TÒA THÁNH VATICAN TẠI LIÊN HIỆP QUỐC 2007

 

ĐTGM Dominique Mamberti, Bí Thư Bộ Ngoại Giao của Tòa Thánh, phát biểu ở Tổng Hội Nghị LHQ lần thứ 62 ở Nữu Ước ngày 1/10/2007 tổng quan về những vấn đề tranh luận chính yếu

“Tương Lai ở trong Tay Chúng Ta: Giải Quyết Thánh Đố Vai Trò Lãnh Đạo về Tình Trạng Thay Đổi Khí Hậu”

ĐTGM Celestino Migliore Đại Diện Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc Nữu Ước Hoa Kỳ với Khóa Họp 61 của Tổng Hội Đồng LHQ, ngày 22/5/2007 về thành quả việc áp dụng bản tuyên ngôn quyết tâm đối với Hội Chứng Liệt Kháng và Vi Khuẩn Liệt Kháng của khóa họp đặc biệt thứ 26.

ĐTGM Silvano Tomasi Đại Diện Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc Geneva Thụy Sĩ: Bài diễn văn tại Hội Nghị Sức Khỏe Thế Giới ngày 14-23/5/2007, nhan đề “Tòa Thánh và Những Thách Đố Mới trong Việc Cổ Võ Sức Khỏe”.

ĐTGM Celestino Migliore Đại Diện Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc Nữu Ước Hoa Kỳ với Khóa Họp thứ 6 của diễn đàn thường trực ngày 14/5/2007 về những vấn đề bản xứ của Hội Đồng Kinh tế và Xã Hội với đề tài Lãnh Thổ, đất đai và các nguồn nhiên liệu.

Tiến Sĩ Mary Ann Glendon, chủ tịch Giáo Hoàng Học Viện Về Các Khoa Xã Hội Học, hôm 10/5, trước hội đồng Tổng Nghị LHQ về vấn đề tôn giáo trong xã hội hiện đại, với bài nói nhan đề “Những Viễn Ảnh về Những Mối Liên Hệ Xuyên Văn Hóa và Liên Tôn trong Xã Hội Hiện Đại”. 

ĐTGM Celestino Migliore Đại Diện Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc Nữu Ước Hoa Kỳ với Khóa Họp 15 của Ủy Ban đặc trách Vấn Đề Phát Triển Khả Trợ của Hội Đồng Kinh Tế và Xã Hội, ngày 10/5/2007 về “Việc Biến Những Quyết Tâm Chính Trị Thành Hành Động, Cùng Nhau Hoạt Động Trong Tình Liên  Đới”

ĐTGM Celestino Migliore Đại Diện Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc Nữu Ước Hoa Kỳ với khóa họp lần thứ 40 của Ủy Ban về Dân Số và Phát Triển của Hội Đồng Liên Hiệp Quốc về Kinh Tế và Xã Hội ngày 10/4/2007

“Để theo đuổi việc bênh vực các quyền lợi của các em cũng như việc loại trừ đi tất cả mọi hình thức vi phạm tới các em vẫn còn là một thách đố về cơ cấu đối với cộng đồng quốc tế”

Hồng Y Quốc Vụ Khanh đại diện ĐTC gửi sứ điệp cho ông Jacques Diouf tổng giám đốc Tổ Chức Lương Nông LHQ ở Rôma về Ngày Nước Thế Giới, 22/3/2007

“Việc tôn trọng tôn giáo nghĩa là tôn trọng những ai đã chọn theo tôn giáo ấy và thực hành tôn giáo ấy một cách tự do an lành, ở nơi riêng cũng như chung, một cách cá nhân cũng như cộng thể”.

“Đau Khổ cuối cùng chỉ hành khổ hết mọi người thôi”.

“Việc cổ võ vấn đề bình đẳng và tăng quyền hạn của nữ giới”

“Cùng với việc minh định hợp lý về những thứ quyền lợi của nữ giới còn cần phải thiết định một cảm nhận mới mẻ về những giá trị đích thực của nữ giới giữa lòng của các xã hội nữa”

“Việc làm là yếu tố chính yếu cho tất cả vấn đề về xã hội, và là điều kiện chẳng những cho vấn đề phát triển xã hội mà còn cho vấn đề phát triển văn hóa cùng luân lý của tất cả mọi người nữa”

“Bằng việc cùng nhau tiến bước trên con đường đối thoại, tôn trọng, chính trực và yêu thương, chúng ta có thể chiếm được ngay hôm nay đây tặng ân hòa bình của Thiên Chúa”

 

 

 

 

 

ĐTGM Dominique Mamberti, Bí Thư Bộ Ngoại Giao của Tòa Thánh, phát biểu ở Tổng Hội Nghị LHQ lần thứ 62 ở Nữu Ước ngày 1/10/2007 tổng quan về những vấn đề tranh luận chính yếu

 

Thưa Ông Chủ Tịch,

 

Tòa Thánh lợi dụng dịp này để chúc mừng việc ông được tuyển chọn và mong được làm việc với ông. Đồng thời tôi hân hoan chào mừng vị tổng thư ký, Ông Ban Ki-Moon, chúc ông gặt hái tốt đẹp trong cả khóa Tổng Hội Nghị lần đầu tiên này của ông.

 

Non một năm trước đây, Tổng Hội Nghị này đã chấp thuận dự án đổi mới các Cơ Quan Đầu Não của Liên Hiệp Quốc đây. Việc đổi mới bề ngoài này dường như là một nhắc nhở thích đáng chư quốc về nhu cầu cần phải liên lỉ đổi mới trong việc theo đuổi những mục tiêu cao cả đã từng tác động việc thàn h lập nên tổ chức Liên Hiệp Quốc đây.

 

Sáu mươi hai năm trước đây, Liên Hiệp Quốc đã được thành lập để cứu các thế hệ mai hậu khỏi tai ương chiến tranh, để tái khẳng định niềm tin tưởng vào các quyền lợi căn bản của con người cũng như vào phẩm vị cùng giá trị của con người, để bảo đảm việc tôn trọng luật lệ quốc tế và để cổ võ việc phát triển về xã hội trong tự do phổ quát. Ngày nay, một lần nữa, chúng ta cần phải tái khẳng định những thứ giá trị ấy trong việc tung ra một “chối từ” mạnh mẽ với chiến tranh và một “chấp nhận” mạnh mẽ không kém với phẩm vị con người.

 

Vấn đề đối thoại và hợp tác giữa các quốc gia

 

Lời mở đầu của Bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, khi nói tới các  quyền lợi căn bản và phẩm vị của con người, đã sử dụng tiếng “tin tưởng” và nối kết nó với vấn đề đối thoại và hợp tác giữa các quốc gia. Như thế, vấn đề được khẳng định là có một điều gì đó chân thật phổ quát và siêu việt về con người cũng như về phẩm vị bẩm sinh của họ, một phẩm vị chẳng những có trước tất cả mọi hoạt động chính trị, mà còn định thân đến nỗi không một ý hệ quyền lực nào có thể loại trừ được nó.

 

Cái phẩm vị bẩm sinh này cũng quyết định tấm mức chính đáng nơi các thứ lợi lộc của quốc gia là những gì không bao giờ được coi là tuyệt đối, và để bênh vực những lợi lộc ấy chẳng những không bao giờ có quyền tác hại tới những lợi lộc hợp lý của các quốc gia khác mà còn đồng thời phải giúp cổ võ công ích cho tất cả mọi dân tộc nữa.

 

Bởi thế mà việc tôn trọng phẩm vị con người là nền tảng sâu xa nhất về đạo lý trong việc tìm kiếm hòa bình và xây dựng các mối liên hệ quốc tế tương xứng với những nhu cầu và niềm hy vọng đích thực của tất cả mọi dân  tộc trên  trái đất này. Quên lãng, hay chấp nhận một cách bán phần và chọn lựa, nguyên tắc trên là những gì trở thành căn nguyên gây ra các cuộc xung đột, gây ra tình trạng băng hoại môi trường và những thứ bất công về xã hội và kinh tế.

 

Những cuộc khủng bố tấn công đã từng đánh dấu việc mở màn cho thế kỷ 21 đã gợi lên những cái nhìn bi quan về nhân loại, căn cứ vào một cuộc đụng chạm cần phải xẩy ra giữa các nền văn minh. Có những lúc dân chúng đáp ứng bằng việc trở về với những hình thức quá khích của chủ nghĩa quốc gia, hay bằng việc chính đáng hóa vấn đề sử dụng võ lực, hoặc bằng viê Có những lúc dân chúng đáp ứng bằng việc trở về với những hình thức quá khích của chủ nghĩa quốc gia, hay bằng việc chính đáng hóa vấn đề sử dụng võ lực, hoặc bằng việc tương đối hóa hơn nữa những thứ giá trị thiết yếu gắn liền với phẩm vị con người – đặc biệt là các quyền  sống và quyền tự do tôn giáo.

 

Ngày nay, cặp bài trùng “văn hóa và tôn giáo” càng ngày càng được nghe nói đến ở công nghị này đây. Tòa Thánh hoan nghênh sáng kiến tổ chức Việc Đối Thoại Cao Cấp về Kiến  Thức Liên Tôn và Liên Văn Hóa và về Việc Cộng Tác cho Hòa Bình, là những gì chẳng bao lâu nữa sẽ diễn ra ở nơi đây dưới thời chủ tịch của ngài. Thật vậy, vấn đề đối thoại giữa các dân tộc thuộc những nền văn hóa và tôn giáo khác nhau không phải là một cái gì tùy ý; nó là một điều bất khả châm chước cho hòa bình cũng như cho việc canh tân đời sống quốc tế.

 

Tòa Thánh hy vọng rằng cái thiện ích gia tăng nơi phần của những cơ cấu và tổ chức phi tôn giáo sẽ góp phần vào việc tôn trọng hơn nữa cho quyền tự do tôn giáo ở khắp mọi nơi. Ngày nay, quyền tự do tôn giáo tiếp tục bị khinh thường, thậm chí còn bị vi phạm ở một số nơi. Việc vi phạm như thế đã trở thành tấm bình phong cho các hình thức kỳ thị khác nhau.

 

Nếu các vị lãnh đạo và thành phần tín đồ tôn giáo mong đợi các quốc gia và xã hội tôn trọng họ và công nhận tôn giáo của ho thực sự là dụng cụ của hòa bình, thì chính họ cần phải tỏ ra tôn trọng tự do tôn giáo;  họ cần phải tỏ ra rằng họ quyết cổ võ hòa bình và lán h xa bạo lực; họ cần phải chứng tỏ rằng tôn giáo không phải là và không được trở nên một thứ bình phong cho tình trạng xung khắc; và họ cần phải minh bạch công bố rằng vấn đề cổ võ cho bạo động hay gây ra chiến tranh nhân danh tôn giáo là một thứ mâu thuẫn trắng trợn. 

 

Bình an và an ninh

 

Thưa Ông Chủ Tịch,

 

Ở giữa ngã ba đường đầy những khó khăn mà chính nhân loại đang gặp phải ngày nay đây, thì việc sử dụng võ lực không còn tiêu biểu cho một thứ giải quyết khả chấp nữa. Cần phải giúp cho Hội Nghị về Việc Giải Giới thoát được cái ngõ bí đã làm cho nó trở thành uể oải hơn một thập niên qua, giải tỏa được Hiệp Ước về Vấn Đề Bất Leo Thang Các Thứ Vũ Khí Nguyên Tử cho khỏi tình trạng căng thẳng càng ngày càng được nói tới gần đây, và đẩy mạnh việc nhìn nhận giá trị của Hiập Ước Cấm Thử Nghiệm Nguyên Tử Toàn Diện.

 

Việc năm nay mừng kỷ niệm 50 năm vấn đề hiệu lực hóa Đạo Luật về Cơ Quan Nguyên Tử Lực Quốc Tế là một cơ hội thích hợp nhất để tái khẳng định quyết tâm của chúng ta cho một tương lai an bình, nhờ việc bất leo thang các thứ vũ khí nguyên tử, việc giảm bớt và hoàn toàn giải giới các thứ vũ khí nguyên tử hiện hữu, và việc sử dụng kỹ thuật nguyên tử một cách an toàn và hòa bình.

 

Hơn nữa, cơ quan này cần phải thực hiện những việc hơn thế nữa trong vấn đề kiểm soát các thứ vũ khí trong ngành những thứ khí giới công ước, bao gồm cả những thứ khí giới có nòng nhỏ và các thứ vũ khí nhẹ. Tòa Thánh muốn liên kết với tất cả mọi lời kêu gọi nhấn  mạnh tới tầm quan trọng của việc chấp thuận một đường lối chung, nhắm đến chỗ chiến đấu chẳng những việc di chuyển bất hợp pháp những thứ khí giới ấy, mà còn cả n hững hoạt động liên hệ khác, như việc khủng bố, như tội ác có cơ cấu, việc chuyên chở thuốc phiện và những nguyên chất liệu quí báu.

 

Một lãnh vực quan trọng khác được Tòa Thánh thôi thúc cộng đồng quốc tế ra tay thực hiện một cách nghiêm chỉnh và hiệu nghiệm đó là lãnh vực “các thứ đạn dược dính chùm”. Việc đáp ứng nhanh chóng cho vấn đề này đang trở thành một trách nhiệm về đạo lý, vì cái giá nặng nơi sự sống con người , vì đa số các nạn nhân là thường dân nhất là trẻ em.

 

Việc Ngăn Ngừa, Việc Gìn Giữ Hòa Bình và Việc Xây Dựng Hòa Bình

 

Tổ chức này nhiều lần đã bày tỏ việc sẵn sàng cống hiến phương tiện hơn nữa cho việc ngăn ngừa xung đột, nhất là trong lãnh vực điều đình. Về vấn đề này, Tòa Thánh đặc biệt chú ý tới các nỗ lực của Phân Bộ Chính Trị Vụ trong việc thiết lập một nhóm đặc trách điều đình chuyên nghiệp, như một phần nơi mục tiêu nhắm tới của vị tổng bí thư trong việc sử dụng hiệu nghiệm hơn những phần vụ tốt đẹp của mình để ngăn ngừa xung khắc.

 

Trong khi việc tăng bội những hoạt động hòa bình có thể bao gồm cả sự thất bại trong việc ngăn ngừa tình trạng xung khắc không bùng phát thành những cuộc xung đột hoàn toàn bằng võ khí, thì nó cũng là một dấu hiệu  của lòng tin tưởng được cộng đồng quốc tế đặt nơi những guồng máy của Liên  Hiệp Quốc cũng như vào việc hợp tác của những guồng máy này với các cơ quan theo miền. 

 

Theo chiều hướng ấy, chúng ta hướng đến một ngày mà những nỗ lực gìn giữ hòa bình ở Darfur cuối cùng sẽ được hoàn toàn hoạt động.

 

Tôi muốn nhớ tới việc góp phần của Liên Hiệp Quốc vào việc giải quyết chính đáng và vĩnh viễn những cuộc xung đột xẩy ra quá dài đã gây đổ máu ở Trung Đông. Cần phải thực hiện một cuộc dấn thân mới, bao gồm tất cả mọi quốc gia phần tử, trong việc hòa bình hóa và tái thiết một Iraq khổ đau dài dài, một việc tái thiết  có tính cách luân lý và chính trị trước cả tính cách kinh tế nữa. Cần  phải thực hiện một cuộc dấn thân  mới trong việc tìm kiếm một giải pháp, bằng vấn đề đối thoại, cuộc xung khắc giữa người Do Thái và Palestines, một giải quyết có thể công nhận những niềm mong đợi hợp lý của mỗi bên. 

 

Cần phải tái dấn thân trong việc bảo đảm rằng Lebanon sẽ tiếp tục là một quốc gia tự do và độc lập, là một xã hội dân chủ, đa văn hóa và đa tín ngưỡng, bình đẳng và tôn trọng tất cả mọi người cũng như các khuynh hướng khác nhau nơi nước này, như một ngôi nhà chung mở ra cho kẻ khác. Điều này đặc biệt cần thiết trong giai đoạn quan trọng hiện tại đang dẫn đến cuộc tuyển chọn vị lãnh đạo mới cho quốc gia này.

 

Sau cùng, tôi không thể không đề cập tới những gì đang xẩy ra ở Myanmar, nơi đang kèo chú ý và quan tâm trong những ngày này của cuộc hội nghị đây cũng như của toàn thể cộng đồng quốc tế. Tôi muốn lập lại lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI hôm qua, đó là: Nhờ đối thoại, thiện chí và tinh thần nhân loại, chớ gì cuộc khủng hoảng này mau có được cách giải quyết cho thiện ích của xứ sở ấy và cho một tương lai tốt đẹp hơn đối với tất cả mọi dân cư ở đấy.

 

Hai năm trước đây việc thiết lập Ủy Ban Xây Dựng Hòa Bình (PBC: Peacebuilding Commission) đã được bắt nguồn từ niềm xác tín là việc chấm dứt chiến tranh chưa đủ, mà còn cần phải giúp tái thiết đời sống cá nhân và cơ cấu xã hội và tổ chức nữa. Vậy, cái thách đố lớn lao nhất của Cộng Đồng Quốc Tế ở đây đó là trao phó cho PBC sứ vụ cùng phương tiện để chứng tỏ rằng nó có thể điều hành và hỗ trợ thành công việc khó khăn chuyển từ chiến tranh và bần cùng sang hòa bình và phát triển.

 

Việc nhận thức và đáp ứng các nhu cầu và niềm hy vọng

 

Nhiều vấn đề được ngày nay hầu như hoàn toàn gán ghép cho những khác biệt về văn hóa và tôn giáo đã bắt nguồn từ những bất công về kinh tế và xã hội. Việc thoát khỏi tình trạng yếu bệnh, đói khổ và vô tri là những gì cần thiết cho một cuộc đối thoại thanh thảnh về các nền văn minh.

 

Bốn mươi năm trước  đây, trong bức thông điệp “Việc  Phát Triển Các dân Tộc” của mình, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói rằng phát triển là danh xưng mới của hòa bình.

 

Tòa Thánh cảm thấy quan tâm về tình trạng bất lực của các quốc gia giầu có trong việc cống hiến cho các quốc gia nghèo khổ nhất, nhất là các quốc gia ở Phi Châu, những điều kiện về tài chính và mậu dịch có thể gia tăng việc phát triển khả trợ của họ.

 

Tôi xin chào mừng Biến Cố Cao Cấp về Tình Trạng Thay Đổi Khí Hậu được tổ chức ở đây hôm 24/9 vừa rồi. Tòa Thánh muốn nhấn mạnh một lần nữa cái trách nhiệm về luân lý nơi mỗi người và mọi người chúng ta trong việc bảo toàn công ích nền tảng của chúng ta đó là môi trường.

 

Việc xây dựng và nuôi dưỡng những mối liên hệ huynh đệ

 

Thưa Ông Chủ Tịch,

 

Chúng ta đang tiến đến cuộc mừng kỷ niệm 60 năm Bản Tuyên Ngôn Chung về Nhân Quyền, tuy nhiên, nhiều người đã chưa bao giờ nghe về nó hay được hưởng thiện ích từ các nguyên  tắc của nó. Những quyền lợi này không được căn cứ thuần túy vào ý muốn của con người, cũng như vào thư, cũng như vào thực thể của quốc gia, hoặc vào các quyền lực quần chúng, mà là được căn cứ vào những đòi hỏi khách quan của bản tính được ban tặng cho con người.

 

Phần quan trọng nhất trong hoạt động của chúng ta theo chiều hướng này đó là vấn đề bảo đảm rằng quyền sống bẩm sinh này được tôn trọng ở hết mọi nơi mọi chốn. Quyền lợi căn bản này cần  phải được bảo vệ từ khi thụ thai cho tới khi tự nhiên  qua đi. Bởi thế, chúng ta cần phải hoạt động để ngăn chặn và lật ngược nền văn hóa sự chết là những gì được theo đuổi bởi một số những cơ cấu xã hội và pháp lý trong việc họ đang cố gắng làm cho việc nhận chìm sự sống trở thành khả chấp bằng bộ mặt giả tạo của việc phục vụ về y khoa hay về xã hội. Theo ý nghĩa ấy thì việc loại trừ đi án tử hình cũng cần phải được coi là thành quả của vấn đề hoàn toàn tôn trọng quyền sống.

 

Việc tìm cầu bình đẳng hợp lý giữa nam nhân và nữ giới đã gặt hái được những thành quả tích cực. Tuy nhiên , tình trạng bất quân bình nơi việc hành sử các quyền lợi căn bản của con người tiếc thay vẫn còn tiếp tục ở nhiều nơi. Điều này dẫn đến chỗ làm đổ vỡ cơ cấu xã hội và biến phụ nữ thành đồ vật và bị khai thác. Vấn đề minh xác về quyền bình đẳng cần phải được kèm theo cả việc nhận thức rằng nó đi song song với và không gây nguy hại cho, lại càng không mâu thuẫn với, việc nhìn nhận về cả tính cách khác biệt lẫn bổ khuyết cho nhau giữa nam nhân và nữ giới.

 

Tòa Thánh hướng tới cuộc họp cao cấp đáng nhớ để kiểm điểm thành quả của khóa họp đặc biệt về trẻ em, được ấn định vào tháng 12/2007. Nó sẽ là một cơ hội để tái tập trung những quyết tâm của chúng ta vào trẻ em cũng như để đẩy mạnh các nỗ lực của chúng ta trong việc cổ võ những quyền  lợi của các  em, chấm dứt bạo lực phạm đến các em và hỗ trợ các gia đình.

 

“Niềm tin tưởng” nơi phẩm vị của con người đòi hỏi là vấn đề của các cuộc di dân được giải quyết theo chiều hướng quyền lợi của con người, quyền lợi của gia đình và quyền lợi của trẻ em. Cho dù vấn đề thiết yếu là chiến đấu chống lại việc buôn bán người và hợp lý để ngăn chặn việc di dân bất hợp pháp, không ai có thể biện minh cho những đường lối gây nguy hiểm cho sự sống hay trầm trọng vi phạm đến nhân phẩm và nhân  quyền. Tòa Thánh hoan nghênh cái động lực được tạo nên bởi cuộc họp đầu tiên của Diễn Đàn Toàn cầu về Vấn Đề Di Dân và Phát Triển được tổ chức ở Bỉ vào Tháng Bảy, và mong thấy được tiến bộ hơn nữa về khía cạnh này.

 

Thưa Ông Chủ Tịch,

 

Chúng ta cần phải tiếp tục bảo đảm rằng nền hòa bình và an ninh, việc phát triển và nhân quyền là những gì được hòa hợp một cách hiệu nghiệm và củng cố lẫn nhau, để tỏ cho cộng đồng quốc tế thấy rằng việc canh tân cơ quan đầu não này không phải chỉ về thể lý mà còn là một cuộc canh tân về những lý tưởng và ý định của tổ chức này nữa. Một việc canh tân đổi mới những ngóc ngách sâu thẳm nhất của tổ chức này là một canh tân làm cho tất cả chư quốc trên thế giới sẽ có lý cảm thấy hãnh diện.

 

Xin cám ơn Ông Chủ Tịch.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 1/10/2007

 

 

TOP

 

“Tương Lai ở trong Tay Chúng Ta: Giải Quyết Thánh Đố Vai Trò Lãnh Đạo về Tình Trạng Thay Đổi Khí Hậu”

 

Đức Ông Pietro Parolin, phụ tá thư ký bộ ngoại giao của Tòa Thánh ở Tổng Nghị lần thứ 62 của Liên Hiệp Quốc Nữu Ước Hoa Kỳ với Hội Nghị ngày 24/9/2007 về tình trạng thay đổi về khí hậu

 

Thưa Ông Chủ Tịch,

 

Cám ơn ông đã cho tôi có cơ hội để bày tỏ một số quan tâm của Tòa Thánh theo chiều hướng những gì chúng ta đã nghe hôm nay từ những diễn giả đặc biệt trước đây.

 

Tình trạng thay đổi khí hậu là một mối quan tâm nghiêm trọng và là một trách nhiệm bất khả tránh né đối với các khoa học gia và chuyên viên, các vị lãnh đạo chính trị và chính quyền, các vị quản trị địa phương và các tổ chức quốc tế, hết mọi phần tử trong xã hội loài người và mỗi một người.

 

Vai trò đại biểu của tôi muốn nhấn mạnh đến trách nhiệm bó buộc về luân lý căn bản mà tất cả mọi người không trừ ai  đều phải có trách nhiệm nghiêm trọng trong việc bảo vệ môi trường.

 

Ngoài những phản ứng khác nhau và những dẫn giải về các bản tường trình của Ban Liên Chính Phủ Về Tình Trạng Thay Đổi Khí Hậu (IPCC: Intergovernmental Panel on Climate Change), còn có những thẩm định về khoa học hay nhất sẵn có đã thiết lập một mối liên hệ giữa sinh hoạt của con người với tình trạng thay đổi về khí hậu.

 

Tuy nhiên, những kết quả của những thẩm định theo khoa học này, cùng với những bất định còn đó, không được phóng đại hay giảm thiểu nhân danh chính trị, ý hệ hay tư lợi. Trái lại, giờ đây chúng cần phải được học hỏi kỹ lưỡng để cống hiến một căn bản lành mạnh cho việc nâng cao ý thức và thực hiện những quyết định hiệu nghiệm về chính sách.

 

Trong những thời gian gần đây, vấn đề quan tâm được ghi nhận là có một số bình luận gia, dựa vào một vũ trụ quan được cho là căn cứ theo đức tin, đã nói rằng chúng ta thực sự cần phải khai thác thế giới của chúng ta tối đa, mà không cần mấy hoặc chẳng cần gì phải để ý tới những hậu quả của chúng. Chúng tôi hoàn toàn tin rằng điều này là một đường lối hết sức khinh xuất.

 

Ở một thái cực khác, có những người chủ trương rằng trái đất này là một sự thiện duy nhất, và cho rằng nhân loại là một mối đe dọa bất khả cải hóa đối với trái đất này, một trái đất có thành phần dân chúng và hoạt động cần phải được kiểm soát bằng những phương tiện thẳng tay khác nhau. Chúng tôi hết sức tin rằng những chủ trương như thế sẽ đặt con người cùng với các nhu cầu của họ vào việc phục vụ cho một thứ môi sinh học phi nhân bản.

 

Tôi đã nhấn mạnh đến hai chủ trương cực đoan này để làm sáng tỏ những gì tôi muốn nói, thế nhưng, cho dù là những thái độ ít cực đoan hơn, chúng cũng hiển nhiên làm cản trở bất cứ nỗ lực lành mạnh toàn cầu nào trong vấn đề cổ võ việc làm giảm bớt, thích ứng, đàn hồi và bảo toàn tương lai chung của chúng ta.

 

Thưa Ông Chủ Tịch,

 

Vì không có một xứ sở nào một mình có thể giải quyết những vấn đề liên hệ tới môi trường chung của chúng ta mà chúng ta cần phải chế ngự tư lợi bằng hành động chung. Về phần cộng đồng quốc tế, điều này đòi phải chấp nhận một sách lược quốc tế có tính cách hòa hợp, hiệu năng và tức thời có thể đáp ứng với một vấn đề phức tạp như vậy.

 

Nó cần phải vạch định những đường lối và phương tiện của việc làm giảm bớt và mô phỏng khả dĩ nhất về kinh tế, việc gia tăng sự phát triển khả trợ và việc nuôi dưỡng một môi trường lành mạnh.

 

Khía cạnh kinh tế của những đường lối và phương tiện như vậy cần phải nghiêm chỉnh lưu ý quan tâm ở chỗ các quốc gia nghèo và những thành phần nghèo trong xã hội là thành phần đặc biệt bị tổn thương trước những hậu quả bất lợi của tình trạng thay đổi khí hậu, vì ít phương tiện và khả năng làm bớt những hậu quả của chúng và thích ứng với những môi trường chuyển biến.

 

Vấn đề được thấy trước là những chương trình làm giảm bớt và thích ứng này sẽ đụng độ một loạt những chướng vật và chống đối, không có tính cách kỹ thuật cho bằng tính cách xã hội, như hành vi cử chỉ và những sở thích của thành phần tiêu thụ, cũng như tính cách chính trị, như các chính sách của chính quyền.

 

Chúng ta cần phải nhìn vào vấn đề giáo dục, nhất là nơi giới trẻ, trong việc làm thay đổi những thái độ bẩm sinh vị kỷ đối với việc hưởng thụ và khai thác các tài nguyên thiên nhiên. Cũng thế, các chính sách của chính quyền khiến phấn khích nền kinh tế và phân chia tài chính cho những thứ kỹ thuật thân tình hơn về môi trường sẽ cống hiến cho lãnh vực tư riêng dấu hiệu tích cực họ cần để tiến hành việc phát triển sản xuất theo chiều hướng như vậy.

 

Chẳng hạn, việc nghiện cứu hiện nay nơi những hỗn hợp về năng lượng và cải tiến mức hiệu năng về năng lượng sẽ trở thành hấp dẫn hơn nếu được kèm theo bằng việc tài trợ chung cùng với những phấn khích về tài chính khác.

 

Thưa Ông Chủ Tịch,

 

Chúng ta thường nghe ở các cuộc hội họp của Liên Hiệp Quốc về “trách nhiệm bảo vệ”. Tòa Thánh tin rằng trách nhiệm bảo vệ này cũng áp dụng vào cả vấn đề tình trạng thay đổi khí hậu nữa. Các quốc gia có “trách nhiệm bảo vệ” chung khí hậu trên thế giới bằng việc làm giảm bớt hay thích ứng, nhất là “trách nhiệm bảo vệ” chung trái đất của chúng ta và bảo đảm rằng các thế hệ hiện tại và tương lai có thể sống trong một môi trường lành mạnh và an toàn.

 

Nhịp độ chiến đạt và củng cố một sự đồng thuận mới của quốc tế về tình trạng thay đổi khí hậu không bao giờ ăn khớp bởi một nhịp độ mau lẹ và hiệu nghiệm tương đương về vấn đề áp dụng những đồng ý như vậy.

 

Những quốc gia được tự do chấp nhận những hiệp định và hiệp ước quốc tế, thế nhưng, trừ phi những lời lẽ của chúng ta ăn khớp với hành động và trách nhiệm hiệu nghiệm, bằng không chúng ta khó có thể làm quay ngược lại một tương lai ảm đạm và có thể cảm thấy mình gặp nhau một lần nữa không bao lâu nữa từ lúc này đây để than vãn cho một cuộc thất bại chung khác nữa.

 

Chúng ta thành thật hy vọng rằng những quốc gia sẽ nắm bắt được một cơ hội sớm sủa sau cuộc Hội Nghị tới đây liên quan tới Hội Nghị Nội Dung về Tình Trạng Thay Đổi Khí Hậu ở Bali.

 

Xin cám ơn  Ông Chủ Tọa.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 24/9/2007

 

TOP

 

 

 

ĐTGM Celestino Migliore Đại Diện Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc Nữu Ước Hoa Kỳ với Khóa Họp 61 của Tổng Hội Đồng LHQ, ngày 22/5/2007 về thành quả việc áp dụng bản tuyên ngôn quyết tâm đối với Hội Chứng Liệt Kháng và Vi Khuẩn Liệt Kháng của khóa họp đặc biệt thứ 26.

 

Thưa Bà Chủ Hội,

 

Đại biểu tôi xin cám ơn bà về việc triệu tập cuộc họp tường trình tiến triển quan trọng này để các quốc gia có thể chia sẻ những gì họ đã thực hiện trong việc tiến tới mục tiêu của vấn đề khả đạt phổ quát những chương trình ngăn ngừa Vi Khuẩn Liệt Kháng, việc trị liệu, chăm sóc và nâng đỡ vào năm 2010. Những thẩm định chân thành và quyết tâm của họ trong vấn đề cùng nhau làm việc chắc chắn là một biến chuyến đúng hướng đối với việc chăm sóc tất cả những ai bị lây nhiễm Vi Khuẩn Liệt Kháng hay Hội Chứng Liệt Kháng.

 

Bản tường trình chi tiết và toàn diện của vị tổng thư ký đã liệt kê các thứ thách đố lớn lao nhất, đó là việc chăm sóc cho 39.5 triệu người hiện đang sống với Vi Khuẩn Liệt Kháng; việc giảm bớt con số người hằng năm bị chết vị Hội Chứng Liệt Kháng mà vào năm 2006 đã lên tới 2.9; việc ngăn ngừa những thứ lây lan mới đang xẩy ra vào khoảng 4 triệu người mỗi năm; và đặc biệt chú trọng tới giới trẻ là thành phần được tính chiếm tới 40% số bị lây lan trong năm vừa qua.

 

Cho dù con số nói lên sự kiện nhưng vẫn không nắm bắt được trọn tất cả sự thật. Sự kiện chỉ có 2 triệu trong số 7.1 triệu người cần đến những kháng dược nhận được thứ thuốc này cho thấy một tỉ lệ đáng buồn. Việc xác định số lượng các nguồn lợi cần phải có trên thế giới được cho rằng ở vào khoảng 18 tỉ cho năm 2007 và 22 tỉ cho năm 2008 đối với các quốc gia có lợi tức thấp hay hạng trung đối với vấn đề Vi Khuẩn Liệt Kháng.

 

Những con số bề ngoài có vẻ lớn lao này thực ra chỉ cung cấp cho mỗi đầu người từ 3 tới 4 Mỹ kim trên trái đất này thôi. Tổng cộng lại thì những con số có vẻ khổng lồ đoấy, thế nhưng nếu xét đến bối cảnh thích hợp của chúng, từng người một, thì chúng chỉ là một phần nhỏ của những gì chúng ta, với tư cách là một cộng đồng thế giới, có thể làm và cần phải làm. Tất cả chúng ta cần phải rõ ràng gia tăng nỗ lực của chúng ta.

 

Đó là lý do tại sao, về phần mình, Tòa Thánh chiếm lấy cơ hội này để tái khẳng định việc dấn thân của mình trong vấn đề gia tăng việc đáp ứng với chứng bệnh ấy, qua việc liên tục hỗ trợ đối với một hệ thống toàn cầu của 1.600 bệnh viện, 6 ngàn y viện và 12 ngàn khởi động có tính chất bác ái và xã hội nơi các quốc gia đang phát triển.

 

Thưa bà chủ hội, bản tường trình của vị tổng thư ký có đề ra năm đề nghị, và gia hạn về thời gian, đại biểu tôi xin vắn tắt đề cập tới 2 trong 5 điều đề nghị ấy.

 

Trước hết, dưới nhan đề “Nhận Thức được dịch bệnh của mình và gia tăng việc ngăn ngừa Vi Khẩn Liệt Kháng”, đại biểu tôi tin rằng việc cung cấp tín liệu và cơ hội giáo dục vấn đề tôn trọng các thứ giá trị có tính cách tự nhiên là những gì thiết yếu cả nơi việc phát triển về sự tiến bộ của khoa học cũng như đối với việc ngăn ngừa cá nhân. Không có thể nào chữa mình là 25 năm xẩy ra dịch bệnh này mà tất cả mọi người ở tất cả mọi quốc gia vẫn chưa có tín liệu lành mạnh, chính xác và khả tín để hiểu biết và sống an toàn hơn.

 

Sau nữa, dưới tiêu đề “Tường trình tiến bộ về những quyết tâm của quốc tế”, nó như thể là, nơi ngôi nhà đây, chúng ta thường nói tới tính chất thanh liêm và hợp tác liên quan tới những quyết tâm riêng hợp của chúng ta. Đại biểu tôi khuyến khích tất cả mọi quốc gia hãy tỏ ra sẵn sàng hơn nữa trong việc cung cấp các con số chính xác cho vấn đề kiểm tra và thẩm định, dù có khó khăn chăng nữa. Kiến thức thực sự đối với chỗ đứng của cộng đồng thế giới về vấn đề này sẽ giúp chúng ta nhiều khi chúng ta nỗ lực để giải quyết tất cả mọi vấn đề liên quan tới Hội Chứng Liệt Kháng hay Vi Khuẩn Liệt Kháng cũng như việc chăm sóc cho tất cả mọi người.

 

Xin cám ơn Bà Chủ Hội

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 22/5/2007

 

TOP

 

 

 

ĐTGM Silvano Tomasi Đại Diện Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc Geneva Thụy Sĩ: Bài diễn văn tại Hội Nghị Sức Khỏe Thế Giới ngày 14-23/5/2007, nhan đề “Tòa Thánh và Những Thách Đố Mới trong Việc Cổ Võ Sức Khỏe”.

 

Thưa Bà Chủ Hội,

 

1.         Phái đoàn đại biểu của Tòa Thánh muốn chuyển đến bà lời chúc mừng về việc bà được tuyển chọn là vị chủ hội cho hội đồng trọng đại này, cũng như bày tỏ lòng chân thành tri ân tới Tiến Sĩ Fernando Antezana Araníbar, vị đã cống hiến vai trò lãnh đạo tuyệt vời cho hội đồng điều hành Tổ Chức Sức Khỏe Thế Giới để chu toàn trách nhiệm nặng nề của mình trong việc nhận thức vao trò thừa kế làm tổng giám đốc sau cái chết bất ngờ của Tiến Sĩ J. W. Lee.

 

2.         Vai trò đại biểu tôi đây cũng bày tỏ lời chúc mừng đến Tiến Sĩ Margaret Chan về việc bà được bổ nhiệm là tổng giám đốc của Tổ Chức Sức Khỏe Thế Giới. Chúng tôi hoan nghênh dự án của bà về vấn đề sức khỏe của nữ giới và của dân chúng ở Phi Châu như là những mối quan tâm chính yếu trong thời gian bà nắm giữ trách nhiệm ở văn phòng này. Giáo Hội Công Giáo theo truyền thống là tổ chức đi tiên phong trong việc phát động vấn đề sức khỏe chân thực của nữ giới, bằng cách giúp cho họ hòa hợp sự phúc hạnh về thể lý, tâm lý và xã hội của họ với những giá trị về luân lý và tinh thần . Theo chiều hướng ấy, Giáo Hội Công Giáo cũng xác tín về phẩm vị của nữ giới và nam nhân được Thiên Chúa phú ban, bình đẳng và bổ xung.

 

Giáo Hội Công Giáo cũng ưu tiên hóa việc thể hiện tốt đẹp nhất về tính chất bổ xung giữa nam nhân và nữ giới – đó là gia đình được xây dựng trên một cuộc sống hôn nhân trọn đời và thủy chung và tiếp tục phục vụ như là những gì rường cột của xã hội loài người. Nhãn quan này về nhân phẩm, những gì được Tòa Thánh mạnh mẽ cổ võ, cũng được thành phần công dân nơi các quốc gia phần tử của Tổ Chức Sức Khỏe Thế Giới.

 

Cũng về vấn đề này phái đoàn đại biểu đây cũng hết sức hy vọng rằng cuộc bàn luận về và việc áp dụng Quyết Nghị EB 120.R6, “Việc Hòa Nhập Vấn Đề Phân  Tách Về Giống Tính với Những Hoạt Động của Tổ Chức Sức Khỏe Thế Giới” sẽ không bao giờ được sử dụng để “biện minh” cho việc gây thiệt hại cho hay việc hủy hoại sự sống của con người ở một trong những giai đoạn dễ bị tổn thương nhất – tức khi vẫn còn ở trong bụng mẹ. Ngoài ra, Tòa Thánh muốn mời gọi các quốc gia phần tử của Tổ Chức Sức Khỏe Thế Giới một lần  nữa hãy hiểu chữ “giống tính” như là những gì được căn cứ vào căn tính tính dục về thể lý, nam hay nữ.

 

Liên quan tới Phi Châu, các vị Giáo Hoàng vẫn lập lại mối quan tâm sâu xa về lịch sử đau thương của châu lục này là “nơi nhiều quốc gia vẫn bị khốn khó vì đói khổ, chiến tranh, những căng thẳng về chủng tộc và bộ tộc, về tình trạng bất ổn về chính trị và về việc vi phạm đến nhân quyền” (Apostolic Exhortation of Pope John Paul II, "Ecclesia in Africa," No. 51.), và Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã kêu gọi cộng đồng quốc tế rằng “chúng ta không được bỏ quên Phi Châu” (Address of His Holiness Pope Benedict XVI to the Diplomatic Corps Accredited to the Holy See for the Traditional Exchange of New Year Greetings, Monday, Jan. 8, 2007.)

 

3.         Đại biểu tôi đây xin ca ngợi, về việc đặc biệt chú trọng của hội nghị này, những quyết nghị và những đề nghị liên quan tới những thứ bệnh lao phổi, sốt rét và Hội Chứng Liệt Kháng, cũng như những thứ bệnh liên hệ tới sự gia tăng dự phóng của nạn dịch cúm gia cầm. Nhiều sự đe dọa xẩy đến cho sức khỏe gây ra bởi những thứ bệnh ấy có thể đã được thích đáng nói tới đó là gia đình nhân loại toàn cầu dấn thân mình cho những chương trình khả thủ và hướng tới hành động của việc nghiên cứu, chích ngừa, chữa trị và giáo dục ngăn ngừa tôn trọng luật lệ luân lý tự nhiên.     

 

Từ 23 tới 25/11/2006, Hội Đồng Tòa Thánh Vatican về Thừa Tác Vụ Chăm Sóc Sức Khỏe triệu tập trên 500 chuyên viên để suy nghĩ về “những khía cạnh mục vụ trong việc chữa trị những thứ bệnh lây lan”. Trong lời ngỏ cùng những người qui tụ bấy giờ, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nhấn mạnh tới nhu cầu cần phải áp dụng công lý xã hội ở lãnh vực tinh tế về chữa trị và chăm sóc, nhờ đó bảo đảm được việc phân phối công bằng các nguồn nghiên  cứu và chữa trị” (Address of His Holiness Benedict XVI to the Participants in the 21st International Congress Organized by the Pontifical Council for Health Care Ministry, Clementine Hall, Friday, Nov. 24, 2006.)

 

Theo cùng chiều hướng ấy, khi mà vị thủ tướng của Đức quốc đã sẵn sàng lãnh n hận vai trò chủ tịch của các quốc gia G-8 và Khối Hiệp Nhất Âu Châu, Đức Thánh Cha, trong một bức thư gửi cho bà, đã bày tỏ niềm hy vọng rằng sẽ là “cần phải thực hiện việc đầu tư chính yếu về những nguồn mạch cho việc nghiên cứu cũng như cho việc phát triển các thứ thuốc men để chữa trị Hội Chứng Liệt Kháng, lao phổi, sốt rét và những thứ bệnh nhiệt đới khác” (Letter of His Holiness Pope Benedict XVI to Her Excellency Dr. Angela Merkel, Chancellor of Germany, Dec. 16, 2006.)

 

4.         Tòa Thánh chia sẻ quan tâm của vị Thư Ký Tổ Chức Sức Khỏe Quốc Tế nơi bản tường trình của tổ chức này về “Thuốc Men Khá Hơn Cho Trẻ Em”, vì có khoảng 10.5 triệu mạng sống của trẻ em dưối 5 tuổi bị thê thảm mất đi; nhiều trẻ em đang chết đi bởi bệnh nạn có thể được chữa trị nơi thành phần người lớn, thế nhưng các liều lượng và công thức vẫn chưa được khai triển cho trẻ em sử dụng để chữa trị các bệnh nạn ấy ("Better Medicines for Children," Report by the Secretariat, World Health Organization, 60th World Health Assembly, A60/25, April 17, 2007.)

 

Vấn đề chú trọng tới mối quan tâm nghiêm trọng này càng trở nên khẩn trương trước bản tưởng trình mới được phổ biến về “Việc Gia Tăng Ưu Tiên Vấn Đề Can Thiệp Vào Hồi Chứng Liệt Kháng Hay Vi Khuẩn Liệt Kháng thuộc Lãnh Vực Sức Khỏe”, một bản tường trình rất lấy làm tiếc xót ghi nhận là chỉ có 15% của trẻ em bị Vi Khuẩn Liệt Kháng hành cần đến việc chữa trị phản hồi mới thực sự có phương tiện hưởng những thứ trị liệu cứu sinh này. Việc trang trải cho vấn đề chữa trị như thế khoảng chừng được một nửa nơi thành phần người lớn bị Vi Khuẩn Liệt Kháng hành ("Toward Universal Access: Scaling up Priority HIV/AIDS Interventions in the Health Sector," Progress Report by WHO, UNAIDS, UNICEF, April 2007, p. 6.)

 

Cộng đồng quốc tế không còn làm ngơ trước nhu cầu về mối đe dọa sự sống của trẻ em mà nhiều em có thể được coi là thành phần công dân cần nhất của chúng ta, thành phần cũng là tiêu biểu cho tương lai của cộng đồng nhân loại. Trong khi đang thực hiện việc khai triển “Những Thuốc Men Khá Hơn Cho Trẻ Em” và điều chỉnh cũng như cập nhật hóa thường xuyên Kiểu Mẫu Của Các Thứ Thuốc Men Thiết Yếu giành cho cả trẻ em nữa, thì việc nghiên cứu, một việc lấy đạo lý làm nền tảng, mang tính chất minh bạch và được thận trọng kiểm tra, cần phải được thực hiện đối với tính chất an toàn của những thứ thuốc men ấy trước khi chúng được chuẩn nhận cho việc chữa trị những thứ bệnh nạn làm ảnh hướng tới trẻ em.

 

5.         Chúng ta đang tiến tới dịp mừng kỷ niệm 30 năm Bản Tuyên Ngôn Alma Ata Về Việc Chăm Sóc Chính Yếu Sức Khỏe lịch sử, phái đoàn đại biểu của Tòa Thánh hân hoan ghi nhận là vấn đề chú trọng về sách lược đang được phấn khích ở Hội Nghị Sức Khỏe Thế Giới này về các đề tài hệ trọng như vấn đề ngăn ngừa và kiểm soát các chứng bệnh bất khả truyền nhiễm, việc sử dụng hợp lý các thứ thuốc men, và đặc biệt là việc cổ võ sức khỏe trong một thế giới được toàn cầu hóa đặc biệt chú trọng tới vấn đề chăm sóc chính yếu về sức khỏe.

 

Qua tất cả những lời phát biểu chia sẻ trong cuộc họp này cũng như nơi việc áo dụng sau đây của các quyệt nghị của Hội Nghị Sức Khỏe Thế Giới đây ở cấp quốc gia và địa phương, đại biểu tôi tha thiết xin là một viễn ảnh về tình trạng an toàn sức khỏe cần phải được đặt căn bản trên một khoa nhân loại học tôn trọng con người nơi tính chất nguyên vẹn của họ và cần phải nhìn xa hơn tình trạng vắng bóng bệnh nạn tới tình trạng hoàn toàn hòa hợp và cân bằng lành mạnh những năng lực về thể lý, tâm lý, thiêng liêng và xã hội trong con người (Cf. Pope John Paul II, Message of the World Day of the Sick, Feb. 11, 2000, No. 13.)

 

Xin cám ơn

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 21/5/2007

 

 TOP

 

ĐTGM Celestino Migliore Đại Diện Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc Nữu Ước Hoa Kỳ với Khóa Họp thứ 6 của diễn đàn thường trực ngày 14/5/2007 về những vấn đề bản xứ của Hội Đồng Kinh tế và Xã Hội với đề tài Lãnh Thổ, đất đai và các nguồn nhiên liệu.

 

Thưa Bà Chủ Hội,

 

Trước hết, đại biểu tôi xin có lời chúc mừng bà và toàn thể viên chức được chọn lựa trong năm nay, và xin chúc quí vị được mạnh khỏe để thực hiện công việc quan trọng trong vấn  đề bảo tồn cái đà tiến đối với thành phần các thổ dân đã đạt được từ cuộc diễn đàn thường trực này từ đầu thế kỷ đây.

 

Từ thời điểm cuộc diễn đàn này gặp gỡ năm ngoái, nhiều điều đã xẩy ra liên quan tới những bước cải tiến việc hành sử quyền lợi của các người thổ dân ở tầm cấp quốc gia và quốc tế, nhất là theo chiều hướng của đề tài đặc biệt của năm nay về lãnh thổ, đất đai và các nguồn nhiên liệu.

 

Việc trì hoãn thừa nhận bản thảo về Tuyên Ngôn Quyền Lợi Của Các Người Thổ Dân (DRIP - Declaration on the Rights of Indigenous Peoples) là những gì đánh dấu một thoáng thất vọng.

 

Sau cuộc bàn luận dài 24 năm trời trong nhóm làm việc của Ủy Ban Nhân Quyền, bản thảo tuyên ngôn này đã được tiếp tục ở khóa họp đầu tiên của Hội Đồng Nhân Quyền, và sau một cuộc bỏ phiếu theo biên bản, cũng đã được hợp lệ gửi đến cho Tổng Hội Đồng để được chấp thuận như là một phần của bản đệ nhất Tường Trình của Hội Đồng Nhân Quyền.

 

Đại biểu tôi xin bày tỏ niềm tiếc xót là việc chấp thuận bản thảo tuyên ngôn này đã bị hoãn lại. Về vấn đề này, chúng tôi muốn nhấn mạnh tới những ích lợi mà việc hiện hữu của một văn kiện về các thứ nhân quyền cần phải bao gồm đặc biệt đối với cuộc sống nghèo khổ nhất ở những miền quê, thường là nơi gốc gác của người thổ dân và thường bị thế giới tân tiến đẩy ra ngoài lề xã hội, cũng như đối với những ai có thể được thêm quyền lực để góp phần nhiều hơn nữa cho đời sống chính trị và kinh tế mà họ đang sống.

 

Có những chống đối khác nhau được nêu lên về bản thảo Tuyên Ngôn này theo chủ trương hiện nay của nó. Một số người nói rằn g DRIP là những gì nghịch lại các bản hiến pháp của quốc gia và vấn đề tự quyết chỉ liên quan tới những ai thường sống dưới luật lệ thực dân mà thôi. Những người khác lại cho rằng DRIP không rõ ràng minh bạch về những gì tạo nên “thành phần thổ dân”, dù vẫn ủng hộ bản tuyên ngôn này, cho dù có những quan tâm chính yếu.

 

Trong khi vẫn tôn trọng lý do đối với mỗi một chủ trương này, Tòa Thánh muốn lập lại tầm quan trọng đặc biệt mà Tòa Thánh tha thiết quan tâm tới bản văn kiện này và khuyến khích các quốc gia phần tử của LHQ hãy tỏ ra uyển chuyển và nhìn  xa trông rộng về xã hội hướng tới chỗ đồng ý trong khóa họp hiện nay của Tổng Hội Đồng. Đại biểu tôi tin rằng cử chỉ chính trị này sẽ chẳng những có lợi cho thành phần nghèo khổ nhất và những người công dân bị hất hủi nhất cả ở các quốc gia giầu lẫn nghèo trên  thế giới, mà còn gia tăng an bình nơi các dân tộc và bồi dưỡng việc hoan hưởng nhân quyền cách chính đáng và bình đẳng của tất cả mọi người.

 

Nhận định những gì đã xẩy ra ở Đệ Tam Tiểu Ban vào mùa thu năm ngoái thì thấy có những mối quan tâm đích thực nơi DRIP có thể dẫn tới việc cần phải chấp nhận trả một giá mắc cho vấn đề phá vỡ những liên hệ mỏng dòn nơi các nhóm bộ lạc tạp nham xuất phát như là những quốc gia trong vòng 50 năm vừa qua. Một số người cũng tỏ ra lo sợ rằng bản tuyên ngôn này có thể trở thành một mối đe dọa cho chủ quyền hay cho những thu nhập của quốc gia từ các nguồn nhiên liệu. Tuy nhiên, các mối quan tâm như thế vẫn không được loại trừ đi lợi ích tốt đẹp nhất của các dân tộc n ghèo khổ nhất ở những lãnh thổ dồi dào nhiên liệu như thế; các quốc gia cũng không thể nào quên lãng sự tiến bộ về kinh tế đối với tất cả những gì có thể chiếm đạt được khi quan tâm hơn nữa đến tinh túy đặc biệt của các người thổ dân và những gì họ đang muốn đóng góp nếu biết tìm kiếm và chấp n hận thiện chí của họ, chứ không phải việc họ tự do thỏa thuận thiếu hiểu biết.

 

Việc nhào vô khai thác các nguồn lợi mà chúng ta đang chứng kiến thấy ở nhiều nơi chẳng những đẩy môi sinh tự nhiên đến chỗ căng thẳng; đôi khi còn có một chút chứng cớ cho thấy một thiện ích nào đó nơi lãnh vực về chính trị, xã hội hay kinh tế thuận lợi cho các dân tộc có được những nguồn lợi ấy. Nếu mục đích chung của các sản vật trên thế giới thì không lạ lùng cho lắm khi thấy các dân tộc tỏ ra phản ứng trước việc mất mát đi các nguồn lợi nơi đất đai của họ, trong khi họ thấy việc thu nhập cho đất đai của họ ít ỏi.

 

Thưa Bà Chủ Hội, đó là lý do tại sao Tòa Thánh tin tưởng rằng chúng ta tất cả đều phải hoạt động hướng tới một việc đồng chấp nhận bản tuyên ngôn; thế nhưng, cho dù có thiếu mất việc đồng thuận như thế cũng không phải là cớ để trì hoãn việc xác nhận những mối quan tâm hợp lý của các người thổ dân. Các quốc gia có những mối quan tâm hợp lý liên quan tới chủ quyền, tới công dân tính, với sự bình đẳng và việc khai thác lành mạnh công bằng các nguồn nhiên liệu, thế nhưng những vấn đề ấy vẫn không được để cho việc tiến bộ về các thứ quyền lợi và quan tâm bình đẳng hợp lý bị trì hoãn “sine die”.

 

Xin cám ơn Bà Chủ Hội.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 17/5/2007

 

 TOP

 

Tiến Sĩ Mary Ann Glendon, chủ tịch Giáo Hoàng Học Viện Về Các Khoa Xã Hội Học, hôm 10/5, trước hội đồng Tổng Nghị LHQ về vấn đề tôn giáo trong xã hội hiện đại, với bài nói nhan đề “Những Viễn Ảnh về Những Mối Liên Hệ Xuyên Văn Hóa và Liên Tôn trong Xã Hội Hiện Đại”. 

 

Thành phần tham dự của buổi chiều hôm nay được yêu cầu bàn đến cái thách đố của việc cổ võ một thứ văn hóa tương kính và khoan nhượng ở các xã hội hiện đại. Theo lý thuyết, phong trào gia tăng nhanh chóng của dân chúng và những ý nghĩ trong thế giới của ngày hôm nay có thể được cho là để nuôi dưỡng việc hợp tác hơn là vấn đề xung khắc, việc tương kiến hơn là ngờ vực lẫn nhau. Ở một mức độ nào đó thì nó quả thực là như thế, nhất là khi dân chúng quen tiến đến chỗ biết nhau ở mức độ riêng tư. Vấn đề ở đây là làm thế nào để chiếm được những cơ hội thuận lợi và làm thế nào để giảm bớt trường hợp hiểu lầm, căng thẳng và bạo động.

 

Đối với những ai muốn có một cái nhìn hy vọng, tôi đề nghị là chúng ta không cần nhìn xa trông rộng để tìm kiếm một mẫu gương phấn khích về một thứ đối thoại xuyên văn hóa có thể thắng vượt những chướng ngại khổng lồ trong việc tạo nên được một trong những đóng góp cho một nền hòa bình bền bỉ nhất của Liên Hiệp Quốc.

 

Tôi đang đề cập tới những cuộc tranh luận đã đưa tới Bản Tuyên Ngôn Chung Về Nhân Quyền Năm 1948. Ngày nay, nhiều người đã quên rằng bản văn kiện lịch sử đó là một sản phẩm của một cuộc hợp tác đa văn hóa hết sức đặc biệt. Nhiều người cũng không nhớ rằng đã có những thứ chia rẽ được thắng vượt nơi nhóm soạn thảo là nhóm bao gồm một vị học giả Khổng Giáo ở Trung Hoa, những người Hồi Giáo ở Ai Cập và Iran, một người Pháp theo chủ nghĩa Do Thái, một phụ nữ Ấn Độ gốc Ấn Giáo, các phần tử thuộc những hệ phái Kitô Giáo khác nhau, và 4 đảng viên Mát-Xít nhiệt tình.

 

Bất cứ ai cũng khó lòng mà nghĩ rằng nhóm này có thể đồng ý về một ít nguyên tắc căn bản đối với tính cách xứng đáng làm người. Thế nhưng, bản tuyên ngôn này – bằng việc khẳng định của mình là tất cả chúng ta đều thuộc về một gia đình nhân loại duy nhất – vẫn còn là một mở đường đầy phấn khởi cho hết mọi con người đang ôm ấp niềm hy vọng đối với việc hợp tác xuyên văn hóa. Nó đồng thời cũng là một thứ nhắc nhở thiết tha rằng, trong khi việc đối thoại ở cấp cao đóng vai trò quan trọng thì vai trò của nó là một vai trò hạn hẹp – một yếu tố trong một tiến trình không bao giờ cùng cần phải được nuôi dưỡng trong các luồng mạch của xã hội.

 

Dĩ nhiên là trong đó bao gồm cả một thứ thách đố đối với các vị lãnh đạo về tôn giáo và văn hóa – cái thách đố phấn khích tìn đồ của mình gặp gỡ kẻ khác bằng lý trí và sự tương kính, trong khi vẫn trun g thực với chính bản thân họ cùng những niềm tin tưởng của họ.

 

Tại sao lại quá khó khăn trong việc đương đầu với cái thách đố ấy? Ít là vì tôn giáo thường bị khai thác theo những mục tiêu chính trị. Thế nhưng, vẫn không thể trách cứ nhiều trở ngại gây ra bởi những lực lượng bên ngoài. Chúng bao gồm chẳng những các thứ hiểu lầm về niềm tin tưởng của kẻ khác, mà còn là một thứ nông cạn về niềm tin riêng của mình nữa. Bởi thế, các vị lãnh đạo và các giáo dục gia mới có một công việc quan trọng khác nữa đó là việc tìm kiếm những phương sách trong truyền thống riêng của mình để cổ võ việc tôn trọng và khoan nhượng, và đó cũng là việc nghiên soạn các phương sách này khi họ truyền đạt các truyền thống của mình cho thành phần tín đồ của mình.

 

Những nỗ lực ở tầm cấp địa phương ấy có thể trở thành những gì quyết liệt, vì các cộng đồng tôn giáo có một khả năng lớn trong việc góp phần chữa lành các vết thương, trong việc thiết lập những cây cầu nối, cũng như trong việc làm gắn bó với nhau chống lại các kẻ cực đoan quá khích muốn lèo lái tôn giáo để cổ võ hận thù và bạo động. Những gì Eleanor Roosevelt có lần đã viết về việc hiện thực các quyền lợi của con người áp dụng đồng đều vào việc thiết lập nên một thứ văn hóa tương kính giữa các dân tộc. Bà đặt vấn đề rằng “Nhân quyền được bắt đầu từ đâu? Ở những chỗ nhỏ bé, gần gũi nhà ở – rất gần và rất nhỏ đến  nỗi chúng không thể nào thấy được trên bản đồ thế giới… Trừ phi những thứ quyền này có một ý nghĩa ở đó thì chúng mới có một chút ý nghĩa ở bất cứ nơi nào”.

 

Nhận định khôn ngoan này, theo tôi nghĩ, là những gì cho thấy những lý do cần phải thận trọng hy vọng về tình hình hiện nay của chúng ta. Vì càng ngày tính cách đa nguyên về tôn giáo và văn hóa càng trở nên thực tế trong đời sống. Càng ngày càng có nhiều người tiến đến chỗ hiểu biết các phần tử thuộc các nền văn hóa và tôn giáo khác. Nhiều người, nhất là giới trẻ, đang thiết dựng những mối thân hữu bền bỉ – nơi học đường, trong khu xóm và chỗ làm việc. Ở “những chỗ nhỏ bé” như những chỗ này, con người đang bắt đầu vượt ra ngoài cả tính cách khoan nhượng nữa. Họ đang bắt đầu học biết nhau, và nhờ nhau mở rộng chân trời của mình. Như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đề cập tới trong bài diễn văn của ngài ngỏ lời cùng Liên Hiệp Quốc vào năm 1995: “’Cái khác nhau’ m à một số người cho rằng rất đáng lo ngại thì nhờ việc đối thoại một cách tôn trọng lại trở thành một nguồn sâu xa ý thức về mầu nhiệm của việc con người hiện hữu”.

 

Chắc chắn là con đường vượt ra ngoài tính cách khoan nhượng sẽ kèm theo những chướng ngại vật. Thế nhưng thật ra không còn một giải pháp nào khác nữa nếu con người cần phải cải tiến những cơ hội thực hiện hòa bình trên trái đất càng ngày càng liên thuộc song cũng đầy xung khắc này. Việc đầu hàng trước những gì có thể làm được về một cuộc sâu xa “đối thoại với tất cả những ai nghiêm chỉnh quan tâm tới nhân loại cũng như tới thế giới chúng ta đang sống” (Benedict XVI, "Deus Cartitas Est," 27), tức là việc bỏ cuộc trước những mơ ước của con người nam nữ là thành phần thiết lập nên một tổ chức lớn lao mà chúng ta đang hội họp hôm nay đây. 


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 11/5/2007

 

 TOP

 

ĐTGM Celestino Migliore Đại Diện Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc Nữu Ước Hoa Kỳ với Khóa Họp 15 của Ủy Ban đặc trách Vấn Đề Phát Triển Khả Trợ của Hội Đồng Kinh Tế và Xã Hội, ngày 10/5/2007 về “Việc Biến Những Quyết Tâm Chính Trị Thành Hành Động, Cùng Nhau Hoạt Động Trong Tình Liên  Đới”

 

Thưa Ông Trưởng Uỷ Ban,

 

Đại biểu tôi đây xin chúc mừng ông và văn phòng của ông trước việc ông được bổ nhiệm, tôi thành thực hy vọng là tất cả mọi vị đại biểu sẽ làm việc hết sức uyển  chuyển để đạt tối đa những gì chúng ta có thể trong năm chính sách này.

 

Cuộc tranh luận trong khóa họp nàyvà việc làm của tiểu ban soạn thảo cũng như của Ủy Ban về Vấn Đề Phát Triển Khả Trợ năm ngoái tất cả đều chứng tỏ cho thấy bản tính liên kết chặt chẽ của bốn đề tài được chọn lựa cho chu kỳ này, và làm thế nào chúng có thể gia tăng các âm hưởng trên nền  an ninh quốc gia và quốc tế cũng như trên khả năng của cộng đồng quốc tế trong việc nghiêm chỉnh đương đầu với những vấn đề nghèo khổ và vấn đề thành đạt những Mục Tiêu Phát Triển Ngàn Năm.

 

Những mối tương liên này trở nên thậm chí mạnh mẽ hơn khi chúng ta lưu ý là, cuối cùng, trái đất này là di sản chung của chúng ta và chúng ta có một trách nhiệm nặng nề và bao rộng đối với chính mình cũng như đối với các thế hệ tương lai về những hành động chúng ta cần phải làm ở nơi đây. Cần phải thêm rằng nhu cầu cần phải liên  hợp hành động ở cấp độ quốc tế không làm suy giảm trách nhiệm của các quốc gia riêng.

 

Thưa Ông Trưởng Ủy Ban, vấn đề về năng lượng là vấn đề đã mau chóng trở thành một trong những vấn đề chính yếu thuộc hoạt trình của toàn thế giới, khi tất cả chúng ta đang nỗ lực để biên soạn một sách lược chung, toàn cầu, dài hạn về nương lượng, có khả năng làm thỏa đáng những đòi hỏi ngắn hạn hay trung hạn hợp lý, để bảo đảm sự an ninh về năng lượng, bảo vệ sức khỏe của con người và môi trường, và thiết lập những quyết tâm chính xác hầu giải quyết vấn đề thay đổi khí hậu.

 

Chứng cớ theo khoa học về độ ấm toàn cầu và về vai trò của nhân loại trong việc gia tăng những thứ khí đốt ủ kín càng ngày càng trở nên khả tín, như những khám phá của Nhóm Liên Chính Phủ về Vấn Đề Thay Đổi Khí Hậu đang gợi ý; và hoạt động này đã có một tính cách thích đáng sâu xa, không phải chỉ cho vấn đề môi trường, mà còn nơi cả vấn đề đạo lý, kinh tế, xã hội và chính trị nữa. Hậu quả của việc thay đổi khí hậu đang được cảm thấy chăng những nơi môi trường mà còn nơi toàn cơ cấu kinh tế xã hội nữa, và như được thấy nơi những khám phá của nhiều bản tường trình vốn sẵn có, thì chúng sẽ ảnh hưởng trước hết và trên hết thành phần nghèo khổ nhất và yếu kém nhất, thành phần, cho dù thuộc về những người ít trách nhiệm nhất đối với tình trạng độ ấm toàn cầu, là những ai dễ bị tổn hại nhất, vì họ những phương tiện hạn hẹp hay sống ở những miền nguy hiểm hơn. Chúng ta chỉ cần nghĩ đến những tình trạng đang phát triển của cái hải đảo nhỏ này như một trong nhiều trường hợp khác. Nhiều xã hội bị tổn hại nhất, đã phải đương đầu với những vấn đề về năng lượng, sống dựa vào nền canh nông – một lãnh vực chính yếu dường như đang chịu hậu quả nhất gây ra bởi những thay đổi về khí hậu.

 

Bởi vậy, để giải quyết cái thách độ lưỡng diện về vấn đề thay đổi khí hậu này và cái nhu cầu cần có những nguồn năng lượng dồi dào hơn, chúng ta sẽ cần phải thay đổi cái kiểu mẫu hiện tại của mình từ một kiểu mẫu theo đuổi việc tăng trưởng kinh tế nhân danh vấn đề phát triển một cách bất chấp, tới một kiểu mẫu chú ý tới những hậu quả hoạt động của mình và tỏ ra tôn trọng hơn đối với thiên nhiên chúng ta đang có chung, một kiểu mẫu gắn bó v ới một thứ phát triển con người toàn vẹn cho các thế hệ hiện tại và tương lai.

 

Tất cả mọi người đều rõ tính chất phức tạp của vấn đề cổ võ việc phát triển khả trợ; tuy nhiên, vẫn có một số những nguyên tắc nồng cốt có thể hướng dẫn việc nghiên cứu hướng tới những giải quyết thích đáng và bền bỉ. Nhân loại cần phải ý thức hơn nữa những liên hệ giữa khoa sinh học tự nhiên, hay giữa việc tôn trọng thiên nhiên với khoa sinh thái học nhân bản. Kinh nghiệm cho thấy rằng việc coi thường môi trường là những gì tác hại tới việc chung sống của nhân loại, đồng thời vấn đề cũng trở nên tỏ tường hơn cho thấy có một mối liên hệ tích cực giữa hòa bình và thiên nhiên  tạo vật với hòa bình giữa các dân nước.

 

Cách đây không lâu, Hội Đồng Bảo An đã họp lại để bàn về mối liên hệ giữa năng lượng, nền an ninh và khí hậu. Cho dù không phải là hết mọi người đồng ý về vấn dề bàn luận đến chấp liệu ấy trong Hội Đồng Bảo An, sự kiện thông đạt đó là chúng ta đang chứng kiến thấy những cuộc đối chọi nhau để kiểm soát các nguồn chiến lược như dầu hỏa và nước mát, cả hai thứ đang càng ngày càng trở nên khan hiếm hơn bao giờ hết. Nếu giờ đây chúng ta từ chối việc xây dựng những nền  kinh tế khả trợ, thì chúng ta sẽ tiếp tục trôi giạt tới những thứ căng thẳng và xung khắc hơn nữa về các nguồn lợi, chưa nói gì tới việc đe dọa chính sự hiện hữu của các dân tộc sống ở miền duyên hải và các tiểu đảo quốc.

 

Gần đây chúng ta nghe về những nền kinh tế đã có thể tăng trưởng mà vẫn thực sự giảm bớt được việc tiêu thụ năng lượng. Sự thành công này chắc chắn cống hiến cho chúng ta niềm hy vọng là kiểu mẫu kin h tế hiện tại không bao giờ cũng bắt buộc chúng ta phải sử dụng mỗi ngày một hơn để tăng trưởng. Việ ctăng trưởng về kinh tế không có nghĩa là cần phải tiêu thụ nhiều năng lượng hơn. Tuy nhiên, theo quan điểm của một thứ kinh tế khả trợ, thì nó cũng có nghĩa là chúng ta sẽ cần đến kỹ thuật, đến vấn đề tài khéo, đến ý chí chính trị dứt khoát và đến cảm quan chung. Quan trọng nữa là nó cũng đòi hỏi việc trao chuyển kỹ thuật cho các quốc gia đang phát triển, cho lợi ích của toàn thể cộng đồng hoàn vũ.

 

Thế nhưng, ngay cả đến vấn đề kỹ thuật, việc trao chuyển về kỹ thuật và ý muốn chính trị trong việc hợp tác ở lãnh vực quốc tế vẫn là những gì chưa đủ: chúng ta cần phải thêm vào tất cả những thứ ấy các thứ đề án giáo dục toàn quốc để có thể giúp tất cả chúng ta không trừ một ai trong việc tiến tới mẫu sống hằng ngày của chúng ta trong vấn đề tiêu thụ và sản xuất một cách khác đi cũng như trong việc cần phải thay đổi tương tự nơi vấn đề xây cất, chuyên chở, thương mại và các cơ cấu khác.

 

Nhờ việc giáo dục như thế, các quốc gia có thể giúp cho thành phần công dân của mình nắm bắt được cái khẩn trương của những gì cần phải thực hiện, dạy cho họ ngược lại trông mong và đòi hỏi một đường lối thật khác cho việc tiêu thụ của họ và những gì chung quanh họ.

 

Trên thế giới, những đổi thay về sinh học chưa từng có đang xẩy ra và không ai trong chúng ta có thể thấy trước được tất cả mọi hậu quả của hoạt động kỹ nghệ của con người đối với các thế kỷ gần đây. Những phương dược trị liệu ở ngoài tài khéo của chúng ta, thế nhưng chúng ta dù sao cũng phải thận  trọng đừng chọn con đường làm cho các sự việc trở nên tồi tệ hơn, nhất là đối với người nghèo. Chúng ta không thể chỉ thực hiện việc bất chế tạo nên một thế giới tân tiến, mà vẫn còn thời gian để sử dụng kỹ thuật và việc giáo dục để phát động vấn đề phát triển khả trợ toàn cầu trước khi quá trễ.

 

Cám ơn Ông Trưởng Ủy Ban



Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 11/5/2007

 TOP

ĐTGM Celestino Migliore Đại Diện Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc Nữu Ước Hoa Kỳ với khóa họp lần thứ 40 của Ủy Ban về Dân Số và Phát Triển của Hội Đồng Liên Hiệp Quốc về Kinh Tế và Xã Hội ngày 10/4/2007

 

Thưa Ông Trưởng Ủy Ban,

 

Có những dấu hiệu tiếp tục cho thấy rằng vào năm 2050 dân số trên thế giới sẽ đạt tới con số khoảng 9 tỉ. Mặc dù điều này hàm ý là các dân số ở quốc gia không cần được điều hòa theo dự định của ý nghĩ cực đoan trong quá khứ, ủy ban này cũng cần phải tiếp tục giúp vào việc kiểm tra khuynh hướng dân số ở tất cả mọi phần đất trên  thế giới. Về vấn đề này, các mục tiêu được phác họa ra cùng với phương thế thực hiện để đạt được những mục tiêu này cần phải lành mạnh và chú trọng tới phẩm vị con người.

 

Khóa họp thứ 40 này của ủy ban đây trùng hợp với dịp mừng 40 năm bản văn kiện về dân số và phát triển được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI ban hành mang nhan đề ‘Populorum Progressio’ tức là ‘Vấn Đề Phát Triển Các Dân Tộc’.

 

Vào thời điểm khi mà thế giới còn bị phân chia một cách tổng quát thành hai khối, Đông và Tây, thì bản văn kiện này chú trọng tới các dân tộc và xã hội có những điều kiện không mang đặc tính là Đông phương hay Tây phương, mà là mức độ phát triển và phúc hạnh ở một số phần đất trên thế giới, ngược lại với mức độ nghèo khổ và chậm phát triển ở những vùng khác.

 

Văn kiện này nhấn mạnh tới cá nhân cũng như các xã hội, cả hai như là cứ điểm chính cho các chính sách phát triển và như là những vai chính trong việc phát triển của họ, thậm chí cho tới ngày nay văn kiện này vẫn cung cấp một hướng dẫn vững chắc cho các chính sách dân số để cổ võ một nền văn hóa tôn trọng quyền lợi của các phần tử ít được bảo vệ nhất trong gia đình nhân loại của chúng ta, nhất là trước khi sinh và trong tuổi quá già.

 

Những bản tường trình do ủy ban này thực hiện trong năm nay cho thấy rằng các tỷ lệ tùy thuộc lên cao ở một số nơi đang gia tăng số người già là thành phần gây gánh nặng cho những ai đang hoạt động. Hy vọng rằng các quốc gia sẽ hoạt động để duy trì việc tôn trọng sự sống con người ở mọi giai đoạn của nó và tìm được những giải pháp đúng đắn và chân chính chứ không chỉ thuần thực dụng. Ở đây, việc đặc biệt cổ võ tình đoàn kết giữa các thế hệ sẽ là những gì rất có giá trị.

 

Vào năm 2050, Âu Châu sẽ có một tỷ lệ lão thuộc giống như tỷ lệ ở Phi Châu vào thập niên 1960, trong khi đó Phi Châu sẽ có tỷ lệ tùy thuộc này thấp nhất trên thế giới. Dự phóng đây cống hiến cho châu lục này một thuận lợi chưa từng thấy về khía cạnh kinh tế, khi một lực lượng hoạt động trẻ trung và dồi dào sẵn có trong tay cho tới ít là năm 2050, trong lúc thương số về nhân khẩu học ở hầu hết các miền khác trên thế giới sẽ trở nên cạn kiệt.

 

Để bảo đảm là Phi Châu không lỡ mất cánh cửa cơ hội này cho việc phát triển về kinh tế, châu lục này cần phải được giúp đỡ, inter alia, để đầu tư vào vốn liếng nhân sự cùng hạ tầng cơ sở của họ để đặt nền  tảng cho việc phát triển về kinh tế. Vì nhiều lực lượng hoạt động mai hậu này đã được xuất phát và đang ở vào tuổi học đường rồi, đại biểu tôi đây tin rằng việc đầu tư quan trọng nhất cần phải được thực hiện ở đây là ở vấn đề giáo dục.

 

Văn Phòng Thư Ký Liên Hiệp Quốc thẩm định rằng để đạt được việc giáo dục căn bản cho tất cả mọi người vào năm 2015 sẽ tốn tới 9 tỉ Mỹ kim theo trị giá năm 1998. Dù thẩm định nào đi nữa, cũng khó lòng coi đó là một giá cao cần phải trả cho một phần thưởng như vậy.

 

Hơn nữa, vấn đề giáo dục, nhất là cho nữ nhi và phụ nữ trẻ tuổi, có thể gây một ảnh hưởng đáng kể đối với việc phát triển về dân số. Khi phụ nữ được giáo dịc khá hơn, họ được tôn trọng nhiều hơn; họ trở thành những người tự lực mưu sinh; họ trở nên trưởng thành nơi trách nhiệm làm cha làm mẹ và đóng góp ý kiến hơn nữa trong các thứ gia đình vụ. Đầu tư vào con người như thế, nhất là vào việc giáo dục, chắc chắn là những gì đáng mong ước hơn là việc áp đặt các giới hạn về pháp lý, hơn là những biện pháp sửa chữa nhân tạo và các chính sách quyết liệt, và hơn là việc làm bất khả chấp đối với vấn đề loại trừ đi những bào thai, nhất là phái nữ, để hạn chế vấn đề phát triển về dân số.

 

Sau hết, từ khóa họp thứ 39 của ủy ban này năm vừa rồi, các khởi động vừa được hoàn tất vừa được bắt đầu, nhất là vấn đề liên quan tới thành phần di dân, một đề tài không ít quan trọng đối với các cấu trúc đang thay đổi về tuổi tác nơi các thành phần dân số. Đại biểu tôi coi Cuộc Đối Thoại Cấp Cao về Vấn Đề Di Dân và Phát Triển Quốc Tế là những gì mưu ích và hoan nghênh việc cống hiến của Bỉ quốc và các quốc gia khác trong việc gìn giữ cái đà của nó nơi hình thức của Diễn Đàn Toàn Cầu tới đây về Di Dân và Phát Triển. 

 

Hy vọng rằng Diễn Đàn này sẽ xây dựng trên những gì đã đạt được trong cuộc đối thoại cao cấp ấy. Hầu như không có quốc gia nào trên thế giới tránh khỏi vấn đề di dân và nó trở thành một nguồn hết sức quan trọng cho cả vấn đề lao động lẫn việc chuyển vận tùy thuộc vào hoàn cảnh của mỗi quốc gia. Bởi thế, chính vì lợi ích của tất cả mọi quốc gia – không đề cấp tới chính thành phần di dân – mà cuộc diễn đàn này có thể đi tới chỗ thành đạt.

 

Xin cám ơn Ông Trưởng Ủy Ban.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 16/4/2007

 

TOP

 

 

“Để theo đuổi việc bênh vực các quyền lợi của các em cũng như việc loại trừ đi tất cả mọi hình thức vi phạm tới các em vẫn còn là một thách đố về cơ cấu đối với cộng đồng quốc tế”

 

ĐTGM Silvano Tomasi Đại Diện Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc Geneva Thụy Sĩ ngày 23/3/2007 tại Khóa Họp thứ tư của Hội Đồng Nhân Quyền về vấn đề bảo vệ trẻ em cùng với các quyền lợi của trẻ em

 

Thưa Ông Chủ Tịch,

 

1.         Phái đoàn đại biểu của Tòa Thánh rất hoan hô việc chú trọng tới vấn đề bảo vệ trẻ em cùng với các quyền lợi của trẻ em trong các cuộc nghiên cứu và tranh luận gần đây. Thật vậy, trẻ em chẳng những cần phải được coi trọng ở các chương trình hoạt động chính trị mà còn phải đặt ở tâm điểm của mối quan tâm nữa, vì tương lai của xã hội lệ thuộc vào trẻ em và vào việc chúng được sửa soạn cho xã hội, và vì tính chất mỏng dòn yếu ớt của chúng cần phải được đặc biệt bảo vệ.     

 

Một đứa trẻ không thể nào lại là một dụng cụ hay một đồ vật. Công Ước của Liên  Hiệp Quốc về Quyền Lợi của Trẻ Em qui cho trẻ em các thứ quyền lợi nồng cốt của một con người; nó công nhận trẻ em có quyền bình đẳng và phẩm giá như bất cứ người lớn nào. Nơi lời tựa của mình, bản công ước này xác nhận rằng vì tính cách chưa trưởng thành của mình mà trẻ em ‘cần phải được đặc biệt bảo vệ và chăm sóc, bao gồm cả việc bảo vệ trước cũng như sau khi sinh vào trần gian’. Tôn trọng trẻ em là tôn trọng nhân loại.

 

2.         Trong nhiều trường hợp, vì thiếu ý muốn và phương tiện mà các khoản pháp lý tốt đẹp cũng như các chính sách công cộng đã không được mang ra áp dụng, khiến cho trẻ em phải gánh chịu hậu quả trầm trọng. Các em thường trở thành những nạn nhân đầu tiên của đói khát và chiến tranh. Các em bị què cụt bới những cuộc mìn nổ, bởi thất học, thiếu lương thực thích đáng, bị bắt buộc phải ngủ và sống còn trên hè phố trong các trung tâm thành phố, bị mắc hội chứng liệt kháng, sốt rét rừng và lao phổi mà không được cung cấp thuốc men, bị bán cho thành phần buôn  người, bị chiêu mộ thành những đạo binh ngoại lệ, bị mất gốc bởi các cuộc phân tán áp buộc, bị ép làm việc mệt nhọc lâu giờ.

 

Con số hằng triệu triệu nạn nhân trẻ này là tiêu biểu sống động cho những thứ bất công hiện nay và những thể chế bại hoại. Tiếc thay đó không phải là những tương phản duy nhất ảnh hưởng tới trẻ em trong thế giới toàn cầu hóa của chúng ta đây. Đối với nhiều trẻ em lại còn bị chối từ cả quyền được sống nữa; việc tuyển lựa tiền sản sinh đang loại trừ đi cả những thơ nhi bị cho là tàn tật và các em gái chỉ vì phái tính của các em, do đó chối bỏ giá trị bình đẳng và nội tại của những con người tật nguyền và của các em gái đối với gia đình của họ cũng như đối với xã hội. Trong những cách thức vi phạm khác nhau tới trẻ em đang diễn ra có việc vi phạm hạ nhục quyền  làm người của các em.

 

3.         Nếu việc tôn trọng nhân  quyền của trẻ em là những gì đo lường sức khỏe của xã hội, thì việc nhìn nhận các thứ quyền ấy là điều khẩn trương. Quyền đầu tiên của trẻ em đó là quyền được sinh ra và được giáo dục trong một môi trường gia đình hân hoan và an toàn, nơi bảo đảm việc phát triển về thế lý, tâm lý và tinh thần của các em, nơi khả thể của các em được tiến triển và là nơi việc nhận thức về phẩm giá con người trở thành nguồn gốc cho việc liên hệ với người khác cũng như cho việc đương đầu với tương lai.

 

Mục tiêu của việc loại trừ đi vấn đề vi phạm tới trẻ em cũng như của việc cung cấp một môi trường xây dựng và lành mạnh cho việc phát triển của các em đòi quốc gia và xã hội phải cụ thể nâng đỡ và giúp cho gia đình có thể thi hành công việc của họ. Thật vậy, đường lối quan thiết để chống lại với tính cách dễ bị tổn thương của trẻ em đó là việc củng cố các gia đình là nơi các em lớn lên, phát triển, và được đào luyện thành những công dân hữu trách và lợi ích trong các cộng đồng địa phương của các em cũng như trong xã hội nói chung.

 

Các chính quyền cần  phải thực hiện vai trò thực sự của mình trong việc bảo vệ và cổ võ đời sống gia đình, vì gia đình có những liên hệ sống còn và cơ cấu với xã hội. Việc kiến tạo những điều kiện dẫn đến tình trạng hòa bình và tiến bộ về kinh tế, kiến tạo một trác h nhiệm liên tục của các cộng đồng quốc gia và quốc tế, sẽ là những gì mở đường cho việc  giảm bớt cùng loại trừ đi từ từ những trường hợp làm tổn thương trẻ em một cách bất xứng. Phái đoàn đại biểu tôi đây chắc chắn đồng ý rằng tất cả mọi hình thức vi phạm tới trẻ em đều là những gì bất khả biện minh, có thể ngăn ngừa và cần phải được ngăn chặn.

 

4.         Một nỗ lực liên hợp để loại trừ đi vấn đề vi phạm đến  trẻ em, bởi thế, sẽ loại trừ đi việc cổ võ vi phạm trong nền văn hóa chung của xã hội. Việc giáo dục trở thành một dụng cụ quan trọng để phổ biến chẳng những vấn đề nhân nhượng đối với việc chung sống trong các xã hội ngày nay ở khắp nơi đang cảm thấy tính cách đa nguyên hơn nữa, mà còn cả đến vấn đề tỏ ra cảm nhận và tôn trọng nhau, cởi mở đối thoại trong một cuộc cùng nhau tìm kiếm công ích, và thậm chí để yêu chuộng phần hành trật tự trong xã hội như là những liên hệ xây dựng hơn nữa.

 

Một hình thức vi phạm mới tới trẻ em nếu quấn gia áp đặt một thứ mẫu thức  đặc biệt về lương tâm luân lý trên  trẻ em mà không quan tâm gì tới những niềm xác tín về luân lý và đạo giáo của thành phần làm cha làm mẹ. Xã hội dân sự đóng một vai trò quan trọng trong v ấn đề nâng đỡ gia đình và chống lại tất cả mọi hình thức vi phạm tới trẻ em. Về phần mình, trên 30 ngàn cơ cấu tổ chức về xã hội, chăm sóc và giáo dục của Giáo Hội Công Giáo hằng ngày đang hoạt động để bảo đảm một việc giáo dục hướng tới hòa bình và sáng tạo cho trẻ em, cũng như việc vừa phát triển những tài năng của các em, vừa cung cấp việc tái hội nhập cho những trẻ em bị lạm dụng và bỏ rơi vào các gia đình, nếu có thể, cũng như vào xã hội.

 

Thưa Ông Chủ Tịch,

 

5.         Trẻ em vừa yếu đuối vừa là niềm hy vọng. Để theo đuổi việc bênh vực các quyền lợi của các em cũng như việc loại trừ đi tất cả mọi hình thức vi phạm tới các em vẫn còn là một thách đố về cơ cấu đối với cộng đồng quốc tế. Việc thành đạt sẽ được chiếm hữu nếu biết đặt ưu tiên cho vai trò tự nhiên của gia đình cũng như cho nền  văn hóa chung công nhận trẻ em cũng hoàn toàn là con người. 

 

Xin cám ơn Ông Chủ Tịch.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 1/4/2007

 

 

TOP

 

 

Hồng Y Quốc Vụ Khanh đại diện ĐTC gửi sứ điệp cho ông Jacques Diouf tổng giám đốc Tổ Chức Lương Nông LHQ ở Rôma về Ngày Nước Thế Giới, 22/3/2007

 

Ông Jacques Diouf,

 

Nhân dịp cử hành Ngày Nước Thế Giới, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI muốn tôi chuyển đến ông Tổng Giám Đốc cũng như tới tất cả mọi tham dự viên cuộc họp này những lời trân trọng và thân ái chào chúc cùng với lời phấn khích về việc làm của quí vị có lợi cho những ai trên thế giới đang phải trải qua tình trạng thiếu thốn nước nôi.

 

Trong bối cảnh của Thập Niên 2005 / 2015, một thập niên được Tổng Hội Đồng LHQ tuyên bố là ‘Thập Niên Tác Hành của Quốc Tế: Nước cho sự sống’, đề tài năm nay đó là việc đối đầu với vấn đề khan hiếm nước nôi, hiến cho chúng ta một cơ hội để nghĩ về tầm quan trọng của nước như là một nguồn của sự sống thiết yếu cho các chu kỳ sự sống trên trái đất và nồng cốt cho một cuộc sống trọn vẹn con người.

 

Tất cả chúng ta đều biết được cái khó khăn trong việc chiếm lấy ở tầm mức thế giới mục đích do cộng đồng quốc tế ấn định để làm giảm bớt phân nửa số người không thể có nước lành mạnh và dịch vụ vệ sinh căn bản vào năm 2015, qua việc phát triển, trong số những sự khác, những dự án liên kết điều hành và việc sử dụng hữu hiệu các nguồn nước.  

 

Tuy nhiên, tất cả chúng ta cũng đều xác tín về tầm quan trọng của vấn đề không bị thất bại về những mục tiêu này, nếu lấy nước là vấn đề chính yếu trong bất cứ tiến trình này nhắm tới vấn đề duy trì việc cổ võ một thứ phát triển nhân bản toàn vẹn.

 

Hơn nữa, những việc đầu tư thích hợp vào lãnh vực nước và những dịch vụ về vệ sinh là những gì tiêu biểu cho một đường lối quan trọng để gia tốc phát triển về kinh tế và việc phát triển khả trợ, để cải tiến vấn đề sức khỏe và vệ sinh của con người, để nhổ tận rễ tình trạng nghèo khổ và để chiến đấu với tình trạng suy thoái về môi trường.

 

Nước, một thứ công ích của gia đình nhân loại, là những gì tạo nên yếu tố thiết yếu cho sự sống; việc điều hành nguồn mạch quí báu này cần phải giúp cho tất cả có thể sử dụng nó, nhất là những ai sống trong những điều kiện nghèo khổ, và phải bảo đảm tính cách khả sinh của trái đất này cho cả thế hệ hiện  tại và tương lai.

 

Thật vậy, việc được hưởng nước là một trong những quyền lợi bất khả tước đoạt của hết mọi người, vì nó là một điều kiện tiên quyết trong việc hiện thực hóa đa số những quyền lợi khác của con người, như quyền về sự sống, quyền về lương thực và quyền về sức khỏe.

 

Đó là lý do nước ‘chẳng những được coi như là một thứ tiện nghi khác trong số nhiều tiện nghi, nó còn cần phải được sử dụng một cách hợp tình hợp lý và liên đới với kẻ khác nữa… Quyền lợi về nước… bắt nguồn từ nhân phẩm chứ không phải từ bất cứ loại thuần thẩm định về chất lượng coi nước là một sự vật thuần kinh tế. Không có nước, sự sống bị đe dọa. Bởi thế, quyền lợi về nước uống an toàn là một quyền lợi phổ quát và bất khả tách biệt’ (Tổng Luận về Giáo Huấn về Xã Hội của Giáo Hội, số 485).

 

Ngày Nước Thế Giới là một cơ hội quí báu để khuyến khích cộng đồng quốc tế trong việc nhận định những đường lối hữu hiệu để quyền lợi căn bản này được cổ võ, bảo vệ và hoan hưởng.

 

Về vấn đề này, việc điều hành khả trợ về nước trở thành một thách đố về xã hội, kinh tế, môi trường và đạo lý chẳng những liên quan tới các tổ chức mà còn tới toàn thể xã hội nữa.

 

Nó cần phải đương đầu theo nguyên tắc phụ trợ, tức là bằng việc chấp nhận phương sách tham dự bao gồm cả lãnh vực tư riêng và nhất là các cộng đồng địa phương; nguyên tắc phù trợ, một cột trụ chính yếu của vấn đề hợp tác quốc tế, một việc hợp tác đòi chú trọng hơn tới người nghèo, nguyên tắc trách nhiệm đối với thế hệ hiện  tại cũng như với các thế hệ mai hậu, đưa tới nhu cầu là cần phải tái kiểm điểm những kiểu cách tiêu thụ và sản xuất, những kiểu cách thường bất khả trợ đối với việc sử dụng các nguồn nước.

 

Ngoài ra, nó còn là một thứ trách nhiệm cần phải được chia sẻ thông phần và là thứ trách nhiệm trở thành một điều buộc làm về luân lý và chính trị trong một thế giới có những trình độ liên quan tới kiến thức làm cũng như tới cách thức làm có khả năng chấm dứt những tình trạng khan hiếm nước cũng như chấm dứt những hậu quả đặc biệt ảnh hưởng tới những miền có lợi tức thấp, nơi mà phương tiện để có nước thường làm bùng lên những sự xung khắc thực sự, trong khi đó, nó có thể trở thành một động lực hợp tác liên vùng là nơi dân chúng cảm nhận được một phương sách nhìn xa trông rộng được bắt nguồn từ vấn đề liên thuộc về khoa thủy học thắt buộc những ai sử dụng nguồn nước ở các quốc gia lân bang trong một thỏa hiệp chung. 

 

Thưa Ông Tổng Giám Đốc, những khía cạnh này chẳng những đòi hỏi trách nhiệm của các vị lãnh đạo chính quyền và các chính trị gia, mà còn là những gì thách đố hết mọi cá n hân. Tất cả chúng ta đều được kêu gọi để canh tân lại những lối sống của chúng ta bằng một nỗ lực giáo dục có thể tái phục hồi cho công ích này của nhân loại cái giá trị và lòng tôn trọng phải có trong xã hội của chúng ta.

 

Ngoài ra, nỗ lực về giáo dục kiểu này là những gì có thể rút tỉa được từ nhiều sách thánh của c ác tôn giáo truyền thống, như Thánh Kinh, nơi mà nước tiêu biểu là nguồn mạch và là dấu hiệu của sự sống và sự hiện diện của nó thường liên hệ tới niềm vui và sự dồi dào sinh lực, khi còn đóng cả vai trò thanh tẩy, canh tân và tái sinh.

 

Vào Ngày Nước Thế Giới này, Đức Thánh Cha cầu xin Phúc Lành của Chúa xuống cho tất cả những ai dấn thân chiếm đạt những mục tiêu liên quan tới nước đã được công đồng quốc tế đề ra. Ông Tổng Giám Đốc, tôi hân hạnh chuyển đến ông Sứ Điệp này của Đức Thánh Cha và xin ông chấp nhận nơi đây việc biểu lộ trân trọng nhất của tôi.

 

Tại Vatican ngày 22/3/2007

 

Hồng Y Tarcisio Bertone

Quốc Vụ Khanh của Đức Thánh Cha


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 22/4/2007

 

 TOP

 

 

“Việc tôn trọng tôn giáo nghĩa là tôn trọng những ai đã chọn theo tôn giáo ấy và thực hành tôn giáo ấy một cách tự do an lành, ở nơi riêng cũng như chung, một cách cá nhân cũng như cộng thể”.

 

ĐTGM Silvano Tomasi Đại Diện Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc Geneva Thụy Sĩ ngày 22/3/2007 tại Khóa Họp Thường Lệ của Hội Đồng Nhân Quyền về đề tài tự do tôn giáo.

 

Thưa Ông Chủ Tịch,

 

1.         Việc gia tăng đáng kể nơi vấn đề chú ý tới tôn giáo về ảnh hưởng của nó trên đời sống của cá nhân cũng như xã hội trên khắp thế giới là một hiện tượng thấy được – có thể nói như thế – âm vang nơi Hội Đồng Nhân Quyền.

 

Việc lạm dụng quyền lợi của thành phần tín hữu, thậm chí công khai vi phạm đến chúng, những thứ hạn chế quốc gia, những áp đặt và bách hại quá đáng, việc sỉ nhục các cảm thức tôn giáo, rất tiếc vẫn còn diễn tiến và cần phải được chữa trị. 

 

Phái đoàn đại biểu của Tòa Thánh cảm nhận và hoàn toàn ủng hộ việc tổ chức cuộc họp mới này để chấp nhận một nhãn quan chung về việc bảo vệ nhân quyền.

 

Một đóng góp chính yếu của hội nghị này đó là một phương sách bao hàm và nhất trí với những điều khoản hiện hữu nơi các công cụ và tuyên ngôn về nhân quyền là những gì minh nhiên hỗ trợ, trong số những quyền lợi khác, quyền tự do tôn giáo, tự do phát biểu, tự do theo lương tâm, tự do thờ phượng chung riêng, và tôn trọng những niềm xác tín về tôn giáo đối với các tín hữu thuộc mọi tín ngưỡng cũng như đối với thành phần vô tín ngưỡng.

 

2.         Phái đoàn đại biểu Tòa Thánh cảm thấy quan tâm khi thấy xẩy ra tình trạng khẩn trương của một thứ nan giải hiển nhiên giữa việc tôn trọng cần có đối với tôn giáo với quyền được tự do về tôn giáo như thế chúng là những khía cạnh bất tương hợp và loại trừ nhau. Ngược lại, chúng là những giá trị bổ khuyết không thể bất cần đến nhau.

 

Chiều kích tôn giáo của con người, thái độ của họ trước siêu việt tính và những đòi hỏi về đạo lý bởi đó mà ra, làm nên một thứ biểu hiện cụ thể và cốt yếu cho khả năng tự quyết của họ. Nó là cứ điểm căn bản cho hành vi cử chỉ của cá nhân  cũng như của xã hội. Các tôn giáo có thể cống hiến, mà thực sự họ đang cống hiến, một nền tảng vững chắc cho việc bênh vực các thứ giá trị về công lý thuộc cá nhân cũng như xã hội, cho việc tôn trọng kẻ khác và thiên nhiên tạo vật.

 

3.         Trong giòng lịch sử, đã từng xẩy ra những giai đoạn buồn thảm của nạn cuồng tín gây ra những hậu qủa thảm khốc cho xã hội. Tuy nhiên, các tôn giáo, trong số các yếu tố khác của xã hội, cùng với khoa học, đã từng góp phần nhất vào việc tiến bộ của nhân loại qua việc cổ võ những giá trị về văn hóa, nghệ thuật, xã hội và nhân đạo. Bởi thế, bất cứ tôn giáo nào giảng dạy hay dung túng bạo động, bất nhân nhượng và thù hằn đều làm cho tên tuổi của mình trở thành bất xứng.

 

Đàng khác, chúng ta không thể né tránh vấn đề nhận định là ngoài nạn cuồng tín có tính cách ngụy giáo còn cho thấy rõ ràng có những trường hợp gây ra bởi nạn cuồng tín có tính cách phản giáo nhằm phỉ báng tôn giáo, hay nói chung, phỉ báng tín đồ của một tôn giáo, bằng việc qui cho họ trách nhiệm về những hoạt động bạo lực được thực hiện ngày nay hay trong quá khứ bởi một số phần tử của tôn giáo ấy.

 

Việc phê phán hợp lý về một số hình thức tác hành của những tín đồ thuộc một tôn giáo không được biến thành viêä sỉ nhục hay phỉ báng bất công hay không được biến thành việc chế nhạo xúc phạm đến những con người, thực hành, nghi thức hay biểu hiệu đáng kính của tôn giáo ấy. Việc tôn trọng quyền lợi và phẩm giá của kẻ khác cần phải là những gì giới hạn bất cứ quyền lợi nào, thậm chí là quyền tự do phát biểu và bày tỏ ý kiến của mình, kể cả những quyền về tôn giáo.

 

4.         Việc tôn trọng con người cùng với phẩm vị của họ bao hàm việc tôn trọng tự do của họ nơi các vấn đề tôn giáo trong vấn đề tuyên  xưng, thực hành và công khai bày tỏ tôn giáo của mình mà không bị nhạo báng, gây tổn thương hay kỳ thị. Việc tôn trọng tôn giáo nghĩa là tôn trọng những ai đã chọn theo tôn giáo ấy và thực hành tôn giáo ấy một cách tự do an lành, ở nơi riêng cũng như chung, một cách cá nhân cũng như cộng thể.

 

Việc phạm đến một tôn giáo, nhất là khi tôn giáo này của một thiểu số, là những gì gây ra một thứ áp bức phạm đến các tín đồ của nó, khiến trở nên khó khăn hơn trong việc tuyên xưng, thực hành và biểu lộ tôn giáo này nơi công cộng.

 

5.         Chủ thể của tôn giáo và chủ thể của tự do bao giờ cũng là con người, một con người có phẩm vị là nguồn mạch của những quyền lợi căn bản. Việc tôn trọng đối với bất cứ một tôn giáo nào thực sự được căn cứ vào việc tôn trọng xứng với tất cả những ai theo đuổi và thực hành tôn giáo ấy theo việc hành sử quyền tự do của họ.

 

Dĩ nhiên là việc tôn trọng này không thể bao hàm việc khinh khi hay tấn công quyền  lợi của thành phần dân chúng không theo cùng một tôn giáo hay có các niềm xác tín khác. Nhờ đó, vấn đề tôn trọng xứng với các tôn giáo cần phải đặt nền tảng dứt khoát của nó nơi các quyền tự do tôn giáo và tự do phát biểu.

 

Như thế, việc cổ võ vấn đề tôn trọng các quyền tự do tôn giáo và tự do bày tỏ không được gạt ra ngoài việc tôn trọng những tôn giáo, những niềm tin và những ý kiến cụ thể hiện thực hóa các quyền ấy.

 

Người ta không thể coi việc nhạo cười sự lin h thánh là một quyền tự do. Trong việc hoàn toàn tôn trọng quyền bày tỏ, cũng cần phải phác họa ra những cơ cấu hay những phương tiện gắn liền với các khoản về nhân quyền tỏ ra bênh vực sứ điệp của các cộng đồng đạo giáo khỏi bị mạo dụng và tránh được vấn đề bày tỏ một cách bất kính nơi các phần tử của tôn giáo ấy.

 

Thưa Ông Chủ Tịch,

 

6.         Tóm lại, một quốc gia thực sự dân chủ thì trân trọng quyền tự do tôn giáo n hư là một yếu tố căn cốt của công ích, đáng tôn trọng và bảo vệ, và tạo điều kiện cho thành phần công dân của mình có thể sống và hành động tự do. Nếu việc bàn luận chỉ tập trung vào vấn đề nhân nhượng về tôn giáo và vấn đề phỉ báng đạo giáo, thì nó hạn hẹp phạm vi các quyền lợi cùng với việc góp phần của các tôn giáo.

 

Thật vậy, vấn đề đáng chú ý ở đây đó là tôn giáo được nhân nhượng theo những hoàn cảnh về văn hóa, chủng tộc, chính trị, đến độ có thể thay đổi hay thậm chí b iến thành các hình thức áp bức, chứ không được công nhận như là một quyền lợi nền tảng của con người vốn có nơi hết mọi người.

 

Một phương sách toàn diện, một phương sách công nhận việc tôn trọng tôn giáo bắt nguồn nơi quyền tự do mà hết mọi người được quyền hoan hưởng một cách quân bình với các quyền lợi của kẻ khác và của xã hội, mới là đường lối hợp lý để tiến lên.

 

Xin cám ơn Ông Chủ Tịch


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 30/3/2007

 

 

TOP

 

 

“Đau Khổ cuối cùng chỉ hành khổ hết mọi người thôi”.

 

Đức Ông Pietro Parolin, phụ tá bí thư bộ ngoại giao của Tòa Thánh, ở một hội nghị ngày 22-23/3/2007 ở Rôma được tổ chức bởi Tiểu Ban Liên Hiệp Quốc về Việc Hành Sử Các Thứ Quyền Lợi Bất Khả Tước Đoạt của Nhân Dân Palestine.

 

Thưa Ông Chủ Tịch,

 

Tôi hân hạnh chuyển lời chào và nguyện chúc của Tòa Thánh đến tất cả những ai đang tham dự vào Hội Nghị quốc tế này, được tổ chức ở Rôma, tại tổng hành dinh của Cơ Quan Lương Nông LHQ.

 

Hội nghị này, được tổ chức bởi Tiểu Ban Liên Hiệp Quốc về Việc Hành Sử Các Thứ Quyền Lợi Bất Khả Tước Đoạt của Nhân Dân Palestine, là để tái thúc đẩy việc suy tư và dấn thân của cộng đồng quốc tế, của các tổ chức tôn giáo, của các nhóm quốc hội và của xã hội dân sự, hầu điểm mặt các th1ch đố cần phải đương đầu, cùng với phương sách cần được chấp nhận để góp phần vào việc kiến thiết hòa bình giữa những người Do Thái và người Palestine.

 

Hội nghị này đang diễn tiến vì Chính Phủ của Mối Hiệp Nhất Quốc Gia được Thẩm Quyền Palestine tổ chức vào Thứ Bảy tuần trước ngày 17/3 đã mở đường. Chắc chắn đó là những gì tích cực vì chính quyền này là sản phẩm của một cuộc dung hòa giữa những nhóm chính trị chính yếu của người Palestine.

 

Nó chấm dứt mấy tháng trời xẩy ra cuộc xung đột võ trang bạo lực trầm trọng, với hậu quả là nhiều nạn nhân, thường là những người vô tội, trong số nhân dân  Palestine đã phải chịu rất nhiều đau khổ.

 

Cộng đồng quốc tế hy vọng rằng chính phủ mới sẽ là một đối thoại viên có thẩm quyền và đáng tin tưởng, có khả năng dẫn dắt nhân dân của mình, bằng một cảm quan trách nhiệm và thực tiễn, mang lại thành quả hòa bình chân thực với những người Do Thái – thành phần có quyền sống an bình nơi quốc gia của họ (cf. Address of Pope Benedict XVI to the Diplomatic Corps accredited to the Holy See, Jan. 8, 2007) – cũng như việc tạo dựng một quốc gia tự do, độc lập và chủ quyền được tất cả mọi người mong muốn thấy thiết lập cho người Palestine.

 

Tòa Thánh đã luôn luôn chú ý theo dõi những biến cố trong các thập niên vừa qua, đó là hằng bao nhiêu là ngàn người Công Giáo sống ở mảnh đất này, một mảnh đất chúng tôi thích gọi là ‘Thánh Địa’, vì nó bảo trì ký ức sống động về các biến cố đánh dấu lịch sử cứu độ của chúng tôi. Nhiều triệu người Công Giáo và Kitô Giáo khắp thế giới hướng về mảnh đất này, hy vọng có thể hành hương đến đấy.

 

Gần đây chính Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã nhấn mạnh tới điều đáng chú ý ấy trong một bức thư gửi cho người Công Giáo sống ở Trung Đông.

 

Ngài nhận định rằng ‘trong các hoàn cảnh hiện nay, sáng ít tối nhiều, thật là niềm an ủi và hy vọng cho tôi khi biết được rằng các cộng đồng Kitô Giáo ở Trung Đông, thành phần tôi quá biết là đang chịu rất nhiều khổ đau, tiếp tục là nhữn g cộng đồng sống còn và hoạt động, quyết tâm làm chứng cho niềm tin của mình bằng căn tính riêng biệt của họ ở những xã hội họ đang chung sống. Họ muốn góp phần một cách xây dựng vào nhu cầu khẩn trương nơi những xã hội hiện nay của họ cũng như nơi toàn thể vùng này’.

 

Trong bức thư này, vị Giáo Hoàng này đề ra một cách cụ thể trong việc làm sao để thực hiện được việc đóng góp xây dựng này. Tôi xin trích lại những đoạn thích hợp, vì chúng chất chứa những lời khuyên dụ rất hữu ích theo tinh thần cần phải có trong việc kiến tạo các điều kiện cho một nền hòa bình chân thực và chính đáng giữa những người Do Thái và Palestine:

 

‘Tin tức hằng ngày ở Trung Đông cho thấy các tình hình báo động gia tăng, dường như không thể nào tránh né. Chúng là những biến cố tự nhiên đẩy thành phần trong cuộc đến chỗ cáo buộc lẫn nhau và phẫn nỗ, khiến họ nghĩ tới vấn đề trả đũa và trả thù.

 

‘Chúng ta biết rằng đó không phải là những cảm thức của Kitô hữu; chiều theo chúng sẽ biến chúng ta thành những kẻ bất nhẫn và hận thù, không đúng với ‘sự hiền lành và khiêm nhượng’ được Chúa Giêsu dạy chúng ta như mô phạm của hành vi cử chỉ.

 

‘Thật vậy, chúng ta có thể mất cơ hội trong việc góp phần một c ách thích đáng của Kitô hữu vào việc giải quyết những trục trặc trầm trọng trong thời đại của chúng ta. Sẽ không khôn ngoan tí nào, nhất là hiện nay, bỏ giờ ra để đặt vấn đề ai là người chịu khổ nhất hay tường trình về những thứ bất công phải chịu đựng, liệt kê các lý do biện minh cho lập luận của mình.

 

‘Điều này đã từng xẩy ra trong quá khứ, với thành quả phải nói là thất vọng. Cuối cùng thì mọi người đều chịu khổ, và khi một người chịu khổ thì họ trước hết cần phải hiểu người khác trong cùng một trường hợp phải chịu khổ đau như thế nào.

 

‘Việc nhẫn nại và khiêm tốn đối thoại, đạt được qua việc  lắng nghe nhau và có ý muốn thông cảm trường hợp của người khác, đã từng mang lại những thành quả tích cực ở nhiều quốc gia trước  đây đã bị bạo lực và hận thù tàn phá. Một chút tin tưởng hơn nữa nơi niềm cảm thương kẻ khác, nhất là những ai bị khổ đau, chỉ có thể mang lại những thành quả lợi ích mà thôi.

 

‘Ngày nay, nhiều đảng phái đã có lý để yêu cầu có được điều kiện nội tâm này…. Anh chị em thân mến, qua anh chị em, tôi muốn kêu gọi thành phần đồng bào của anh chị em, những con người nam nữ thuộc các niềm tin Kitô Giáo khác nhau, thuộc các tôn giáo khác nhau và tất cả những ai chân thành tìm kiếm hòa bình, công lý và tình đoàn kết bằng việc lắng nghe và thành tâm đối thoại.

 

‘Tôi muốn nói với tất cả anh chị em rằng: Xin hãy can đảm và tin tưởng kiên tâm! Tôi kêu gọi những ai có trách nhiệm chi phối các b iến cố hãy vun trồng sự cảm thức, mối quan tâm và việc thân thiện là những gì vượt trên những mưu đồ và sách lược, nhờ đó họ có thể xây dựng những xã hội an bình và công chính hơn, thực sự tôn trọng hết mọi người’.

 

Tôi xin kết thúc lời chào ngắn gọn của tôi bằng việc chúc cho hội nghị này được mọi thành quả. Nhân danh Tòa Thánh, tôi muốn nói lên niềm xác tín mạnh mẽ của tôi là các tôn giáo khác nhau ở Thánh Địa có thể góp phần  quan trọng vào việc tái tấu những cuộc thương thuyết hòa bình giữa những người Do Thái và Palestine, chính nhờ việc phát động nơi các phần tử của mình những thái độ đã được tôi đề cập tới trên đây.



Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 26/3/2007 

 

 

TOP

 

“Việc cổ võ vấn đề bình đẳng và tăng quyền hạn của nữ giới”

 

ĐTGM Celestino Migliore Đại Diện Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc Nữu Ước Hoa Kỳ với Khóa Họp 61 của Tổng Hội Đồng ngày 8/3/2007

 

Thưa Bà Chủ Tịch,

 

Để mở đầu, đại biểu tôi đây xin cám ơn bà về việc triệu tập cuộc Tranh Luận Bán Chính Thức Theo Đề Tài này của Tổng Hội Đồng về Việc Cổ Võ Quyền Bình Đẳng Giống Tính và Việc Tăng Quyền cho Nữ Giới,  cùng với những cuộc tranh luận theo nhóm sau đó về nữ giới trong việc thực hiện quyết định và gia tăng quyền lực cho nữ giới bao gồm cả vấn đề tiểu tài trợ. Cuộc tranh luận hợp thời này là một thứ góp phần quan trọng cho những suy tư về các vấn đề nhân phẩm, quyền lợi và nghĩa vụ của nữ giới cũng như vào vai trò cùng những chiến đạt của họ trong những lãnh vực khác nhau nơi xã hội.

 

Việc tìm cầu hợp lý cho quyền bình đẳng giữa nam nhân và nữ giới đã đạt được các thành quả tích cực ở lãnh vực bình đẳng về quyền lợi. Việc tìm cầu này cần phải được kèm theo ý thức rằng quyền bình đẳng này được đi liền với và không được gây tai hại, lại càng không được tương phản, với sự nhìn nhận cả tính cách khác biệt lẫn tính cách bổ xung giữa nam nhân và nữ giới. Thiếu sự nhìn nhận này thì cuộc tranh đấu cho quyền bình đẳng sẽ không còn tính cách đích thực nữa.

 

Thật vậy, dường như thông thường thì những ý nghĩ về quyền bình đẳng quyền lợi giữa nam nhân và nữ giới đã từng được đánh dấu bằng một đường lối đối kháng đề cao cái trái nghịch giữa họ với nhau. Đường lối này đặt nữ giới phản lại nam nhân hay ngược lại, trong khi căn tính và vai trò của bên  này được nhấn mạnh với chủ ý làm giảm thiểu căn tính và vai trò của bên kia. Việc thành đạt trong việc tìm cầu quyền bình đẳng và gia tăng quyền hạn cho nữ giới chỉ có thể thành đạt một cách tốt đẹp nhất khi cái đối kháng này nhường bước cho sự tương kính và nhìn nhận căn tính cùng vai trò của bên này đối với bên kia.

 

Khuynh hướng thứ hai đó là việc làm lu mờ đi, nếu không muốn nói là hoàn toàn chối bỏ, những khác biệt giữa nam nhân và nữ giới. Để tránh sự thống trị của phái tính này trên phái tính kia, những sự khác biệt của chúng có khuynh hướng bị trở thành lu mờ đi hay được thấy như là những hậu quả thuần túy của điều kiện lịch sử và văn hóa. Cái khác biệt về thể lý thường được giảm thiểu, trong khi chiều kích thuần túy về văn hóa lại được gia tăng tối đa và được coi là chính yếu. Việc làm lu mờ đi những sự khác biệt này đã ảnh hưởng tới tính cách bền vững của xã hội cũng như của các gia đình, chưa kể tới quyền bình đẳng nơi các mối liên hệ giữa nam nhân và nữ giới. Quyền bình đẳng giữa nữ giới và nam nhân và việc gia tăng quyền hạn cho nữ giới sẽ đạt được khi những khác biệt về phái tính được nhìn nhận và đề cao như là những gì bổ xung, và yếu tố về văn hóa của giống tính được hiểu theo chiều hướng đúng đắn của nó.

 

Việc gia tăng quyền hạn cho nữ giới có liên quan tới việc gia tăng sức mạnh của họ về xã hội, chính trị, kinh tế và tâm linh, cả về tính cách cá nhân lẫn đoàn thể, cũng như tới việc loại trừ đi những trở ngại bất lợi cho nữ giới và không cho họ được hoàn toàn hội nhập vào các lãnh vực khác nhau trong xã hội.  Nói một cách cụ thể thì nó có nghĩ a là giải quyết những việc thực hành kỳ thị tỏ ra kỳ thị nữ giới trong các tiến trình quyết định, thường bị gây ra hay quá trớn bởi sự kỳ thị theo chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo và vị thế của nữ giới.

 

Việc nữ giới trong xã hội cần phải được tham gia vào việc quyết định chẳng những đúng vì những lý do bình đẳng mà còn vì những minh thức đặc biệt được nữ giới mang lại cho tiến trình ấy nữa. ‘Tinh hoa của nữ giới’ sẽ là những gì cho thấy sáng giá nhất, khi nữ giới càng ngày càng đóng vai trò chính yếu trong việc giải quyết những thách đố trầm trọng mà thế giới đang đương đầu. Việc tăng quyền hạn cho nữ giới cũng có nghĩa là trả lương bình đẳng cho việc làm như nhau, là công bình nơi việc thăng tiến về nghề nghiệp, và là sự bình đẳng giữa vợ chồng nơi các quyền lợi trong gia đình. Cũng thế, nó có nghĩa là thành phần nữ giới quyết định làm vợ và làm mẹ cần phải được bảo vệ và không bị tác hại.

 

Về vấn đề gia tăng quyền hạn cho nữ giới bằng việc tiểu tài trợ, đại biểu tôi lấy làm hãnh diện nơi sự kiện là qua nhiều thập niên có một số tổ chức và cơ quan của Giáo Hội Công Giáo đã chủ động thực hiện việc tiểu tài trợ này. Chỉ cần lấy một thí dụ, đó là cơ quan Các Dịch Vụ Cứu Trợ Công Giáo – Catholic Relief Services, một cl7 quan hoạt động ở 99 quốc gia thuộc các châu lục, bắt đầu những chương trình tiểu tài trợ vào năm 1988 ở năm quốc gia. Giờ đây c ác chương trình này đang thực hiện ở ít là 30 quốc gia, với trên 850 ngàn thân chủ, trong đó 75% là nữ giới. Chương trình này tập trung vào người nghèo, nhất là nữ giới nghèo, ở các cộng đồng thôn quê hẻo lánh xa xôi, nơi không có phương tiện để được hưởng những dịch vụ về tài chính. Ngoài ra, để xây dựng những khả năng về tài chính và bảo đảm tín h cách khả trợ của chương trình, các thân chủ trực tiếp được tham gia vào việc điều hành và quản trị của những dịch vụ họ thừa hưởng nữa.

 

Các cuộc nghiên cứu đã cho thấy việc tiểu tài trợ đã dẫn tới chỗ cải tiến rộng lớn ra sao về tình trạng của nữ giới, từ việc chiếm được sự tôn trọng hơn nữa từ nam nhân đến việc được nhận biết như là thành phần đóng góp quan trọng của xã hội, từ việc chiếm đạt được tình trạng sức khỏe gia đình tốt đẹp hơn đến việc nhận thức hơn giá trị của vấn đề giáo dục; từ việc tự tin hơn đến việc đóng vai trò lãnh đạo trong vấn đề giảm nghèo. Những thành quả tích cựa này nọ nơi cuộc sống hằng ngày của nữ giới cho chúng ta thấy rằng việc tiểu tài trợ là những gì được ân cần ủng hộ. Tuy nhiên, chúng ta cần phải nhận thức rằng khó có thể là một thứ thuốc chữa bách bệnh cho tất cả mọi thứ bệnh nạn đang hoành hành nữ giới ở các quốc gia đang phát triển. Ngoài ra, hệ thống này không tránh khỏi việc lạm dụng. Thật vậy, vấn đề được ghi nhận là trong một số hoàn cảnh và nơi chốn, người nam yêu cầu vợ mình mượn tiền từ việ ctiểu tài trợ này, rồi lấy số tiền mượn đó đi làm ăm cho mình, hay thậm chí sử dụng số tiền đó cho các mục đích khác.

 

Song song với những thiện ích gia tăng quyền hạn cho nữ giới mang lại từ những khởi động như việc tiểu tài trợ, là nhu cầu giáo dục và nâng cao ý thức, nhất là ở cấp độ cộng đồng địa phương. Việc giáo dục nữ giới vẫn đặc biệt là dụng cụ quan trọng nhất trong vấn đề cổ võ quyền bình đẳng giữa nam nhân và nữ giới, cũng như trong vấn đề gia tăng quyền hạn của nữ giới để đóng góp một cách trọn vẹn vào vào xã hội. Về phần mình, Tòa Thánh mong ước tiếp tục giáo dục những người con trai con gái, những người nam nữ, hãy nuôi dưỡng và nâng dỡ phẩm giá, vai trò và quyền lợi của nữ giới. Bằng những dụng cụ như thế, việc gai tăng quyền hạn của nữ giới có thể bắt đầu đâm rễ và triển nở ở những nơi vấn đề gia tăng quyền hạn này vẫn còn đầy thiếu hụt.

 

Cám ơn Bà Chủ Tịch.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 8/3/2007

 

 

TOP

 

“Cùng với việc minh định hợp lý về những thứ quyền lợi của nữ giới còn cần phải thiết định một cảm nhận mới mẻ về những giá trị đích thực của nữ giới giữa lòng của các xã hội nữa”.

 

ĐTGM Celestino Migliore Đại Diện Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc Nữu Ước Hoa Kỳ với khóa họp thứ 51 của Ủy Ban Về Vị Thế của Nữ Giới hôm Thứ Sáu 2/3/2007

 

Về Khoản 3 (a) (i):

 

Kiểm điểm Hội Nghị Thế Giới Lần Thứ Tư Về Nữ Giới và khóa họp đặc biệt lần 23 của Tổng Hội Đồng mang tựa đề “Nữ Giới Năm 2000: bình đẳng về giống tính, việc phát triển và vấn đề hòa bình cho thế kỷ 21”: Vấn đề áp dụng các mục tiêu và hoạt động sách lược ở những vùng cần quan tâm đặc biệt, cũng như những hoạt động và những khởi động hơn nữa trong việc loại trừ đi tất cả mọi hình thức kỳ thị và bạo lực phạm đến trẻ nữ.

 

Nữu Ước ngày 2/3/2007,

 

Thưa Bà Trưởng Ban.

 

Nhân dịp khóa họp thứ 51 của Ủy Ban Về Vị Thế của Nữ Giới, đại biểu tôi hoan nghênh việc tiến bộ đạt được cho nữ giới trong những năm qua và hy vọng rằng nhữn g thành đạt tích cực ở lãnh vực này sẽ tiếp tục thiết lập một nền tảng lành mạnh và vững chắc cho tương lai.

 

Tuy nhiên, thật là vô lý khi mà cảm quan về các vấn đề của nữ giới có vẻ mạnh mẽ hơn bao giờ hết thì thế giới hiện nay lại buộc phải đương đầu với những hình thức mới về bạo lực và nô lệ đặc biệt nhắm đến nữ giới.

 

B ởi thế, thật là thích đáng việc Ủy Ban này đã chọn năm nay theo đề tài ưu tiên của mình là “Việc loại trừ đi tất cả mọi hình thức kỳ thị và bạo lực phạm đến trẻ nữ”. Hằng ngày, những thứ vi phạm đến  những quyền lợi của nữ giới, vị thành niên, và thanh nữ đã xẩy ra, thậm chí còn được chấp nhận ở nhiều lãnh vực. Nữ giới phải gánh chịu việc mãi dâm trẻ em trên thế giới, việc khai thác tình dục, việc lạm dụng, việc hành hung trong gia đình, việc lao động trẻ em và việc buôn người. Việc mậu dịch tình dục quốc tế đã trở thành một kỹ nghệ quan trọng làm ô nhục như hầu hết bất cứ việc mạo phạm nào đối với nữ giới trước đó. Việc buôn bán này thường xẩy ra trong âm thầm vì nó được coi như là một phần thuộc về những quyền được cho là tự do dân chủ, và nó được cắm rễ quá sâu ở nhiều nơi hay có quá nhiều lợi lộc để tranh đấu, bởi vậy đại biểu tôi có lời ca ngợi những quốc gia ấy và những tổ chức đã dấn thân trong những thời gian gần đây trong việc chiến đấu và gây chú trọng tới cái tai họa này.

 

Việc đối xử tồi tệ với nữ giới là một thực tại kiên cố lâu đời ở nhiều nơi, và việc bất chấp tuổi tác cùng tính cách mềm yếu đặc biệt của những người con gái trẻ trung là những gì thật là đáng ghê tởm. Nếu chúng ta muốn  dấn thân vào một tiến trình khả trợ trong việc ngăn  chặn và lật ngược hiện tượng ấy, các dân tộc và các nền văn hóa cần phải tìm thấy một nền  tảng chung có thể an toàn chống đỡ những mối liên hệ của con người ở khắp mọi nơi vì chúng ta có cùng một nhân tính. Vẫn rất cần phải nỗ lực chấp nhận phẩm vị và giá trị bẩm sinh của hết mọi người, đặc biệt là thành phần mềm yếu nhất trong xã hội, trẻ em của chúng ta và tất cả những em gái trong số họ.

 

Chúng ta cũng cần phải thận trọng khảo sát xem tại sao nữ giới, nhất là nữ giới trẻ trung lại quá đễ dàng bị tổn thương như thế. Điều này dường như là vì vị thế thứ yếu giành cho nữ giới ở một số nơi cũng như đặc biệt cho những em thơ nhi nữ. Ở một số truyền thống địa phương, các em được cho là một gánh nặng về tài chính và vì vậy cần phải loại trừ ngay trước khi vào đời. Như thế, việc phá thai, thường được coi như một dụng cụ của việc giải thoát, thảm thương thay lại được nữ giới sử dụng để phạm đến nữ giới.

 

Ngay cả những em nữ nhi được phép sống sót đôi khi họ được coi như thể họ là một thứ sở hữu cần phải loại trừ đi sớm bao nhiêu có thể. Điều này xẩy ra ở nhiều phần đất trên thế giới, bởi những truyền thống tổn thương quyền lợi xa lạ với những gì cần phải trở thành một môi trường thuận lợi phổ quát và an toàn nuôi dưỡng các em gái. Ngoài những đường giây buôn người vẫn thường đang phát triển, thậm chí tổ chức hôn nhân đôi khi được mạo dụng để tạo cơ hội an toàn cho việc khai thác tình dục và lao công nô lệ bằng những gì được coi là “những cô dâu đặt hàng” hay “những cô dâu tạm thời”.

 

Việc buôn bán đưa tới vấn đề khai thác và lợi hưởng nữ giới là những gì trở thành một động cơ thúc đẩy theo chiều hướng này. Không ai hưởng lợi từ việc làm này ngoại trừ c hính thành phần buôn người và thành phần thân chủ. Để chấm dứt việc vi phạm nhân quyền của thành phần nữ giới và nữ nhi bị buôn bán này, việc cảm thương nỗi khốn khó thảm thương của họ chưa đủ; trái lại, cần phải đặt vấn đề thị trường đáp ứng những đòi hỏi làm cho việc buôn bán này hiện thực và khả lợi. Bởi vậy, nếu lý do sâu xa của vấn đề phạm đến nữ giới và nữ nhi hầu như là vì định kiến về văn hóa, vì việc khai thác và vì lợi lộc, thì cơ cấu nào cần phải nhúng tay can thiệp để chế ngự tình trạng ấy?

 

Đây là một vấn đề hiển nhiên về nhân quyền, vì thành phần nữ giới bị bán buôn có quyền hạn đối với sự sống và phẩm bị bị vi phạm của họ. Vấn đề sức khỏe, tự do và an ninh, tất cả đều bị tổn thương trong những trường hợp như vậy, chưa nói gì tới những quyền  lợi phổ quát liên quan tới việc đối xử tra tấn, bạo hành, tàn ác và đê hèn. Đối với thành phần nữ giới trẻ trung, cũng có thể là vấn đề bị ép hôn, đến việc vi phạm tới quyền được họ chành, đến quyền được làm việc và quyền được tự quyết.

 

Chúng ta cũng không được hạn chế những thứ phức tạp của việc buôn người vào một số ít luật lệ hay tục tệ xã hội, vào việc thiết lập trại tạm cư đây đó, và vào việc tái hội nhập xã hội thành phần nữ giới trong cuộc. Cần phải tìm kiếm những đường lối để họ trở về với gia đình một cách an toàn và không cảm thấy hổ thẹn, chứ đừng chỉ cho họ hồi hương thôi; và nếu nữ giới quyết định ra ngoại quốc làm việc thì họ có thể làm như thế một cách an toàn.

 

Việc nâng cao ý thức là cách thức giản dị và hiệu nghiệm trong việc chiến đấu với hiện tượng này ở cấp độ địa phương. Những làng mạc là nơi vấn đề tìm kiếm công ăn việc làm ở đâu khác thì cộng đồng cần phải biết làm thế nào để công khai giải quyết những nguy cơ có thể xẩy ra cho con người trẻ của mình. Những tổ chức có tiếng tốt có thể hỗ trợ các cộng đồng ấy nơi vấn đề này. Những chín h trị gia địa phương và quốc gia cũng cần phải đặt vấn đề này vào những chính sách của mình.

 

Việc cổ võ nữ giới sẽ đạt thành khôn g phải chỉ bằng việc minh định hợp lý về những thứ quyền lợi của nữ giới. Cùng với việc minh định này còn cần phải thiết định một cảm nhận mới mẻ về những giá trị đích thực của nữ giới giữa lòng của các xã hội nữa.

 

Xin cám ơn Bà Trưởng Ban


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 4/3/2007

 

TOP

 

“Việc làm là yếu tố chính yếu cho tất cả vấn đề về xã hội, và là điều kiện chẳng những cho vấn đề phát triển xã hội mà còn cho vấn đề phát triển văn hóa cùng luân lý của tất cả mọi người nữa”

 

ĐTGM Celestino Migliore Đại Diện Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc Nữu Ước Hoa Kỳ với Khóa Họp 45 của Ủy Ban Về Phát Triển Xã Hội của Hội Đồng LHQ Đặc Trách Kinh Tế Và Xã Hội ngày 28/6/2006 liên quan tới vấn đề cổ võ đầy đủ công ăn việc làm và công việc xứng hợp cho tất cả mọi người

 

Thưa Ông Trưởng Ban,

 

Vì việc làm là yếu tố chính yếu cho tất cả vấn đề về xã hội, và là điều kiện chẳng những cho vấn đề phát triển xã hội mà còn cho vấn đề phát triển văn hóa cùng luân lý của tất cả mọi người nữa, mà đề tài liên quan tới vấn đề đầy đủ công ăn việc làm và công việc tương xứng đã có một tầm vóc quan trọng trường tồn đối với Ủy Ban Đặc Trách Về Vấn Đề Phát Triển Xã Hội. Nó là một vấn đề có lý để được kiểm điểm thường xuyên, hầu nhận định xem mức tiến bộ đối với những gì nó đạt được và cứu xét thêm những cách thức để cỗ võ nó. 

 

Đại biểu tôi đây hân hoan ủng hộ nhiều điều đã được đề ra trong bản tường trình của ông tổng thư ký liên quan tới những thách đố đang diễn tiến ở lãnh vực này. Mục tiêu liên lỉ về qui chế ở tầm cấp quốc gia và quốc tế chắc chắn phải là vấn đề kiến tạo nên một tình trạng quân bình giữa một mặt là việc phát triển về kinh tế, và một mặt là sự công bằng xã hội được ấn định trong luật pháp để bảo vệ lao nhân và cổ võ quyền lợi của họ, nhất là những ai lao động có mức lợi tức thấp, hay những ai làm việc trong hoàn cảnh có thể thiếu an toàn hoặc không xứng đáng về nhân bản. Bởi thế mà vấn đề hoàn toàn tôn trọng những nguyên tắc và quyền lợi được chất chứa trong bản tuyên ngôn 1998 của Tổ Chức Lao Động Quốc Tế vẫn còn là những gì trọng yếu cho việc thiết lập mức cân bằng này.  

 

Những năm tháng gần đây đã cho thấy một cuộc toàn cầu hóa liên tục và một cuộc liên kết của các thứ thị trường liên quan tới một thứ lưu động đang gia tăng nơi vấn đề mậu dịch cũng như nơi nguồn sản xuất tại các quốc gia cách xa với nơi mà các thứ sản vật được tiêu thụ. 

 

Thường bị tác động chính yếu bởi áp lực muốn kiếm được lợi lộc nhiều hơn mà khía cạnh toàn cầu hóa nơi nguồn  sản xuất này đã mang công ăn việc làm đến các quốc gia ở miền nam trong khi dẫn đến chỗ tái điều chỉnh bất khả tránh ở các quốc gia thuộc miền bắc là các quốc gia hướng tới những lãnh vực khác của công ăn việc làm. Bởi vậy cộng đồng quốc  tế và các chính phủ cần phải bảo đảm cả vấn đề môi trường kin h thể khả dĩ lẫn tính cách thuận lợi của việc làm là nhữn g gì cần được đền bù một cách xứng đáng và thích hợp.

 

Có một số rất đông lao nhân được hưởng lợi bởi một thứ lợi tức công bằng trong những cuộc thương thảo ở Hội Nghị Bàn Tròn Doha của Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới. Cơ hội này hiện  đang có nguy cơ bị lãng phí, thế nhưng vẫn có thể thực hiện được một cuộc vượt qua thấy trước, đặc biệt liên quan tới các qui tắc mậu dịch về nông nghiệp, cho lợi ích của nhiều triệu người lao nhân trong số 1 tỉ mốt người trong ngành canh nông có tới 60% đang ở trong những cơ cấu việc làm ít có hay chẳng có tổ chức an toàn gì về xã hội.

 

Những hậu quả hiển nhiên về một thứ chuyển hướng như vậy đối với các nền kinh tế ở phương bắc ngược lại sẽ là những gì cần phải được làm giảm bớt bởi việc triển khai của các nguồn lợi dồi dào hơn ở miền ấy để hỗ trợ cho những ai bị ảnh hưởng cũng như để giải quyết các mối quan tâm hợp lý đối với lối sống ở miền quê.

 

Ngày nay, vấn đề trả lương bằng nhau cho việc làm như nhau đường như là những gì hiển nhiên, thế nhưng nữ giới vẫn thường bị coi nhẹ hay coi thường về khía cạnh này, gây ra tình trạng kỳ thị phạm đến họ ở cả các quốc gia giầu thịnh cũng như các quốc gia nghèo khổ. Vấn đề bình đẳng giữa nữ giới và nam giới cũng cần phải rõ ràng cả nơi việc đối xử với họ tại nơi làm việc, nơi lương lậu và việc hưởng hưu bổng.

 

Việc hiện diện của nữ giới ở khắp các nơi làm việc chỉ có thể giúp vào việc cải tiến nó, khi cho thấy và thắng vượt được những xung khắc đang xẩy ra ở nhiều xã hội, bao gồm cả những xã hội được tổ chức c hính yếu theo các qui chuẩn của vấn đề hiệu năng và sản xuất. Vấn đề bình đẳng được nhận thấy ngay ở nơi việc trả lương bằng nhau cho việc làm như nhau, ở việc bảo vệ những người mẹ cần phải đi làm việc và ở chỗ công bằng nơi việc tiến thân về nghề nghiệp.

 

Thánh phần cha mẹ đi làm việc, cả nữ giới lẫn  nam giới, là những người cần phải được hỗ trợ, nếu cần bởi luật lệ, trong việc làm cho vấn đề góp phần đặc thù và bất khả thay thế của họ để dưỡng nuôi con cái họ mang lại thiện ích rõ ràng cho toàn thể xã hội. Thành phần nam nữ có gia đình cũng cần nhận được số lương thích hợp và công bằng đủ để đáp ứng các nhu cầu bình thường của gia đình, nhất là vì các trách nhiệm của họ đối với con cái họ.

 

Số Lương chính đáng cũng sẽ giúp vào việc loại trừ đi cái nhu cầu, đôi khi áp đặt trên thành phần quá nghèo khổ, đòi hỏi cả con cái của họ cũng phải đi làm việc, gây thiệt hại cho việc giáo dục của thành phần con cái, cho thời thơ ấu của chúng và cho việc tăng trưởng thành những người lớn giởi thích ứng. Không kể tới tất cả mọi quan tâm khác, vấn đề khai thác trẻ em lao động là một vấn đề về luân lý: Nó là một vi phạm tới phẩm giá mà hết mọi người được phú bẩm cho dù nhỏ bé và coi như không quan trọng là bao.

 

Một lãnh vực khác đáng được ủy ban này đặc biệt chú trọng đó là lãnh vực của thành phần thật nghèo khổ đang hiện diện ở hết mọi quốc gia không trừ một quốc gia nào. Không có một chính quyền nào, cho dù khoảng cách biệt giầu nghèo có nhỏ nhẹ tới đâu chăng nữa, cũng phải chịu tình trạng cực kỳ bần cùng trong thế giới ngày nay. Bị mất đi quyền làm việc, bị những người có việc lảng tránh, thành phần cực bần cùng thực sự trở thành mối quan tâm của hết mọi chính quyền và hết mọi xã hội được văn minh hóa.

 

Thế giới này quá ư là giầu thịnh trong việc để tiếp tục xẩy ra cái ô nhục của tình trạng cực bần cùng vì thiếu sáng kiến hay bởi những thứ chính trị tỏ ra lơ là bay chết mặc bay. Phương tiện dẫn tới việc làm xứng đáng, an toàn và thỏa đáng cho thành phần cực bần cùng là những gì trọng yếu cho việc thành đạt trong vấn đề phát triển xã hội.

 

Trước cuộc chuyển hướng thê thảm theo hình kim tự tháp về dân số ở nhiều quốc gia, các chính quyền cũng phải cố gắng tìm cách để phấn khích thành phần lớn tuổi tiếp tục làm việc. Cần phải có tính cách uyển chuyển hơn nữa nơi hệ thống hưu bổng và thị trường việc làm hầu khuyến khích thành phần luống tuổi đóng góp những gì họ có thể cho xã hội bao lâu họ sẵn sàng và khả dĩ. Thành phần lao nhân trẻ tuổi cũng cần phải được giáo dục để biết tri ân, làm việc với và tôn trọng các tài năng và kinh nghiệm mà chỉ có thành phần lão thành mới có thể mang lại cho việc làm của họ thôi.

 

Giờ đây tới một vấn đề liên quan tới tình trạng cằn cỗi ấy, thành phần di dân đã trở thành một nguồn lao động quan trọng. Họ chẳng những kiếm được đồng lương cho chính họ và gia đình họ, mà, nếu được các nhà lập pháp và thành phần cử tri của họ cho phép, họ cũng sẽ trở thành một nguồn lợi dồi dào cho các quốc gia tiếp đón họ, bằng việc bảo trì mức sống cho nền  kinh tế của nước ấy với sự đóng góp của họ.

 

Thành phần di dân thường được tác động chỉ bởi ước muốn làm sao có việc làm để nâng đỡ gia đình họ. Cả họ nữa cũng xứng đáng được trả công một cách bình đẳng và được bảo vệ một cách bình đẳng theo luật pháp, chứ không phải là số lương ít ỏi nhất vì những việc họ làm thường là những việc không ai muốn làm.

 

Cần phải thực hiện những cuộc dàn xếp để làm sao cho các gia đình được đoàn tụ, chẳng những vì tính cách lành mạnh của đời sống gia đình, mà còn cho thiện ích về xã hội và luân lý của các cộng đồng chung quanh họ n ữa. Tình trạng thiếu cuộc sống gia đình bình thường là những gì rất hay dẫn đến những sự dữ như việc buôn người và mãi dâm nơi thành phần sống bên lề của các cộng đồng di dân. Thị trường đối với một thứ nô lệ tân tiến này có thể bị suy yếu đi nếu cho phép các gia đình được sống với nhau ở quốc gia tiếp đón họ.

 

Chính việc làm cũng cần  phải xứng đáng nữa. Tòa Thánh hiểu về các việc làm xứng đáng như những gì được trả công xứng hợp lại là những gì đáng với con người. Việc làm là một quyền lợi nhưng cũng là một nhiệm vụ của tất cả mọi người trong việc góp phần vào thiện ích của xã hội họ cũng như của toàn thể gia đình nhân loại. Việc làm được trở nên giá trị do người thi hành nó; song chính nó cũng cần phải đáng giá nữa.

 

Vấn đề đầy đủ công ăn việc làm và công việc xứng đáng không thể nào bao gồm cả việc làm không an toàn bao nhiêu có thể, không trả thù lao chính đáng hay xứng đáng với con người. Nếu công việc là một yếu tố thiết yếu của ơn gọi làm người của chúng ta thì chỉ có công việc xứng đáng theo nghĩa ấy mới là những gì vốn xứng hợp cho việc cổ võ phẩm vị con người và việc chiếm đạt tình trạng phát triển về xã hội.

 

Xin cám ơn Ông Trưởng Ban


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 9/2/2007

 

 

TOP

 

 

“Bằng việc cùng nhau tiến bước trên con đường đối thoại, tôn trọng, chính trực và yêu thương, chúng ta có thể chiếm được ngay hôm nay đây tặng ân hòa bình của Thiên Chúa”.

 

ĐTGM Silvano Tomasi Đại Diện Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc Geneva Thụy Sĩ ngày 30/1/2007 tại cuộc họp Phục Vụ Hòa Bình của Liên Tôn.

 

1.         Từ những kinh nghiệm khác nhau về tôn giáo và văn hóa cùng với những lịch sử khác nhau của mình, chúng ta qui tụ lại nơi đây tối hôm nay để khẳng định rằng hòa bình là một tặng ân cần phải được đón nhận và là một tác vụ cần phải được theo đuổi thực hiện. Không có vấn đề đầu hàng trước thứ văn hóa xung khắc; không có vấn đề cho rằng không thể tránh được những cuộc đụng độ, cũng như không có vấn đề chiến tranh bao giờ cũng là những gì dĩ nhiên phải xẩy ra. Niềm tin tưởng này xuất phát từ một nhãn quan về hòa bình bắt nguồn sâu xa từ những giá trị và những minh thức cốt lõi của tất cả mọi truyền thống tín ngưỡng đó là Thiên Chúa Hóa Công đã phú bẩm cho mỗi người một phẩm vị bất khả tước đoạt, do đó Ngài ban cho chúng ta những gì là bình đẳng về quyền lợi và nhiệm vụ, và Ngài đã thiết định một mối tình đoàn kết bất khả đứt đoạn giữa tất cả mọi con người nam nữ.

 

2.         Tôi hân hạnh chào mừng quí vị ở cơ hội giờ đây đã thành truyền thống cho một thời điểm nguyện cầu và suy tư về hòa bình được gợi ý theo Sứ Điệp hằng năm cho Ngày Hòa Bình Thế Giới được Đức Thánh Cha Biển Đức XVI năm nay n hấn mạnh tới đề tài: Con Người là Trọng Tâm của Hòa Bình. Những mối quan tâm hằng ngày  của thành phần đại diện các quốc gia trên thế giới cũng như của các tổ chức quốc tế, và của các vị thẩm quyền ở Geneva cũng như của các cơ cấu xã hội về dân sự – tất cả đều đáng đón nhận nhất – đó là việc tìm kiếm một đường lối tốt đẹp hơn để chung sống với nhau và để đáp ứng tấm lòng tự nhiên mong muốn hòa bình của gia đình nhân loại.

 

3.         Thế nhưng, chúng ta không phải là những người ngây thơ chất phác. Hiện tượng bạo lực đã càng ngày càng trở nên phức tạp ở thế kỷ 21 này và nó gây ra những thách đố chưa từng thấy cho cộng đồng quốc tế. Vấn đề hoạt động cho hòa bình hiện nay bao gồm việc lấp đầy khoảng cách giữa giầu và nghèo, việc chấm dứt các cuộc nội chiến, chấm dứt nạn khủng bố và tất cả mọi cuộc xung đột võ trang; ngăn chặn một cuộc tái chạy đua vũ khí cùng với việc leo thang khác nhau về các thứ vũ khí; loại trừ việc tôn vinh vấn đề bạo lực trong lãnh vực truyền thông.

 

Biết bao nhiêu là triệu con người đang bị ảnh hưởng bởi các cuộc chiến tranh hiện nay và thành phần dân sự trở thành mục tiêu trước tình trạng hoàn toàn coi thường luật nhân đạo. Những nạn nhân này cùng với hằng triệu triệu con người bị bắt buộc phải di tản là thành phần đang kêu gọi hòa bình, kêu tôn việc tôn trọng nhân phẩm của họ. Đây là một thời điểm khó khăn, thế  nhưng chúng ta biết rằng ‘có một thứ lý lẽ luân lý được ghi khắc nơi đời sống của con người và là những gì giúp cho các cá nhân cũng như các dân tộc có thể đối thoại với nhau’.

 

4.         Việc tìm kiếm hòa bình được bắt đầu từ tâm can của hết mọi người và hướng tới các quốc gia cùng cộng đồng quốc tế, một tiến trình tuần tự được căn cứ vào vấn đề tôn trọng con người, vào quyền sống và tự do tôn giáo, vào việc tự do hành sử các quyền lợi căn bản ấy, vào việc loại trừ đi những chênh lệch bất quân bình. Bởi vậy mới tới vấn đề là làm sao chúng ta có thể chữa lành thế giới, chúng ta có thể vượt lên trên vấn đề đơn thuần nhân nhượng để vươn tới kẻ khác theo chiều hướng tôn trọng và chính trực. Nhu cầu cần phải vượt ra ngoài những gì là nhân nhượng chất chứa ở nơi việc chấp nhận có tính cách tiêu cực này đối với người khác là những gì lề luật đòi buộc, tác động bảo đảm đầu tiên, nhưng vẫn thiếu việc dấn thân của cá nhân.

 

Kinh nghiệm cho thấy rằng một nền văn minh nhân nhượng là nền văn minh được xây dựng trên một bãi mìn: Khi nào không để ý thì mìn nổ tung. Trái lại, việc tôn trọng là thái độ nhìn người khác như là đồng bạn có cùng một nhân tính, là con cái của cùng một vị hóa công, có cùng những khát vọng hạnh phúc và đều muốn được sống bình an thái hòa, cho dù đường lối có khác nhau đi nữa. Việc hiệu nghiệm đối thoại và thương thảo về vấn đề hòa bình là những gì tùy thuộc vào hai trụ cột tôn trọng và chính trực ấy, một thứ chính trực nơi các mối liên hệ thực tiễn hằng ngày trắc nghiệm tính chất chân thành của những gì chúng ta nói năng và hợp đồng. Tiến trình đi từ tác động dung nhượng tới thái độ tôn trọng và chính trực tiến đến tuyệt đỉnh của mình khi nó khám phá ra ‘ơn gọi cao cả nhất của hết mọi người là yêu thương’. Nhờ việc nhận thức ấy, ‘chúng ta mới có thể thấy được lý do tối hậu để trở nên những đấu thủ hào hùng của phẩm vị con người và trở thành những kiến thiết viên can trường xây dựng hòa bình’.

 

5.         Aramin, một tay chiến đấu trước đây, một phần tử chủ động thuộc tổ chức Chiến Đấu Binh Cho Hòa Bình là một nhóm cựu dân quân Palestine và cựu quân nhân Do Thái đã liên kết lại với nhau trong việc thúc đẩy vấn đề hòa giải, mấy ngày trước đây đã nói rằng: ‘Qua giòng thời gian, tôi đã thâm tín được rằng chúng tôi đã không thể nào giải quyết được những vấn đề của chúng tôi bằng các thứ vũ khí, và chúng tôi đã cần phải nói chuyện với phía bên kia’. Ở đây có một một điểm đồng qui rõ ràng với câu nói trong sứ điệp của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI: ‘Chiến tranh bao giờ cũng là những gì tiêu biểu cho một thứ thảm bại của cộng đồng quốc tế và một thứ thiệt hại trầm trọng cho nhân loại’.

 

Bằng việc cùng nhau tiến bước trên con đường đối thoại, tôn trọng, chính trực và yêu thương, chúng ta có thể chiếm được ngay hôm nay đây tặng ân hòa bình của Thiên Chúa.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 7/2/2007

 

 

TOP