Bài Giới Thiệu của ĐHY Chủ Tịch Hội Đồng Công Lý và Hòa Bình để Phổ Biến Cuốn “Tổng Lược Giáo Huấn Về Xã Hội Của Giáo Hội”
Hôm Thứ Hai 25/10/2004, ĐHY Renato Martino, Chủ Tịch Hội Đồng Công Lý Và Hòa Bình, đã cho ra mắt cuốn “Tổng Lược Giáo Huấn Về Xã Hội Của Giáo Hội” trong một cuộc họp báo tại văn phòng báo chí của Tòa Thánh. Sau đây là nguyên văn bài giới thiệu sách của ngài.
Hôm nay tôi cảm thấy hết sức vui mừng được công khai phổ biến bộ văn kiện hằng chờ mong là cuốn “Tổng Lược Giáo Huấn Về Xã Hội Của Giáo Hội”. Bộ văn kiện này đã được soạn thảo, theo lời yêu cầu của Đức Thánh Cha, vị được tác phẩm đề tặng, bởi Hội Đồng Tòa Thánh Về Công Lý và Hòa Bình là cơ quan hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của nó. Giờ đây nó được phổ biến cho tất cả mọi người, Công Giáo, các Kitô Hữu khác, thành phần thành tâm thiện chí, những người tìm những dấu hiệu vững chắc về chân lý để cổ võ hơn nữa sự thiện về xã hội của con người cũng như của các xã hội loài người. Việc làm này đã được bắt đầu từ 5 năm trước đây, dưới thời vị chủ tịch tiền nhiệm đáng kính của tôi là ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Công việc đã không thể tránh được tình trạng bị đình trệ gây ra bởi việc ngài bị bệnh và qua đời, cũng như bởi việc thay đổi vai trò chủ tịch sau đó của hội đồng này.
Việc soạn thảo cuốn Tổng Lược Giáo Huấn Về Xã Hội Của Giáo Hội này không phải là một chuyện đơn giản. Những vấn đề phức tạp nhất cần phải được giải quyết chính yếu đây là những vấn đề được định đoạt bởi: a) sự kiện là việc này cần phải thu góp thành một tập văn kiện chưa từng có trong lịch sử Giáo Hội; b) nỗ lực tập trung vào một số những vấn đề thuộc kiến thức học phức tạp vốn tiềm tàng nơi bản chất Giáo Huấn Về Xã Hội của Giáo Hội; c) nhu cầu cần phải cống hiến cho bộ văn kiện này một chiều kích thống nhất và phổ quát, cho dù có muôn vàn khía cạnh cùng với những thực tại xã hội khác nhau vô số kể trên thế giới và của thế giới này; d) ước muốn cống hiến một giáo huấn vốn không mất mát đi cái vẻ sáng ngời của nó qua giòng thời gian, trong một giai đoạn lịch sử được đánh dấu bằng những đổi thay rất nhanh chóng và sâu rộng về phương diện xã hội, kinh tế và chính trị.
Cuốn Tổng Lược Giáo Huấn Về Xã Hội Của Giáo Hội này bao gồm một cái nhìn tổng quan tất cả cơ cấu nền tảng của bộ giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo giảng dạy về xã hội. Đáp ứng lời đề nghị thẩm quyền của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ở khoản số 54 trong tông huấn hậu thượng hội giám mục về “Giáo Hội ở Mỹ Châu”, bản văn kiện này trình bày “một cách trọn vẹn và có phương pháp, cho dù một cách tổng quát, giáo huấn về xã hội của Giáo Hội là hoa trái của việc Huấn Quyền thận trọng suy tư và là việc bày tỏ cho thấy Giáo Hội liên lỉ dấn thân trung thành với ơn cứu độ được thể hiện nơi Chúa Kitô cũng như nơi việc ưu ái quan tâm đến vận mệnh của nhân loại” (Tổng Lược, đoạn 8).
Cuốn Tổng Lược này có một bố cục giản dị và dễ hiểu. Sau đoạn dẫn nhập là 3 phần chính. Phần thứ nhất gồm có 4 chương, bàn về những ý niệm căn bản cần phải có đối với Giáo Huấn Về Xã Hội, như dự án yêu thương của Thiên Chúa đối với nhân loại và xã hội, sứ vụ của Giáo Hội và bản chất của giáo huấn về xã hội, ngôi vị con người và các thứ nhân quyền, các nguyên tắc và giá trị của Giáo Huấn Về Xã Hội.
Phần thứ hai gồm có 7 chương, bàn về nội dung bao gồm cùng những đề tài vốn có nơi giáo huấn về xã hội, như gia đình, việc làm của con người, đời sống kinh tế, cộng đồng chính trị, cộng đồng quốc tế, môi trường và hòa bình.
Phần thứ ba, phần rất ngắn, chỉ có một chương duy nhất, bao gồm một loạt những đề nghị đối với việc sử dụng Giáo Huấn Về Giáo Hội trong hoạt động mục vụ của Giáo Hội cũng như trong đời sống Kitô hữu, nhất là đời sống của người tín hữu giáo dân. Đoạn đúc kết, mang tựa đề “Cho Một Nền Văn Minh Yêu Thương”, là một diễn tả nói lên mục đích chính yếu của toàn bộ văn kiện này.
Tác phẩm được kèm theo với nhiều phân mục giúp cho việc tham khảo được dễ dàng và hữu dụng.
Cuốn Tổng Lược này có một mục đích đặc biệt và có những đặc tính của những mục tiêu được nói đến ở khoản số 10 trong đoạn Dẫn Nhập. Bộ văn kiện này “được trình bày như là một dụng cụ giúp vào việc nhận thức về luân lý và mục vụ đối với các biến cố phức tạp đánh dấu thời đại chúng ta đây; như là một bản hướng dẫn để tác động, ở cả lãnh vực cá nhân cũng như cộng đồng, những thái độ và những quyết chọn giúp cho tất cả mọi người có thể tràn đầy tin tưởng và hy vọng hơn khi nhìn về tương lai; như là một phương trợ cho người tín hữu liên quan đến giáo huấn của Giáo Hội về phương diện luân lý xã hội” (Bộ Tổng Lược, khoản số 10).
Ngoài ra cuốn sách này còn là một dụng cụ tổng hợp nhắm đến mục đích thực sự là cổ võ “những đường lối mới hợp với những đòi hỏi của thời đại chúng ta đây để đáp ứng những nhu cầu và phương tiện của con người. Thế nhưng, trước hết là động lực muốn tái nhận thức ơn gọi xứng hợp với các đặc sủng khác nhau trong Giáo Hội được ban tặng để thực hiện việc truyền bá phúc âm hóa lãnh vực xã hội, vì ‘hết mọi phần tử của Giáo Hội đều là những người tham phần vào chiều kích trần thế ấy’ (1)” (Bộ Tổng Lược, khoản số 10).
Một điểm đáng được nhấn mạnh, vì nó xuất hiện ở các phần khác nhau trong bộ văn kiện này, đó là vấn đề sau đây: tập văn kiện này được trình bày như là một dụng cụ để nuôi dưỡng việc đối thoại đại kết và liên tôn của người Công Giáo với tất cả những ai thành tâm tìm kiếm sự thiện của nhân loại. Thật vậy, chủ trương này đã được đề cập đến ở khoản số 12, cho thấy bộ văn kiện đây “cũng nhắm đến cả những anh chị em thuộc các Giáo Hội và cộng đồng giáo hội khác, đến các môn đồ thuộc các tôn giáo khác, cũng như đến tất cả mọi người thiện chí muốn dấn thân phục vụ công ích”.
Thật vậy, Giáo Huấn Về Xã Hội được nhắm đến một thành phần độc giả phổ quát, ngoài thành phần độc giả được giáo huấn này chính thức và đặc biết nhắm tới là con cái nam nữ của Giáo Hội. Ánh sáng của Phúc Âm, một ánh sáng được Giáo Huấn Về Xã Hội này làm sáng tỏ nơi xã hội, soi chiếu hết mọi người; hết mọi lương tri và hết mọi lý trí đều có thể nắm được ý nghĩa cùng với các giá trị sâu xa về nhân bản được bày tỏ nơi giáo huấn này, cũng như thấu triệt được tầm vóc viên mãn của nhân tính và nhân đạo được chất chứa nơi các qui tắc tác hành của giáo huấn ấy.
Cuốn Giáo Huấn Về Xã Hội Của Giáo Hội hiển nhiên trước hết là những gì liên quan tới những người Công Giáo, vì “thành phần tiếp nhận đầu tiên Giáo Huấn Về Xã Hội Của Giáo Hội là cộng đồng Giáo Hội với tất cả mọi phần tử của mình, vì mọi người đều cần phải chu toàn các trách nhiệm về xã hội của mình. Trong công cuộc truyền bá phúc âm hóa, tức là trong công việc giảng dạy, giáo lý và huấn luyện được Giáo Huấn Về Xã Hội Của Giáo Hội hướng dẫn, giáo huấn này là những gì được ngỏ cùng hết mọi Kitô hữu, cùng từng người Kitô hữu theo khả năng, đặc sủng, vai trò và sứ vụ loan truyền hợp với mỗi người” (Tổng Lược, khoản số 83).
Giáo Huấn Về Xã Hội cũng bao gồm trách nhiệm liên quan tới việc xây dựng, tổ chức và phần hành của xã hội nữa, đó là những nhiệm vụ về chính trị, kinh tế và quản trị, hay những nhiệm vụ có tính cách trần thế thuộc riêng về thành phần tín hữu giáo dân vì bản chất trần thế nơi bậc sống và ơn gọi của họ. Vì trách nhiệm này mà người giáo dân cần phải áp dụng thực hành Giáo Huấn Về Xã Hội để làm trọn sứ vụ trần thế của Giáo Hội.
Trong việc sửa soạn cho cuốn Tổng Lược này, vấn đề đặt Giáo Huấn Về Xã Hội của Giáo Hội vào thế giới ngày nay hằng được đề cập tới. Để đưa ra câu giải đáp, vấn đề đã đi đến chỗ quyết định là không cần phải tiến bước theo con đường thuần túy phân tích xã hội học, cũng như không cần phải liệt kê các thứ ưu tiên của xã hội hay các thứ trục trặc xẩy ra. Trái lại, vấn đề được thấy rằng Cuốn Tổng Lược này phải trở thành một dụng cụ quan trọng và xác đáng xứng hợp cho việc nhận thức bất khả thiếu ngày nay nơi Giáo Hội cũng như nơi cộng đồng.
Việc nhận thức của Kitô Giáo được căn cứ vào việc tìm hiểu các dấu chỉ thời đại, một tìm hiểu theo chiều hướng Lời Chúa cũng như theo toàn bộ sự thật được huấn quyền ấn định làm Giáo Huấn Về Xã Hội Của Giáo Hội để hướng dẫn tác hành của cộng đồng cũng như của cá nhân. Từ đó, chúng ta tiến đến chính cốt lõi Giáo Huấn Về Xã Hội Của Giáo Hội, chúng ta chạm tới bản chất sâu xa nhất của nó như là “cuộc gặp gỡ giữa sứ điệp Phúc Âm và những đòi hỏi của sứ điệp này với các vấn đề xuất phát từ đời sống xã hội” (Congregation for the Doctrine of the Faith, instruction "Libertatis Conscientia," 72). Cuốn Tổng Lược Giáo Huấn Về Xã Hội Của Giáo Hội cho thấy Giáo Huấn Về Xã Hội Của Giáo Hội như là một giáo huấn phát xuất từ việc nhận thức này, một giáo huấn là chính việc nhận thức này, và là một giáo huấn lấy việc nhận thức này là mục đích của nó.
Theo quan điểm này, Cuốn Tổng Lược đây rất mong làm sao để mang lại một nhận thức có khả năng đáp ứng được một số những thách đố quyết liệt có tầm vóc rất thích đáng và hệ trọng.
a) Trước hết là thách đố về văn hóa, một thách đố được giáo huấn về xã hội đương đầu bằng việc giữ đúng chiều kích liên phạm vi lãnh vực có tính cách cấu thành của mình. Bằng Giáo Huấn Về Xã Hội, Giáo Hội “loan báo sự thật về Chúa Kitô, về chính mình và về con người, khi áp dụng sự thật này vào một trường hợp cụ thể nào đó” (John Paul II, encyclical letter "Sollicitudo Rei Socialis," 41). Bởi thế, hướng về tương lai, hiển nhiên là Giáo Huấn Về Xã Hội lúc nào cũng được khai triển hơn nữa theo chiều kích liên phạm vi lãnh vực của mình (John Paul II, encyclical letter "Centesimus Annus," 59). Khía cạnh liên phạm vi lãnh vực này không phải là một điều gì đó ở ngoại lề mà là một chiều kích nội tại nơi Giáo Huấn Về Xã Hội Của Giáo Hội, vì nó gắn liền với mục đích của việc hiện thực chân lý ngàn đời của Phúc Âm ở những vấn đề lịch sử nhân loại phải đương đầu.
Chân lý của Phúc Âm ấy cần phải được giao chạm với những ngành khác nhau của kiến thức con người, vì đức tin không phải là những gì xa lạ với lý trí. Những hoa trái lịch sử về công lý và hòa bình được trổ sinh khi ánh sáng Phúc Âm xuyên thấu và chiếu vào tấm màn của các thứ văn hóa nhân loại, tôn trọng tính cách tự lập hỗ tương của đức tin và kiến thức song cũng chú ý tới những mối liên kết tương đồng của đức tin và kiến thức. Khi việc đối thoại trao đổi với các ngành kiến thức khác nhau lôi kéo đôi bên xích lại gần nhau hơn và làm nẩy sinh lợi ích thì Giáo Huấn Về Xã Hội Của Giáo Hội mới có thể làm trọn vai trò của mình trong việc duy trì việc phác họa những chương trình mới về xã hội, kinh tế và chính trị, những chương trình đặt con người với tất cả tầm kích của họ làm trọng tâm của mình.
Rất cần phải quan sát xem làm thế nào để chiều kích liên phạm vi lãnh vực theo tính cách thần học có thể đáp ứng được hai nhu cầu quan trọng trong văn hóa ngày nay. Văn hóa tân tiến loại trừ bất cứ loại hệ thống “khép kín” nào mà đồng thời lại tìm kiếm những lý giải cho vấn đề. Giáo Huấn Về Xã Hội Của Giáo Hội không phải là “một hệ thống khép kín” (Congregation for the Doctrine of the Faith, instruction "Libertatis Conscientia," 72), với hai lý do cho thấy tại sao như thế: đó là vì, nó có tính cách lịch sử, tức là nó được “phát triển theo những hoàn cảnh đổi thay của lịch sử” (Ibid.); và vì nó kín múc cái nguyên tuyền của mình từ sứ điệp Phúc Âm (Ibid.) là những gì siêu việt, những gì mà chính vì thế là “nguồn mạch canh tân” (Paul VI, "Octogesima Adveniens," 42) lịch sử chính yếu. Chiều kích liên phạm vi lãnh vực này giúp Giáo Huấn Về Xã Hội Của Giáo Hội có thể cống hiến việc hướng dẫn mà không cần phải có hệ thống và không phải là một thứ hệ thống hướng dẫn lệch lạc.
b) Thách đố thứ hai xuất phát từ tình trạng dửng dưng coi thường luân thường đạo lý và đạo nghĩa cũng như từ nhu cầu cần phải thực hiện việc cộng tác liên tôn mới mẻ. Ở tầm mức xã hội, các khía cạnh quan trọng nhất của tình trạng dửng dưng coi thường tràn lan này là tình trạng phân ly giữa luân thường đạo lý và chính trị với ý nghĩ là các vấn đề về luân thường đạo lý chẳng có dính dáng gì đến chính trường cả, là những vấn đề về luân thường đạo lý ấy không thể trở thành đối tượng cho cuộc tranh luận hợp tình hợp lý về chính trị là những cuộc tranh luận được cho là những thứ bày tỏ chọn lựa cá nhân, thậm chí là những chọn lựa riêng tư. Theo chiều hướng lan tràn, tình trạng phân ly này giữa luân thường đạo lý và chính trị có khuynh hướng được áp dụng cho cả mối liên hệ giữa chính trị và tôn giáo nữa, một lãnh vực tôn giáo được cho là những gì thuộc phạm vi riêng tư.
Về phương diện này, giáo huấn về xã hội của Giáo Hội mang một trọng trách gay go cần phải hoàn thành vào những ngày này cũng như trong cận lai, một trọng trách dễ dàng thực hiện hơn nếu được thi hành bằng việc đối thoại với các niềm tin Kitô giáo khác, thậm chí với cả các tôn giáo ngoài Kitô giáo. Việc hợp tác liên tôn sẽ là một trong những đường lối có một giá trị chiến thuật lớn lao cho thiện ích của nhân loại và điều quyết liệt cho tương lai của giáo huấn về xã hội. Lấy con mắt khôn ngoan Kitô Giáo để nhìn vào các biến cố xẩy ra ở cuối thế kỷ 20 và mở màn cho tân thiên niên kỷ này, như Đức Thánh Cha đã đề cập tới, chúng ta có thể thấy được ít là một lãnh vực lịch sử liên quan đến tầm quan trọng cốt yếu của việc đối thoại liên tôn nơi lãnh vực xã hội. Đây là lãnh vực hòa bình và nhân quyền. Hết mọi người đều biết vị Giáo Hoàng này đã nhiều lần thiêá tha lên tiếng kêu gọi về vấn đề ấy.
Kiểm lại các Bài Diễn Từ của Đức Gioan Phaolô II ngỏ cùng Phái Đoàn Ngoại Giao Các Nước làm việc với Tòa Thánh trong suốt 26 năm giáo triều của Ngài cũng đủ cho chúng ta ý niệm về cái thường xuyên và nhấn mạnh nơi những gì Ngài kêu gọi các tôn giáo trên thế giới hãy cùng nhau hoạt động cho hòa bình theo “tinh thần Assisi”. Chỉ cần nhắc lại ở đây điều này nơi Sứ Điệp Ngài gửi cho Ngày Thế Giới Hòa Bình Năm 2002, một sứ điệp được Đức Thánh Cha viết: “Các niềm tin Kitô Giáo khác, cũng như các đại tôn giáo trên thế giới, cần cùng nhau hoạt động để loại trừ các căn nguyên về xã hội và văn hóa của nạn khủng bố. Họ có thể thực hiện điều này bằng việc giảng dạy tính cách cao cả và phẩm giá của con người, cũng như bằng việc loan truyền một cảm quan sáng tỏ hơn về tính cách duy nhất của gia đình nhân loại. Đây là một lãnh vực đặc biệt của vấn đề đối thoại cùng hợp tác về đại kết và liên tôn, một dịch vụ khẩn trương mà tôn giáo có thể cống hiến cho hòa bình thế giới” (John Paul II, "No Peace Without Justice, No Justice Without Forgiveness", Message for the 2002 World Day of Peace, 12).
Trong tương lai gần, những lãnh vực về nhân quyền, hòa bình, công lý xã hội và kinh tế, cũng như việc phát triển càng ngày càng trở thành tâm điểm của vấn đề đối thoại liên tôn. Những người Công Giáo sẽ được kêu gọi để tham dự vào cuộc đối thoại này bằng Giáo Hội Về Xã Hội của mình, một giáo huấn được hiểu như là một “bộ giáo huấn” gây tác động, song cũng được duy trì bởi, “việc hoạt động tốt đẹp của hằng bao nhiêu triệu con người tìm cách để làm cho giáo huấn ấy trở thành một nguồn cảm hứng cho việc họ dấn thân mình vào thế giới” (John Paul II, encyclical letter "Centesimus Annus," 3).
c) Thách đố thứ ba là một thách đố riêng về mục vụ. Tương lai Giáo Huấn Về Xã Hội Của Giáo Hội trong thế giới tân tiến lệ thuộc vào việc hiểu biết mới mẻ một cách liên tục về Giáo Huấn Xã Hội này khi giáo huấn ấy được ăn sâu vào sứ vụ hợp với Giáo Hội; về cách thức Giáo Huấn này được phát xuất từ Lời Chúa cũng như từ đức tin sống động của Giáo Hội; về cách thức nó trở thành một thể hiện của việc Giáo Hội phục vụ thế giới, một việc phục vụ để loan báo ơn cứu độ của Chúa Kitô bằng cả lời nói cũng như việc làm. Bởi thế, nó lệ thuộc vào việc hiểu biết mới mẻ về cách Giáo Huấn này liên hệ đến tất cả mọi khía cạnh của đời sống và hoạt động của Giáo Hội, như các bí tích, phụng vụ, giáo lý, và sinh hoạt mục vụ. Giáo Huấn Về Xã Hội Của Giáo Hội, thứ giáo huấn “là một phần thiết yếu của sứ điệp Kitô Giáo” (John Paul II, encyclical letter "Centesimus Annus," 5), cần phải được hiểu biết, truyền bá và áp dụng thực hành. Khi, vì bất cứ lý do nào, con người mất đi nhận thức rõ ràng là Giáo Huấn Về Xã Hội này là những gì thuộc về sứ vụ của Giáo Hội thì chính Giáo Huấn Về Xã Hội này sẽ bị lệch lạc, trở thành mồi ngon cho những hình thức mập mờ khác nhau cũng như cho việc áp dụng thiên lệch.
Ở đây tôi xin nhắc lại lời phát biểu lừng danh “Giáo Huấn Công Giáo Về Xã Hội là một phần nguyên vẹn của quan niệm Kitô Giáo về đời sống” (John XXIII, encyclical letter "Mater et Magistra," 222), một lời của Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII trong Thông Điệp “Mater et Magistra - Mẹ Và Thày” của Ngài, một lời nhiều năm trước đó đã mở đường cho những câu Đức Gioan Phaolô II nói tiếp theo, quan trọng và sâu xa: “việc giảng dạy và quảng bá Giáo Huấn Về Xã Hội là một phần trong sứ vụ truyền bá phúc âm hóa của Giáo Hội” (John Paul II, encyclical letter "Sollicitudo Rei Socialis," 41); là một “phương tiện truyền bá phúc âm hóa” (John Paul II, encyclical letter "Centesimus Annus," 54); Giáo Huấn Về Xã Hội “là những gì loan báo Thiên Chúa cũng như loan báo mầu nhiệm cứu độ của Ngài trong Chúa Kitô cho hết mọi con người” (Ibid.).
Giáo Huấn này càng bị giảm thiểu thành những bài diễn văn về xã hội học hay khoa chính trị học, thành những huấn dụ luân lý, thành “một thứ ngụy khoa học về phúc hạnh” (John Paul II, encyclical letter "Redemptoris Missio," 11), hay một thứ thuần “luân thường đạo lý đối với những trường hợp khó khăn”, thì nó lại càng khó có thể giúp ích cho con người nam nữ sống trong môi trường xã hội cũng như trong lãnh vực kinh tế. Nó sẽ được hiểu biết hơn nữa, giảng dạy hơn nữa, áp dụng và thực hành hơn nữa khi nó hoàn toàn “gắn bó hết sức với Phúc Âm của Chúa Kitô” (John Paul II, encyclical letter "Sollicitudo Rei Socialis," 3).
Để đúc kết bài trình bày về Cuốn Tổng Lược Giáo Huấn Về Xã Hội Của Giáo Hội bằng những chia sẻ này về vai trò của Giáo Hội Về Xã Hội Của Giáo Hội trong thế giới ngày nay khi vai trò này đang phải đương đầu với những thách đố mới về việc truyền bá phúc âm hóa, tôi muốn nhấn mạnh một chiều kích lưỡng diện của việc Kitô hữu hiện diện trong xã hội, một ước vọng sánh vai đến với chúng ta từ chính Giáo Huấn Về Xã Hội và là ước vọng trong tương lai sẽ càng ngày càng cần phải được áp dụng thực hành với một tính cách bổ khuyết có thể phối hợp nhiều khía cạnh khác nhau.
Tôi đang có ý nói đến một đàng là nhu cầu cần phải có chứng từ bản thân, đàng khác, là nhu cầu cần phải phác họa những chương trình mới cho một thứ nhân bản chân thực bao gồm những cấu trúc của xã hội. Hai chiều kích này, chiều kích bản thân và chiều kích xã hội, không bao giờ được tách rời nhau. Tôi hết sức hy vọng rằng Cuốn Tổng Lược Giáo Huấn Về Xã Hội Của Giáo Hội sẽ giúp vào việc phát triển những tính chất tin tưởng chân thực và tác động chúng trong việc thực hiện chứng từ khả tín, có khả năng, bằng tư tưởng và hành động, cải tiến các guồng máy của xã hội tân tiến. Bao giờ cũng cần phải có thành phần chứng nhân, thành phần tử đạo và các thánh nhân, trong cả lãnh vực xã hội nữa.
Các vị giáo hoàng đã nói đi nói lại về thành phần sống trong xã hội bằng việc “làm chứng cho Chúa Kitô Cứu Thế” (John Paul II, encyclical letter "Centesimus Annus," 5). Chúng ta ở đây đang nói đến tất cả những ai được Thông Điệp “Rerum Novarum – Tân Sự” coi là “xứng đáng lãnh nhận mọi lời ca ngợi” (Leo XIII, encyclical letter "Rerum Novarum," 55) về việc chủ động dấn thân của họ trong việc cải tiến, vào thời ấy, những điều kiện của các công nhân; của những ai, theo lời của Thông Điệp “Centesimus Annus - Bách Niên”, “theo nhau từ thời này đến thời khác tìm kiếm những đường lối hiệu nghiệm trong việc làm chúng cho chân lý” (John Paul II, encyclical letter "Centesimus Annus," 23); của những ai “được thúc đẩy bởi huấn quyền về xã hội, tìm cách làm cho giáo huấn này thành nguồn hứng thúc đẩy họ dấn thân vào thế giới. Tác hành với tư cách là những cá nhân hay hợp thành những nhóm khác nhau, những hiệp hội và những tổ chức khác nhau, những người này tiêu biểu cho một đại phong trào bênh vực con người và bảo toàn phẩm vị con người” (John Paul II, encyclical letter "Centesimus Annus," 3).
Ở đây chúng ta đang nói đến nhiều Kitô hữu mà nhiều người trong họ là thành phần giáo dân, thành phần “đạt đến sự thánh thiện trong những cảnh đời bình thường nhất” (John Paul II, apostolic letter "Novo Millennio Ineunte," 31). Chứng từ bản thân, hoa trái của một đời sống Kitô hữu “trưởng thành”, sâu xa và chín mùi, không thể nào lại không đảm trách công việc xây dựng một nền văn minh mới, một nền văn minh đối thoại trao đổi với các ngành kiến thức nhân bản khác, với các tôn giáo khác cũng như với tất cả mọi con người thành tâm thiện chí để thực hiện một nền nhân bản nguyên vẹn đầy tình đoàn kết.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ Zenit ngày 25/10/2004 (những chỗ in đậm là do người dịch muốn nhấn mạnh đến những xác tín và nhận định quan trọng của vấn đề)