ÐỐI THOẠI LIÊN TÔN VỚI DO THÁI GIÁO

2005

Vấn Đề Diệt Chủng Do Thái: Tòa Thánh và Thế Giới phản đối Tổng Thống Iran

Cuộc Diệt Chủng Người Do Thái của Nazi: Những Mồ Chôn Tập Thể với Cả Triệu Mạng Sống

Cuộc Đối Thoại Do Thái Kitô Giáo Đang Tiến Tới Gần “Đất Hứa”

Tuyên Ngôn Nostra Aetate với Vấn Đề Đối Thoại Liên Tôn với Do Thái Giáo

ĐTC Biển Đức XVI với Các Tôn Sư Trưởng Do Thái Giêrusalem: “Tôn giáo và hòa bình là những gì đi đôi với nhau

ĐTC Biển Đức XVI tại Hội Đường Do Thái ngày 19/8/2005: “Ai gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô là gặp gỡ Do Thái giáo”

Tòa Thánh Lại Đính Chính về Những Lời Do Thái Tố Cáo Vu Khống Cả ĐTCGPII về Những Lần Ngài Không Lên Án Khủng Bố Tấn Công Do Thái

Do Thái Kịch Liệt Phản Đối Huấn Từ Truyền Tin của ĐTC BĐXVI Chúa Nhật 24/7/2005: Nguyên do, diễn tiến và hậu quả?

Bản Tuyên Ngôn Hội Nghị Do Thái và Công Giáo ở Giêrusalem về Quyền Tự Do Tôn Giáo

Do Thái cho biết ĐTC BĐXVI muốn viếng thăm nước này

Giáo Hội Công Giáo càng xích gần lại hơn với người “Anh Cả” Do Thái

ĐTC Biển Đức XVI với Tiểu Ban Do Thái Quốc Tế Đặc Trách Việc Tham Vấn Liên Tôn

Cuộc Đối Thoại giữa Công Giáo và Do Thái Giáo: Nhận định của một vị hồng y Công Giáo gốc Do Thái

ĐTC Biển Đức XVI gửi thiệp mừng sinh nhật nguyên Tôn Sư Trưởng Do Thái Hội Đường Rôma

Đại diện Tòa Thánh tham dự việc khai trương tân Bảo Tàng Viện Lịch Sử Về Cuộc Thảm Sát Do Thái
Phái đoàn Tôn sư Do Thái khắp Thế Giới về Vatiacan để cảm tạ ĐTC GPII - Đại Diện Phái Đoàn Do Thái ngỏ lời cảm tạ ĐTC GPII về giáo triều hòa giải của ngài

 

 

Vấn Đề Diệt Chủng Do Thái: Tòa Thánh và Thế Giới phản đối Tổng Thống Iran

 

Mới đây, cách 2 tháng, vào Tháng 10/2005, vị tân Tổng Thống Iran (từ Tháng 6/2005) là Mahmoud Ahmadinejad lên tiếng muốn “xóa bỏ Do Thái khỏi bản đồ thế giới”, nay lại tuyên bố về biến cố diệt chủng Do Thái do Nazi thực hiện là một câu truyện hoang đường vô thực.

 

Đó là lý do, ĐHY Walter Kasper, chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Cổ Võ Hiệp Nhất Kitô Giáo kiêm lãnh đạo Ủy Ban Tòa Thánh về Các Mối Liên Hệ với Người Do Thái, trong khi nhận phần thưởng của Hiệp Hội Chống Bôi Nhọ hôm Thứ Sáu 16/12/2005 đã nói rằng:

 

“Thật là rợn người khi nghe thấy phát ra từ môi miệng của vị tổng thống lãnh đạo một quốc gia có nền văn hóa cổ kính và đáng kính… những lời bày tỏ về việc bài Do Thái không thể chấp nhận đối với mọi người”.

 

Đúng thế, hôm Thứ Tư 14/12/2005, lời nhận định này của vị tổng thống Iran đã khiến cho Do Thái, Hoa Kỳ và Âu Châu lên án tức khắc, và cảnh giác là thái độ của ông làm tổn hại tới vị thế của Iran trong việc giải quyết những ngờ vực về dự án nguyên tử của nước này.

 

Trong cuộc du hành ở miền tây nam nước Iran là Zahedan, ông đã nói trên truyền hình trực tiếp trình chiếu rằng nếu những người Âu Châu cứ nhất định cho rằng việc Diệt Chủng Do Thái là sự kiện xẩy ra thật thì họ phải chịu trách nhiệm và trả giá cho chủ trương của họ:

 

“Ngày nay, nhân danh cuộc Diệt Chủng Do Thái họ đã tạo ra một câu truyện hoang đường và coi nó trên cả Thiên Chúa, tôn giáo và các vị tiên tri. Nếu quí vị phạm cái tội đại ác này thì tại sao quốc gia Palestine bị áp bức lại phải trả giá như thế vậy?

 

“Đây là chủ trương của chúng tôi, đó là, nếu các người đã phạm tội ác thì hãy cống hiến một phần đất đai của các người ở Âu Châu, Hoa Kỳ, Canada hay Alaska cho họ để những người Do Thái có thể thành lập quốc gia của họ”.

 

Các vị lãnh đạo Khối Hiệp Nhất Âu Châu đang gặp nhau ở Brussels đã cảnh cáo trong một bản văn được soạn thảo hôm Thứ Sáu 16/12/2005 là lời phát biểu của vị tổng thống này có thể là nguyên cớ cho những biện pháp trừng trị mà Iran phải chịu:

 

“Những nhận định này hoàn toàn bất khả chấp và không có chỗ đứng trong cuộc tranh luận chính trị có tính cách văn minh”.

 

Trong nội quốc Iran, thành phần ôn hòa kêu gọi hàng giáo sĩ lãnh đạo Hồi giáo hãy chế ngự vị tổng thống này. Vì cuộc bầu ông lên đã làm ngưng đọng tình trạng suy thoái lâu dài của trào lưu cải cách Iran, một trào lưu đã làm bớt đi rất nhiều thứ ngôn từ chống Do Thái và Hoa Kỳ của cuộc Cách Mạng Hồi Giáo năm 1979 để tìm cách thiết lập các mối liên hệ quốc tế.

 

Các quốc gia trên thế giới đã lên án lời phát biểu của vị tổng thống này. Tòa Bạch Ốc đã cho biết những lời lẽ của ông “chỉ làm sáng tỏ lý do tại sao thật là quan trọng vấn đề cộng đồng thế giới cần phải tiếp tục cùng nhau làm việc để cầm chân Iran khỏi chế tạo các loại vũ khí nguyên tử”.

 

Ngoại Trưởng Do Thái nói rằng những lời phát biểu ấy chứng tỏ cho thấy “tâm địa của bè lũ cầm quyền ở Tehran và rõ ràng cho thấy những mục đích của chính sách cực đoan quá khích nơi chế độ này”.

 

Ủy viên liên hệ ngoại bộ Khối Liên Hiệp Âu Châu là Benita Ferrero-Waldner, đã gọi quan điểm của vị tổng thống Iran này là những gì “hoàn toàn vô trách nhiệm”. Việc chối bỏ cuộc Diệt Chủng Do Thái – một cuộc diệt chủng đã làm cho 6 triệu người Do Thái bị tàn sát bởi tay Đảng Nazi – là một tội ác ở một số quốc gia Âu Châu.

 

Trung Hoa là quốc gia vốn có liên hệ tốt với cả Do Thái và Iran, qua phát ngôn viên Qin Gang của vị Ngoại Trưởng hôm Thứ Năm đã cho biết những lời phát biểu ấy là những gì có thể làm suy yếu đi tình trạng vững vàng của thế giới: “Chúng tôi không hài lòng với bất cứ lời phát biểu nào gây tác hại cho sự bền vững và hòa bình. Do Thái là một quốc gia chủ quyền”.

 

Nga sô không trực tiếp phê phán vị tổng thống Iran nhưng lên án bất cứ nỗ lực nào chối bỏ cuộc Diệt Chủng Do Thái và khẳng định rằng cần phải lập lại “chủ trương theo nguyên tắc” của Nga sô, như vị Ngoại Trưởng Nga nói: “Việc suy đoán về những đề tài này là những gì phản nghịch lại với các nguyên tắc của Bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc cũng như ý nghĩ của cộng đồng thế giới”.

 

Các chính quyền Ả Rập tỏ ra lưỡng lự lên án tổng thống Iran. Ở Saudi Arabia, các tờ nhật báo do chính quyền kiểm soát có trích lại lời lẽ của ông từ các cơ quan tín vụ quốc tế nhưng không phê phán gì cả.

 

Khi nói bên lề của hội nghị Nhã Điển về vấn đề di dân, ông Mostafa Pur Mohammadi đã nói với hãng thông tấn AP rằng “Thật ra vụ này đã bị hiểu lầm mà thôi. (Tổng Thống Mahmoud Ahmadinejad) không có ý đưa vấn đề này ra. Ông muốn nói rằng nếu có ai gây ra trục trặc cho cộng đồng Do Thái thì họ phải trả giá chứ không phải kẻ khác phải chịu thay”.

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo Zenit 15/12/2005 và CNN ngày 16/12/2005 

 

 

TOP

 

 

Cuộc Diệt Chủng Người Do Thái của Nazi: Những Mồ Chôn Tập Thể với Cả Triệu Mạng Sống

 

Đức Thánh Cha đã viết một bức thư bày tỏ nỗi xúc động sâu xa khi ngài xem trong các văn kiện tài liệu cho thấy rằng số lượng người Do Thái bị Nazi tàn sát ở Ukraine trong Thế Chiến Thứ II. Ngài đã gửi bức thư này cho ĐHY Jean-Marie Lustiger, vị TGM hồi hưu của TGP Paris, nhân dịp Cuộc Hội Ngộ Âu Châu Lần Thứ Ba Giữa Người Do Thái và Công Giáo, một cuộc hội ngộ được Quốc Hội Do Thái Âu Châu phát động.

 

Biến cố này được tổ chức tại Paris ngày 4/12/2005 với khoảng 700 đại diện Do Thái Giáo và Giáo Hội Công Giáo, trong đó có một vị đại diện của Tòa Thánh Vatican là ĐHY Georges Cottier. Trong cuộc hội ngộ này, Patrick Desbois đã tường trình thành quả của việc ông điều tra ở Ukraine về những ngôi mộ tập thể là nơi có trên 1 triệu người Do Thái bị Nazi chôn vùi sau khi họ xâm chiếm nước này vào năm 1941.

Đức Hồng Y Lustiger đã tường trình cho Đức Thánh Cha Biển Đức XVI về những khám phá này, và đáp lại, ngài đã viết một bức thư cho vị hồng y này, đề ngày 1/12, để bày tỏ việc ngài hỗ trợ cuộc hội ngộ ấy. Sau đây là tiêu biểu một số lời ngài đã viết:

 

“Khi đọc bức thư của huynh, và những văn kiện nhận được trước đó, tôi cảm thấy nhức nhối khi nhận thấy quyền lực sự dữ đã cầm buộc dân tình của chúng ta đến mức nào, khiến nó xẩy ra một việc quá ư là quái gở, như những gì được tiết lộ trong những văn kiện ấy.

 

“Cho đến nay tôi chưa bao giờ nghe về âm mưu thảm sát có tổ chức này ở Ukraine là những gì xẩy ra trước cảnh kinh hoàng của những trại diệt chủng Do Thái.

 

“Chỉ cho tới nay tôi mới có thể tưởng tượng nổi những quyền lực quỉ quái của sự dữ, những quyền lực đã từng cai trị nhân dân của chúng tôi 12 năm trời, đã thể hiện đến mức nào, bằng cách hoàn toàn vứt bỏ tất cả những gì là trách nhiệm về luân lý cùng với việc hủy diệt lương tâm con người, cho tới độ  không thể nào tin nổi, nếu nó không được xác định bằng sự chính xác bàng hoàng.

 

Ngài kêu gọi vị hồng y “hãy đừng bao giờ thôi nguyện cầu cùng Chúa để Ngài bảo vệ chúng ta khỏi những thứ quyền lực này trong tương lai”.

 

Đồng thời ĐTC cũng nhấn mạnh đến sự kiện “an ủi” là “mẫu quốc Ukraine vào thời ấy đã có một chủ trương rõ ràng chống lại những việc làm này, và ngày nay có những vị linh mục Công Giáo nỗ lực để làm sáng tỏ sự thật ấy”.

 

Biến cố Hội Ngộ này cống hiến cơ hội để cử hành 40 năm kỷ niệm Công Đồng Chung Vaticanô II công bố tuyên ngôn “Nostra Aetate” là văn kiện đánh dấu một bước quẹo quan troọg nơi mối liên hệ giữa Do Thái và Công Giáo. Biến cố này cũng nhìn nhận công sức của Đức Gioan Phaolô II trong việc nuôi dưỡng mối liên hệ hỗ tương này.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 13/12/2005

 

TOP

 

 

Cuộc Đối Thoại Do Thái Kitô Giáo Đang Tiến Tới Gần “Đất Hứa”

 

Vị đại tôn sư Ángel Kreiman ở Chí Lợi từ năm 1970-1990, cũng là vị nguyên phó chủ tịch Hội Đồng Thế Giới Chư Hội Đường Do Thái, tin rằng “chúng ta đã tiến tới một giai đoạn mới trong mối liên hệ giữa người Do Thái và Kitô giáo”.

 

Vị này đã đến Rôma để tham dự vào hôm Thứ Năm 28/10/2005 buổi tưởng niệm 40 năm Tuyên Ngôn “Nostra Aetate” được Công Đồng Chung Vaticanô II ban hành ngày 28/10/1965, buổi tưởng niệm được tổ chức bởi Ủy Ban Tòa Thánh về Những Liên Hệ Tôn Giáo với Người Do Thái, và là buổi tưởng niệm đã được ĐTC Biển Đức XVI gửi sứ điệp liên quan tới mối liên hệ với người Do Thái.

Trong cuộc phỏng vấn ở Rôma với mạng điện toán toàn cầu Zenit, vị tôn sư này đã bày tỏ cảm nhận của mình về mối liên hệ càng ngày càng tốt đẹp hơn giữa Do Thái giáo và Kitô giáo như sau:

 

“Bốn mươi năm là thời gian rất quan trọng. Trong 40 năm, nhân dân Do Thái, thành phần đã bị làm tôi ở Ai Cập, ở trong sa mạc trước khi vào được Đất Hứa.

 

“Bốn mươi năm sau Tuyên Ngôn ‘Nostra Aetate’ chúng ta đang tiến vào một miền đất hứa, một miền đất mà đối với các vị giám mục và linh mục Công giáo, thì việc giảng dạy và giáo huấn về Do Thái giáo của  Đức Giêsu, về Do Thái giáo của Phêrô và Phaolô, của các vị tông đồ, về đời sống Do Thái của các Kitô hữu tiên khởi, có một nền tảng về thần học”.

 

Từ năm 1994, Tôn Sư Kreiman đã chủ sự một tổ chức đối thoại liên tôn và cuộc nghiên cứu chung Do Thái Kitô Giáo. Tổ chức này được thành lập để kính vợ của ông là Susy, người đã bị sát hại vào tháng 7/1994 bởi một cuộc khủng bố tấn công Văn Phòng Trung Tâm Cộng Đồng Do Thái ở Buenos Aires do bà đứng đầu.

 

Theo vị tôn sư này thì “việc Giáo Hội Công Giáo ủng hộ Do Thái Giáo không phải là một thứ ủng hộ của quốc gia này đối với một quốc gia khác, căn cứ vào quyền lực thể lý. Việc ủng hộ của Kitô hữu đối với Do Thái giáo là một lực lượng linh thiêng về đạo giáo”.

 

Nhận định về 40 năm qua, vị tôn sư Do Thái này cho biết: “Đó là 40 năm rất tốt đẹp và tích cực. Cả vấn đề liên hệ giữa người Do Thái và Công Giáo, cũng như vấn đề liên hệ giữa Tòa Thánh và nước Do Thái đã gia tăng rất nhiều.

 

“Về phía Kitô giáo, tôi nghĩ rằng cái giới hạn duy nhất đó là việc cho vấn đề đối thoại với người Do Thái là quan trọng nhưng không khẩn trương. Giờ đây, rõ ràng là vấn đề đối thoại với người Do Thái không phải là một vấn đề tùy nghi mà là một trách nhiệm bó buộc. Bởi thế mà người Công giáo cần phải chấp nhận nhân dân Do Thái như là liên minh từ ban đầu của mình”.

 

Theo chiều hướng ấy, vị tôn sư này tin rằng “những diễn tiến trong vấn đề đối thoại về thần học đang xẩy ra rất ư là phấn khởi. Đã tới lúc cần phải nhìn nhận những khác biệt nhau để tương kính nhau hơn nữa, chấp nhận nhau như chúng ta là, yêu thương nhau đúng như những gì chúng ta là.

 

“Cái giới hạn của 40 năm này đã là việc không có vấn đề nói tới thần học trong việc đối thoại, trong việc giảng dạy và trong giáo lý.

 

“Nó cũng là vấn đề liên quan tới người Do Thái, những người cần phải hiểu rằng việc đối thoại với những người em trẻ trung là Kitô hữu là điều hệ trọng, thành phần cùng chia sẻ một niềm tin tưởng vào Vị Thiên Chúa duy nhất, vị Thiên Chúa tỏ mình ra trong thế giới vũ hoàn này. Đối với những vị tôn sư quan sát viên thì đây là lúc bắt đầu nghĩ rằng Giáo Hội không phải là kẻ thù của Do Thái mà là đồng minh đệ nhất của mình.

 

“Vấn đề không phải chỉ nói rằng Kitô hữu và người Do Thái là bạn hữu, rằng không được cho rằng người Do Thái sát hại Con Thiên Chúa; mà phải nói rằng Do Thái Giáo và Kitô Giáo là nền tảng cho cuộc chiến chống chủ nghĩa ngoại đạo… Chủ nghĩa ngoại đạo trong thời đại chúng ta đây được thể hiện qua các hình thức khủng bố, tục hóa, duy vật và duy chủng”.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 31/10/2005

 

 TOP

 

Tuyên Ngôn Nostra Aetate với Vấn Đề Đối Thoại Liên Tôn với Do Thái Giáo

 

Công Đồng Chung Vaticanô II là một biến cố rất quan trọng, chẳng những đối với riêng nội bộ Giáo Hội Công Giáo, mà còn với chung thế giới nữa. Đó là lý do chúng ta thấy cả hai vị Giáo Hoàng gần chúng ta nhất là Gioan Phaolô II, và Biển Đức XVI đều công khai tuyên bố rằng các ngài nỗ lực tiếp tục đường hướng của Công Đồng này. Công Đồng Chung Vaticanô II đã kéo dài trong 3 năm, từ ngày Lễ Mẹ Thiên Chúa 11/10/1962 đến Lễ Mẹ Vô Nhiễm 8/12/1965, với tất cả 9 khóa họp, và ban bố 16 văn kiện, trong đó có 4 Hiến Chế (constitution), 3 Tuyên Ngôn (declaration), và 9 Sắc Lệnh (decree). Công Đồng này đã ban bố 2 văn kiện trong năm 1963, 3 trong năm 1964, và 11 trong năm 1965. Riêng khóa họp 7 ngày 28/10/1965, Công Đồng đã ban bố nhiều văn kiện nhất, 5 trong 16 văn kiện. Bởi thế, trong Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật 30/10/2005, vị đương kim Giáo Hoàng Biển Đức XVI của chúng ta đã đề cập đến biến cố 5 văn kiện này, nhất là Tuyên Ngôn Nostra Aetate liên quan tới việc đối thoại liên tôn nói chung và với Do Thái giáo nói riêng.

 

Trước hết, về Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật 30/10/2005, Vị Giáo Hoàng Biển Đức XVI của chúng ta đã nhắc đến 5 văn kiện đó, và nhấn mạnh riêng đến Tuyên Ngôn Nostra Aetate như sau:

 

Bốn  Mươi Năm trước đây, vào ngày 28/10/1965, khóa họp thứ bảy của Công Đồng Chung Vaticanô II được diễn ra. Khóa họp này được tiếp nối nhanh chóng bởi 3 khóa khác, và khóa cuối cùng vào ngày 8/12, kết thúc Công Đồng này. Trong thời khoảng cuối cùng của biến cố lịch sử của giáo hội ấy, một biến cố được bắt đầu 3 năm trước đó, một số lớn các văn kiện của công đồng đã được chuẩn nhận. Một số văn kiện này là những văn kiện nổi tiếng và thường được trích dẫn. Những văn kiện khác ít tiếng tăm hơn nhưng cũng đáng ghi nhớ, vì chúng giữ được giá trị của mình và cho thấy tính cách hợp thời của mình, ở một nghĩa nào đó, lại còn gia tăng nữa.

 

Hôm nay, tôi muốn nhắc lại 5 văn kiện được Người Tôi Tớ Chúa là Giáo Hoàng Phaolô VI cùng với các vị nghị phụ của công đồng ký nhận ngày 28/10/1965. Những văn kiện ấy là sắc lệnh “Christus Dominus” về thừa tác vụ mục tử của các vị giám mục; sắc lệnh “Perfectae Caritatis” về việc canh tân đời sống tu trì; sắc lệnh “Optatem Totius” về việc đào luyện linh mục; tuyên ngôn “Gravissimum Educationis” về việc giáo dục Kitô giáo, và sau hết là tuyên ngôn “Nostra Aetate” về mối liên hệ của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo. ……..

 

Tuyên ngôn “Nostra Aetate” cũng có một tầm vóc quan trọng hiện nay, vì nó ảnh hưởng tới thái độ của cộng đồng giáo hội đối với các tôn giáo ngoài Kitô giáo. Căn cứ vào nguyên tắc “tất cả mọi dân tộc làm nên một cộng đồng duy nhất” và Giáo Hội có sứ vụ “nuôi dưỡng mối hiệp nhất và bác ái” giữa các dân tộc (khoản 1), Công Đồng này “không phủ nhận những gì thánh hảo và chân thực” nơi các tôn giáo khác và loan báo cho tất cả mọi người biết Chúa Kitô “là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”, nơi Người con người tìm thấy “tầm mức trọn vẹn của đời sống đạo giáo” (khoản 2). Với bản tuyên ngôn “Nostra Aetate”, các Vị Nghị Phụ Công Đồng Vaticanô II đã nêu lên một số sự thật trọng yếu: ở chỗ rõ ràng nhắc nhở mối liên kết đặc biệt thắt nối Kitô hữu với người Do Thái (khoản 4); nhấn mạnh đến việc Giáo Hội quí trọng những người Hồi giáo (khoản 3), và những tín đồ thuộc các đạo khác (khoản 2); và nhấn mạnh đến tinh thần huynh đệ đại đồng cấm thái độ kỳ thị hay bắt hại đạo giáo (khoản 5).

 

Sau nữa, về bức thư đề ngày 26/10/2005 của Đức Giáo Hoàng gửi Ủy Ban Tòa Thánh về Mối Liên Hệ với Người Do Thái là ủy ban tổ chức đại hội kỷ niệm văn kiện này ngày Thứ Năm 28/10/2005 tại Rôma, ngài đã nhận định và khuyến dụ như sau:

 

Bốn mươi năm đã qua đi từ ngày vị tiền nhiệm của tôi là Giáo Hoàng Phaolô VI ban hành Tuyên Ngôn của Công Đồng Chung Vaticanô II về mối liên hệ của Giáo Hội với Các Tôn Giáo Không Phải Kitô Giáo “Nostra Aetate”, một tuyên ngôn đã mở ra một tân kỷ nguyên của mối liên hệ với nhân dân Do Thái và cống hiến một nền tảng cho việc đối thoại chân thành về thần học. Việc kỷ niệm này cho chúng ta nhiều lý do để bày tỏ lòng tri ân Thiên Chúa Toàn Năng về chứng từ của tất cả những ai, bất chấp một lịch sử phức tạp và thường đau thương, nhất là sau biến cố thảm thương Shoah, một biến cố bị ảnh hưởng bởi ý hệ duy chủng ngoại đạo, đã can đảm hoạt động để nuôi dưỡng việc hòa giải và cải tiến mối thông cảm giữa những người Kitô hữu và Do Thái.

 

Trong việc đặt nền tảng cho mối liên hệ mới mẻ giữa Nhân Dân Do Thái và Giáo Hội, Bản Tuyên Ngôn “Nostra Aetate” đã nhấn mạnh đến nhu cầu cần phải thắng vượt những thành kiến, hiểu lầm, lạnh lùng cũng như ngôn từ khinh khi và hận thú của quá khứ. Bản Tuyên Ngôn này đã từng là cơ hội để hiểu biết và tôn trọng nhau hơn, để hợp tác và thường thân tình giữa những người Công giáo và Do Thái hơn. Bản Tuyên Ngôn này cũng thách đố họ trong việc nhìn nhận những nguồn gốc thiêng liêng chung của họ và cảm nhận gia sản phong phú về đức tin của họ nơi Vị Thiên Chúa Duy Nhất là Đấng tạo thành trời đất, Đấng đã thiết lập giao ước với Dân Tuyển Chọn, đã tỏ cho biết các giới răn của Ngài, và đã dạy là hãy hy vọng vào những lời hứa hẹn cứu độ mang đến niềm tin tưởng và niềm ủi an cho các cuộc chiến đấu trong cuộc đời.

 

Nhân dịp kỷ niệm này, dịp chúng ta nhìn lại 4 thập niên của những giao tiếp tốt đẹp giữa Giáo Hội và Nhân Dân Do Thái, chúng ta cần lập lại việc dấn thân của chúng ta cho những gì vẫn cần phải được thực hiện. Về vấn đề này, từ những ngày đầu tiên Giáo Triều của mình, nhất là trong cuộc tôi viếng thăm mới đây tại Hội Đường Do Thái ở Cologne, tôi đã bày tỏ quyết tâm mạnh mẽ của mình trong việc bước đi theo vết chân của vị tiền nhiệm yêu dấu của tôi là Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.

 

Sau hết, về lời phát biểu của một vị tôn sư Do Thái đối với mối liên hệ giữa Giáo Hội Công Giáo nói riêng và Kitô giáo nói chung với Do Thái giáo trong 40 năm qua. Vị tôn sư này là đại tôn sư Ángel Kreiman ở Chí Lợi từ năm 1970-1990, cũng là vị nguyên phó chủ tịch Hội Đồng Thế Giới Chư Hội Đường Do Thái. Trong cuộc phỏng vấn với mạng điện toán toàn cầu Zenit ở Rôma vào dịp này, ông đã bay toà cảm nhận của mình như sau:

 

Bốn mươi năm là thời gian rất quan trọng. Trong 40 năm, nhân dân Do Thái, thành phần đã bị làm tôi ở Ai Cập, ở trong sa mạc trước khi vào được Đất Hứa. Bốn mươi năm sau Tuyên Ngôn ‘Nostra Aetate’ chúng ta đang tiến vào một miền đất hứa, một miền đất mà đối với các vị giám mục và linh mục Công giáo, thì việc giảng dạy và giáo huấn về Do Thái giáo của  Đức Giêsu, về Do Thái giáo của Phêrô và Phaolô, của các vị tông đồ, về đời sống Do Thái của các Kitô hữu tiên khởi, có một nền tảng về thần học”.

 

“Đó là 40 năm rất ư là tốt đẹp và tích cực. Cả vấn đề liên hệ giữa người Do Thái và Công Giáo, cũng như vấn đề liên hệ giữa Tòa Thánh và nước Do Thái đã gia tăng rất nhiều. Về phía Kitô giáo, tôi nghĩ rằng cái giới hạn duy nhất đó là việc cho vấn đề đối thoại với người Do Thái là quan trọng nhưng không khẩn trương. Giờ đây, rõ ràng là vấn đề đối thoại với người Do Thái không phải là một vấn đề tùy nghi mà là một trách nhiệm bó buộc. Bởi thế mà người Công giáo cần phải chấp nhận nhân dân Do Thái như là liên minh từ ban đầu của mình.

 

“Những diễn tiến trong vấn đề đối thoại về thần học đang xẩy ra rất ư là phấn khởi. Đã tới lúc cần phải nhìn nhận những khác biệt nhau để tương kính nhau hơn nữa, chấp nhận nhau như chúng ta là, yêu thương nhau đúng như những gì chúng ta là. Cái giới hạn của 40 năm này là ở chỗ không có vấn đề nói tới thần học trong việc đối thoại, trong việc giảng dạy và trong giáo lý.

 

“Nó cũng là vấn đề liên quan tới người Do Thái, những người cần phải hiểu rằng việc đối thoại với những người em trẻ trung Kitô hữu là điều hệ trọng, thành phần cùng chia sẻ một niềm tin tưởng vào Vị Thiên Chúa duy nhất, vị Thiên Chúa tỏ mình ra trong thế giới vũ hoàn này. Đối với những vị tôn sư quan sát viên thì đây là lúc bắt đầu nghĩ rằng Giáo Hội không phải là kẻ thù của Do Thái mà là đồng minh đệ nhất của mình.

 

“Vấn đề không phải chỉ nói rằng Kitô hữu và người Do Thái là bạn hữu, rằng không được nghĩ người Do Thái sát hại Con Thiên Chúa; mà phải nói rằng Do Thái Giáo và Kitô Giáo là nền tảng cho cuộc chiến chống chủ nghĩa ngoại đạo… Chủ nghĩa ngoại đạo trong thời đại chúng ta đây được thể hiện qua các hình thức khủng bố, tục hóa, duy vật và duy chủng”.

 

Chúng ta hãy nguyện cầu để dân Do Thái càng tiến đến chỗ gần gũi với Giáo Hội của Chúa Kitô càng nhận biết Người hơn, nhờ đó, họ có thể áp dụng tinh thần trọn lành bao dung tha thứ theo Phúc Âm của Người, hầu mau chóng mang lại hòa bình cho Thánh Địa nói riêng và Trung Đông nói chung, nhất là để dọn đường cho Chúa Kitô tái giáng. Vì theo Thánh Tông Đồ Phaolô, trong Thư gửi Giáo Đoàn Rôma ở đoạn 11 câu 26, ngài đã khẳng định và tiên báo rằng: “Tình trạng mù quáng xẩy ra ở nơi Do Thái cho tới khi đủ số Dân Ngoại, bấy giờ tất cả dân Do Thái sẽ được cứu”. Như thế, một khi dân Do Thái tỏ ra nhận biết Chúa Kitô là dấu báo hiệu cho gày cùng tháng tận, cho việc Chúa Kitô đến lần thứ hai; trong khi đó, việc dân Do Thái càng ngày càng thân tình với chung Kitô giáo và riêng Giáo Hội Công Giáo không phải là một dấu chỉ thời đại rất cánh chung rồi hay sao?

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 TOP

 

ĐTC Biển Đức XVI với Các Tôn Sư Trưởng Do Thái Giêrusalem: “Tôn giáo và hòa bình là những gì đi đôi với nhau

 

Hôm Thứ Năm 15/9/2005, tại tông dinh nghỉ hè của mình ở Castel Gandolfo, ĐTC Biển Đức đã gặp hai vị tôn sư trưởng là Shlomo Moshe và Yona Metzger từ Giêrusalem, và ngài đã chia sẻ với nhị vị này như sau:

 

Quí Tôn Vị,

 

Tôi hân hoan chào mừng quí vị đến đây hôm nay, và bày tỏ niềm cảm mến của tôi về sự kiện là việc quí vị viếng thăm là những gì cho thấy các hoa trái tốt đẹp xuất phát từ bản tuyên ngôn “Nostra Aetate” của Công Đồng Chung Vaticanô II, một bản tuyên ngôn năm nay chúng ta đang tưởng niệm 40 năm ban hành. Tôi thấy việc viếng thăm của quí vị như là một bước tiến xa hơn nữa trong tiến trình kiến tạo những mối liên hệ sâu xa về tôn giáo giữa những người Công giáo và người Do Thái, một tiến trình đã có được một động lực mới và nghị lực mới từ “Nostra Aetate” cũng như từ nhiều hình thức giao tiếp, đối thoại và hợp tác khác theo các nguyên tắc và tinh thần của bản văn kiện này. Giáo Hội tiếp tục thực hiện mọi nỗ lực để áp dụng nhãn quan của Công Đồng này về một tân kỷ nguyên của việc tương kiến, tương kính và kết đoàn hơn nữa giữa chúng ta.

 

“Nostra Aetate” đã cho thấy mình là một mốc điểm trên con đường tiến đến việc hòa giải giữa Kitô hữu với nhân. Nó làm sáng tỏ vấn đề là “Thiên Chúa hết sức ưu ái dân Do Thái vì Cha Ông của họ; Ngài không hối hận về những tặng ân Ngài đã ban phát hay về những lời mời gọi Ngài đã ban truyền” (khoản số 4).

 

Hôm nay đây chúng ta cần phải tiếp tục tìm những đường lối để làm trọn trách nhiệm tôi đã nói tới vào dịp viếng thăm Hội Đường ở Cologne, đó là “truyền sang cho giới trẻ ngọn đuốc hy vọng Thiên Chúa đã trao cho người Do Thái và Kitô hữu, nhờ đó không bao giờ còn xẩy ra nữa tình trạng lộng hành của những quyền lực sự dữ, và nhờ đó, các thế hệ mai hậu, với ơn Chúa giúp, có thể dựng xây một thế giới chân chính và an bình hơn, nơi tất cả mọi người đều bình quyền và đều cảm thấy sống thoải mái như nhau”.

 

Thế giới liên lỉ nhìn về Thánh Địa, mảnh đất được coi là thánh với người Do Thái, Kitô hữu và Hồi hữu. Tiếc thay việc chúng ta chú ý tới đây rất thường được thu hút bởi các hành động bạo lực và khủng bố, một nguyên do gây vô vàn sầu thương cho hết mọi người sống ở đó. Chúng ta cần phải tiếp tục nhấn mạnh rằng tôn giáo và hòa bình là những gì đi đôi với nhau.

 

Nhân dịp này, tôi cũng nghĩ tới các cộng đồng Kitô hữu ở Thánh Địa, một hiện diện sống động và là chứng từ ở đó từ thuở ban đầu của Kitô giáo qua tất cả mọi cuộc thăng trầm của lịch sử. Ngày nay, những người anh chị em trong đức tin này đang phải đương đầu với những thách đố mới mỗi ngày một gia tăng. Trong khi chúng ta cảm thấy vui khi thấy những liên hệ ngoại giao giữa Tòa Thánh và Quốc Gia Do Thái đã đưa đến những hình thức hợp tác vững chắc hơn và bền chặt hơn, chúng ta thiết tha mong đợi việc hoàn thành Bản Hợp Ước Căn Bản về những vẫn đề còn tồn đọng.

 

Quí Tôn Sư Trưởng thân mến, là thành phần lãnh đạo tôn giáo, chúng ta phải chịu trách nhiệm lớn lao trước nhan Thiên Chúa về giáo huấn chúng ta truyền giảng cũng như về các quyết định chúng ta thực hiện. Chớ gì Chúa nâng đỡ chúng ta trong việc phụng sự lý tưởng cao cả để cổ võ tính cách linh thánh của sự sống con người và để bênh vực nhân quyền của hết mọi người, hầu công lý và hòa bình được triển nở trên thế giới này.

 

Đaminh Maria Cao tấn Tĩnh, BVL, dịch theo Zenit ngày 16/9/2005

 

TOP

 

ĐTC Biển Đức XVI tại Hội Đường Do Thái ngày 19/8/2005: “Ai gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô là gặp gỡ Do Thái giáo”

 

Cùng Quí Vị Nam Nữ,

Anh Chị Em thân mến!

 

“Shalom lechem!” Từ ngày được chọn làm Vị Thừa Kế Tông Đồ Phêrô, tôi hết sức mong muốn trong chuyến viếng thăm đầu tiên Đức quốc của mình được gặp gỡ cộng đồng Do Thái ở Cologne và các vị đại diện Do Thái giáo ở Đức. Bằng cuộc viếng thăm này, tâm trí tôi xin trở về với cuộc gặp gỡ xẩy ra ở Mainz ngày 17/11/1980, giữa vị tiền nhiệm khả kính của tôi là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, vị bấy giờ thực hiện chuyến viếng thăm Đức quốc lần đầu tiên, với các phần tử thuộc Tiểu Ban Do Thái ở Đức và với Hội Đồng Tôn Sư. Hôm nay đây nữa, tôi muốn tái khẳng định rằng tôi có ý muốn tiếp tục con đường hướng tới những mối liên hệ cải tiến cùng thân hữu với Nhân Dân Do Thái, theo những gì được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cương quyết dẫn đường mở lối (cf. "Address to the Delegation of the International Jewish Committee on Interreligious Consultations," June 9, 2005: "L'Osservatore Romano," June 10, 2005, p. 5).

 

Cộng đồng Do Thái ở Cologne có thể thực sự cảm thấy “tự nhiên như ở nhà” nơi thành phố này. Thật vậy, Cologne là địa điểm cổ nhất của một cộng đồng Do Thái trên mảnh đất của nước Đức, mãi thời các Thuộc Địa của Đế Quốc Rôma. Lịch sử liên hệ giữa cộng đồng Do Thái và Kitô hữu đã từng là những gì phức tạp và đau thương. Có những lúc cả hai sống với nhau một cách thuận hòa, nhưng cũng có vụ tẩy chay người Do Thái khỏi Cologne vào năm 1424. Rồi trong thế kỷ 20, vào giai đoạn đen tối nhất của lịch sử Đức quốc và Âu Châu, một ý hệ duy chủng bệnh hoạn xuất phát từ chủ nghĩa tân ngoại giáo, đã làm bùng lên một nỗ lực, được chế độ này âm mưu và tìm cách thực hiện để diệt chủng Do Thái Âu Châu.

 

Hậu quả đã đi vào lịch sử như là một thứ “Shoah”. Các nạn nhân của thứ tội ác không kể xiết và không thể tưởng tượng nổi trước đó lên tới 7 ngàn người được liệt danh ở Cologne mà thôi; con số thực sự chắc chắn là cao hơn nhiều. Vì không nhận biết sự thánh thiện của Thiên Chúa nên mới xẩy ra việc khinh miệt tính cách linh thánh của sự sống con người.

 

Năm nay đánh dấu 60 năm kỷ niệm việc giải tỏa các trại tập trung Nazi, là những địa điểm có cả triệu triệu người Do Thái, nam nhân, nữ giới và trẻ em, đã bị sát hại trong những phòng hơi và hỏa lò. Tôi xin sử dụng những lời được vị Tiền Nhiệm khả kính của tôi viết nhân dịp 60 năm giải tỏa trại Auschwitz để cả tôi nữa cũng nói rằng: “Tôi xin cúi đầu trước tất cả những ai đã trải qua việc bộc phát ‘mầu nhiệm tội lỗi’ này”.

 

“Những biến cố kinh hoàng vào thời ấy không bao giờ được thôi khơi dậy lương tri, thôi giải quyết những xung khắc, thôi thúc đẩy việc xây dựng hòa bình” (Message for the Liberation of Auschwitz," Jan. 15, 2005). Cùng nhau chúng ta cần phải nhớ rằng Thiên Chúa và dự án khôn ngoan của Ngài giành cho thế giới được Ngài tạo dựng. Như chúng ta đọc thấy trong Sách Khôn Ngoan thì Ngài là “vị yêu chuộng sự sống” (11:26).

 

Năm nay kỷ niệm 40 năm việc Công Đồng Chung Vaticanô II ban bố tuyên ngôn “Nostra Aetate”, một tuyên ngôn mở ra những viễn tượng mới đối với mối liên hệ giữa Do Thái và Kitô Hữu về vấn đề đối thoại và đoàn kết. Bản tuyên ngôn này, ở chương thứ 4, nhắc lại những gốc gác chung cũng như gia sản thiêng liêng hết sức phong phú mà cả người Do Thái lẫn Kitô hữu cùng nhau có được. Cả người Do Thái lẫn Kitô hữu đều nhìn nhận nơi Abraham là cha của mình trong đức tin (x Gal 3:7; Rm 4:11ff), và họ chú ý tới các giáo huấn của Moisen và các vị tiên tri. Linh đạo Do Thái, giống như bản sao Kitô giáo của nó, là những gì lấy được dưỡng chất từ các bài thánh vịnh. Với Thánh Phaolô, Kitô hữu tin rằng “các tặng ân và ơn gọi của Thiên Chúa là những gì bất khả vãn hồi” (Rm 11:29, cf. 9:6,11; 11:1ff.). Trong việc cứu xét các căn gốc Do Thái của Kitô giáo (x Rm 11:16-24), vị Tiền Nhiệm khả kính của tôi, khi trích một câu nói của các Vị Giám Mục Đức Quốc, đã khẳng định rằng: “ai gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô là gặp gỡ Do Thái giáo” ("Insegnamenti," vol. III/2, 1980, p. 1272).

 

Bản tuyên ngôn của công đồng “Nostra Aetate” bởi thế “lấy làm xót xa về những cảm giác hận thù, về những cuộc bách hại và về những việc tỏ ra bài Do Thái nhắm đến những người Do Thái ở bất cứ lúc nào và bởi bất cứ ai” (khoản số 4). Thiên Chúa đã tạo nên chúng ta tất cả “theo hình ảnh Ngài” (x Gen 1:27), bởi thế đã ban vinh dự cho chúng ta với một phẩm vị siêu việt. Trước nhan Thiên Chúa, tất cả mọi con người nam nữ đều có phẩm vị như nhau, bất cứ là quốc gia nào, văn hoa hay tôn giáo nào. Thế nên, tuyên ngôn “Nostra Aetate” cũng rất kính trọng nói về các người Hồi giáo (x khoản số 3) cũng như về các tín đồ thuộc các tôn giáo khác (x khoản số 2).

 

Trên căn bản phẩm vị con người chung của chúng ta, Giáo Hội Công giáo “lên án như là những gì không hợp với tinh thần của Chúa Kitô bất cứ loại kỳ thị nào giữa con người, hay việc phiền nhiễu họ, được thực hiện vì lý do chủng tộc hay mầu da, tầng lớp hay tôn giáo” (khoản 5). Giáo Hội ý thức được nhiệm vụ của mình trong việc truyền đạt giáo huấn ấy, nơi việc dạy giáo lý cũng như nơi hết mọi khía cạnh của đời sống Giáo Hội, cho các thế hệ trẻ là thành phần không chứng kiến thấy các biến cố kinh hoàng đã xẩy ra trước và trong Thế Chiến Thứ Hai. Đó là một công việc đặc biệt quan trọng, vì ngày nay, tiếc thay, chúng ta đang chứng kiến thấy việc nổi lên những dấu hiệu mới của vấn đề bài Do Thái cùng với các hình thức khác của một thứ thù hằn chung đối với thành phần ngoại quốc. Làm sao chúng ta lại không thấy được nơi tình trạng này lý do để quan tâm và cảnh giác chứ? Giáo Hội Công Giáo quyết tâm thực hiện – hôm nay đây tôi xin lập lại rằng – việc khoan dung, tôn trọng, thân tình và bình an giữa tất cả mọi dân tộc, văn hóa và tôn giáo.

 

Trong 40 năm qua kể từ Bản Tuyên Ngôn công đồng “Nostra Aetate”, đã có nhiều tiến bộ được thực hiện, ở Đức cũng như trên khắp thế giới, hướng đến những mối liên hệ tốt đẹp hơn và gần gữi hơn giữa người Do Thái và Kitô hữu. Song song với những mối liên hệ chính thức, nhất là vì việc hợp tác giữa những chuyên viên về các khoa học thánh kinh, đã phát xuất ra nhiều mối thân tình. Về vấn đề này, tôi xin đề cập tới những bản tuyên ngôn khác nhau của Hội Đồng Giám Mục Đức, và hoạt động bác ái được thực hiện bởi “Hội Hợp Tác Do Thái Kitô Hữu ở Cologne”, mợt hoạt động từ năm 1945 đã khiến cho cộng đồng Do Thái có thế cảm thấy một lần nữa “tự nhiên như ở nhà” tại Cologne này đây, và thiết lập những mối liên hệ tốt đẹp với các cộng đồng Kitô hữu. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều việc cần phải làm.

 

Chúng ta cần phải tiến đến chỗ biết nhau nhiều hơn và khá hơn nữa. Bởi thế mà tôi xin khuyến khích thực hiện một cuộc đối thoại chân thành và tin tưởng giữa người Do Thái và Kitô hữu, vì chỉ nhớ thế mới có thể tiến đến chỗ cùng giải quyết những vấn đề lịch sử được trang cãi, nhất là mới thực hiện được mức tiến bộ đối với cuộc thẩm định về thần học đối với mối liên hệ giữa Do Thái giáo và Kitô giáo. Cuộc đối thoại này, nếu chân thành, không được bưng bít hay coi nhẹ những khác biệt vốn có: nơi những lãnh vực mà, theo những niềm xác tín sâu xa của chúng ta trong đức tin, chúng ta đã tách lìa nhau, và thực sự cũng chính vì ở những lãnh vực ấy mà chúng ta cần phải tỏ ra tôn trọng lẫn nhau.

 

Sau hết, ánh mắt của chúng ta không chỉ hướng về quá khứ mà còn phải hướng đến những việc làm đang đợi chờ chúng ta hôm nay và mai ngày. Gia sản chung phong phú của chúng ta cũng như các mối liên hệ huynh đệ và tin tưởng nhau hơn của chúng ta kêu gọi chúng ta hãy cùng nhau cống hiến một chứng từ hòa hợp hơn nữa, và cùng nhau hoạt động ở lãnh vực thực tiễn, đối với việc bênh vực và cổ võ các thứ nhân quyền cùng tính cách linh thánh của sự sống con người, đối với các giá trị về gia đình, đối với vấn đề công bằng xã hội, và đối với nền hòa bình trên thế giới. Bản Thập Điều (x Ex 20, Deut 5) đối với chúng ta là một di sản và là một cuộc dấn thân chung. Mười Giới Răn không phải là một gánh nặng mà là một dấu đường chỉ cho thấy lối đi đến một cuộc sống thành đạt. Điều này đặc biệt thích hợp với giới trẻ là thành phần tôi đang gặp gỡ trong các ngày này và là thành phần rất thân thương đối với tôi. Tôi ước mong là họ có thể nhận thấy nơi Bản Thập Giới một ngọn đèn soi bước chân của họ, một ánh sáng soi đường họ đi (x Ps 119:105).

 

Thành phần người lớn có trách nhiệm truyền lại cho giới trẻ ngọn đuốc hy vọng được Thiên Chúa trao cho người Do Thái cũng như Kitô hữu, nhờ đó, “không bao giờ còn tái diễn” những quyền lực sự dữ lộng hành, và các thế hệ tương lai, nhờ ơn Chúa giúp, có thể xây dựng một thế giới chân chính và an bình hơn, một thế giới tất cả mọi dân tộc đều có quyền như nhau và coi như nhà của mình giống nhau.

 

Tôi xin kết thúc với những lời của bài Thánh Vịnh 92, những lời Thánh Vịnh bày tỏ cả ước vọng lẫn nguyện cầu: “Xin Chúa ban sức mạnh cho dân Ngài, xin Ngài ban phúc an bình cho dân Ngài”. Xin Ngài nhậm lời nguyện cầu của chúng ta!


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo Zenit ngày 19/8/2005

 

 

TOP

 

Tòa Thánh Lại Đính Chính về Những Lời Do Thái Tố Cáo Vu Khống Cả ĐTCGPII về Những Lần Ngài Không Lên Án Khủng Bố Tấn Công Do Thái

 

Sau khi vị bộ trưởng ngoại giao Do Thái là Nimrod Barkan bày tỏ những nhận định được đăng trên tờ nhật báo Giêrusalem Post hôm Thứ Ba 26/7, Văn Phòng Báo Chí của Tòa Thánh đã phổ biến ghi nhận sau đây vào buổi chiều hôm qua:

 

“Tính cách không vững chắc của những tố cáo vô bằng cố ý chống lại Giáo Hoàng Biển Đức XVI vì không đề cập tới – trong lời nhận định sau kinh Truyền Tin hôm 24/7 – về cuộc khủng bố tấn công ngày 12/7 ở Natanya, Do Thái, không thể nào lại không rõ ràng đối với những ai thực hiện những lời tố cáo này. Có lẽ cũng vì lý do ấy mà người ta đã cố gắng tán thành những lời tố cáo này bằng cách hướng tới những lần được cho rằng Đức Gioan Phaolô II đã tỏ ra im lặng về những cuộc tấn công Do Thái trong những năm qua, thậm chí còn tạo ra những lời chính quyền Do Thái lập đi lập lại xin Tòa Thánh để ý tới vấn đề này, và yêu cầu Tòa Thánh hãy thay đổi thái độ trong tân giáo triều đây.

 

“Về vấn đề ấy, cần phải lưu ý là:

 

“Những lời tuyên bố của Đức Gioan Phaolô II lên án tất cả mọi hình thức khủng bố, và lên án từng hành động khủng bố phạm đến Do Thái, thì rất nhiều và công khai tỏ tường.

 

“Không phải là hết mọi cuộc tấn công Do Thái đều có thể được đáp ứng ngay bởi việc lên án công khai. Có nhiều lý do khác nhau về vấn đề này, trong đó có sự kiện là những cuộc tấn công phạm đến Do Thái ấy đôi khi được xẩy ra bởi những phản ứng lập tức của Do Thái là những hành động không xứng hợp với luật quốc tế. Bởi thế, không thể nào lên án một cuộc khủng bố trước mà lại im lặng trước cuộc trả đũa sau.

 

“Như chính phủ Do Thái có lý không để cho các lời công bố của mình bị sai khiến bởi kẻ khác thế nào thì Tòa Thánh cũng không chấp nhận những bài học và bị điều khiển bởi bất cứ một thẩm quyền nào khác liên quan tới việc chỉ dẫn và nội dung của những lời tuyên bố của mình như thế”.

 

Bản văn của Văn Phòng Báo Chí của Tòa Thánh còn được kèm theo bằng một liệt kê một số lời của Đức Gioan Phaolô II từ thời khoảng 1979 đến Tháng 2/2005, một tháng rưỡi trước ngày ngài qua đời, những lời ngài đã lên án việc bạo lực phạm đến thành phần dân chúng và khẳng định quyền lợi của Nước Do Thái được sống trong an ninh và an bình. Cuối cùng bản văn của Tòa Thánh đã kết luật thế này:

 

“Thật là đáng buồn và bỡ ngỡ khi thấy vấn đề xẩy ra một cách thiếu nhận định đối với những gì trong 26 năm Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã thường lên tiếng mạnh mẽ và thương cảm về tình trạng thê thảm ở Thánh Địa, lên án tất cả mọi cuộc khủng bố và kêu gọi có những cảm thức nhân bản và hòa bình. Những lời tố cáo phản với sự thật của lịch sử ấy chỉ có lợi cho những ai tìm cách làm dậy lên men hận thù và xung khắc mà thôi, chắc chắn sẽ không giúp gì vào việc cải tiến tình trạng này cả”.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, theo VIS ngày 29/7/2005

 TOP

Do Thái Kịch Liệt Phản Đối Huấn Từ Truyền Tin của ĐTC BĐXVI Chúa Nhật 24/7/2005: Nguyên do, diễn tiến và hậu quả?

Hôm Chúa Nhật XVII Quanh Năm 24/7/2005 vừa qua, sau khi nguyện Kinh Truyền Tin, ĐTC đã nói thêm những lời sau đây:

“Những ngày an bình và nghỉ ngơi này cũng bị xáo trộn bởi những tin tức thể thảm về những cuộc khủng bố tấn công hạ cấp, những cuộc khủng bố gây ra chết chóc, hủy hoại và khổ đau ở một số quốc gia, như Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, Iraq và Hiệp Vương Quốc. Trong khi ký thác cho lòng lành của Chúa những người đã chết, bị thương và các người thân yêu của họ, những nạn nhân của những hành vi cử chỉ xúc phạm đến Thiên Chúa và con người, chúng ta kêu xin Đấng Toàn Năng hãy ngăn chặn tay sát hại của những ai thực hiện những việc ấy vì cuồng tín và hận thù, và hoán cải lòng họ nghĩ tới việc hòa giải và hòa bình”.

Tuy nhiên, ngay hôm sau là Thứ Hai, 25/7, Vị Bộ Trưởng Ngoại Giao của Do Thái đã triệu mời vị khâm sứ Tòa Thánh ở Do Thái là ĐTGM Pietro Sambi tới để hỏi lý do tại sao ĐTC lại không đề cập tới cuộc khủng bố tấn công Do Thái ngày 12/7 ở Netanya gây thiệt mạng 5 người, trong bài huấn từ Truyền Tin của ngài, trong khi ngài lên án các cuộc khủng bố ở các quốc gia khác.

Vị bộ trưởng ấy đã phổ biến một bản văn sau cuộc gặp gỡ với vị đại diện Tòa Thánh này bằng những lời lẽ cay cú cho thấy Do Thái “hết sức lấy làm thất vọng trước việc lộ liễu bỏ qua nước Do Thái trong danh sách các quốc gia bị các cuộc khủng bố tấn công. Nạn khủng bố tấn công những người Do Thái ở Israel - bao gồm cuộc tấn công tuần vừa rồi là cuộc tấn công đã gây ra sát hại và thương tích cho nhiều thanh thiếu niên và trẻ em – hầu như bao giờ cũng được các vị lãnh đạo thế giới tự do lập tức lên án. Việc Vatican không lên án cuộc tấn công mới nhất này đã vọng lên tới trời cao… nó thực sự có thể được hiểu là việc chấp thuận những hành động khủng bố phạm đến người Do Thái vậy”.

Vị phát ngôn viên của Tòa Thánh là Joaquín Navarro Valls, giám đốc văn phòng báo chí của Tòa Thánh, đã phải lên tiếng để đáp lại những lới lên án của Do Thái như sau:

“Ý hướng của ĐTC đã bị dẫn giải sai lầm một cách vô cớ. Cần phải lưu ý là những lời của Đức Biển Đức XVI đặc biệt cố ý nói đến những cuộc tấn công ‘trong những ngày này’”.

“Ai cũng biết” rằng Đức Giáo Hoàng lên án “tất cả mọi hình thức khủng bố, gây ra bởi bất cứ bên nào và phạm đến bất cứ ai bị nó nhắm tới. Hiển nhiên là cuộc tấn công nghiêm trọng ở Netanya hai tuần vừa rồi, được Do Thái nhắc tới, cũng là việc khủng bố bị lên án một cách tổng quan và dứt khoát”.

Sau khi phổ biến những lời lẽ như trên, Do Thái đã hủy bỏ cuộc họp chính ngày Thứ Hai 25/7/2005 với Tòa Thánh để bàn đến vấn đề áp dụng những điều thỏa thuận với nhau. Cuộc họp này đầu tiên đã được ấn định vào ngày 19/7 và đã được vị Bộ Trưởng Ngoại Giao Do Thái yêu cầu dời lại.

Tòa Thánh và Do Thái đã ký với nhau Bản Hiệp Ước Căn Bản vào tháng 12 năm 1993, trong đó, Tòa Thánh chấp nhận việc Do Thái yêu cầu việc muốn thiết lập liên hệ ngoại giao. Bản Hiệp Ước Căn Bản này nói lên những nguyên tắc ấn định các mối liên hệ giữa Giáo Hội và quốc gia, trong khi đó, việc áp dụng bản văn kiện này lại tùy thuộc vào một chuỗi những hiệp ước bổ khuyết, được điều đình sau, những hiệp định bảo đảm tự do và quyền lợi của Giáo Hội ở lãnh thổ Do Thái.

Cho đến nay, những cuộc thương thảo này chỉ mới mang lại một thỏa thuận duy nhất vào năm 1997, đó là việc dân sự nhìn nhận thực thể pháp lý của Giáo Hội cũng như những cơ cấu tổ chức của Giáo Hội, thế nhưng việc nhìn nhận này vẫn chưa trở thành luật quốc gia.

Vào ngày 28/8/2003, không cho biết lý do, Do Thái đã rút phái đoàn đại biểu của họ về, không thực hiện những cuộc thương thảo với Tòa Thánh, trong khi công việc đang tiến tới chỗ thỏa thuận về vấn đề bảo vệ các tài sản của giáo hội và qui chế về tài chính. Việc thương thảo đã được tái diễn vào ngày 5/8/2004, một cuộc họp đã mở màn cho những cuộc họp khác đang tiến triển khả quan.

Nhận định riêng của thoidiemmaria:

Ở đây chúng ta phải công nhận là ĐTC quả thực đã không đề cập đến Do Thái trong số các quốc gia khác cũng bị khủng bố tấn công “trong những ngày này”, đúng như Do Thái vạch ra. Thế nhưng, cũng đúng như vị phát ngôn viên của Tóa Thánh minh định, đó là ý hướng của ĐTC bao gồm tất cả mọi cuộc khủng bố tấn công, chứ không phải vì một lý do nào đó không nói đến tức là chấp nhận và đồng lõa với việc khủng bố tấn công đâu.

Ở đây chúng ta còn thấy một điều nữa đó là con người ta thật bất công, luôn có khuynh hướng làm toán trừ nhanh hơn toán cộng và toán nhân. Chẳng hạn ĐTC BĐXVI đã tỏ ra những cử chỉ cụ thể đặc biệt đối với nước Do Thái và người Do Thái ngay từ ngày ngài mới lên làm Giáo Hoàng đến nay. Như đích thân mời vị tôn sư trưởng ở Hội Đường Do Thái Rôma đến tham dự Lễ Đăng Quang của ngài, hay gửi đại diện tới mừng sinh nhật của vị nguyên tôn sư trưởng của hội đường này, vị tôn sư trưởng được cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhắc đến trong di chúc thư của mình, hoặc việc ngài hứa sẽ đến viếng thăm Hội Đường Do Thái vào trưa ngày Thứ Sáu 19/8/2005 ở Cologne Đức Quốc.

Chưa hết, hôm Thứ Năm 9/6/2005, ĐTC Biển Đức XVI đã tiếp phái đoàn đại biểu của Tiểu Ban Do Thái Quốc Tế Đặc Trách Việc Tham Vấn Liên Tôn, và đã bày tỏ với phái đoàn này những cảm nhận liên tôn của ngài với dân Do Thái như sau:

 

"Cuộc gặp gỡ của chúng ta diễn ra trong năm nay là năm đánh dấu 40 năm Tuyên Ngôn 'Nostra Aetate' của Công Đồng Chung Vaticanô II, một công đồng ban bố một giáo huấn làm nền tảng cho mối liên hệ giữa Giáo Hội với nhân dân Do Thái từ đó. Công Đồng này đã khẳng định niềm xác tín của Giáo Hội là, trong mầu nhiệm tuyển chọn của Thiên Chúa thì khởi nguyên cho đức tin của Giáo Hội đã được bắt nguồn từ Abraham, Moisen và các vị Tiên Tri. Bắt nguồn từ gia sản thiêng liêng này và giáo huấn của Phúc Âm, cần phải tiến đến chỗ hiểu biết nhau hơn và cảm mến nhau hơn giữa Kitô hữu và người Do Thái, cũng như lấy làm tiếc xót về tất cả mọi hình thức ghét bỏ, bách hại và bài Do Thái (“Nostra Aetate”, 4). Ngay vào lúc mở màn cho Giáo Triều của mình, tôi muốn cam đoan với quí vị là Giáo Hội vẫn mạnh mẽ quyết tâm, qua giáo lý của mình cũng như qua mọi khía cạnh sinh hoạt của mình, áp dụng giáo huấn quan trọng ấy".

Ngoài ra, hôm Thứ Tư 6/7/2005, bộ trưởng thông tin Do Thái là Dalia Itzik, đã đến gặp ĐTC BĐXVI, và đã trao tặng ngài những con tem đánh dấu cuộc viếng thăm của ĐTC GPII ở Thánh Địa năm 2000. Con tem này in hình ĐTC GPII đứng tại Bức Tường Phía Tây, nơi ngài để lại bức thư xin tha thứ cho Kitô hữu những gì họ đã phạm đến người Do Thái trong suốt giòng lịch sử. Theo vị lãnh sự của Do Thái ở Tòa Thánh là ông Obed Ben-Hur thì vị bộ trưởng thông tin này cũng trao cho ĐTC bức thư của Thủ Tướng Ariel Sharon ngỏ ý mời ĐTC viếng thăm Do Thái. Một đài phát thanh Do Thái đã phổ biến lời của vị tổng trưởng thông tin sau khi yết kiến ĐTC BĐXVI và cho biết ý định của vị giáo hoàng này đối với lời mời của Thủ Tướng Sharon như thế này: “Tôi có một danh sách dài cần phải viếng thăm các quốc gia, thế nhưng ưu tiên nhất là Do Thái”.

Thế mà, tất cả những gì ngài làm với lòng đặc biết quí mến dân nước Do Thái như thế, cũng không thể bù đắp được một lần, cứ cho là bị nhỡ đi, không có lợi cho họ. Vấn đề trầm trọng ở đây là người Do Thái không làm toán trừ một cách khách quan, mà một cách chủ quan, ở chỗ cho ĐTC là “cố tình” làm như thế, là đồng lõa với kẻ thù của họ v.v.

Nếu trường hợp này xẩy ra cho Đức Gioan Phaolô II, vị Giáo Hoàng vào ngày Thứ Ba 18/1/2005 đã được một phái đoàn Do Thái gồm 160 vị lãnh đạo trên khắp thế giới đã qui tụ lại Rôma với mục đích ngỏ lời cám ơn ngài về những nỗ lực ngài thực hiện để hòa giải hai niềm tin giữa hai tôn giáo, vị giáo hoàng khi vừa nằm xuống đã được tổ chức của Do Thái ở Washington DC là Hiệp Hội Chống Nói Xấu Bôi Nhọ, công nhận là Vị Giáo Hoàng đã đẩy mạnh việc đối thoại liên tôn với Do Thái giáo, đến nỗi, việc ngài làm trong thời gian 26 năm rưỡi được cho là còn hơn cả gần 2 ngàn năm nữa, thì Do Thái có tỏ ra thái độ gay gắt tấn công này hay chăng? Nếu không, thì phải chăng vị Tân Giáo Hoàng hiện nay là người Đức, một dân tộc (qua Đảng Nazi) đã ra tay diệt chủng Do Thái? Nếu thái độ của Do Thái ở đây chỉ là thái độ của một số cá nhân quá khích theo tinh thần duy dân tộc (kiểu Đức Quốc Xã ngày xưa), chứ không phải của chung dân nước và chính phủ Do Thái thì họ vẫn tiếp tục cho ngài bước vào hội đường của họ ở Cologne trong Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX tới đây? Chúng ta hãy chờ xem?

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, phần tin tức theo Zenit ngày 26/7/2005
  

TOP

 

Bản Tuyên Ngôn Hội Nghị Do Thái và Công Giáo ở Giêrusalem về Quyền Tự Do Tôn Giáo


Sau đây là bản tuyên ngôn của Cuộc Họp Ủy Ban Song Phương diễn ra vào thời khoảng 26-28/6/2005 giữa phái đoàn Đại Biểu Của Ủy Ban Tòa Thánh Đặc Trách Liên Hệ Tôn Giáo Với Người Do Thái và phái đoàn Đại Biểu Của Chánh Văn Phòng Tôn Sư Do Thái D8ạc Trách Liên Hệ Với Giáo Hội Công Giáo:


I. Buổi tối khai mạc hân hạnh có sự hiện diện của Tôn Sư Shlomo Moshe Amar, Tôn Sư Trưởng của Do Thái, vị đã tỏ ra sốt sắng ủng hộ việc đối thoại chú trọng tới những giá trị chung sâu xa của hai Truyền Thống, mà vẫn không bỏ qua những đặc điểm riêng biệt làm cho chúng ta là những cộng đồng đức tin khác nhau. Trước hết, mục đích của cuộc đối thoại này là để cổ võ những nguyên tắc về tính cách linh thánh và phẩm vị của tất cả mọi con người, cũng như để gia tăng việc hợp tác của chúng ta cho những mục đích ấy.


Trong lời chào mừng của mình, hai vị lãnh đạo hai phái đoàn đại biểu liên hệ, Tôn Sư Trưởng Shear Yashuv Cohen và ĐHY Jorge Mejía đã lấy làm hết sức hài lòng trước tình trạng sâu xa hiểu biết và tình thân hữu được phát triển qua các buội gặp gỡ của ủy ban song phương này.


II. Để mở đầu những trao đổi – vì đây là cuộc họp đầu tiên từ ngày qua đời của ĐGH GPII đáng nhớ – các vị chủ tịch đã đặc biệt nhắc nhở đến việc đóng góp lịch sử cho vấn đề hòa giải Công Giáo và Do Thái, cũng như cho sự kiện là ủy ban song phương đây được phát xuất từ sáng kiến của ngài. ĐHY Mejía nhận định thêm về cho tiết quan trọng liên quan tới Vị nguyên Tôn Sư Trưởng Rôma trong di chúc thư của ĐGH GPII. Việc vị thừa kế ngài là Giáo Hoàng Biển Đức XVI quyết tâm tiếp tục phát động mối liên hệ song phương này cũng được cảm nhận.


III. Đề tài của cuộc họp thứ năm này là “Mối Liên Hệ giữa Thẩm Quyền Về Tôn Giáo và Dân Sự nơi Truyền Thống Do Thái và Kitô Giáo”. Căn cứ vào nhãn quan của Thánh Kinh về các vai trò khác biệt giữa Tư Tế, Ngôn Sứ và Vương Giả, cũng như về mối liên hệ của các vai trò này với dân Chúa, cuộc họp đã đi đến những vấn đề chính yếu sau đây:


1. Các giá trị về tôn giáo là những gì quan trọng cho phúc hạnh của cá nhân cũng như của xã hội.


2. Mục đích của thẩm quyền dân sự là để phục vụ và mang lại phúc hạnh cho dân chúng bằng việc tôn trọng sự sống và phẩm vị của mọi cá nhân.


3. Dù đề cao tầm quan trọng của tính cách dân chủ về vấn đề này, cũng cần phải bảo vệ xã hội về phương diện pháp lý cho khỏi chủ nghĩa cá nhân cực đoan, cho khỏi tình trạng khai thác của các nhóm đầu tư lợi lộc và bất chấp những giá trị về văn hóa và luân lý của truyền thống tôn giáo.


4. Các thẩm quyền tôn giáo và dân sự cần phải bảo toàn quyền tự do tôn giáo cho cả cá nhân cũng như cộng đồng.


5. Mối liên hệ giữa tôn giáo và Quốc Gia cần phải đặt trên căn bản hỗ tương, tương kính và hợp tác.


6. Việc lập pháp để cổ võ các giá trị về tôn giáo riêng là những gì hợp lệ khi được thực hiện theo những nguyên tắc nhân quyền.


7. Theo luân thường đạo lý chúng ta có nhiệm vụ chứng tỏ trách nhiệm về tôn giáo của mình đối với các vấn đề ấy, nhất là trong việc giáo dục các thế hệ tương lai, bằng việc liên hệ với thành phần truyền thông tư tưởng cũng như bằng những đường lối giáo dục phổ thông.


IV- Cuộc bàn luận này chú trọng đến trách nhiệm của Quốc Gia trong việc bảo đảm các quyền lợi của các cộng đồng tôn giáo, đặc biệt chú trọng tới tình hình và nhu cầu của các cộng đồng Kitô hữu ở Thánh Địa, cũng như tới các nhu cầu của các cộng đồng Do Thái trên khắp thế giới, trong việc dễ dàng hóa hoàn toàn tính cách bình đẳng về xã hội và chính trị mà không làm hư hại tới căn tính riêng.
 

Làm tại Giêrusalem ngày 26 tháng 6 năm 2005 – 21 Sivan 5765
 

Phái Đoàn Đại Biểu Do Thái
Tôn Sư Trưởng

Tôn Sư Trưởng Shear Yashuv Cohen
Tôn Sư Trưởng Rasson Arussi
Tôn Sư Trưởng David Brodman
Tôn Sư Trưởng Yossef Azran
Tôn Sư Trưởng David Rosen
Ông Oded Wiener
Lãnh Sự Shmuel Hadas

Phái Đoàn Đại Biểu Công Giáo
ĐHY Jorge Mejía
ĐHY Georges Cottier, O.P.
ĐGM Giacinto-Boulos Marcuzzo
Tu Viện Trưởng Elias Chacour
Đức Ông Pier Francesco Fumagalli
Cha Norbert Hofmann, SDB
Khâm Sứ Tòa Thánh Pietro Sambi


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, theo Zenit ngày 12/7/2005


 

TOP

Do Thái cho biết ĐTC BĐXVI muốn viếng thăm nước này

Hôm Thứ Tư 6/7/2005, bộ trưởng thông tin Do Thái là Dalia Itzik, đã đến gặp ĐTC BĐXVI, và đã trao tặng ngài những con tem đánh dấu cuộc viếng thăm của ĐTC GPII ở Thánh Địa năm 2000. Con tem này in hình ĐTC GPII đứng tại Bức Tường Phía Tây, nơi ngài để lại bức thư xin tha thứ cho Kitô hữu những gì họ đã phạm đến người Do Thái trong suốt giòng lịch sử.

Theo vị lãnh sự của Do Thái ở Tòa Thánh là ông Obed Ben-Hur thì vị bộ trưởng thông tin này cũng trao cho ĐTC bức thư của Thủ Tướng Ariel Sharon ngỏ ý mời ĐTC viếng thăm Do Thái. Một đài phát thanh Do Thái đã phổ biến lời của vị tổng trưởng thông tin sau khi yết kiến ĐTC BĐXVI và cho biết ý định của vị giáo hoàng này đối với lời mời của Thủ Tướng Sharon như thế này:

“Tôi có một danh sách dài cần phải viếng thăm các quốc gia, thế nhưng ưu tiên nhất là Do Thái”.

Tâm Phương, theo Zenit 7/7/2005


TOP

 

Giáo Hội Công Giáo càng xích gần lại hơn với người “Anh Cả” Do Thái

 

Sau khi được ĐTC Biển Đức XVI, vào ngày Thứ Sáu 13/5/2005, châm chước thời hạn 5 năm theo giáo luật cho việc bắt đầu tiến trình phong thánh của ĐTC GPII, vị tổng đại diện Giáo Phận Rôma là ĐHY Camillo Ruini đã phổ biến trên trang chính của tờ L’Osservatore Romano hôm Chúa Nhật 29/4/2005 sắc chỉ về việc cần thu thập các chứng từ thánh đức của vị cố giáo hoàng cần thiết cho tiến trình mở hồ sơ tôn phong ngài, và tiến trình này sẽ được chính thức bắt đầu vào ngày Lễ Thánh Phêrô Phaolô 29/6/2005 tới đây, sau một nghi thức đặc biệt vào Giờ Kinh Phụng Vụ Tối ngày 28/6/2005.

 

Như chúng ta biết, Đức Gioan Phaolô II, theo một tổ chức của Do Thái ở Washington DC là Hiệp Hội Chống Nói Xấu Bôi Nhọ, là Vị Giáo Hoàng đã đẩy mạnh việc đối thoại liên tôn với Do Thái giáo, đến nỗi, đã được cho là việc ngài làm trong thời gian 26 năm rưỡi còn hơn cả gần 2 ngàn năm nữa. Vào ngày Thứ Ba 18/1/2005, một phái đoàn Do Thái gồm 160 vị lãnh đạo trên khắp thế giới đã qui tụ lại Rôma với mục đích ngỏ lời cám ơn ngài về những nỗ lực ngài thực hiện để hòa giải hai niềm tin giữa hai tôn giáo. Để tiếp tục đà tiến hết sức khả quan này, ĐTC Biển Đức XVI, vị GH người Đức, vị GH thuộc chủng tộc, vào Thế Chiến Thứ II, qua Đảng Đức Quốc Nazi, đã vô cùng dã man ra tay diệt chủng người Do Thái, cũng đã hết sức chú trọng đến việc đối thoại liên tôn với những người Do Thái, với “những cử chỉ cụ thể”, như ngài đã tỏ ra trong việc Đại Kết Kitô giáo vậy.

 

Trước hết, chúng ta cần phải lưu ý đặc biết tới một chi tiết rất quan trọng liên quan đến dân Do Thái, một chi tiết đã được tôi đề cập tới trong cuốn “Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Vị Giáo Hoàng của Hiệp Nhất Kitô Giáo và cho Một Tân Âu Châu”, vừa được phát hành 1 tháng trước đây, ở chương cuối cùng: “Giáo Hội – Dấu Chỉ Thời Đại Cánh Chung”, trang 183-185, đó là lời tiên báo của Thánh Tông Đồ Phaolô về dân tộc của ngài như thế này: “Dân Do Thái bị mù tối cho đến khi đủ số Dân Ngoại, thì bấy giờ tất cả dân Do Thái sẽ được cứu” (Rm 11:25-26).

 

Qua câu tiên báo này, lời tiên báo xuất phát từ Thánh Kinh, từ những gì được Thánh Thần linh ứng viết ra và được Giáo Hội công nhận là chân thật, buộc phải tin tưởng, thì không thể nào xẩy ra tận thế nếu dân Do Thái nói chung chưa trở lại, tức họ chưa tỏ ra nhận biết Chúa Kitô là Đấng Thiên Sai của họ, và nếu dân Do Thái càng ngày càng xích lại gần Giáo Hội Công Giáo là dấu chứng tỏ tận thế đã đến gần.

 

Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo cũng minh nhiên xác nhận sự kiện được mạc khải Thánh Kinh Tân Ước này khẳng định ở số 674 như sau: “Việc tái lâm của Chúa Kitô vinh hiển được trì hoãn ở hết mọi giây phút trong lịch sử, cho tới khi Người được ‘tất cả mọi người dân Yến Duyên’ nhận biết”.

 

Theo lịch sử thì dân Do Thái đã bị phân tán đi khắp nơi trên thế giới sau khi Thành Thánh Giêrusalem và Đền Thờ Giêrusalem của họ bị tướng Titô của đế quốc Rôma tàn phá vào năm 70, đúng như những gì đã được Chúa Giêsu tiên báo trước về số phận của biểu tượng tôn giáo Do Thái là thánh thánh và đền thánh Giêrusalem này, lời tiên báo được Phúc Âm Thánh Marcô (được viết cũng vào khoảng năm 70 hay trước đó) ghi nhận ở đoạn 13 câu 2 là: “Các con có thấy những dinh thự nguy nga ấy chăng? Tất cả sẽ bị hủy hoại, không còn một hòn đá nào trên hòn đá nào”. 

 

Thế rồi, có ngờ đâu, gần 20 thế kỷ sau, thành phần Dân Chúa Cựu Ước này, chính sau khi bị Đức Quốc Xã Nazi thời Thế Chiến Thứ II diệt chủng, với con số lên tới 6 triệu người tại Âu Châu, đã chính thức lập quốc ở ngay chính mảnh đất hứa của họ, một quốc gia Do Thái được tổ chức Liên Hiệp Quốc công nhận vào năm 1948, một quốc gia Do Thái ở giữa thành phần dân Palestine Hồi giáo Ả Rập là dân đã chiếm mảnh đất của họ, nhưng mãi cho tới nay, sau hơn nửa thế kỷ họ lập quốc (1948-2005), dân Palestine vẫn chưa thể nào trở thành một quốc gia như họ.

 

Với nỗ lực của vị Giáo Hoàng “đến từ một xứ sở xa xôi” là Balan, một xứ sở đã có trại diệt chúng Do Thái nổi tiếng là Auschwitz (nơi đã có hai vị Thánh là Têrêsa Benedicta Thánh Giá dòng Carmêlô được phong thánh ngày 11/10/1998, và Thánh Maximilianô Kolbe dòng Phanxicô được phong thánh ngày 17/10/1982), và là vị giáo hoàng đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo đã vào Hội Đường của họ ở Rôma ngày 13/4/1984, nước Do Thái đã chính thức thiết lập bang giao với Tòa Thánh Vatican vào ngày 30/12/1993.

Hy vọng, với nỗ lực của vị tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI, vị giáo hoàng đến từ Đức quốc, một quốc gia, qua chủ nghĩa Đức Quốc Xã Nazi thời Thế Chiến Thứ II, đã chủ trương bài Do Thái và dã man thực hiện mưu đồ tru diệt dân Do Thái, dân Do Thái sẽ xích lại gần với Giáo Hội Công Giáo hơn.

Cử chỉ đầu tiên được vị tân giáo hoàng này thể hiện đó là, trong tất cả mọi thành phần lãnh đạo Liên Tôn và Đại Kết, ngài chỉ đích thân viết mấy lời hồi âm hôm 20/4/2005 cho vị tôn sư trưởng Riccardo di Segni ở hội đường Do Thái Rôma về lời ông mừng chúc tân giáo hoàng, và đã chính thức ngỏ lời mời vị tôn sư trưởng ở Hội Đường Do Thái Rôma này đến tham dự Lễ Đăng Quang giáo triều của ngài vào Chúa Nhật 24/4/2005.

Để tiếp tục, ngài cũng đã viết thư cho vị nguyên tôn sư trưởng Hội Đường Do Thái ở Rôma là Elio Toaff, 90 tuổi, một sứ điệp được ĐHY Walter Kasper, chủ tịch Ủy Ban Liên Hệ Tôn Giáo với Do Thái giáo, đọc trong buổi mừng sinh nhật của vị tôn sư được ĐTC GPII nhắc đến trong di chúc thư của ngài này:

“Với tinh thần biết ơn Thiên Chúa, tôi xin cám ơn ngài về những liên hệ tốt đẹp với Tòa Thánh Vatican, nhất là trong giáo triều của vị cố tiền nhiệm tôi. Ngày sinh nhật của ngài là cơ hội để lập lại quyết tâm dấn thân tiếp tục đối thoại giữa chúng ta với niềm tin tưởng hướng đến tương lai. Tôi chúc tụng Cha hằng hữu về tặng ân Người đã ban cho ngài có được một đời sống trường thọ và tốt lành, một cuộc sống Thiên Chúa đã nhiều lần tỏ ra cho ngài thấy sự thiện hảo của Người”.

Chưa hết, trong cuộc tông du về Đức nhân dịp Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX tháng 8/2005, ngài đã nhận lời đến viếng thăm hội đường Do Thái cổ kính nhất ở Đức nữa.

Hôm Thứ Năm 9/6/2005, ĐTC Biển Đức XVI đã tiếp phái đoàn đại biểu của Tiểu Ban Do Thái Quốc Tế Đặc Trách Việc Tham Vấn Liên Tôn, và đã bày tỏ với phái đoàn này quyết tâm tiếp tục vấn đề liên hệ với dân Do Thái như sau:

“Trong những năm sau Công Đồng này, các vị tiền nhiệm của tôi là Đức Phaolô VI, nhất là Đức Gioan Phaolô II, đã thực hiện những bước tiến quan trọng trong việc cải thiện những liên hệ với nhân dân Do Thái. Tôi cũng có ý tiếp tục con đường này. Lịch sử của mối liên hệ giữa hai cộng đồng của chúng ta đã từng là những gì phức tạp và thường đau thương, nhưng tôi tin rằng ‘cái gia sản thiêng liêng’ hằng được ấp ủ bởi cả Kitô hữu lẫn người Do Thái tự bản chất là nguồn mạch khôn ngoan và hứng khởi có thể hướng chúng ta đến ‘một tương lai hy vọng’ theo dự án thần linh (x Jer 29:11)”.

 

Chúng ta hãy tiếp tục cầu nguyện cho dân Do Thái chóng nhận biết Chúa Kitô cũng là Đấng Thiên Sai của họ. Bài Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống www.tinmungsusong.org 250 ngày 26/6/2006

 

 TOP

 

ĐTC Biển Đức XVI với Tiểu Ban Do Thái Quốc Tế Đặc Trách Việc Tham Vấn Liên Tôn

 

Hôm Thứ Năm 9/6/2005, ĐTC Biển Đức XVI đã tiếp phái đoàn đại biểu của Tiểu Ban Do Thái Quốc Tế Đặc Trách Việc Tham Vấn Liên Tôn, và đã bày tỏ với phái đoàn này những cảm nhận liên tôn của ngài với dân Do Thái như sau:

 

Quí Vị Thượng Khách,

Quí Bạn thân mến,

 

Tôi hân hoan chào mừng phái đoàn đại biểu của Tiểu Ban Do Thái Quốc Tế Đặc Trách Việc Tham Vấn Liên Tôn đến thăm Vatican.

 

Cuộc gặp gỡ của chúng ta diễn ra trong năm nay là năm đánh dấu 40 năm Tuyên Ngôn “Nostra Aetate” của Công Đồng Chung Vaticanô II, một công đồng ban bố một giáo huấn làm nền tảng cho mối liên hệ giữa Giáo Hội với nhân dân Do Thái từ đó. Công Đồng này đã khẳng định niềm xác tín của Giáo Hội là, trong mầu nhiệm tuyển chọn của Thiên Chúa thì khởi nguyên cho đức tin của Giáo Hội đã được bắt nguồn từ Abraham, Moisen và các vị Tiên Tri. Bắt nguồn từ gia sản thiêng liêng này và giáo huấn của Phúc Âm, cần phải tiến đến chỗ hiểu biết nhau hơn và cảm mến nhau hơn giữa Kitô hữu và người Do Thái, cũng như lấy làm tiếc xót về tất cả mọi hình thức ghét bỏ, bách hại và bài Do Thái (“Nostra Aetate”, 4). Ngay vào lúc mở màn cho Giáo Triều của mình, tôi muốn cam đoan với quí vị là Giáo Hội vẫn mạnh mẽ quyết tâm, qua giáo lý của mình cũng như qua mọi khía cạnh sinh hoạt của mình, áp dụng giáo huấn quan trọng ấy.

 

Trong những năm sau Công Đồng này, các vị tiền nhiệm của tôi là Đức Phaolô VI, nhất là Đức Gioan Phaolô II, đã thực hiện những bước tiến quan trọng trong việc cải thiện những liên hệ với nhân dân Do Thái. Tôi cũng có ý tiếp tục con đường này. Lịch sử của mối liên hệ giữa hai cộng đồng của chúng ta đã từng là những gì phức tạp và thường đau thương, nhưng tôi tin rằng “cái gia sản thiêng liêng” được ấp ủ bởi cả Kitô hữu lẫn người Do Thái tự bản chất là nguồn mạch khôn ngoan và hứng khởi có thể hướng chúng ta đến “một tương lai hy vọng” theo dự án thần linh (x Jer 29:11). Đồng thời, việc nhớ lại quá khứ, đối với cả hai cộng đồng chúng ta, vẫn là một đòi hỏi về luân lý và là một nguồn thanh tẩy nơi những gì chúng ta nỗ lực nguyện cầu cùng hoạt động cho việc hòa giải, cho công lý, cho việc tôn trọng phẩm giá con người cũng như cho một nền hòa bình trên hết là tặng ân do Thiên Chúa ban. Tự chính bản chất của mình, đòi hỏi này cần phải bao gồm cả việc liên tục suy tưởng về các vấn đề lịch sử, luân lý và thần học được chất chứa nơi kinh nghiệm của biến cố Shoah.

 

Trong 35 năm qua, Tiểu Ban Do Thái Quốc Tế Đặc Trách Việc Tham Vấn Liên Tôn đã gặp gỡ các phái đoàn đại biểu của Ủy Ban của Tòa Thánh Đặc Trách Liên  Hệ Tôn Giáo với Người Do Thái 18 lần, kể cả cuộc họp gần đây nhất ở Buenos Aires vào Tháng 7/2004 về đề tài “Công Lý và Bác Ái”. Tôi xin dâng lời tạ ơn Chúa về sự tiến bộ đã đạt được trong những năm ấy, và tôi xin quí vị hãy kiên trì nơi công việc quan trọng này của quí vị, đặt những nền tảng cho việc tiếp tục đối thoại và xây dựng một thế giới hòa giải, một thế giới hòa hợp hơn bao giờ hết với ý muốn của Đấng Hóa Công. Tôi ưu ái xin Thiên Chúa ban phúc lành khôn ngoan, sức mạnh và an bình xuống trên tất cả quí vị cũng như trên những người thân yêu của quí vị.


 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, theo Zenit 9/6/2005

 

 

TOP

 

 

Cuộc Đối Thoại giữa Công Giáo và Do Thái Giáo: Nhận định của một vị hồng y Công Giáo gốc Do Thái

 

Trong cuộc phỏng vấn với mạng lưới điện toán toàn cầu Zenit, vị hồng y người Pháp là Jean-Marie Lustiger, vị TGM Paris hồi hưu và là người Do Thái từ bẩm sinh, đã nhấn mạnh đến những chiếm đạt quan trọng của Đức Gioan Phaolô II trong việc duy trì liên hệ với người Do Thái, cũng như đến tầm quan trọng của Do Thái giáo trong việc hiểu biết đức tin Kitô giáo của mình.

 

Vấn:     ĐHY đang ở Tây Ban Nha, ngoài những lý do khác, là để nói về tầm quan trọng của việc đối thoại giữa những người Do Thái và Kitô hữu. Tình trạng hiện nay ra sao nơi cuộc đối thoại giữa những người Do Thái và Kitô hữu, và đâu là sự tiến bộ đã đạt được, nhất là trong giáo triều của Đức Gioan Phaolô II?

 

Đáp:    Nỗ lực của ĐTC Gioan Phaolô II thật là vĩ đại. Công Đồng Chung Vaticanô II đã đánh dấu chủ trương của Giáo Hội liên quan đến các tôn giáo không phải Kitô giáo, nhất là đến những người Do Thái.

 

Sau đó, theo sắc lệnh “Nostra Aetate”, ĐGH Gioan Phaolô II đã theo chủ trương này một cách lạ lùng, vì ngài không muốn giải quyết vấn đề chỉ với tư cách là một nhà ngoại giao hay như là một con người hy vọng thiết lập vấn đề liên lạc và liên hệ theo thành tâm thiện chí, mà đồng thời như là một nhà thần bí, là một thần học gia, một con người của đức ái thật sự, một con người của đức tin, một người môn đệ của Chúa Kitô, và đặc biệt như là một Vị Giáo Hoàng, là Vị Thừa Kế Thánh Phêrô.

 

Ngài đã chứng tỏ rằng cuộc đối thoại Do Thái Kitô Giáo không phải thuần túy là một nỗ lực để thiết lập các thứ liên hệ tốt đẹp, mà còn bao hàm việc khám phá, nơi việc hiện hữu của nhân dân Do Thái, khía cạnh nồng cốt của Mạc Khải, vì nó là một vấn đề của mối liên minh do Thiên Chúa thiết lập với dân của Ngài, mà nếu không có mối liên minh này, mầu nhiệm Chúa Kitô, Đấng chúng ta tin tưởng và là Đấng đã thiết lập Giáo Hội của Người,  sẽ mất đi tất cả tính chất nhất trí của mình.

Vị Giáo Hoàng này đã nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta là ai bằng việc làm cho chúng ta hiểu được người Do Thái là ai. Ngài đã dạy chúng ta hiểu rằng nếu chúng ta yêu mến Chúa Kitô và theo Người, chúng ta không thể coi thường dân của Người cũng như ân sủng Người đã ban cho họ.

 

Nỗ lực vĩ đại của Đức Gioan Phaolô II chẳng những đã đánh động tâm can Kitô hữu mà còn được cảm nhận bởi những người Do Thái khác nhau nhất, từ thành phần Do Thái chính thống nhất đến thành phần xa cách nhất với việc sống đạo của họ, thành phần bị tục hóa nhất. Tất cả họ đều hiểu rằng một con người trung thành của Thiên Chúa hiện hữu, vị mà họ có thể tin tưởng.

 

Tôi nghĩ rằng ngày nay, sau những thế kỷ bị tàn sát và chết chóc, những thế kỷ chưa thể nào quên đi được, họ thực sự tin tưởng vào con người của vị Giáo Hoàng đại diện Giáo Hội này.


Vấn:     Tầm mức quan trọng của cuộc đối thoại này nói chung như thế nào theo quan điểm của ĐHY, căn cứ vào kiến thức của ĐHY về cả hai thế giới cũng như căn cứ vào kinh nghiệm của ĐHY về cuộc đối thoại này nơi đời sống tư riêng của ĐHY?

 

Đáp:    Nó thực sự là một cuộc mạo hiểm thiêng liêng, vì tính cách đa dạng ngoại thường của những trào lưu tư tưởng Do Thái dẫn chúng ta tới đủ mọi thứ khía cạnh khác nhau nơi niềm tin của chúng ta cũng như nơi việc sống đạo, và chúng ta mới chỉ ở vào khởi điểm của cuộc đối thoại này mà thôi!

 

Chúng ta đã đạt tới chỗ cuộc đối thoại này có thể bắt đầu tồn tại một cách vững chắc, vì đã có được lòng tin tưởng, hay nói cho chính xác hơn, đã được tái thiết. Song chúng ta không nghĩ được là cuộc đối thoại này sẽ dẫn chúng ta đi tới đâu.

 

Nó không phải là vấn đề của việc người Do Thái trở thành Kitô hữu hay ngược lại; nó về những gì họ cùng có chung với nhau, chẳng những như là đối tượng của đức tin mà còn liên quan tới thái độ và tác phong nữa. Nó có thể dẫn tới chỗ làm sáng tỏ những gì khác nhau giữa đôi bên.

 

Chẳng hạn, Chúa Giêsu rất nhấn mạnh rằng ai là kẻ mến yêu Cha và Chúa Kitô thì phải tuân giữ các lệnh truyền của Người, vì kẻ nào không làm theo ý muốn của Cha là kẻ không thực sự yêu mến Ngài, mà chúng ta cần phải vâng theo các lệnh truyền ấy. Đó là những gì được Thánh Âu Quốc Tinh nói: “Hãy yêu rồi muốn làm gì thì làm”, một câu tóm tắt về thần nhiệm. Thế nhưng, Thánh Gioan Thánh Giá nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta không yêu mến nếu chúng ta không thực hành các giới luật.

 

Kitô hữu có khuynh hướng quên sót nhu cầu tuân giữ các lệnh truyền là một tác động của yêu thương, là chính cuộc thử thách của yêu thương, và thấy hiện nay những người Do Thái thực hành ra sao các lệnh truyền theo đường lối của họ, một cách chi tiết, vì chúng là các lệnh truyền của Thiên Chúa, việc thực hành của họ làm cho chúng ta suy nghĩ. Khi Chúa Giêsu nói rằng Người giữ các lệnh truyền là Người xin chúng ta hãy tuân giữ chúng như Người tuân giữ. Đó chỉ là một thí dụ điển hình mà thôi.
 
Vấn:     Tại sao ĐHY nói rằng cuộc đối thoại này đặc biệt quan trọng đối với Kitô hữu?

 

Đáp:    Tôi nghĩ rằng cuộc đối thoại này dẫn Kitô hữu chúng ta tới tính cách nguyên tuyền và chân thật của đức tin Kitô giáo.

 

Hãy tưởng tượng nó như là một con tầu và hãy tưởng tượng một cái neo. Nếu chúng ta không gắn bó với cái neo, chúng ta sẽ bị trôi dạt và lạc mất. Thế nhưng chúng ta không bị lạc mất nếu chúng ta nối kết với cái neo, một cái neo không phải là con tầu, nhưng là những gì cần thiết cho việc giữ được cân bằng của nó, và tình trạng căng thẳng gây ra bởi sức kháng đối của nó giúp chúng ta nắm vững lấy mình.

 

Thật là lạ lùng khi thấy rằng trước cuộc ‘trôi dạt’ cả thể này của nền văn minh tân tiến, hiện tại, hiện đại, một nền văn minh được Công Đồng Chung Vaticanô II muốn đáp ứng mạnh mẽ, thì chủ trương về đạo lý, luân lý và nhân loại học đối với thân phận con người, của thành phần Do Thái tin tưởng – trung thành với truyền thống đạo giáo của dân Do Thái – cũng như của Giáo Hội Công giáo lại có nhiều điểm tương đồng.

 

Nó như thể chúng ta thấy mình gần gũi nhau trước một thứ ánh sáng chung chúng ta đã được nhận lãnh, và điều này không có gì là lạ lùng, vì theo giáo huấn của Chúa Giêsu, khi Người được hỏi về những gì ngày nay chúng ta gọi là các vấn đề về nhân loại học – vấn đề về mối liên hệ của con người nam nữ, với tiền bạc, với thế giới, với thực tại, với tha nhân, với người nghèo – bao giờ Người cũng qui chiếu về Sách Khởi Nguyên.

 

Nếu chúng ta lắng nghe Giáo Hội, nghe Đức Gioan Phaolô II, chúng ta thấy rằng bao giờ vấn đề cũng được qui chiếu về “thuở ban đầu” khi nói tới mối liên hệ giữa người nam và người nữ, con người là hình ảnh Thiên Chúa.

 

Người Do Thái cũng có những qui chiếu thánh kinh và nhân loại học tương tự về thân phận con người, bao gồm cả niềm tin tưởng vào ơn cứu chuộc, mặc dù chúng ta không kín múc lấy Đấng Cứu Chuộc cùng một cách thức. Chúng ta chủ trương và tin tưởng rằng Thiên Chúa đã sai Con của Ngài, Vị là Đấng Thiên Sai. Dân Do Thái vẫn đợi chờ Đấng Thiên Sai đến, nhưng tin tưởng vào sự tha thứ tội lỗi được Thiên Chúa hứa, cũng như vào ân sủng và sự phục sinh của kẻ chết cùng sự sống đời đời. Họ hy vọng Đấng Thiên Sai sẽ đến trong vinh quang, và chúng ta cũng đang đợi chờ Chúa Kitô đến trong vinh quang.

 

Tóm lại, chúng ta chia sẻ cùng một kinh nghiệm thánh kinh liên quan tới cấu trúc của đức tin cũng như cấu trúc của nhân loại học, một cấu trúc nhân loại học chúng ta cảm thấy sát cánh bên nhau, cho dù chúng ta có tách biệt bởi những yếu tố về đức tin của chúng ta đi nữa.

Vấn:     Làm thế nào mà vấn đề chủ nghĩa trần thế và việc tục hóa – theo quan diểm Do Thái và Kitô giáo – lại quá cắm rễ sâu xa vào Nước Pháp và đang xâm nhập một cách mãnh liện ở Tây Ban Nha như vậy?

 

Đáp:    Nó là một vấn đề rất khó khăn, vì chúng ta trải qua một tiến trình đột biến rất lớn lao. Khó mà phân tách được những yếu tố của một vấn đề khi người ta không nắm vững được những yếu tố ấy.

 

Có ít là hai yếu tố quyện lấy nhau.

 

Yếu tố thứ nhất đó là một thứ thay đổi sâu xa nơi toàn thể nền văn hóa. Tôi đang nói đến văn hóa phổ thông, ngược với văn hóa của thành phần trí thức, thành phần thế giá, thành phần được cơ hội gặt hái được ích lợi từ những việc học hỏi chuyên môn hơn. Ngày nay văn hóa phổ thông cũng bao gồm cả các bác sĩ, kỹ sư, luật sư, nhà băng, lao công – tất cả đều có chung một văn hóa, chung một truyền hình.

 

Ngày nay thứ văn hóa này thực sự đã mặc lấy một hình thức mới, thay thế việc suy nghĩ đắn đo của lý trí bằng những hình ảnh và việc thâu nhập của các giác quan. Tôi nghĩ rằng cái tiến hóa này của kỹ thuật và của văn minh đã dẫn đến vấn đề hủy hoại lý trí đối với hàng loại thành phần dân chúng; nó đã thay thế lý trí bằng tình cảm và ý kiến, một tham vọng lớn lao và là niềm hy vọng vào lúc khởi đầu của kỷ nguyên tân tiến này.

 

Sau thảm kịch của nền văn minh tiến đến chỗ chủ nghĩa độc đoán là chủ nghĩa tự bản chất phủ nhận lý trí và niềm hy vọng Kitô giáo, đã có một sự đột biến về văn minh; đó là thời điểm chúng ta đang sống đây. Hiện nay đang có một loạt những loại thần học Kitô giáo, không nhiều thì ít ăn khớp với nhau, những loại thần học đã hiểu được cái thay đổi được chúng ta nói tới từ đầu.

 

Tôi không biết là có thể thực hiện việc so sánh giữa tính cách thế tục và nạn bài Do Thái hay chăng, mặc dù có những liên hệ nơi hai điều này, thế nhưng hiện đang có một cuộc đối chọi thiêng liêng, một cuộc đối chọi về sự thật, trong việc khai tâm - vì thiện ích của con người trong tình trạng đổi thay về văn minh đây – lý trí và tự do của họ, cũng như về ánh sáng của một Phúc Âm làm sáng tỏ những gì chúng ta là những con người thụ tạo.

 

Chúng ta hãy đáp ứng Thiên Chúa và lãnh nhận lấy phẩm giá của mình được Ngài ban cho. Thật vậy, chúng ta không biết được xã hội này đi về đâu, nhưng chúng ta sẽ thực hiện những gì có thể để làm cho nó nên tốt nhất chứ không phải tệ nhất.
 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, theo Zenit 7/6/2005

 

 

TOP

 

 

ĐTC Biển Đức XVI gửi thiệp mừng sinh nhật nguyên Tôn Sư Trưởng Do Thái Hội Đường Rôma

 

Để tỏ ra những “cử chỉ cụ thể”, như trong nỗ lực đại kết Kitô giáo, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI cũng muốn có những thái độ thân thiện với người Do Thái. Hôm 20/4/2005, tức  ngay sau ngày được bầu làm giáo hoàng, ngài đã đích thân viết thư cám ơn vị đương kim Tôn Sư Trưởng Riccardo di Segni của Hội Đường Do Thái Rôma, một vị duy nhất trong thành phần đại diện liên tôn trên thế giới, và mời vị tôn sư này tham dự lễ đăng quang của ngài 24/4/2005.


Để tiếp tục, ngài đã viết thư cho vị nguyên tôn sư trưởng Hội Đường Do Thái ở Rôma là Elio Toaff, 90 tuổi, một sứ điệp được đọc bởi ĐHY Walter Kasper, chủ tịch Ủy Ban Liên Hệ Tôn Giáo với Do Thái giáo, trong buổi mừng sinh nhật của vị tôn sư này. Tham dự cuộc mừng sinh nhật này còn có các vị khác của tòa thánh là ĐHY Camillo Ruini, tổng đại diện Giáo Phận Rôma; ĐHY Roger Etchegaray, chủ tịch hồi hưu Hội Đồng Tòa Thánh Công Lý Và Hòa Bình; và ĐTGM Stanislaw Dziwisz, nguyên bí thư riêng của ĐTC GPII.


Vị nguyên tôn sư trưởng Hội Đường Do Thái ở Rôma này là vị đã tiếp đón ĐTC GPII, vị Giáo Hoàng đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội, đã đến viếng thăm Hội Đường Do Thái ngày 13 tháng 4 năm 1984. Vị tôn sư này cũng là một trong rất hiếm người đã được ĐTC GPII nhắc đến tên trong Bức Di Chúc Thư của ngài. Trong thiệp mừng sinh nhật của mình, ĐTC Biển Đức XVI bày tỏ lòng ước muốn tiếp tục đối thoại liên tôn với Do Thái giáo, theo gương vị tiền nhiệm của mình là Đức GPII. Ngài viết:


“Với tinh thần biết ơn Thiên Chúa, tôi xin cám ơn ngài về những liên hệ tốt đẹp với Tòa Thánh Vatican, nhất là trong giáo triều của vị cố tiền nhiệm tôi.


“Ngày sinh nhật của ngài là cơ hội để lập lại quyết tâm dấn thân tiếp tục đối thoại giữa chúng ta với niềm tin tưởng hướng đến tương lai.


“Tôi chúc tụng Cha hằng hữu về tặng ân Người đã ban cho ngài có được một đời sống trường thọ và tốt lành, một cuộc sống Thiên Chúa đã nhiều lần tỏ ra cho ngài thấy sự thiện hảo của Người”.


Trước “cử chỉ cụ thể” về liên tôn này của Đức Biển Đức XVI, vị tôn sư Toaff cho biết cảm nhận của mình rằng: “Tôi thật sự là không ngờ nổi”.

 

TOP

 

Đại diện Tòa Thánh tham dự việc khai trương tân Bảo Tàng Viện Lịch Sử Về Cuộc Thảm Sát Do Thái

ĐHY Jean-Louis Tauran, vị thủ thư viện của Tòa Thánh, đã đến Giêrusalem vào ngày 15/3/2005 để đại diện ĐTC tham dự cuộc khai trương tân Bảo Tàng Viện Lịch Sử Về Cuộc Thảm Sát Do Thái ở Yad Vashem Mausoleum. Ngài đã ngỏ lời hôm 16/3 trong cuộc khai trương này, những lời được Tòa Thánh phổ biến hôm 17/3 với những ý tưởng chính yếu tiêu biểu như sau:

Ngài nói với cử tọa về “việc gần gũi thiêng liêng của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng như sự liên kết của Giáo Hội Công giáo”. ĐTC GPII đã viếng thăm Yad Vashem hôm 23/3/2000 trong chuyến hành hương Thánh Địa của ngài. Đó là một đài tưởng niệm nạn nhân Bị Thảm Sát và chứa đựng một số tro cốt của các nạn nhân thuộc các trại tập trung khác nhau.

“Dinh thự chúng ta vừa khánh thành, đối với toàn thế giới, là một cảnh giác, một chứng từ và là một lời kêu gọi. Trong việc nhìn nhận nỗi đau khổ muôn vàn của người Do Thái, chúng ta đối diện với trách nhiệm cần phải tỉnh táo, với nhu cầu cần phải loại trừ thái độ dửng dưng lãnh đạm cũng như với cái trống rỗng kinh hoàng của một thế giới phi thần linh”.

Trích lại sứ điệp của ĐTC GPII nhân dịp 60 năm kỷ niệm việc giải tỏa trại tập trung Auschwitz-Birkenau, vị hồng y này cho biết “Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II một lần nữa lập lại vào buổi sáng hôm nay cho tất cả những ai muốn lắng nghe là khi chúng ta nhớ đến ‘tội ác ghê rợn phạm đến nước Do Thái’ là cuộc Thảm Sát, chúng ta làm như thế bởi vì ‘những biến cố kinh khủng này, đối với những con người nam nữ hiện đại, là một lời kêu gọi ý thức trách nhiệm để xây dựng lịch sử của chúng ta’.

“Giáo Hội Công giáo, khi tôn trọng cái đặc thù của Do Thái giáo và liên kết với gia sản của Do Thái giáo trong đức tin, dạy rằng không có vấn đề hay lý do nào để hận ghét người Do Thái cả. Điều ấy sẽ là một tội phạm đến Thiên Chúa và nhân loại”.

 

 

TOP

 

Phái đoàn Tôn sư Do Thái khắp Thế Giới về Vatiacan để cảm tạ ĐTC GPII

Vào ngày Thứ Ba 18/1/2005, ĐTC GPII tiếp phái đoàn Do Thái gồm 160 vị lãnh đạo, tôn sư cùng ca trưởng, những người đến để ngỏ lời cám ơn ngài về những nỗ lực ngài thực hiện để hòa giải hai niềm tin giữa hai tôn giáo. Sở dĩ có cuộc triều kiến này là để mừng kỷ niệm 40 năm Tuyên Ngôn “Nostra Aetate” về việc Giáo Hội Công Giáo với Tôn Giáo Ngoài Kitô Giáo được Công Đồng Chung Vaticanô II công bố ngày 28/10/1965.

Phái đoàn Do Thái này gồm có những nhân vật đặc biệt như Obed Ben-Hur, lãnh sự Do Thái ở Tòa Thánh; Amire Ofek, lãnh sự Do Thái về truyền thông ở Nữu Ước; Tôn sư Adam Mintz, chủ tịch Hội Đồng Chư Tôn Sư Ở Nữu Ước; Shmuel Rene Sirot, cựu tôn sư trưởng ở Âu Châu và Pháp quốc; David Lincoln, tôn sư trưởng Hội Đường ở Park Avenue Nữu Ước; Shlomo Riskin, tôn sư trưởng ở Efrat Giêrusalem; và Tôn sư Joseph Arbid ở Đại Hội Đường Rôma. Ngoài ra còn có 12 ca trưởng Do Thái, thành phần đã có mặt trong buổi hòa nhạc ở Đại Hội Đường Rôma từ hôm trước để trình diễn cho phái đoàn đại biểu và đại diện của Vatican cũng như cộng đồng Do Thái ở Rôma.

Theo bản công bố của Tổ Chức Mở Đường là cơ quan xin được có cuộc triều kiến này thì vị chủ tịch sáng lập của tổ chức là Gary Krupp nói:

“Sứ vụ Mở Đường của chúng tôi đó là việc mang những con người thiện tâm lại với nhau, bất kể tôn giáo của họ, cũng như việc khéo léo phá đổ những bức tường cản trở vấn đề gặp gỡ ấy.

“Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã từng làm điều này cả mấy thập niên. Thật là xứng hợp để chúng tôi khiêm tốn ngỏ lời cám ơn ngài về tất cả những gì ngài đã thực hiện cho nhân dân Do Thái của Trái Đất, nhờ đó, mở đường tiến đền hòa bình đích thực trên Mặt Đất”.

Tôn sư Jack Bemporad, giám đốc Trung Tâm Tìm Hiểu Liên Tôn cũng đã lên tiếng như sau:

“Đây là lần đầu tiên trong lịch sử các vị tôn sư đại diện cho tất cả mọi ngành Do Thái giáo từ khắp nơi trên thế giới cùng nhau để chung tiếng tạ ơn Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng như Giáo Hội Công giáo về tất cả những gì họ đã thực hiện để xây dựng những chiếc cầu nối cảm thông và tương kính giữa các người Do Thái và Công giáo.

“Trong lịch sử thế giới, 40 năm qua được thấy như là thời gian cách mạng nhất và đáng kể nhất đối với việc tiến bộ nơi mối liên hệ giữa Do Thái và Công Giáo. Từ Công Đồng Chung Vaticanô II và với sự lãnh đạo của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Giáo Hội Công giáo đã thực hiện những bước tiến rất xa trong việc xây dựng những mối liên kết mới với nhân dân Do Thái dựa trên hỗ tương tính và lòng cảm mến chân thực.

“Không có một vị giáo hoàng nào đã từng thực hiện nhiều hay để ý nhiều đến vấn đề thiết lập một mối liên hệ huynh đệ giữa những người Công giáo và Do Thái như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ngài là vị Giáo hoàng đầu tiên đến viếng thăm hội đường Do Thái ở Rôma. Ngài đã ban hành văn kiện “Chúng Ta Tưởng Niệm” về Cuộc Tàn Sát Người Do Thái.

“Ngài đã thiết lập những liên hệ ngoại giao trọn vẹn với quốc gia Do Thái. Và ngài đã xin người Do Thái thứ tha cho tất cả những hành động quá khứ chống Do Thái giáo của con cái nam nữ thuộc Giáo Hội Công giáo, trong cuộc ngài hành hương đến Do Thái trong năm 2001. Đối với tôi, đó thực là một cuộc cách mạng. Tôi tin rằng Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II sẽ được coi là một đại chuyên viên chữa lành mối liên hệ giữa người Công giáo và Do Thái.

“Những nỗ lực của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và Giáo Hội Công giáo vươn đến nhân dân Do Thái là những gì hết sức đáng kể, vì những nguồn quan trọng nhất liên quan đến vấn đề bài Do Thái chủng và chống Do Thái giáo suốt giòng lịch sử vẫn là các giáo huấn của Công giáo.

“Bằng việc từ khắp nơi trên thế giới về Vatican, thành phần tôn sư chúng tôi muốn nói rằng ‘xin cám ơn ngài’”.

 

Đại Diện Phái Đoàn Do Thái ngỏ lời cảm tạ ĐTC GPII về giáo triều hòa giải của ngài

ĐTC GPII, trong buổi tiếp phái đoàn Do Thái 160 vị tôn sư và đại diện khắp thế giới này, đã nhắc nhở rằng:

“Năm nay chúng ta sẽ cử hành đệ tứ thập chu niên Tuyên Ngôn ‘Nostra aetate’ của Công Đồng Chung Vaticanô II, một tuyên ngôn đã đóng góp quan trọng vào việc củng cố vấn đề đối thoại Do Thái và Công Giáo. Chớ gì đây là dịp để lập lại việc quyết tâm gia tăng hiểu biết và cộng tác việc xây dựng một thế giới được đặt nền tảng vững chắc hơn trên sự tôn trọng hình ảnh thần linh nơi hết mọi con người”.

Sau đây là lời ngỏ cùng ĐTC của ông Gary Krupp, vị chủ tịch kiêm sáng lập Tổ Chức Mở Đường, thay mặt phái đoàn tôn sư và đại diện Do Thái:

“Thưa Ngài Giáo Hoàng:

“Chúng tôi là nhóm người đại diện một phần tiêu biểu cho Do Thái giáo, thành phần về đây mang theo các phúc lộc của cả hằng triệu người thuộc đức tin chúng tôi để cảm tạ ngài.

“Vừa lên ngai tòa Thánh Phêrô, ngài đã thực hiện chuyến đi tới Auschwitz để tôn kính các nạn nhân của Cuộc Tàn Sát. Ngài đã bênh vực nhân dân Do Thái trong mọi hoàn cảnh, như là một vị linh mục ở Balan cũng như trong giáo triều 26 năm của mình. Ngài đã lên án việc bài Do Thái Chủng như là một “tội phạm đến Thiên Chúa và nhân loại”. Chiều hướng hòa giải này đã là nền tảng cho vai trò làm giáo hoàng của ngài cũng như cho mối liên hệ của vai trò này với nhân dân Do Thái.

“Vào ngày 13/4/1986, ngài là vị Giáo Hoàng đầu tiên kể từ Thánh Phêrô đã đến viếng thăm một hội đường Do Thái. Trong dịp trình ủy nhiệm thư cho ngài vào tháng 6/2003, Vị Lãnh Sự Do Thái là Obed Ben-Hur đã bày tỏ cử chỉ hết sức tốt đẹp này khi nói: ‘Vào ngày hôm đó ngài đã gánh trên vai mình một Giáo Hội 2 ngăn năm, từ hồi hội đường Capernaum ở thế kỷ thứ nhất, nơi Chúa Giêsu thường nguyện cầu, nhờ đó ngài đã khép lại một giai đoạn lịch sử’.

“Ngài đã thôi thúc Tòa Thánh hãy bắt đầu tiến trình bình thường hóa liên hệ ngoại giao với Quốc Gia Do Thái vào năm 1992, với quê hương thánh kinh thân yêu của nhân dân Do Thái, nói lên việc nhìn nhận sự hiện hữu của Eretz Ysrael hôm qua, hôm nay và vĩnh viễn.

“Việc ngài hành hương đến Do Thái và Thánh Địa vào ngày 21/3/2000 đã là những gì bất tử trong tâm trí của nhân dân Do Thái khắp thế giới, khi ngài đặt lời nguyện cầu xin tha thứ của mình vào Bức Tường Phía Tây.

“Những lời nói long trọng của ngài trong cuộc ngài viếng thăm Sảnh Đường Tưởng Nhớ Yad Vashem đã khiến chúng tôi hết sức cảm động và tác động tâm can của chúng tôi.

“Không thể nào diễn tả hết cái âm cảm được những việc làm tiêu biểu này vang động nơi người Do Thái khắp thế giới. Thưa Đức Giáo Hoàng, những hành động hòa giải này thực sự là mấu chốt cho giáo triều của ngài, như ngài cũng đã cố gắng để sửa chữa lại những rạn nứt cổ thời nơi tất cả mọi tôn giáo trên thế giới.

“Huấn Giáo Do Thái về Các Vị Giáo Phụ đã tuyệt vời diễn tả thành lời mối tình yêu thương ngài đã bày tỏ với toàn thể nhân loại. Tôn sư Hillel nói: ‘Hãy là một trong thành phần môn đệ của Aaron, bằng cách làm một con người yêu chuộng hòa bình, một con người theo đuổi hòa bình, một con người yêu thương toàn thể nhân loại và mang nhân loại gần lại với tôn giáo’.

“Vì những hành động yêu thương của ngài đối với toàn thể nhân loại cũng như việc ngài hăng say theo đuổi hòa bình và hòa giải tất cả mọi niềm tin, Đức Giáo Hoàng thực sự là hiện thân của những lý tưởng và tinh thần của Aaron, vị thượng tế của dân Do Thái ngày xưa.

“Để kết thúc, ngài đã nói đến chúng tôi là con cái của Abraham, như những người anh thân yêu của ngài. Niềm ước mong đầy nguyện cầu của tôi là Do Thái, Kitô Giáo và Hồi Giáo, ba con cái của Abraham, sớm thắt kết lại với nhau nên một lý tưởng và tiếng nói chung để bênh vực tất nhân loại chống lại thành phần làm ô danh Chúa Trời bằng những hành động bạo lực nhân danh Ngài.

“Thưa Ngài Giáo Hoàng, xin cám ơn Ngài, tạ ơn Ngài, tri ân Ngài. Bình an, Bình an, Bình an”.

Để kết thúc, ba vị tôn sư đã chúc lành cho ĐTC và tất cả đã xướng lên 1 bài hát.

TOP