôn ngoan hướng tới tương lai của định chế quốc tế về các thứ vũ khí nhẹ và các loại khí giới nhẹ, và thực hiện một cuộc theo dõi đầy đủ và hiệu nghiệm.
Cám ơn Ông Chủ Tịch.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 29/6/2006
Với Tân Hội Đồng về Nhân Quyền
Sau đây là nguyên văn bài diễn văn của vị đại diện của Tòa Thánh là Đức Tổng Giám Mục Giovanni Lajolo, bí thư của van phòng liên hệ chư quốc, ngỏ cùng tân Hội Đồng Nhân Quyền hôm 20/6/2006.
Thưa Ông Chủ Tịch,
Trước hết tôi xin chúc mừng ông về việc ông được tuyển giữ chức giám đốc cho khóa họp này của Hội Đồng Nhân Quyền, ở vào một thời điểm rất đặc biệt đối với sinh hoạt của tổ chức Liên Hiệp Quốc, một tổ chức nhắm tới mục tiêu bảo vệ và gìn giữ các thứ quyền lợi của con người.
Tân Hội Đồng Nhân Quyền là những gì kiến tạo nên một giai đoạn quan trọng trong việc tranh đấu hướng đến chỗ lấy con người làm tâm điểm của tất cả mọi hoạt động chính trị, ở tầm cấp quốc gia cũng như quốc tế. Chúng ta đã tiến đến một thời điểm chính yếu, đó là vấn đề các tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền xuất phát từ hội đồng này giờ đây đang tìm cách để tạo nên những phương cách liên quan tới việc gìn giữ việc hoan hưởng thực sự các quyền lợi của con người này.
Tòa Thánh muốn góp phần vào cuộc tranh luận hiện nay, hợp với bản chất và quan điểm đặc biệt của Giáo Hội, luôn hướng đến việc cống hiến vấn đề suy tư thiết yếu về đạo lý là những gì giúp vào những quyết định của lãnh vực chính trị cần phải thực hiện ở nơi đây.
Theo luật lệ và lương tâm của cộng đồng quốc tế ngày nay, phẩm giá của con người được biểu lộ như là cái mầm mống làm phát sinh ra các thứ quyền lợi, và chi phối chủ quyền cùng ý muốn độc lập của các quốc gia như là nền tảng trọng yếu của tất cả mọi thể chế pháp lý, bao gồm cả thế chế pháp lý quốc tế. Nó là một cuộc tiến hóa bất khả vãn hồi, song đồng thời cũng dễ thấy rằng nơi nhiều xứ sở việc hiện thực hóa nguyên tắc tối cao này vẫn chưa được thể hiện bằng sự tôn trọng các quyền lợi của con người.
Trái lại, chỉ cần thoáng nhìn vào thế giới chúng ta cũng cảm thấy lo âu về tình hình nhân quyền hiện nay. Nếu chúng ta quan tâm tới toàn thể các thứ quyền lợi được phác họa trong Bản Tuyên Ngôn Chung Về Nhân Quyền, trong các bản hiệp ước quốc tế liên quan tới các quyền lợi về kinh tế, xã hội và văn hóa, trong các quyền lợi về dân sự và chính trị, cũng như trong các hình thức khác, thì không có một quyền lợi nào mà lại không trầm trọng bị vi phạm tới ở nhiều quốc gia, tiếc thay cũng ở tại một số quốc gia phần tử thuộc tân hội đồng này nữa.
Chưa hết, có những chính quyền tiếp tục nghĩ rằng ở vào trường hợp cuối cùng thì quyền lực là những gì quyết định tất cả những gì liên quan tới nhân quyền, bởi thế, họ coi mình có thẩm quyền trong những việc làm sai lạc. Điển hình trong cho các thứ nhân quyền bị vi phạm nhất này, đó là việc áp đặt vấn đề kiểm soát sinh sản, là bác bỏ quyền sống ở một số trường hợp, là cố gắng kiểm soát lương tâm của người công dân và phương tiện thông tin, là phủ nhận tiến trình pháp lý công cộng và quyền được tự bênh vực, là đàn áp thành phần bất mãn về chính trị, là hạn chế việc di dân bất kể là ai, là để xẩy ra tình trạng làm việc trong các điều kiện tệ hại, là chấp nhận việc kỳ thị nữ giới, là giới hạn quyền thành lập và gia nhập hiệp hội.
Vai trò quan trọng của tân hội đồng nhân quyền
Tân Hội Đồng Nhân Quyền được kêu gọi để đóng lại cái rạn nứt giữa toàn thể những gì được phác họa trong hệ thống hiệp định về nhân quyền và thực tại của việc áp dụng những điều được phác họa ấy nơi các phần đất trên thế giới. Tất cả mọi quốc gia phần tử của hội đồng này cần phải đảm trách chung riêng việc bênh vực và cổ võ các điều được phác họa ra ấy.
Đồng thời việc tổ chức quân giai của các cơ cấu quan trọng nhất nơi Liên Hiệp Quốc cũng đang rõ ràng muốn thấy được tổ chức này cải tiến cái thế giá của mình trước dư luận quần chúng trên thế giới. Thật vậy, hội đồng này có thể và cần phải trở thành phương tiện hướng tất cả mọi qui chế quốc tế và quốc gia về những gì, theo ước muốn của vị Giáo Hoàng luôn ủng hộ lý tưởng cao cả của Liên Hiệp Quốc, tạo nên chính cái lý do hiện hữu của nó: ‘Việc phục vụ con người, là đảm nhận, một cách quan tâm và trách nhiệm, các vấn đề và những công việc thiết yếu nơi việc con người hiện hữu trên trái đất này, theo chiều kích và phạm vi xã hội là những gì bao gồm cả thiện ích cho mỗi một con người nữa’ (Cf. John Paul II's address to the United Nations General Assembly, Oct. 2, 1979, no. 6).
Quyền sống, tự do lương tâm và tự do tôn giáo
Thưa Ông Chủ Tịch:
Nếu nguyên tắc về cái giá trị bất khả chuyển nhượng này của con người – như chúng ta tin tưởng – là nguồn mạch cho tất cả mọi quyền lợi của con người cũng như cho toàn thể trật tự xã hội, thì xin cho phép tôi được nhấn mạnh tới hai hệ luận thiết yếu sau đây:
Hệ luận thứ nhất đó là việc xác định quyền sống từ giây phút đầu tiên của cuộc đời con người, tức là từ khi được thụ thai cho tới khi nó tự nhiên qua đi: Con người nam nữ là những ngôi vị chỉ vì họ hiện hữu, chứ không phải khả năng phát triển hơn kém của họ trong việc diễn đạt bản thân họ, không phải khả năng giao tiếp hay tranh đấu cho quyền lợi của họ. Không một chính quyền, phái nhóm hay cá nhân nào có thể chiếm lấy cho mình cái quyền quyết định về sự sống của một con người, như thể họ không phải là một con người, bằng không, họ bị trở thành thân phận của thứ đồ vật cho các mục đích khác, bất kể những mục đích này cao cả hay cao quí đến đâu chăng nữa.
Hệ luận thứ hai là những gì ảnh hưởng tới các quyền tự do lương tâm và tôn giáo, vì con người có một chiều kích nội tâm và siêu việt, một chiều kích là nguyên tố cho chính hữu thể của họ. Chối bỏ một chiều kích như thế là việc cố gắng phạm tới phẩm giá con người một cách trầm trọng; nó có nghĩa là chối bỏ quyền tự do tâm linh; thậm chí tôi có thể nói nó là việc cố gắng phạm tới chính việc hiện hữu của con người, vì nó bao gồm việc biến đổi con người thành một thứ bộ phận thuần túy trong cái dự án của tổ chức xã hội.
Chỉ nhờ có quyền tự do lương tâm con người mới có thể nhìn nhận bản thân mình và tha nhân của mình theo chiều kích siêu việt, nhờ đó biến đổi mình thành một yếu tố sống động cho đời sống xã hội.
Còn quyền tự do tôn giáo, theo các chiều kích cá nhân cũng như cộng đồng, tư cũng như công, là những gì giúp con người có thể sống mối liên hệ đệ nhất trong cuộc đời của họ, đó là mối liên hệ với Thiên Chúa, một cách thuần khiết không giả hình là những gì bất xứng với họ và thậm chí bất xứng với cả Thiên Chúa nữa. Đó là tính cách thân mật và sâu xa của một quyền tự do mà thẩm quyền quốc gia cần phải bảo toàn chứ không được chà đạp, cần phải tôn trọng chứ không được phạm tới. Bất cứ vi phạm nào được thực hiện một cách cưỡng bách về lãnh vực này đều là những gì vi phạm đến lãnh vực giành cho Thiên Chúa.
Dĩ nhiên, nhữ xẩy ra cho bất cứ quyền tự do nào khác, quyền tự do tôn giáo là những gì cần phải được hòa nhập với tất cả mọi quyền tự do khác của con người. Nó không thể nào trở thành độc đoán ở chỗ này: Nó cần phải được tiến triển một cách hòa hợp, nhất là cẩn thận tôn trọng quyền tự do tôn giáo của người khác trong giới hạn luật lệ tất cả mọi người cần phải tuân thủ.
Quốc gia cũng cần phải là thành phần cổ võ và bảo toàn về cái bầu khí chung cho quyền tự do hữu trách ấy.
Thái độ cần phải có nơi Hội Đồng Nhân Quyền
Không một xứ sở nào, bất kể hoàn cảnh về trình độ phát triển kinh tế, có thể được châm chước khỏi trách nhiệm triệt để trong việc tỏ ra tôn trọng tất cả mọi quyền lợi của con người. Quyền lợi của con người không thể nào lại được đề cao ở một số xứ sở này hơn xứ sở kia, vì nhân phẩm của con người nam nữ ở xứ sở này không thể nào lại ở mức độ yếu kém hơn nhân phẩm của con người nam nữ thuộc các xứ sở khác.
Tòa Thánh lên tiếng kêu gọi tất cả mọi quốc gia được trở thành phần tử lần đầu tiên của Hội Đồng Nhân Quyền này. Trước hết, họ cần phải tỏ ra một thái độ gương mẫu, được cụ thể hóa nơi việc chân thành và sâu xa khảo sát về những gì bất chính áp đặt trên các thứ quyền lợi của con người – trước hết nơi lãnh thổ của họ – và yêu cầu họ quyết tâm tái thiết lập những quyền lợi này một cách trọn vẹn, theo chiều hướng vô tư của cộng đồng quốc tế.
Các xứ sở giầu thịnh cần phải hiểu rằng nhân quyền của tất cả mọi cư dân của một xứ sở, bao gồm cả của thành phần di dân, là những gì không phản lại với việc bảo tồn và phát triển tình trạng phúc hạnh chung hay với việc bảo tồn các thứ giá trị về văn hóa. Các quốc gia đang trên đà phát triển cần phải hiểu rằng những tiến trình phát triển về kinh tế và việc cổ võ công lý và bình đẳng xã hội sẽ càng trở nên hiệu nghiệm hơn và nhanh chóng hơn, nếu các thứ nhân quyền của con người hoàn toàn được công nhận, thay vì không tôn trọng chúng vì những lý do duy thực dụng. Tòa Thánh tin tưởng nơi con người. Niềm tin và kỳ vọng nơi hết mọi con người nam nữ là những gì không bao giờ bị lừa gạt.
Kết luận
Thưa Ông Chủ Tịch:
Việc đáp ứng mà Hội Đồng Nhân Quyền này tỏ ra trước các thách đố về tự do ở nhiều xứ sở trên thế giới – bắt đầu ở nơi chính các quốc gia phần tử của hội đồng này – là những gì cho thấy thế giá của Liên Hiệp Quốc cũng như của toàn thể hệ thống pháp luật quốc tế. Tòa Thánh sẽ theo dõi hoạt động của hội đồng này một cách can thận và cảm thông. Theo vai trò là quan sát viên ở Liên Hiệp Quốc, Tòa Thánh sẵn sàng hợp tác một cách trọn vẹn để hoạt động của Hội Đồng Nhân Quyền này có thể giúp vào việc thực sự tôn trọng phẩm vị của hết mọi người nam nữ.
Xin hết lòng cám ơn sự lắng nghe của ông.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh,
BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 26/6/2006
Đức Tổng Giám Mục Silvano Tomasi, quan sát viên thường trực của Tòa Thánh ở văn phòng Liên Hiệp Quốc tại Geneva, ngỏ lời cùng khóa họp đặc biệt của Hội Đồng Nhân Quyền về tình hình Lebanon, hôm 11/8/2006.
Kính Ông Chủ Tịch,
1. Một lần nữa việc vi phạm nhân quyền đã dẫn tới tình trạng bất an và xung đột ở Lebanon và vùng Trung Đông trong một cái vòngt lẩn quẩn tiếp tục làm lũng đoạn cuộc chung sống thuận hòa. Tòa Thánh tin tưởng rằng cái vòng lẩn quẩn này có thể bị phá hủy, nếu lý trí, thiện chí, việc tin tưởng nơi người khác, việc áp dụng những quyết tâm, và việc hợp tác giữa các đồng bạn hữu trách là những gì nắm phần chủ yếu.
Bước đầu tiên tức thời của một phương sách về đạo lý như thế, hợp với các tiêu chuẩn lề luật quốc tế, đòi phải ngưng bắn ngay, trước hết để giúp và bảo vệ thành phần dân sự cùng với các quyền lợi căn bản của con người.
2. Cuộc bạo động trong những tuần lễ này đang hủy hoại đi một kiểu mẫu hứa hẹn nơi tính chất đề huề vui tươi của quốc gia, một tính chất có được qua nhiều thế kỷ, những tháng năm cái đa nguyên của các cộng đồng, thậm chí cái kiểu mẫu hứa hẹn của những niềm xác tín tôn giáo rất khác nhau, biết rằng chỉ có một cách thức duy nhất để sống trong an bình và an ninh, cũng như để sử dụng các nguồn nhân bản và tính cách đa dạng của con người một cách sáng tạo, đó là việc đối thoại và gắn bó hợp tác với nhau. Toàn thể vùng này có thể được lợi ích bởi việc áp dụng thi hành kiểu mẫu này một cách thành quả và nhờ đó mở ra một chân trời hy vọng.
3. Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, trong khi tái khẳng định rằng hòa bình là một tặng ân của Thiên Chúa, đã từng kêu gọi thực hiện một cuộc ngưng bắn ngay, để mở đường cho việc cứu trợ nhân đạo trong việc giúp đỡ thành phần khổ đau là thành phần có quyền sống, ăn uống, sức khỏe, nước nôi, nhà cửa, giờ đây là một ưu tiên, cũng như để bắt đầu ngay những cuộc thương lượng hữu lý và hữu trách để cuối cùng chấm dứt những trường hợp khách quan bất công đang xẩy ra ở vùng đất này.
4. Bản Tuyên Ngôn Chung về Các Nhân Quyền nhắc nhở chúng ta rằng hòa bình là điều kiện căn bản cho việc tôn trọng và hoan hưởng tất cả mọi thứ quyền lợi của con người. Theo ý nghĩa này thì nhân dân Lebanon có quyền hưởng tính cách nguyên vẹn và chủ quyền của quốc gia mình; dân chúng Do Thái có quyền sống an bình nơi quốc gia của họ; và nhân dân Palestine có quyền có được một quê hương tự do và chủ quyền.
5. Trước thảm kịch hiện nay ở Trung Đông, cộng đồng quốc tế không thể tỏ ra thái độ dửng dưng hay trung dung. Tuy nhiên, những giải quyết không thể bị ứng biến trước cái ý định muốn xâm chiếm của bất cứ bên nào. Và luật lệ không bao giờ được tiến đến chỗ thành quả đạt được chỉ bởi nguyên võ lực. Điều này sẽ đưa đến việc hủy hoại văn minh, việc thảm bại của luật lệ quốc tế, và là một trường hợp điển hình tai hại cho các miền đất khác trong vùng này và thực sự là cho cả thế giới.
Tóm lại,
thưa Ông Chủ Tịch, Tòa Thánh hết sức tin tưởng rằng không có một giải quyết
chính đáng và lâu bền này có thể đạt tới bằng việc sử dụng khủng bố hay xung đột
võ khí, mà chỉ có vấn đề đối thoại là đường lối duy nhất dẫn đến hòa bình cũng
như dẫn tới việc bảo toàn nhân quyền vậy.
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày
17/8/2006
Về Việc Chiến Đấu Chống Hội Chứng Liệt Kháng
Hôm Thứ Sáu 2/6/2006, ĐHY Janier Lozano Barragan, chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh Về Các Cán Sự Chăm Sóc Sức Khỏe, đại diện Tòa Thánh đã trình bày với Tổng Hội Đồng Liên Hiệp Quốc về chính sách chống khủng bố nguyên văn như sau:
Thưa Ông Chủ Tịch,
Tôi hân hạnh chuyển lời chào của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đến tất cả những ai đang dấn thân vào cuộc chiến đấu chống nạn dịch Hội Chứng và Vi Khuẩn Liệt Kháng trên khắp thế giới. Vị Giáo Hoàng này hết sức quan tâm về tình trạng lan tràn của thứ bệnh ấy cũng như về những an toàn cho cả việc tiếp tục cùng gia tăng hoạt động được Giáo Hội Công Giáo thực hiện để ngăn chặn cái tai họa ấy.
Từ ban đầu, Giáo Hội Công Giáo đã cống hiến việc đóng góp của mình vào việc chiến đấu chống Vi Khuẩn Liệt Kháng cũng như những đau thương gây ra bởi Hội Chứng Liệt Kháng về lãnh vực ý khoa, xã hội và tâm linh. Thật vậy, 26.7% các trung tâm phục vụ thành phần nhiễm Vi Khuẩn Liệt Kháng và bị Hội Chứng Liệt Kháng trên thế giới là của Công Giáo. Hoạt động của chúng tôi chú trọng tới việc huấn luyện cho các chuyên gia chăm sóc sức khỏe, cũng như việc ngăn ngừa, chữa trị, chăm sóc và trợ giúp. Ở tất cả những giai đoạn này, chúng tôi doing hành với thành phần bệnh nhân cũng như gia đình của họ.
Đặc biệt là các Hội Bác Ái Quốc Tế đang dấn thân trong công cuộc quan trọng này ở 102 quốc gia. Tòa Thánh đã tung ra các hoạt động trên khắp thế giới. Chúng tôi nhận thấy mình hiện diện và hoạt động chống lại nạn dịch này ở 62 quốc gia: 28 nước ở Phi Châu, 9 ở Mỹ Châu, 6 ở Á Châu, 16 ở Âu Châu và 3 ở Đại Dương Châu.
Ngoài nhân viên địa phương, bao gồm cả tu si74 lẫn giáo dân, có một vài dòng tu và hiệp hội quốc tế hoạt động ở lãnh vực này: đó là các tu sĩ dòng Vinh Sơn Phaolô, Hội Bác Ái, Cộng Đồng Sant’Egidio, các tu sĩ Dòng Carmêlô, Tu Sĩ Bệnh Viện Dòng Thánh Gioan Thiên Chúa (…), dòng Chúa Giêsu, các Nữ Tu dòng Mẹ têrêsa, bệnh viện Bambio Gesù và các nhà thuốc Công Giáo, mới chỉ đề cập đến một ít thôi.
Hoạt động này của Tòa Thánh cũng như của Giáo Hội Công Giáo về vấn đề này không phải là những gì thuộc nội quan hơn là các mục đích của nó là mạnh mẽ cổ võ và kiên cường cảm quan cần thiết về tính cách sở hữu và trách nhiệm mà mỗi quốc gia cần phải phát triển nơi mỗi một giai đoạn của vấn đề đáp ứng với nạn dịch này.
Các chương trình huấn luyện chính của chúng tôi được gửi đến cho thành phần chuyên viên chăm sóc sức khỏe, các vị linh mục, tu sĩ, giới trẻ, các gia đình, cũng như chính người bệnh. Trong việc ngăn ngừa, chúng tôi chú trọng tới việc đào luyện và giáo dục nhắm tới hành vi thích đáng để tránh lây bệnh. Chúng tôi thấy rằng trong lãnh vực giáo dục và đào luyện ấy thì những góp phần của gia đình là những gì chứng thực cho thấy rất ư là hữu ích và công hiệu.
Chúng tôi làm điều này qua những sách vở báo chí, những cuộc hội nghị và việc chia sẻ kinh nghiệm và khả năng liên cá vị. Đối với vấn đề chăm sóc sức khỏe và trợ giúp bệnh nhân, chúng tôi, ngoài các vấn đề khác, nhấn mạnh tới việc đào luyện những vị y sĩ và cứu thương viên, các vị tuyên úy và tình nguyện viên. Chúng tôi chiến đấu dấu hiệu mace bệnh, thử nghiệm, cố vấn và hòa giải. Chúng tôi cấp phát những anti-retrovirals và thuốc men để ngăn chặn việc truyền lan theo chiều dọc – từ mẹ sang con – cũng như phát động những biện pháp ngăn chặn tình trạng lây lan qua đường máu huyết.
Trong lãnh vực chăm sóc và hỗ trợ bệnh nhân, chúng tôi nhấn mạnh đến việc tránh lây lan, chăm sóc thành phần mồ côi, thành phần góa bụa cũng như thành phần bị Hội Chứng Liệt Kháng ở trong tù. Chúng tôi đang giúp cho thành phần bị Vi Khuẩn Liệt Kháng hội nhập lại vào xã hội, và hợp tác với các chính phủ cũng như với các tổ chức khác cả ở cấp độ dân sự lẫn đại kết.
Đối với các khía cạnh về kinh tế, Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã thành lập Hội Người Samaritanô Nhân Lành, để nâng đỡ thành phần túng thiếu nhất, đặc biệt những ai bị Hội Chứng Liệt Kháng. Cho đến nay, chúng tôi đã dễ dàng hóa việc giành được những anti-retrovirals cho các trung tâm ở 18 quốc gia: 13 ở Phi Châu, 3 ở Mỹ Châu và 2 ở Á Châu. Các ngân quoi tài trợ cho những trung tâm này xuất phát từ những đóng góp của người Công Giáo thuộc 19 quốc gia, từ Mỹ Châu, Á Châu, Âu Châu và một số ở chính Phi Châu.
Để biết thêm tín liệu về hoạt động và việc dấn thân của chúng tôi, chúng tôi cống hiến một tờ phổ biến cho hội nghị này, một tờ phổ biến có thể thấy ở những nơi giành cho mục đích này tại sảnh đường đây.
Xin cám ơn Ông Chủ Tịch.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 5/6/2006
Hôm Thứ Năm 11/5/2006, ĐTGM Celestino Migliore, đại diện thường trực của Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc đã trình bày với Ủy Ban Thuộc Hội Đồng của Liên Hiệp Quốc Đặc Trách Kỹ Nghệ Và Xã Hội về Vấn Đề Phát Triển Khả Thủ nguyên văn như sau:
Thưa Ông Trưởng Ủy Ban,
Trước hết tôi xin chúc mừng ông và phân bộ làm việc của ông, và ca ngợi ông về việc tổ chức hoạt động cho Vấn Đề Phát Triển Khả Thủ trong năm nay.
Cần phải hoan nghênh việc tiến bộ gần đây nơi vấn đề phát triển khả thủ được tường trình trong bản văn kiện sửa soạn của ủy ban này, thế nhưng đây chỉ là những thành đạt khiêm tốn khi được đặt bên cạnh một bức tranh toàn cầu rõ nét. Chỉ bao giờ thực hiện việc hòa hợp của các mối quan tâm về môi trường và về phát triển với việc thiết lập chính sách và quyết tâm thực hiện về chính trị mới dẫn đến những vấn đề cải tiến thiết yếu nơi các tiêu chuẩn sống cho tất cả mọi người, trong khi bảo đảm được cái tương lai về môi trường của thế giới chúng ta.
Ngoài tình trạng hủy hoại môi trường thiên nhiên bởi thiên tai, còn xẩy ra cả tình trạng hủy hoại trầm trọng hơn nữa về môi trường nhân loại. Mặc dù người ta có lý để lo âu về việc bảo trì môi sinh thiên nhiên, vẫn có rất ít nỗ lực được thực hiện để bảo toàn những điều kiện về luân lý cho một thứ môi sinh nhân loại chân thực. Một thứ môi sinh như thế sẽ coi con người là tâm điểm của những mối quan tâm về môi trường, đồng thời cũng cổ võ một cảm quan khẩn trương về trách nhiệm của con người đối với trái đất, ở cấp độ quốc gia, thương mại hay cá nhân. May thay, trong khi vấn đề cộng sinh thiết yếu trên hành tinh này đang trở thành rõ nét thì càng ngày con người càng nhận thức được rằng những chính sách tốt đẹp về môi trường cũng bao gồm cả những chính sách về thành phần con người tốt đẹp nữa.
Một lãnh vực như thế đó là lãnh vực về nước nôi. Trong vòng 20 năm, những dự trữ nước theo đầu người sẽ là một phần ba của những gì những dự trữ này có ở năm 1950, và vào năm 2015, một phần ba các quốc gia trên thế giới sẽ ở những mức độ nước nôi thấp kém thê thảm. Thậm chí hôm nay đây, có 34 ngàn người chết mỗi ngày vì thiếu nước sạch. Một triệu rưỡi người không có được nước sạch, một con số có thể tăng lên 3 tỉ vào năm 2025. Đó là một thứ khủng hoảng về nhân đạo và về môi trường, cũng là một vấn đề về công lý xã hội.
Việc khuyến khích vấn đề đổi thay trong cách thức hưởng dụng cũng như trong việc gia tăng phương tiện cung cấp nước nôi cùng vấn đề vệ sinh cũng là một vấn đề thuộc cảm quan chung về phát triển, vì cả hai đều mang lại mức độ rất cao, làm cho chúng hết sức hấp dẫn theo quan điểm đầu tư về xã hội. Đó là lý do đại biểu tôi đây hân hoan chào mừng Bản Tuyên Ngôn Của Các Bộ Trưởng của Cuộc Diễn Đàn Thế Giới Lần Bốn Về Nước Nôi ở Thành Phố Mễ Tây Cơ, một bản tuyên ngôn tái xác định tầm quan trọng khẩn trương của nước nôi nơi tất cả mọi khía cạnh của vấn đề phát triển khả thủ.
Liên quan tới vấn đề này là một vấn đề thiết yếu khác, đó là vấn đề an sinh về thực phẩm. Từ Phi Châu hạ mạc Sahara cho đến vùng Thịnh Vượng Chư Quốc Gia Độc Lập thực sự là vẫn đang gia tăng con số người đói khổ trong 3 năm vừa qua, mặc dù, về phương diện toàn cầu, bức tranh chung có vẻ đã được cải tiến. Vấn đề có thể được đặt ra là việc thay đổi các điều kiện về khí hậu có thể đã góp phần vào tình trạng đói khổ này cách nào chăng. Chúng ta không còn cho rằng haọt động của con người ít hay chẳng chi phối gì tới những vấn đề ấy.
Năng lượng là vấn đề chính yếu trong việc đạt thành các mục tiêu phát triển khả thủ. Với trên 1.6 tỉ người vẫn còn thiếu phương tiện về điện lực trên thế giới và 2.4 tỉ người đang sử dụng biomass theo truyền thống, thì vấn đề cải tiến việc có thể sử dụng các dịch vụ năng lượng đáng tin tưởng, có thể trang trải và có tính cách môi trường thân hữu, là một thách đố chính đối với vấn đề nhổ tận gốc rễ tình trạng nghèo khổ cũng như cho việc chiếm đạt tới những Mục Tiêu Phát Triển Ngàn Năm.
Cũng có nhu cầu cần phải biến đổi hệ thống năng lượng toàn cầu, vì những đường lối hiện nay đang gây thiệt hại trầm trọng cho sức khỏe của con người, cho khí hậu của trái đất, cũng như cho các hệ thống về môi sinh là những gì chi phối tất cả mọi sự sống, và vì vấn đề làm sao có được những dịch vụ năng lượng khả tín là một điều kiện tiên quyết quan trọng đối với vấn đề giảm nghèo.
Trong khi số lượng tuyệt đối cần thiết cho việc sử dụng năng lượng có thể được cải tiến trên toàn thế giới đang gia tăng một cách đáng kể, thì việc chia sẻ toàn diện về những gì khả tân nơi việc cung cấp toàn thể năng lực căn bản trên thế giới chỉ mới gia tăng một cách hời hợt ba thập niên qua. Một số kỹ thuật năng lượng khả tân đã chín mùi và về kinh tế trở thành những gì cạnh tranh, thế nhưng việc phát triển về những thứ khả tân ấy vẫn tiếp tục là một nhu cầu cần thiết về nhân bản, môi sinh, kỹ nghệ và sách lược, và cần phải trở thành những gì ưu tiên trong các dự án nghiên cứu công cộng. Chẳng hạn như trong vấn đề đốt nóng, vấn đề ánh sáng và cuối cùng tới vấn đề chuyên chở thì vấn đề solar photovoltaic dường như cung cấp một năng lực khả thủ bất tận. Cần phải kiên trì theo đuổi việc nghiên cứu ở lãnh vực này cũng như những lãnh vực khác nữa.
Lãnh vực chuyên chở là vấn đề thực sự được chất chứa nơi tất cả mọi đề tài chính của những khóa họp 14 và 15 của ủy ban này, vì nó chiếm một tỷ lệ lớn của nhu cầu năng lượng toàn cầu, nó là một nguồn chính làm ô nhiễm không khí và greenhouse gas emissions, và nó là một yếu tố quan trọng trong việc phát triển kỹ nghệ.
Cần phải khuyến khích việc tiếp tục thấm nhập thị trường về các thứ nhu cầu mới mẻ khác nhau, bằng những động lực kinh tế thích hợp cũng như việc liên tục nghiên cứu, việc phát triển và việc dàn dựng. Việc cậy dựa vào các thứ máy móc đốt cháy truyền thống nơi kỹ nghệ, chuyên chở, thương mại và phòng vệ đã là những gì có cả một thế kỷ rồi. Vì một số lý do, sự thay thế chúng đi bằng những cách thức khác sạch sẽ khả tân đã quá trễ tràng mất rồi.
Bộ phận khí hậu trên trái đất này đã thay đổi trông thấy ở cả tầm mức quốc tế cũng như theo vùng từ thời tiền kỹ nghệ. Chương Trình Nghị Sự 21 công nhận cái nhu cầu ưu tiên hợp lý của các quốc gia phát triển trong việc chiếm đạt tình trạng tăng trưởng về kinh tế khả thủ cùng với việc nhổ tận gốc rễ tình trạng nghèo khổ, thế nhưng rõ ràng là vấn đề này không thể nào đạt được với bất cứ giá nào. Cho dù là greenhouse gas emissions có được vững chắc ở mức độ hiện nay – một sự việc xẩy ra không chắc như những vật đứng nguyên – thì chiều hướng độ nóng toàn cầu và việc gia tăng mức độ biển khơi sẽ tiếp tục trải qua cả hằng trăm năm nữa, gây ra bởi toàn diện bầu khí quyển của một số greenhouse gases và việc đại dương sâu thẳm thích nghi với việc thay đổi khí hậu tùy thuộc vào một mức độ lâu dài.
Trong những trường hợp như vậy, những diễn tiến muốn biến Chương Trình Môi Trường Liên Hiệp Quốc thành một Tổ Chức Môi Trường Liên Hiệp Quốc tráng kiện hơn là những gì vừa khôn ngoan lẫn đáng hoan nghênh, để có thể đạt được một đường lối hội nhập thực sự với vấn đề phát triển khả thủ là những gì đều coi trọng cả hai thứ trên.
Thưa Ông Trưởng Ủy Ban, việc liên kết các mối quan tâm về môi trường và về phát triển với việc thực hiện chích sách về thương mại và kỹ nghệ chắc chắn sẽ dẫn tới một tương lai an toàn hơn và thịnh vượng hơn cho tất cả mọi người. Không một quốc gia nào có thể chiếm được điều ấy một mình, mà các quốc gia phần tử cùng nhau làm việc mới có thể và cần phải làm như thế, nếu các cách thức khả thủ nơi các lãnh vực thiết yếu cho tương laic hung của chúng ta ấy được bảo toàn.
Xin cám ơn Ông Trưởng Ủy Ban.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 15/5/2006
Hôm Thứ Năm 11/5/2006, ĐTGM Celestino Migliore, đại diện thường trực của Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc đã trình bày với Tổng Hội Đồng về chính sách chống khủng bố nguyên văn như sau:
Thưa Ông Chủ Tịch,
Đại biểu tôi đây hoan nghênh cuộc tranh luận hợp thời về bản tường trình hiện ở trước mắt chúng ta đây, trong bối cảnh của tình trạng bế tắc hiện nay nơi những tham vấn về việc thuận thảo đối với nạn khủng bố. Chúng tôi cũng ủng hộ tất cả mọi nỗ lực nhằm tới việc thắng vượt các khó khăn vẫn còn gây trở ngại cho vấn đề tiến bộ liên quan tới phương tiện về pháp lý quan trọng này.
Các đoạn 9 và 10 nơi bản tường trình của vị tổng thư ký thật sự có nêu lên việc minh nhiên lên án nạn khủng bố theo chủ trương chẳng có lý do nào dù chính đáng đến đâu chăng nữa được viện ra hay hợp lý cho vấn đề cố ý sát hại hay gây thương tật cho thành phần thường dân và thành phần không tham chiến.
Nạn khủng bố thường bắt nguồn từ việc phân mảnh về văn hóa gây ra bởi những căng thẳng và chia rẽ mà bất hạnh thay chúng ta đã được chứng kiến thấy ngay cả ở Liên Hiệp Quốc trong mấy tuần và mấy tháng gần đây. Bởi thế Tòa Thánh vẫn sẵn sàng để tham dự vào cuộc tranh luận quan trọng này để tìm kiếm một nền tảng chung cho các quốc gia trong việc có thể thiết lập những chính sách chống nạn khủng bố một cách hiệu lực.
Mở đầu cho năm nay, Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã ngỏ cùng những người Công Giáo cũng như tất cả mọi con người nam nữ thiện tâm, kêu gọi họ hãy liên kết các nỗ lực của họ trong việc suy tư, hợp tác, đối thoại và nguyện cầu, hầu thắng vượt nạn khủng bố và xây dựng một cuộc chung sống chân chính và an bình nơi gia đình nhân loại.
Bằng niềm xác tín của mình, qua việc phân tích những căn nguyên về hiện tượng khủng bố hiện đại, chẳng những cần phải lưu ý tới các nguyên do chính trị và xã hội mà còn đến cả những động lực sâu xa hơn về văn hóa, tôn giáo và ý hệ, lời kêu gọi của vị Giáo Hoàng này đã trở thành một tấm vi thạch cho các cuộc tranh luận, khởi động và cảm nghiệm cả về lý thuyết lẫn lãnh vực quyết định có tầm mức ảnh hưởng khắp thế giới.
Bởi thế đại biểu tôi đây vui mừng ghi nhận rằng bản tường trình ở trước chúng ta đây phối hợp một cấu trúc về văn hóa và tôn giáo nơi chính sách toàn cầu của nó.
Thành phần đại diện sẽ nhớ lại Liên Hiệp Quốc đã giành năm 2001 để đối thoại giữa các nền văn minh ra sao, và vào Tháng 11 năm vừa rồi, vị tổng thư ký đã bắt đầu Liên Minh Các Nền Văn Minh. Trước đây không lâu, một cuộc diễn đàn tay ba về vấn đề đối thoại liên tôn và hợp tác cho hòa bình cũng đã được khơi mào để mang các chính phủ, cơ cấu Liên Hiệp Quốc và xã hội dân sự lại với nhau.
Đại biểu tôi đây hy vọng rằng cần phải lợi dụng điều lợi ích mới mẻ này ở Liên Hiệp Quốc để hợp tác với các tôn giáo cũng như để cất những chiếc cầu giữa các nền văn hóa và văn minh. Tôn giáo chắc chắn là có một khả năng tích cực thật quan trọng khi có cơ hội thực hiện.
Tòa Thánh sẵn sàng ủng hộ các sáng kiến phấn khích thành phần tín hữu trở thành các tác nhân của hòa bình cũng như những sáng kiến liên kết tất cả những ai muốn trở nên những người tạo nên cuộc chung sống an hòa của chúng ta. Ngoài ra, nếu thực sự hiểu được và sống trọn bản chất đích thực của tôn giáo, thì tôn giáo có thể trở thành yếu tố giải quyết hơn là gây trục trặc, vì tôn giáo là những gì sẽ cổ võ cho một nền nhân đạo hứa hẹn và coi trọng phẩm giá của kẻ khác, mang lại công ích cho tất cả chúng ta.
Bởi thế tổ chức này cần phải phấn khích các tôn giáo hãy thực hiện việc đóng góp quan trọng này theo lãnh vực của họ, tức là, tôn giáo được kêu gọi để kiến tạo, nâng đỡ và phát động điều kiện tiên khởi cho mọi cuộc gặp gỡ, mọi cuộc đối thoại, và mọi thứ hiểu biết về tính cách đa nguyên và sự khác biệt về văn hóa. Thưa Ông Chủ Tịch, điều kiện tiên khởi này đó là phẩm giá của con người vậy.
Nhân phẩm chung của chúng ta thực sự là một điều kiện tiên khởi vì nó xuất hiện trước cả mọi quan tâm khác hay nguyên tắc về phương pháp học, cho dù là những gì thuộc về luật lệ quốc tế. Chúng ta thấy nó nơi thứ ‘luật vàng’, là thứ luật đều được chất chứa nơi các tôn giáo trên thế giới. Quan niệm này cũng được diễn tả một cách khác nữa đó là tính cách hỗ tương.
Việc khuyến khích nhận thức và cảm nghiệm về cái gia sản chung này ở bên trong các tôn giáo và giữa các tôn giáo là những gì sẽ giúp vào việc chuyển dịch quan niệm tích cực này thành các phạm trù chính trị và xã hội, những phạm trù chính trị và xã hội này sẽ truyền đạt sang cho các phạm trù về pháp lý dính liền với những liên hệ quốc gia và quốc tế.
Đại biểu tôi cũng cảm thấy mãn nguyện khi thấy cách thức vấn đề xuí giục khủng bố đã được cứu xét tới trong bản tường trình trước mắt chúng ta đây. Tất cả chúng ta đều biết rằng việc sử dụng một cách khéo léo mạng điện toán toàn cầu và các phương tiện truyền thông đại chúng để làm chon an khủng bố trở thành một hiện tượng xuyên quốc, toàn cầu và kết nối, là những gì do đó cần phải có một giải quyết liên kết mãnh lực toàn cầu tương đương.
Trong bối cảnh đó, chúng tôi lập lại việc chúng tôi ủng hộ quyết nghị 1624 của Hội Đồng Bảo An là một quyết nghị vừa lên án ‘bằng những từ ngữ mãnh liệt nhất đối với vấn đề xui giục các hành động khủng bố’, vừa bác bỏ ‘những nỗ lực biện minh hay tôn vinh các hành động khủng bố có thể khiêu khích những hành động khủng bố’. Những biện pháp đối đầu với bất cứ tác nhân hay thực thể nào nâng đỡ về tài chính sự bất dung nhượng hay hận thù về sắc tộc và tôn giáo đều là những gì thiết yếu cho một sách lược toàn cầu.
Việc loại trừ về chính trị, xã hội và kinh tế đối với các cộng đồng di dân là những gì gây ra tâm trạng chán chường nơi giới trẻ và là những gì dẫn tới những đổ vỡ về trật tự ở một số nơi; thế nhưng cái đòi hỏi cần phải có một giải quyết chính đáng cho những vấn đề này vẫn là một đòi hỏi hợp lý. Bằng việc giải quyết các vấn đề ấy, một cách nhanh chóng và chính đáng, các quốc gia mới có thể cứu những thành phần khủng bố cho khỏi thứ dưỡng khí hận thù và bất bình, dù thực hay do họ tưởng tượng ra, khiến họ nỗ lực chính đáng hóa các việc làm xấu xa của họ và thu phục thành phần nhậy cảm.
Cho dù việc làm sao để chặn đứng việc hằng ngày sử dụng các thứ chất liệu chống lại các mục tiêu nhẹ vẫn thường là những gì khó khăn hơn để giải quyết vấn đề, thì việc khước từ thành phần khủng bố những thứ vũ khí, bao gồm các thứ vũ khí đại công phá, hiển nhiên là một yếu tố trong cuộc chiến đấu này. Bởi thế, đại biểu tôi hoan nghênh quyết nghị 1673 của Hội Đồng Bảo An về vấn đề bất leo thang thi đua vũ khí.
Chúng tôi cũng đồng ý là cần phải có một mục đích chung cho các quốc gia trong việc bảo toàn, cũng như trong việc ở bất cứ nơi nào có thể loại trừ các thứ vũ khí nguyên tử, sinh chất, hóa học hay phóng xạ, và áp dụng những việc kiểm soát hiệu nghiệm nơi quốc nội cũng như xuất cảng các chất liệu lưỡng dụng liên quan tới các thứ vũ khí đại công phá.
Hơn nữa, dường như vấn đề khủng bố về sinh chất là một thứ đe dọa trầm trọng nhưng không được giải quyết nghiêm trọng. Như chúng ta đã thấy nơi những diễn trường hành động khác, giá của việc chẳng làm gì có thể vượt trên cả giá của một hoạt động chính yếu hiện nay được dùng để củng cố khả năng của hệ thống sức khỏe công cộng trong việc đối đầu với hậu quả có thể xẩy ra kinh khủng như thế. Như bản tường trình vạch ra cho thấy là những việc đầu tư quan trọng hiện nay ở lãnh vực này trong khi ấy cũng có những cái spinoff tích cực nơi tính chất chung của việc chăm sóc sức khỏe đang có.
Sau hết, thứa Ông Chủ Tịch, việc chống khủng bố cần phải được mang đặc tính chối bỏ cái nền tảng sâu xa về luân lý đối với thành phần khủng bố. Đây là lý do chíùnh đáng duy nhất tại sao việc hành sử thành phần khủng bố và thành phần cho là khủng bố cần phải hợp với các qui chuẩn nhân đạo quốc tế trong cuộc chiến đấu mà tối hậu là một cuộc chiến đấu của tấm lòng và lý trí vậy.
Xin cám ơn Ông Chủ Tịch.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh,
BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 12/5/2006
Về hiện tượng tội diệt chủng vẫn còn là mối đe dọa
Hôm 6/4/2006, ĐTGM Celestino Migliore, khâm sứ kiêm quan sát viên thường trực của Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc đã đại diện Tòa Thánh lên tiếng về mối đe dọa liên quan tới hiện tượng diệt chủng vẫn còn kéo dài tới ngày nay và vẫn đang xẩy ra, nguyên văn như sau.
Tất cả chúng ta làm việc tại Liên Hiệp Quốc là nơi đã từng trở thành ngôi nhà của nhân quyền qua Bản Tuyên Ngôn Chung Về Nhân Quyền, thường bàn tới những đường lối đối đầu với vấn đề vi phạm ô nhục nhất, bất khả chấp nhất và trầm trọng nhất liên quan tới quyền căn bản nhất của con người, đó là quyền sống, như được bộc lộ nơi hiện tượng diệt chủng. Thế nhưng, khi chúng ta thấy được chứng từ của thành phần chứng nhân về thảm trạng này thì giọng điệu của cuộc họp đặc biệt trở nên khẩn trương thúc bách. Bởi thế, tôi xin cám ơn những người trong cuộc của chúng ta về những gì họ vừa chia sẻ với chúng ta.
Chưa đầy một tuần lễ trước đây, cũng ở chính căn phòng này, chúng ta đã cử hành một biến cố tương tự để duy trì việc tưởng niệm và các bài học về hai cuộc diệt chủng tàn ác của thế kỷ vừa qua. Vào dịp ấy, có người đã nhận định rằng: Dường như cái “Không Bao Giờ Nữa” (Never Agains) đang trở thành “Vẫn Cứ Mãi Nữa” (Ever Agains). Cho dù lời nhận định này có thể là những gì khả dĩ, tôi vẫn cảm thấy rằng đó là một nhận định quá ứ là thê thảm, thậm chí là một nhận định hơi yếm thế (a little cynical).
Tuy nhiên, chúng ta cần phải thừa nhận rằng, đôi khi khó mà không đồng ý với một lời phát biểu như thế. Nếu việc chối bỏ phủ nhận là tảng đá của Sisyphus lăn những biến cố thê thảm xuống đồi nhiều lần thì thái độ dửng dưng hững hờ của chúng ta có lẽ là một yếu tố tệ hại hơn hết, như thể nó đi đôi với vấn đề thiếu ý muốn chính trị vậy.
Một phần nào đáp ứng với lời nhận định trên, những lời “Các người sẽ không bao giờ, nhất định không bao giờ, được trở thành một kẻ ngoại cuộc” đã có lý để công bố ở Hội Nghị Diễn Đàn Stockholm đầu tiên. Diễn Đàn Stockholm đã trở thành phương tiện để đẩy mạnh một động cơ mới nơi cơ cấu Liên Hiệp Quốc trong việc đảm nhận việc thu thập tín liệu về các vi phạm hàng loạt nhân quyền; thông báo cho Hội Đồng Bảo An về những cảnh báo sớm sủa liên quan tới việc diệt chủng; nêu lên các lời khuyến dụ; và tăng bổ việc hợp tác giữa Hội Đồng Bảo An và vị tổng thư ký Liên Hiệp Quốc về các vấn đề liên quan tới việc diệt chủng. Một vị cố vấn đặc biệt cho vai trò tổng thư ký đã được bổ nhiệm và tiếp tục làm việc để điều hợp bốn công việc làm ấy.
Cuộc tranh luận lâu dài về vấn đề cải cách Liên Hiệp Quốc dẫn đến Thượng Nghị Thế Giới vào tháng 9 năm ngoái đã soạn thảo kỹ lưỡng, rồi sau đó đã được đưa vào chính bản văn kiện Đức Kết Thượng Nghị Thế Giới ấy, những hạn định về đạo lý và pháp lý được lương tri cùng với các cảm thức tân tiến khai triển về vấn đề đặc biệt này. Nó nhấn mạnh đến trách nhiệm bảo vệ như là những gì thiết yếu cho việc hiện hữu của bất cứ quốc gia nào. Đó là vấn đề về chủ quyền của một quốc gia cần phải được sử dụng như là một trách nhiệm chứ không phải chỉ duy là một thứ quyền lợi, và là vấn đề quốc gia giải thích cùng thực hành chủ quyền của mình một cách thích đáng khi nó sẵn sàng và tình nguyện đáp ứng trách nhiệm của nó đối với thành phần công dân của mình cũng như đối với cộng đồng quốc tế.
Theo truyền thống thì vấn đề được cho rằng mỗi quốc gia có trách nhiệm chính yếu trong việc bảo vệ dân chúng của họ khỏi những tội ác hay những thảm họa do con người gây ra, như cảnh diệt chủng, bị bỏ đói hay các thứ vi phạm nhân quyền. Mới đây hơn, quan niệm này đã được nhấn mạnh qua sự gia tăng thuận thảo là khi một quốc gia nào đó không thể hay không muốn can thiệp vào việc bảo vệ nhân dân của mình thì cộng đồng quốc tế do Liên Hiệp Quốc là đại diện chẳng những có quyền mà còn có nhiệm vụ nhúng tay vào can thiệp. Hiện nay thì những phương tiện can thiệp này thuộc về thẩm quyền của Hội Đồng Bảo An; hay có lẽ chính xác hơn khi nói rằng chúng ở trong tay của ý muốn chính trị các quốc gia.
Ý muốn chính trị cũng sẽ là những gì lệ thuộc vào xã hội dân sự nữa – vào quí vị và vào tôi.
Thảm thương thay, nạn diệt chủng vẫn còn là mối đe dọa ở một số miền đất trên thế giới, nơi mà các căn nguyên của nó cùng với những dấu hiệu lộ tẩy của nó không phải bao giờ cũng dễ dàng thấy được. Nó là những gì ngấm ngầm tiềm tàng ở những nơi mà việc loại trừ những gì chống đối được coi là một thứ ‘chữa trị mau chóng’ hầu đẩy lui những sự kình địch và những cuộc xung đột bất khả giải quyết; ở những nơi mà các mối liên hệ bất chính hiển nhiên như ban ngày giữa các phái nhóm được duy trì hay được biện minh bằng những thứ ý hệ; ở những nơi mà ở bên dưới cái bề nổi của một trật tự bề ngoại là cả một đống than hồng hận thù vẫn còn hừng hực vì thiếu việc thứ tha cho nhau và hòa giải với nhau; ở những nơi mà việc chấp nhận lỗi lầm quá khứ và việc ‘thanh tẩy ký ức’ bị cản trở bởi mối lo sợ phải đối diện với thực tại lịch sử. Đây không phải là những cảnh báo chính đáng này về một thứ đe dọa diệt chủng lơ lửng trên đầu mà thôi: tôi dám nói chúng còn là những yếu tố khả định trong việc nuôi dưỡng những căn nguyên gây ra nạn khủng bố nữa.
Chúng ta hãy hy vọng rằng, nhờ việc nhận thứ hơn nữa về các biến cố gần xa, toàn thể xã hội dân sự có thể đẩy mạnh ý muốn chính trị cần thiết là những gì sẽ cùng nhau mang đến những mãnh lực của thiện chí. Có thể, thực tại ở đằng sau những lời “Không Bao Giờ Nữa” cuối cùng mới có thể thấy được ánh sáng mặt trời, sớm hơn thay vì muộn hơn.
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày
26/4/2006
Về Những Chính Sách Dân Số Tập Trung Vào Con Người
Sau đây là nguyên văn bài diễn từ của Đức Tổng Giám Mục Celestino Migliore, quan sát viên thường trực kiêm lãnh sự của Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc trình bày hôm Thứ Tư 5/4/2006 trong khóa họp thứ 39 của Ủy Ban Về Dân Số Và Phát Triển Thuộc Hội Đồng Kinh tế Và Xã Hội.
Thưa Ông Trưởng Ủy Ban,
Trước hết đại biểu tôi xin lên tiếng chúc cho cơ quan này được tốt đẹp nhân dịp khóa họp thứ 39 của Ủy Ban Về Dân Số Và Phát Triển.
Có lẽ cũng nên nhắc lại sứ vụ của ủy ban này đã phát triển ra sao qua giòng thời gian. Trong những năm tháng qua, những dự đoán khốc liệt đối với việc kiến tạo tương lai và tính cách khả thủ của dân số toàn cầu được dự phóng về con người là những gì đã dẫn tới những chính sách về dân số có tính cách cực đoan, những chính sách phải chịu trách nhiệm về những vấn đề nan giải trầm trọng khác nhau song tương đương nhau, như những vấn đề hệ trọng gây ra bởi việc thụt giảm số sinh, cũng như việc tạo nên tình trạng bất quân bình giữa nam nữ về dân số, kèm theo những hậu quả về xã hội của nó. Nếu việc phát triển dân số trên thế giới vừa là những gì khả thủ và lành mạnh, thì những chính sách bất hảo ấy cần phải được thay thế bằng những chính sách thực sự tập trung vào con người.
Ngày nay, hoạt động của ủy ban này bao gồm việc xem xét những chiều hướng và những ảnh hưởng trên dân số và trên sự phát triển như vi khuẩn liệt kháng chưa từng biết đến 60 năm trước đây, và việc di dân của các dân tộc với những hậu quả tương hợp của họ. Trong lúc dân chúng nói chung trở nên già tuổi hơn ở thế giới phát triển thì hiện tượng di dân lại đang được xem xét ở một chiều hướng khác.
Mặc dù nó là một hiện tượng có tính cách lịch sử và xẩy ra khắp nơi khắp chốn, nhưng các nỗ lực giải quyết nó và kiểm soát nó bằng phương tiện chính trị và pháp lý không phải lúc nào cũng mang lại thành quả tốt đẹp. Vì lý do ấy, đại biểu tôi đây hoan hô việc soạn thảo những tín liệu và con số thiết thực cho các quốc gia hội viên sử dụng, nhờ đó họ có thể phán đoán một cách khôn ngoan và nhân đạo hơn trong việc giải quyết bất cứ vấn đề thực sự nào xuất phát từ vấn đề di dân.
Vì việc cấu trúc hiện nay của các quốc gia mà hiện tượng di dân bất khả tránh – thậm chí chúng ta có thể nói bất khả dừng – thường được coi như là một vấn đề cần phải giải quyết. Đôi khi nó còn được tưởng tượng như là một mối đe dọa và bị mạo dụng cho lợi lộc ngắn hạn về chính trị, với giá phải trả là các quyền lợi bẩm sinh nhất của tất cả con người – quyền được sống, quyền công dân, quyền làm việc và quyền phát triển. Đó là lý do, Cuộc Đối Thoại Cao Cấp tới đây về chủ đề này là những gì hết sức hay ho; thật thế, nó là một cuộc bàn luận đã quá hạn lâu rồi về vấn đề xã hội kéo dài cùng với những hậu quả xẩy ra cho con người vượt quá 191 triệu người hay hơn đang được coi là thành phần di dân.
Đối với những quốc gia tiếp nhận di dân thì ảnh hưởng chung cuộc về kinh tế của việc di dân quốc tế xét chung được nói là tích cực. Mặc dù sự hiện diện của thành phần di dân quốc tế có thể gây ra một ảnh hưởng nghịch đảo nho nhỏ về vấn đề lương lậu của thành phần không di dân, hay có thể gây ra vấn đề thất nghiệp khi lương lậu vẫn y nguyên không thay đổi, thì những ảnh hưởng ấy thường là nhỏ ở tầm cấp quốc gia. Trài qua khoảng thời gian trung hạn và dài hạn, việc di dân thậm chí còn có thể làm phát sinh ra công ăn việc làm và mang lại lợi nhuận tổng kết về tài chính nữa. Những cuộc nghiên cứu về tình trạng luống tuổi của dân số một cách nhanh chóng cho thấy rằng thành phần di dân có thế góp phần một cách chính yếu cho tình trạng giảm bớt gánh nặng về tài chính cho các thế hệ mai sau.
Ngoài ra, việc di dân của thành phần nhân viên tài khéo có thể trở thành những gì bất lợi cho viễn tượng phát triển của các quốc gia chính gốc, nhất là các quốc gia nhỏ đang phát triển bị mất đi những tỉ lệ cao về thành phần công dân tài khéo. Tuy nhiên, những người di dân tài khéo, thành phần vẫn gắn bó với quốc gia chính gốc của mình có thể kích thích việc chuyển giao về kỹ thuật và vốn liếng.
Vì vấn đề thai nghén thấp, việc tổng kết di dân tính 3 phần 4 việc phát triển dân số ở các quốc gia phát triển, và vào năm 2030, việc di dân có thể coi là tất cả việc phát triển về dân số ở các quốc gia ấy. Bởi thế, việc di dân không còn là một vấn đề về kinh tế nữa hay một vấn đề cần phải xem xét chỉ theo quan điểm hậu quả của nó đối với các quốc gia gửi tới. Cái trục trặc khác của vấn đề ở đây là ảnh hưởng về xã hội của việc di dân đối với các quốc gia đón nhận đang bị giảm sút mức độ sinh sản, giờ đây cũng cần phải được hiểu rõ ràng hơn nữa.
Những biến chuyển về nhân khẩu học nơi dân chúng ở một mức độ như thế chắc chắn sẽ gây ra những hậu quả cực đoan đối với toàn cấu trúc của các quốc gia, bởi vậy mà một mặt cần phải có một sự cân bằng về lợi ích hiển nhiên về vấn đề di dân, mặt khác phải quan tâm tới ảnh hưởng xã hội của con số đông đảo di dân nơi các quốc gia nhận lãnh, nhất là khi họ chưa hội nhập.
Ngoài ra, dường như đang có một nhận thức mỗi ngày một hơn là vấn đề di dân không thể nào lại là giải quyết duy nhất cho các vấn đề về nhân khẩu học và lao động của các quốc gia nhận lãnh.
Bản văn kiện Đức Kết Thượng Nghị Thế Giới có lý để công nhận mối quan hệ giữa vấn đề di dân quốc tế với việc phát triển cùng nhu cầu cần phải đương đầu với những thách đố và cơ hội gây ra bởi việc di dân cho các xứ sở chính gốc, các quốc gia tới đến và các quốc gia chuyển tiếp. Hy vọng rằng việc giải quyết được thể hiện bởi tất cả các nhà lãnh đạo trên thế giới trong việc thực hiện các biện pháp để bảo đảm vấn đề tôn trọng và bảo vệ các nhân quyền của thành phần di dân, thành phần lao động di dân cùng các phần tử thuộc gia đình họ sẽ được thực hiện cho lợi ích của tất cả mơi dân tộc bất kể là dân tộc nào.
Xin cám ơn Trưởng Ủy Ban
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 5/4/2006
Về Tình Trạng Bạo Hành Phạm Đến Nữ Giới
Hôm Thứ Năm mùng 2/3/2006, vị đại diện của Tòa Thánh là bà Marilyn Ann Martone đã lên tiếng ở khóa họp của Ủy Ban Thuộc Hội Đồng Kinh Tế Và Xã Hội Của Liên Hiệp Quốc Về Vị Thế Của Nữ Giới, một khóa họp để cứu xét các đề tài của Hội Nghị Thế Giới Lần Thứ Bốn Về Nữ Giới cũng như của khóa họp đặc biệt của Tổng Công Nghị về “Nữ Giới 2000: Vấn Đề Bình Đẳng Giống Tính, Phát Triển và Bình An Cho Thế Kỷ 21”. Sau đây là nguyên văn bài diễn từ của vị nữ đại diện.
Thưa Bà Trưởng Ủy Ban,
Nhân dịp khóa họp thứ 50 của Ủy Ban Về Vị Thế Của Nữ Giới, đại biểu tôi đây xin bày tỏ việc ghi nhận về vấn đề tiến bộ đã đạt được thuận lợi cho nữ giới trong những cuộc tranh luận và bàn cãi quan trọng này, cùng với những thoái bộ ở một số lãnh vực.
Thoáng nhìn lại , ủy ban này có thể cảm thấy mãn nguyện trước sự kiện gia tăng là các vấn đề về phụ nữ đã xuất hiện trên khấu trường chính trị thế giới. Điều này được thể hiện hùng hồn nhất nơi bản Văn Kiện Đúc Kết Thượng Nghị Thế Giới vừa rồi, một thượng nghị được các nhà lãnh đạo bày tỏ niềm xác tín của họ rằng ‘việc tiến bộ đối với nữ giới là việc phát triển đối với tất cả mọi người’.
Trong các vấn đề, Thượng Nghị Thế Giới này đã có lý để đề cao đến vấn đề liên thuộc của việc phát triển, bình an và an ninh cũng như nhân quyền. Ngoài ra, nó nhấn mạnh rằng, đối với thành phần lãnh đạo thì để có được một ảnh hưởng tích cực nơi đặc biệt thành phần nữ giới nghèo hơn và yếu kém hơn, họ còn cần phải xích lại với nhau bằng hoạt động chính trị khôn ngoan, cho lợi ích của tất cả mọi dân tộc trên thế giới.
Chúng ta không được lạc mất cái mục đích của ủy ban này, một ủy ban cần phải soạn dọn những khuyến dụ và các bản tường trình cho Ủy Ban Thuộc Hội Đồng Kinh Tế Và Xã Hội Của Liên Hiệp Quốc Về Vị Thế Của Nữ Giới để cổ võ quyền lợi của nữ gới nơi các lãnh vực về chính trị, kinh tế, dân sự, xã hội và giáo dục, hầu đạt được những quyền lợi bình đẳng của con người nam nữ, và đẩy mạnh tiến bộ về xã hội cùng với những tiêu chuẩn sống tốt đẹp tự do thoải mái hơn. Bản Hiến Chương của Liên Hiệp Quốc có lý để bảo đảm việc phát động vấn đề tôn trọng phổ quát đối với nhân quyền và việc tuân thủ các thứ nhân quyền cùng với các quyền tự do căn bản, cũng như việc sử dụng guồng máy quốc tế cho vấn đề gia tăng tiến bộ về kinh tế và xã hội của tất cả mọi dân tộc.
Bởi thế, những nỗ lực để thay thế những cái bất quân bình hiện hữu cần phải được thực hiện đúng lúc, một cách cương quyết và hết sức cẩn thận. Lý tưởng nhất đó là phác họa những chính sách để phục hồi mức thăng bằng và tính cách công bình cho các cơ cấu xã hội và chính trị làm sao để chính cái thành công của những cơ cấu này thuyết phục tất cả mọi người cùng nhau hoạt động hướng tới việc thực sự tiến triển của nữ giới. Tất cả những ai muốn ủng hộ việc tiến bộ của nữ giới cần phải theo đuổi sự tiến bộ này bằng lập luận có mãnh lực về luân lý của họ. Họ sẽ không bao giờ làm được như thế nếu họ cứ muốn liên kết quyền tự do, phẩm vị và tính cách bình đẳng của nữ giới với các chính sách thiếu lành mạnh làm què quặt sự tiến bộ thực sự của nữ giới trong những thời gian gần đây.
Về các đề tài phát triển và hòa bình, theo cuộc tranh luận của vấn đề kiểm điểm này thì những thách đố hiển nhiên đối với nữ giới và những em gái, nhất là ở các xứ sở bị chi phối bởi cuộc xung đột võ khí, bởi nghèo khổ hay bởi cả hai.
Trong bối cảnh ấy, đại biểu tôi đây ghi nhận là Năm Tiểu Tín Dụng mới kết thúc đã kéo chú ý tới việc thành công đáng kể của vấn đề tiểu tài chính, một cái gì đó đã gây ảnh hưởng đặc biệt tích cực cho phần lớn các hãng xưởng của nữ giới ở các nước đang phát triển. Đây là một hiện tượng đã được các Giáo Hội Công Giáo địa phương ủng hộ rất nhiều năm, qua những hoạch định song song cũng như qua những số nợ nhỏ bất chính thức cho thành phần nghèo có nhu cầu không đạt tiêu chuẩn của các cơ cấu về tài chính. Thật là phấn khởi khi thấy tính cách nhẫn nại của thành phần nữ giới nghèo, tính cách chân tình và việc chuyên cần của họ đã được tưởng thưởng như thế ở nhiều nơi, và thật là phấn khởi trước sự chú trọng tới việc cải tiến các cơ cấu là những gì sẽ trợ giúp vào việc thành đạt rộng rãi và liên tục của các sáng kiến mới về lãnh vực này.
Vấn đề không còn nghi hoặc mấy nữa đối với việc vào năm 2050 chúng ta sẽ bất ngờ chứng kiến thấy cái mầu xám của dân số thế giới trong lịch sử được ghi nhận của nhân loại cho đến nay. Nữ giới nói chung vẫn sống lâu hơn nam giới, thế nhưng những người phụ nữ lão thành đôi khi cảm thấy tủi nhục vì bị coi thường bởi thành phần lập pháp và các cơ quan được lập nên để chăm sóc cho các mối quan tâm của nữ giới. Bởi thế, cần phải tái cứu xét những chính sách nhắm tới phụ nữ lão thành, những người thường đã chăm sóc cho kẻ khác trong thời thành nhân của mình, và là những người theo đức công bình phải nhận được việc trợ giúp xứng hợp theo công khó của họ.
Đối với thành phần di dân, nói chung, họ là thành phần tiêu biểu cho 2.9% dân số thế giới, tức khoảng 185-192 triệu người, gần nửa là phụ nữ. Thường xẩy ra là thành phần di dân nữ giới đã trở thành nguồn lợi tức chính yếu cho gia đình của họ. Các cơ hội cho công ăn việc làm thông thường nhất đối với nữ giới, ngoài công việc nội trợ, là ở chỗ giúp người già, chăm sóc bệnh nhân và làm việc ở các khách sạn. Cả ở những lãnh vực này nữa cần phải bảo đảm việc đối xử công bình đối với thành phần nữ giới di dân, vì tôn trọng nữ tính của họ, tỏ ra công nhận quyền bình đẳng của họ.
Về một vấn đề liên hệ, đó là việc buôn bán con người đã đặc biệt có một ảnh hưởng tiêu cực đối với nữ giới. Trong một số trường hợp, có những phụ nữ và em gái bị khai thác hầu như là thành phần nô lệ cho việc làm của họ, và thường cả trong kỹ nghệ tình dục nữa. Thứ văn hóa phấn khích việc khai thác tình dục có tổ chức lan tràn thiếu lành mạnh cho xã hội và cần phải giải quyết không phải chỉ bằng lời nói xuông.
Có lẽ chúng ta cần phải thêm ở đây là, trong các cuộc xung đột vũ khí, nữ giới và các em gái là thành phần nạn nhân của việc hiếp dâm có tổ chức cho các mục đích chính trị. Những ai cho phép, khuyến khích hay ra lệnh những hành động như thế đáng bị trừng phạt cùng với những thủ phạm trực tiếp gây ra các tội ác ấy, ngoài ra cần phải tôn trọng việc bảo vệ nữ giới theo Khoản 27 của Công Ước Geneva Thứ 4, cũng như các Nghị Định Thư Phụ Thêm I và II.
Một lần nữa Tòa Thánh mạnh mẽ lên án việc bạo hành tình dục thường nhắm vào nữ giới và nữ nhi, cùng khuyến khích việc ban hành các luật lệ để bênh vực họ cách hiệu lực cho khỏi những hành động bạo lực ấy. Nhân danh việc tôn trọng cần phải đó đối với con người, chúng ta cũng không quên lên án thứ văn hóa đang lan tràn khuyến khích việc khai thác tình dục có tổ chức và làm băng hoại ngay cả các em nữ nhi rất trẻ trong việc sử dụng thân xác của các em cho lợi lộc của một thứ kỹ nghệ 3 tỉ Mỹ kim trên khắp thế giới.
Phong trào nữ giới đã được diễn tả như là ‘một đại tiến trình giải phóng nữ giới’. Cuộc hành trình này là một cuộ chành trình khó khăn và phức tạp, có những lúc, không thế tránh được lầm lỗi. Thế nhưng nó chính yếu là một phong trào có tính cách tích cực, cho dù nó vẫn chưa được hoàn thành, vì tất cả mọi con người thành tâm thiện chí sẽ nỗ lực làm cho nữ giới được công nhận, tôn trọng và tri ân theo phẩm vị riêng biệt của họ.
Xin cám ơn Bà Trưởng Ủy Ban
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 3/3/2006
Với Hội Nghị của Cơ Quan Lương Nông
Sau đây là nguyên văn bài diễn văn của Đức Ông Renato Volante, quan sát viên thường trực của Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc, ngỏ cùng cơ quan Lương Nông của Liên Hiệp Quốc ngày 31/1/2006, tại cuộc họp theo miền cho Phi Châu, được tổ chức tại Mali trong thời khoảng 30/1-3/2/2006.
Thưa Ông Chủ Tọa,
Thưa Ông Tổng Giám Đốc, Quí Bà và Quí Ông,
1. Ngỏ lời cùng hội nghị theo miền của cơ quan Lương Nông LHQ lần thứ 24 này, trước hết tôi muốn bày tỏ cùng Ông Bộ Trưởng Canh Nông của cộng hòa Mali những lời chúc mừng từ phái đoàn đại biểu của Tòa Thánh nhân dịp ông được chọn đóng vai trò chủ tọa, kèm theo lời cám tạ về việc tiếp đón tử tế được chính phủ của ông bày tỏ với cuộc hội nghị này.
Bản thân tôi cũng lợi dụng dịp này để lập lại cùng vị tổng giám đốc là Ông Jacques Diouf việc chúng tôi trân trọng và thành thật ủng hộ trách vụ của ông. Qua việc bày tỏ này tôi muốn khẳng định việc Tòa Thánh chú trọng tới các nỗ lực của ông nhắm vào vấn đề hiệu năng hơn nữa cho các hoạt động của cơ quan Lương Nông, cũng như tới việc ông chú trọng đặc biệt đến tình hình Phi Châu, cách riêng đến các quốc gia kém phát triển Phi Châu.
Việc tôi có mặt trong cuộc họp cao cấp này là những gì cho thấy việc Tòa Thánh chú tâm tới tất cả mọi hoạt động của cơ quan Lương Nông, bao gồm cả các hoạt động ở cấp miền. Thật vậy, việc tham dự này khiến Tòa Thánh chẳng những trực tiếp biết được những vấn đề canh nông khác nhau cũng như đến đời sống của các cộng đồng thôn quê, mà còn phấn khích các quốc gia phần tử trong miền và nhân viên cơ quan Lương Nông trong việc hoàn trọn các trách nhiệm nhắm tới việc bảo toàn nền an ninh thích hợp về thực phẩm. Điều này thực sự là quan trọng đối với các mục tiêu nồng cốt trong việc giải phóng cá nhân cũng như cộng đồng khỏi cảnh đói khổ và tình trạng thiếu dinh dưỡng.
2. Phái đoàn đại biểu của Tòa Thánh, đối với các khoản chính yếu của chương trình nghị sự, muốn được góp ý của mình.
Với sự có mặt của mình về phương diện quốc tế, Tòa Thánh hoàn toàn được thôi thúc mong muốn cống hiến cho toàn thể gia đình nhân loại việc phục vụ của mình. Bởi thế, Giáo Hội muốn khẳng định mối quan tâm xây dựng cho con người, việc Giáo Hội chú trọng tới các nhu cầu của con người, bắt đầu với quyền lợi căn bản là được dinh dưỡng, một quyền lợi là yếu tố thiết yếu của quyền sống.
Việc bảo vệ sự sống trong tất cả mọi trường hợp là những gì phản ảnh mục đích bảo vệ thành phần bất lực nhất, cũng như những ai không thể bảo vệ lấy mình. Về vấn đề này, Tòa Thánh khuyến khích tất cả mọi hành động – ở cấp nội bộ hay quốc tế – hướng tới việc bảo toàn sự sống bằng luật lệ và các chương trình. Giáo Hội đồng thời cũng khuyến dụ tất cả mọi người nam nữ hãy trung thành chấp nhận khía cạnh tích cực đối với sự sống, như là một thứ thừa nhận chính về trật tự tự nhiên là thứ trật tự làm cho mọi người hoàn toàn nhận thấy được phẩm vị nồng cốt của mình theo quan điểm thiêng liêng lẫn vật chất”.
Tầm vóc rất quan trọng của chiều kích toàn diện về sự sống con người, cả cho đến ngày nay nữa, được căn cứ vào những thứ giá trị và các nền văn hóa đặc biệt của Phi Châu. Bởi thế cần phải thực hiện việc hợp tác liên chính quyền, bao gồm cả việc hợp tác được áp dụng khắp lục địa Phi Châu, trong việc công nhận gia sản truyền thống, và không áp dụng, qua các luật lệ hay dự án, tỏ tường chủ trương và thực hành chống lại sự sống.
3. Đường lối bao hàm việc hợp tác quốc tế là những gì cần thiết cho việc phát triển và tăng trưởng của các dân tộc và các xứ sở. Theo quan điểm này thì nhu cầu dường như xuất phát từ chương trình nghị sự của hội nghị này đó là nhu cầu cống hiến cho các hoạt động của cơ quan Lương Nông ở Phi Châu một động lực liên tục hơn nữa, một tác lực không dừng lại ở các dữ kiện về kỹ thuật mà còn có thể làm cơ quan này vững chắc với một quan điểm đạo lý. Các xứ sở Phi Châu, bằng việc hợp tác chặt chẽ với cơ quan Lương Nông này, đều được kêu gọi để phác họa những sách lược nào có thể thiết dựng được một cách khả thủ cuộc sống, môi sinh, gia tăng lợi tức, an toàn về lương thực và việc sản xuất nông nghiệp, nhưng trước hết nó phản ảnh về cách thức làm thế nào dân chúng có thể thoát khỏi và ở bên ngoài tình trạng kém phát triển.
Về vấn đề này, chúng ta thấy có liên hệ chặt chẽ với việc chiếm đạt Các Mục Đích Phát Triển Ngàn Năm ở miền đất này để nhổ tận gốc rễ tình trạng nghèo khổ và thiếu dinh dưỡng, một mục tiêu dường như cho thấy nhu cầu thiết yếu cần phải củng cố hết mọi hoạt động nơi lãnh vực lương nông, nhất là cần phải tái xét theo chiều hướng thực sự bất cân bằng được tỏ hiện nơi tình trạng này. Điều này được thành đạt khi quan tâm tới những kinh nghiệm khác nhau và những thể lệ hay thực hành khác nhau xuất phát từ những giá trị Phi Châu đích thực.
4. Cơ quan Lương Nông đặc biệt mời gọi chúng ta hãy chú ý tới tầm quan trọng của những hạt giống ở Phi Châu đối với việc gia tăng việc sản xuất nông nghiệp và những chương trình dinh dưỡng ở miền đất này. Cần phải thực hiện điều này trong khi vẫn lưu ý tới những thách đố được tiêu biểu nơi những ngành kỹ nghệ về hạt giống bị việc bảo vệ về pháp lý và kỹ thuật của những ngành kỹ nghệ này, việc bảo vệ giới hạn vấn đề có được kho dự trữ đa sinh chất. Nhiều loại thu hoạch lương thực thường có tính cách rất quan trọng ở các truyền thống về thực phẩm cũng như ở những tiến trình về kinh tế, như được thấy nơi thể chế nông nghiệp, nơi các phương pháp trồng tỉa, nơi việc sản xuất, nơi việc buôn bán và nơi việc tiêu thụ. Ngoài ra, ngày nay chúng ta có thể nhận thấy vai trò của phương pháp bảo trì và quản thủ hạt giống một cách khôn ngoan được cơ quan Lương Nông Liên Hiệp Quốc phác họa, qua cơ quan Quan Sát Phi Châu và Chương Trình Kỹ Thuật Sinh Học đặc biệt, tham gia vào hoạt động chung để giảm bới tình trạng nghèo khổ và thiếu dinh dưỡng.
Thật vậy, đối với chúng ta dường như tình trạng bấp bênh về lương thực này đã trở thành trầm trọng hơn. Đó là vì việc phát triển của các hệ thống sản xuất càng ngày càng liên quan tới việc chiếm giữ và chính sách về đất đai, tới những phương pháp có tầm cỡ lớn, cũng như đến tình trạng suy giảm về môi trường, một tình trạng, đối với canh nông, liên quan tới, “inter alia”, tới việc suy giảm về đất đai cùng việc khan hiếm nước nôi. Theo chiều hướng của những thứ thách đố này, bao giờ cũng cần phát triển hơn nữa hoạt động qui tụ, qua Chương Trình Hành Sự của Hội Nghị Quốc Tế tới đây về Vấn Đề Canh Tân Nông Nghiệp Và Việc Phát Triển Nông Thôn, cũng như bằng những phương pháp được phác họa bởi tổ chức Tân Hợp Tác Cho Việc Phát Triển Phi Châu (NEPAD: New Partnership for Africa's Development), trong việc cống hiến vấn đề trợ giúp khả năng xây dựng về kỹ thuật để cổ võ việc phát triển các cộng đồng nông gia.
Thưa Ông Chụ Tọa,
5. Khi nhìn nhận nỗ lực đặc biệt này, tôi xin khẳng định tính cách sẵn sàng của Giáo Hội Công Giáo, nơi các lãnh vực và cơ cấu khác nhau của mình, trong việc cộng tác vào các hoạt động nhân bản hóa ở những thực tại đói khổ, kém phát triển và nghèo khổ. Đến đây xin cho tôi được nhắc lại công việc được cảm mến rất nhiều của thành phần nam nữ, tu trì và giáo dân, thành phần hiến đời mình chẳng những loan truyền tín lý của chúng tôi, mà còn cho công việc nhẫn nại cùng kiên trì để trợ giúp về xã hội và giáo dục nữa – một việc ủng hộ nâng đỡ được coi chẳng những như là việc cung cấp mà còn như là một nguồn hứng khởi lý tưởng và thực tế.
Thật vậy, trong việc bảo đảm cho mọi người khả năng có được một tiêu chuẩn thích đáng và tốt đẹp đối với vấn đề an toàn về lương thực, mỗi người chúng ta trở thành một tham dự viên trong đại dự án của Việc Tạo Dựng, và có cơ hội để gieo trồng các thứ giá trị trước những lợi lộc, theo các nguyên tắc sâu xa về nhân loại và về công lý.
Xin cám ơn ông.
Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày
13/2/2006
Sau đây là nguyên văn bài diễn văn của ĐTGM Celestino Migliore, quan sát viên thường trực của Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc, ngỏ cùng phiên họp thứ 44 của Ủy Ban Phát Triển Xã Hội của Hội Đồng Kinh Tế và Xã Hội của Liên Hiệp Quốc. Ủy Ban này đang gặp nhau để kiểm điểm lại các thành quả của “Thập Niên Nhổ Tận Gốc Rễ Tình Trạng Bần Cùng” đầu tiên, một khởi xướng của Hiệp Chủng Quốc bao gồm từ năm 1997 đến 2006.
Thưa Ông Trưởng Ban,
Thật sự là tỷ lệ dân số trên thế giới sống trong cảnh cùng khổ đã giảm xuống từ 40% đến 21% giữa thời khoảng 1981-2001, thế nhưng vẫn còn cao đối với quá nhiều xứ sở và dân chúng sống trong cảnh nghèo khổ khá cao.
Bởi thế Tòa Thánh hoan hô việc kiểm điểm về Thập Niên thứ nhất của Liên Hiệp Quốc về vấn đề Nhổ Tận Gốc Rễ Tình Trạng Nghèo Khổ, và có lời khen ngợi những tác giả thực hiện bản tường trình về vấn đề tiến triển này, một bản tường trình đáng giá và vô tư, một bản tường trình nhấn mạnh tới những chướng ngại cùng những thách đố chính vẫn cần phải vượt qua để đạt tới Các Mục Đích Phát Triển Ngàn Năm là nhổ tận gốc rễ cảnh bần cùng và đói khổ. Phái đoàn đại biểu chúng tôi cũng ủng hộ ba điều đề nghị trong bản kiểm điểm này.
Mặc dù bản kiểm điểm có lý để nhấn mạnh tới tình trạng tiến bộ phấn khởi đang diễn tiến nơi việc giảm nghèo ở một số các quốc gia Á Châu, nó cũng cho thấy một hình ảnh toàn cầu lẫn lộn, với một Phi Châu vùng hạ mạc Sahara hơi có hay chẳng có tiến bộ trong việc giảm bớt phạm vi nghèo khổ ở thập niên 1990.
Nếu tiếp tục chiều hướng ấy thì chỉ có 8 quốc gia Phi Châu mới giảm phân nửa nghèo khổ vào năm 2015. Thật thế, như Ngân Hàng Thế Giới nhận định, mức độ bị hụt hẫng tiếp tục ở mức độ báo động khi số người Phi Châu hiện đang sống chưa đầy 1 Mỹ kim mỗi ngày gần tăng gấp đôi từ năm 1980, từ 165 triệu tới 315 triệu người.
Thực trạng nghèo khổ nghiệt ngã ngày nay ấy đòi cộng đồng thế giới phải thực hiện những nỗ lực mới. Cần phải thực hiện một hoạch định tam diện cho các quốc gia đang phát triển, đó là cải tiến những khoản thương vụ; tăng gấp đôi việc rat ay cứu trợ; cống hiến việc giảm nợ nần hơn nữa.
Những bài học từ kinh nghiệm của một số quốc gia phát triển, nhất là ở Á Châu, đã làm sáng tỏ vấn đề là việc giảm bớt tình trạng nghèo khổ nhanh chóng không thể xẩy ra nếu thiếu việc phát triển về kinh tế khả thủ, một việc phát triển giúp cho người nghèo được thông hưởng những lợi lộc một cách công bằng.Bởi vậy, thành phần lãnh đạo các quốc gia đang phát triển cần phải được khích lệ và hỗ trợ trong việc theo đuổi thực hiện những chính sách giúp cho xứ sở của họ đạt được mức độ phát triển kinh tế cao hơn mức độ đã đạt tới từ năm 2000.
Về vấn đề liên quan giữa việc nhổ tận gốc rễ tình trạng nghèo khổ và bất quân bình thì phái đoàn đại biểu chúng tôi tin rằng, cần phải chú trọng hơn nữa tới những thứ bất quân bình trong và giữa các xã hội, cũng như chú ý tới cả các mức độ lợi tức thấp.
Những cái khác biệt này có thể là những gì khiến cho con người nam nữ nhìn tới những nơi nào khác có công ăn việc làm thu nhập khá hơn, và có thể đưa đến chỗ mất đi thành phần lao nhân có năng khiếu lẫn không có năng khiếu, thường gây tai hại cho nền kinh tế của các quốc gia đang phát triển, cho dù có kiếm được những sản phẩm phụ như việc chuyển tiền về nước chẳng hạn. Việc nhổ tận gốc rễ tình trạng nghèo khổ và việc phát triển công bằng về xã hội hơn nữa cần phải bao gồm cả phương tiện thu hút và bảo trì hết mọi thứ lao công.
Các thành quả từ đó là những gì quan hệ, song chúng vẫn là những gì khó nắm bắt đối với nhiều quốc gia. Như bản kiểm điểm nhấn mạnh, vấn đề tiến bộ trong việc nhổ tận gốc rễ tình trạng nghèo khổ thiếu hụt những gì cần thiết đặc biệt ở những quốc gia nghèo nhất, chính là vì việc áp dụng thi hành yếu kém. Điều này đòi cộng đồng quố ctế chú trọng tới hơn nữa, trong việc kiến tạo khả năng cần thiết, và giúp cho việc áp dụng cách hiệu nghiệm các chương trình đầu tư công cộng cần cho việc chiếm đạt những mục đích nhổ tận gốc rễ tình trạng nghèo khổ.
Tóm lại, Tòa Thánh tiếp tục thấy vai trò chính yếu của ECOSOC trong vấn đề kiểm tra tình trạng tiến bộ đối với việc chiến đạt các Mục Tiêu Phát Triển Ngàn Năm nơi các quốc gia nghèo khổ nhất. Bởi vậy việc kiểm xét này cần phải thực hiện hằng năm, vì năm 2015 đã không còn xa xôi là bao. Ở những quốc gia ấy xẩy ra vấn đề tiến bộ tiếp tục giảm sút thì cần phải phác họa những dự án hoạt động đặc biệt cho từng xứ sở, bao gồm việc tham gia của cả các chính phủ liên hệ cũng như cộng đồng viện trợ.
Những dự án ấy cần phải đề cập tới những vấn đề hạn hẹp về phương tiện, những vấn đề áp dụng khó khăn, cùng với các vấn đề khác cần phải được thắng vượt để bảo đảm việc chiếm đạt đúng lúc các mục tiêu nhổ tận gốc rễ tình trạng nghèo khổ.
Xin cám ơn Ông Trưởng Ban
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 10/2/2006