VỚI HỒI GIÁO 2006

 

 

Tình Trạng Tự Do Tôn Giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ

Thực trạng về Công giáo tại Thổ nhỉ kỳ như thế nào?

"ĐGH đã thực hiện một bước nhảy vọt về chất lượng trong sự đối thoại giữa Kitô giáo và Hồi giáo"

"ĐGH cảm thấy cần phải có sự đối thoại giữa Kitô giáo và Hồi giáo ở mức độ văn hoá và tôn giáo"

Thách đố của những người Hồi giáo theo đạo Kitô giáo

Thiên Chúa được coi như Lý Trí và Allah được coi như Ý Muốn

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI gặp Triết Gia Hồi Giáo Mustapha Cherif người Algeria

Tòa Thánh gửi Sứ Điệp cho Tín Đồ Hồi Giáo nhân dịp Kết Thức Mùa Chay Tịnh Ramadan hằng năm

 

 

 

 

Tình Trạng Tự Do Tôn Giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ

 

Phỏng vấn Giám đốc Học viện Becket R.M.T. Schmid

 

Roma, 26.11.2006 - Các giáo hội Kitô giáo tại Thổ nhĩ kỳ muốn có thêm tự do tôn giáo, trong khi họ nhận ra rằng chính sách phi tôn giáo của quốc gia có thể cản lại thành phần Hồi giáo cực đoan, đó là ý kiến của một người quan sát. Bà Raphaela M.T. Schmid, giám đốc Học viện Becket về Tự do tôn giáo tại Roma, đã trình bày nhận xét này trong cuộc phỏng vấn. Schmid mới trở lại từ Istanbul, nơi bà đã trao đổi với các quan chức tôn giáo và cán bộ chính phủ sẽ họp với ĐGH Benedictô trong tuần này.

 

Hỏi: Tình trạng tôn giáo tại Thổ nhĩ kỳ như thế nào?

 

Schmid: Thổ nhĩ kỳ thực ra không phải là một quốc gia Hồi giáo, mặc dầu trên 99% dân số là Hồi giáo và lượng người đến giáo đường đang gia tăng. Cho đến những năm 1920 thì nước này là một quốc gia dưới chế độ thần quyền theo luật Shariah. Ataturk đã nhận ra đây là một sự cản trở đối với sự nghiệp phát triển xã hội và kinh tế. Ông đã tái thiết lập Thổ nhĩ kỳ thành một quốc gia phi tôn giáo và giúp cho người dân Thổ nhĩ kỳ chiếm được tiếng là "Người Hồi giáo có quy cách làm việc như người Tin Lành". Các chính sách cải cách bao gồm việc cấm chế độ đa thê, bình đẳng nam nữ, các trường công nhận học sinh cả con trai lẫn con gái, và cấm mặc các trang phục tôn giáo ở nơi công cộng

 

Các luật pháp của Ataturk đã được áp dụng một cách mà Thổ nhĩ kỳ đã rơi vào tình trạng có một tôn giáo quốc gia không chính thức, đó là một loại Hồi giáo Sunni ôn hòa. Chính phủ bổ nhiệm các 'imam - giáo trưởng', đồng thời kiểm soát những gì được rao giảng trong giáo đường và được dạy trong các trường học Koran.

 

Hỏi: Tại sao những người Hồi giáo tại Thổ nhĩ kỳ không chống đối hình thức kiểm soát này?

 

Schmid: Các cuộc thăm dò gần đây cho thấy đa số người dân tự xem mình chính yếu là người Thổ nhỉ kỳ và thứ yếu là Hồi giáo. Ataturk hoàn toàn được kính trọng như một vị anh hùng; Ký ức và di sản của ông được luật pháp bảo vệ. Tuy nhiên đàng sau hình ảnh về sự tự hào dân tộc, chủ nghĩa phi tôn giáo của Ataturk và bản sắc Hồi giáo tạo nên sự xung đột về sự trung thành.

 

Những người Thổ nhĩ kỳ muốn làm công dân tốt cũng có thể muốn mặc các mạng che mặt và cho con cái họ đi học trường Koran mà họ tự lựa chọn. Điều làm cho việc này thêm phức tạp là tự do tôn giáo có thể bị lạm dụng bởi những kẻ ủng hộ loại Hồi giáo cực đoan và chính trị hóa hơn cho đất nước này. Cho đến bây giờ thì quân đội là thành phần bảo về sự phi tôn giáo cho đất nước. Vấn đề là không biết điều này sẽ được duy trì trong tương lai.

 

Vì thế, chúng ta cần hiểu rằng các vấn đề không thể được giải quyết cách đơn giản qua sự giúp đỡ của các tòa án nhân quyền quốc tế.  Thái độ của Thổ nhĩ kỳ đối với tôn giáo trong lĩnh vực công chúng là điều được gắn liền với khái niệm hiện đại về bản sắc quốc gia Thổ nhĩ kỳ. Đây là một khái niệm phức tạp hơn những gì trong luật và truyền thống Hồi giáo, trong đó tính chất quốc gia và dân tộc được định nghĩa bởi tôn giáo.

 

Hỏi: Tình trạng của các giáo hội Kitô giáo tại Thổ nhĩ kỳ như thế nào?

 

Schmid: Các lãnh đạo Kitô giáo cho rằng không khó để sống tại Thổ nhĩ kỳ như những tín hữu Kitô giáo. Thổ nhĩ kỳ có tiếng là có truyền thống Hồi giáo dung hòa, việc này kéo dài từ thời Trung đại. Tuy nhiên, đáng chú ý là số người Kitô giao đang suy giảm. Ví dụ, đầu thế kỷ 20, một nữa số dân tại Istanbul là Kitô giáo. Bây giờ chỉ còn dưới 1%.

 

Khoảng 65.000 Kitô hữu người Armenia tại Thổ nhĩ kỳ là những người sống sót của biến cố diệt trừ chủng tộc các năm 1915-1916, là một đề tài cấm kỵ. Có khoảng 20.000 tín hữu Chính thống Syria và khoảng 20.000 người Công giáo.

 

Đa số các tín hữu Chính thống Hy lạp đã được đổi chác với người Hồi giáo Hy lạp đến Thổ nhĩ kỳ vào thập kỷ 1920. Thượng phụ Bartholomew I, đối với người dân Thổ nhĩ kỳ, là một vị tư tế ngoại bang đang điều hành một cộng đoàn địa phương bao gồm 3.000 tín hữu. Họ không quan tâm đến việc 300 triệu Kitô hữu trên thế giới công nhận thẩm quyền của ngài.

 

Trên thực tế, tất cả các giáo hội Kitô giáo đều được cho là ngoại bang và mối quan hệ với họ đa phần được đảm nhiệm bởi Bộ Ngoại giao, mặc dầu các thành viên tron giáo hội là công dân Thổ nhĩ kỳ và sự hiện diện của các tôn giáo này ở đây đi trước Thổ nhĩ kỳ, Đế quốc Ottoman và Hồi giáo vài thế kỷ.

 

Hỏi: Các vấn đề cụ thể mà người Kitô giáo đối diện tại Thổ nhĩ kỳ là gì?

 

Schmid: Người Kitô giáo có thể thờ phượng tự do, nhưng có sự khó khăn. Các hạn chế mà chính quyền áp đặt trên họ đã làm cho các trường học trở nên chật vật. Các chủng viện Kitô giáo đã bị đóng cửa từ thập kỷ 1970 và các cộng đoàn gặp sự khó khăn trong việc huấn luyện các lãnh đạo và giáo viên.

 

Có một hiệp ước bảo đảm vị trí pháp luật đối với các cộng đoàn tôn giáo ngoài Hồi giáo, nhưng không cụ thể, vì thế cách chính quyền giải nghĩa mang tính tùy tiện. Ví dụ, Giáo hội Công giáo không được luật pháp bảo vệ, vì thế không được sở hữu hay thừa kế tài sản, v.v.

 

Vì thế, các giáo hội Kitô giáo muốn có thêm tự do tôn giáo, nhưng họ rất ý thức rằng chính sách phi tôn giáo của chính quyền Thổ nhĩ kỳ cũng là một cản trở đối với thành phần Hồi giáo cực đoan.

 

Hỏi: Tầm quan trọng của chuyến thăm viếng Thổ nhĩ kỳ của ĐGH là gì?

 

Schmid: Đương nhiên đây không phải là vị giáo hoàng đầu tiên đến thăm nước này. Trong thời gian gần đây, cả hai vị giáo hoàng Phaolo VI và Gioan Phaolô II đã đến Thổ nhĩ kỳ.

 

Vị giáo hoàng mà người Thổ nhĩ kỳ thích nhất là Gioan XXIII, trước khi ngài được bầu chọn đã từng là khâm sứ tòa thánh tại Istanbul gần 10 năm. Ngài còn có một tên hiệu vui là "Vị giáo hoàng Thổ nhĩ kỳ". "Ngài thực sự biết chúng tôi", "Ngài thực sự hiểu chúng tôi", đó là những điều họ đã nói với chúng tôi, và lý do mà họ lập đi lập lại là: "bởi vì ngài mến chúng tôi".

 

ĐTC Benedictô ban đầu được lời mời từ Thượng phụ Bartholomew, nhưng do bài diễn văn tại Regensburg cuộc họp đại kết này bị việc ngài đến Thổ nhĩ kỳ như một quốc gia Hồi giáo làm lu mờ.

 

Cho đến bây giờ chỉ có hai sự kiện làm cho giới truyền thông Thổ nhĩ kỳ thực sự chú ý đến vị giáo hoàng này. Lần thứ nhất là khi ngài còn là ĐHY Ratzinger, ngài nhận định rằng việc Thổ nhĩ kỳ gia nhập Âu châu là điều "trái nghịch lịch sử"; sự kiện thứ hai là bài diễn văn tại Regensburg. Trong mỗi trường hợp, có những phần trích bị thổi phòng đưa đến tác dụng lấn át quan điểm thực tế mà ngài đã đưa ra.

 

Hỏi: Trên thực tế ĐGH đã nói gì về Thổ nhĩ kỳ và Âu châu?

 

Schmid: Trong một bài phỏng vấn với tạp chí Le Figaro năm 2004, ĐHY Ratzinger cân nhắc vấn đề Liên hiệp Âu châu và Thổ nhĩ kỳ từ quan điểm văn hóa. Ngài cho rằng sự kết nạp Thổ nhĩ kỳ vào Âu châu có thể làm cho sự phong phú và tính đặc biệt văn hóa bị suy giảm chỉ vì muốn đạt được lợi ích về kinh tế. Ngài đã gây nên nhiều làn sóng phẫn nộ tại Thổ nhĩ kỳ, nơi mà ký ức về bài phỏng vấn đó dường như vẫn cho rằng ĐHY Ratzinger cách nào đó không nhận xét Thổ nhĩ kỳ đáng được gia nhập.

 

Theo tôi thì trường hợp này nói lên một điều ngược lại: Ngài đã rất đứng đắn trong việc xem Thổ nhĩ kỳ như một văn hóa đặc biệt khi ngài đặt vấn đề nếu sự mất mát này là điều bổ ích cho Thổ nhĩ kỳ. Ngài đã bày tỏ rằng Thổ nhĩ kỳ nên là một nhịp cầu giữa Âu châu và Đông phương chính vì bản sắc riêng biệt của nó, có nguồn gốc trong Hồi giáo thay vì Kitô giáo.

 

Lối suy nghĩ này không hẳn là một tầm nhìn mang tính xung đột giữa hai nền văn minh. Tôi cho rằng đây là chủ đề tái diễn trong các bài viết của ĐHY Joseph Ratzinger: tôn giáo và văn hóa không thể tách rời. Đó là lý do tại sao ngài chủ trương rằng nên có những hình thức liên kết và hợp tác chặt chẽ, nhưng đồng thời không loại bỏ khái niệm văn hóa về Âu châu với nguồn gốc Kitô giáo.

 

Một điều trái ngược là tôi đã từng nghe quan điểm này được các nhà trí thức Thổ nhĩ kỳ và chức quyền Hồi giáo nêu lên, nhưng họ bắt đầu bằng việc cho rằng Thổ nhĩ kỳ nên gia nhập Liên hiệp Âu châu vì các lý do kinh tế, rồi sau đó thừa nhận Thổ nhĩ kỳ phải duy trì văn hóa với nguồn gốc Hồi giáo.

 

Hỏi: Bài diễn văn tại Regensburg liên quan đến tất cả những gì đang xảy ra như thế nào?

 

Schmid: Quan điểm của ĐGH là việc đối thoại giữa các tôn giáo chỉ có thể diễn ra khi chúng ta nhường chỗ cho đức tin lẫn lý luận. Ngài cảnh giác về hai thái cực: sự lý luận mà chối từ tôn giáo và tôn giáo mà chối từ lý luận.

 

Ngài muốn chứng minh rằng "việc Thiên Chúa hành động theo lý luận" đối với bất kể tôn giáo nào là một vấn đề có những hệ quả sâu xa. Để mọi người thấy rằng đây không phải một vấn đề mới ngài dẫn giải bằng một lời nói của vị hoàng đế từ thế kỷ thứ 14 hiện giờ có danh tiếng xấu là Paleologus, ông ta đã tố cáo sự sai lầm của Hồi giáo. Nhưng ĐGH cũng đã phân tích những trường hợp mà Kitô giáo đã đặt Thiên Chúa trên lý luận. Vì thế, tôi cho rằng ngài cố khởi xướng một sự trao đổi ở mức độ triết lý về tôn giáo.

 

Việc này đã diễn ra không tốt lúc đó, và cuộc họp giữa ĐGH với người có chức vị cao nhất trong Hồi giáo, là chủ tịch đảm trách các vấn đề tôn giáo, đã trở nên ngượng nghịu bởi vì ông là người đã phát biểu rất nhanh chóng và mạnh mẽ chống đối bài diễn văn tại Regensburg; tuy nhiên sau đó, ông đã thừa nhận chưa đọc qua bài diễn văn. Tuy nhiên vị Grand Mufti của Istanbul đã nhận xét về bối cảnh này như sau: Những gì khởi sự một cách tiêu cực vẫn có thể có một kết cuộc tốt đẹp.

 

Rev Lê Ngọc Đức Phúc, svd,  chuyể n dịch theo Zenit ngày 26/11/2006

 

 

TOP

 

Thực trạng về Công giáo tại Thổ nhỉ kỳ như thế nào?

 

Iskenderun, Thổ nhỉ kỳ, 24.11.2006 - Khất sĩ Martin Kmetec thuộc dòng Phanxicô 'Dung Hoà' đánh giá chuyến đi sắp tới của ĐGH Benedictô XVI đến Thổ nhỉ kỳ là một "cử chỉ can đảm".

 

Trong cuộc phỏng vấn với ZENIT, cha Kmetec, một nhà truyền giáo người Slovenia tại Thổ nhỉ kỳ, diễn tả về quốc gia mà ĐGH sẽ thăm viếng tuần tới và cho hay những người Công giáo ở đây đang chuẩn bị cho sự kiện này trong niềm hy vọng.

 

Hỏi: ĐGH sẽ đến thăm Toà thượng phụ đại kết ở Constantinople, ở một quốc gia mà đa số người dân là Hồi giáo, với một tỷ số rất khiêm tốn là Công giáo. Phải chăng chúng ta có thể mong chờ một lời mời để đối thoại?

 

Cha Kmetec: Đương nhiên, mặc dầu nội dung của các bài phát biểu của ĐGH chưa được phổ biến; chúng ta sẽ biết khi ngài trình bày chúng.

 

Tuy nhiên, chúng ta có thể chắc chắn răng -- và ĐGH đã lập đi lập lại nhiều lần -- lời mời đối thoại sẽ là điểm trội trong các cuộc trao đổi và thuyết trình của ngài. Trên hết là sự tăng cường trong việc đối thoại với Toà thượng phụ đại kết, mà nhìn từ góc độ nào đó không chỉ được Giáo hội Chính thống tại Thổ nhỉ kỳ quan tâm nhưng giáo hội Chính thống trên toàn thế giới.

 

Có thể thấy rằng trong các cuộc họp với chính quyền quốc gia, việc đối thoại liên tôn và liên văn hoá [và] đề tài nhân quyền cũng như tự do lương tâm sẽ là tâm điểm của các cuộc trao đổi. Đề tài đối thoại cũng sẽ được đề cập đến trong cuộc họp với các chính quyền tôn giáo Hồi giáo. Tuy nhiên, sẽ có những thành kiến mà theo tôi sẽ làm cho cuộc bàn luận này thêm khó khăn.

 

Tôi nhớ khi ĐHY Ratzinger được bầu chọn lên ngôi vị giáo hoàng, giới truyền thông đã bôi nhọ hình ảnh của ngài một cách ghê tởm, đặc biệt là giới báo chí thuộc hai luồng cực đoan: phe quốc gia và Hồi giáo.

 

Day đi day lại vấn đề Chiến tranh thế giới thứ 2, họ tố cáo ngài trước đây là người Nazi vì ngài đã từng tham gia vào tổ chức giới trẻ Nazi. Tuy nhiên, hơn bất cứ điều gì khác, lý do thực sự khiến cho họ phản đối ngài đã được buông ra sau lời tuyên bố của ngài khi còn là ĐHY về việc Thổ nhỉ kỳ gắn liền với Liên hiệp Âu châu là không thích hợp.

 

Việc một người của công chúng như ĐGH bày tỏ ý kiên riêng của mình để phản đối đơn xin gia nhập của Thổ nhỉ kỳ là một sự kiện không dễ dàng bỏ qua hay tha thứ. Thêm vào đó, sự việc Regensburg đã khích động thêm tinh thần của những người phản đối việc ĐGH đến Thổ nhỉ kỳ.

 

Các nhật báo đã đưa tin rằng thủ tướng Thổ nhỉ kỳ, là ông Tayyip Erdogan, sẽ không có trong nước trong thời gian ĐGH công du. Đồng thời ông Mehmet Aydin, là vị đảm trách các vấn đề tôn giáo của quốc gia cũng sẽ vắng mặt. Ông Abdullah Gul, bộ trưởng ngoại giao cũng sẽ không hiện diện.

 

Có lẽ đây là những dấu chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về hoàn cảnh mà chuyến công du này sẽ diễn ra, mặc dầu ĐGH Benedictô XVI thực ra cố đánh giá thấp tầm quan trọng của nó.

 

Phải chăng Tổng thống Tayyip Erdogan không muốn làm hại đến chính mình đối với cử tri? Có phải đây là điều nói lên lập trường của ông đối với Kitô giáo? Ký ức về cuộc thảm sát Chánh án Yucel Ozbilgin tháng năm vừa qua vẫn tồn tại, ông ta đã trúng đạn của một tên cực đoan ngay khi phiên toà đang diễn ra tại Toà án Hiến pháp. Động cơ cho hành động của kẻ giết người là: "Quyết định của toà thẩm phán đối với vấn đề mạng che của người Hồi giáo".

 

Sau đó, ông Tayyip Erdogan đã không tham dự đám tang của vị chánh án, cùng lúc đó hàng ngàn người đã bày tỏ sự phẩn nộ đối với tội ác ghê gớm này.

 

Phải chăng chúng ta sẽ chứng kiến một phản ứng và lập trường chính trị tương tự? Giáo sư Ali Bardakoglu cho hay Bộ trưởng đảm trách các Vấn đề tôn giáo sẽ trao đổi với ĐGH về những gì liên quan đến tôn giáo, chứ không phải chính trị, bởi vì họ công nhận ngài là một lãnh đạo tôn giáo. Tuy nhiên, cuộc họp này sẽ không thể nào xoá đi tình trạng rắc rối do thái độ chính trị tiêu cực trong quá khứ.

 

Thêm vào đó, chúng ta không thể quên đi thái độ hung hăng của những người dân đã gần đây tổ chức các cuộc biểu tình tại thành phố Istanbul và Ankara, việc ngăn cản đối với kế hoạch của hảng hàng không Thổ nhỉ kỳ, việc nổ súng bên ngoài lãnh sứ quán Ý ở Istanbul, và các sự cố lai rai tương tự khác, mà theo tôi, mang một thông điệp gián tiếp đối với chuyến công du của ĐGH. Đó là, ngài sẽ không được hoan nghênh tại Thổ nhỉ kỳ và có lẽ, họ muốn ngài thay đổi ý muốn đến thăm viếng nước này.

 

[Chuyến đi] của ngài là một dấu chỉ can đảm, và chúng ta cầu xin để ngài có thể mang đến cho quốc gia và người dân này thông điệp về sự khiêm nhường và cảm giác tuyệt vời về con người của Đức Kitô đến với tất cả những ai có lòng thành. 

 

Hỏi: Thực trạng về Công giáo tại Thổ nhỉ kỳ như thế nào? Người Công giáo đang chuẩn bị cho chuyến công du này như thế nào và họ có thể mong đợi những gì nơi ĐGH?

 

Cha Kmetec: Số người Công giáo tại Thổ nhỉ kỳ là gần 30.000 người. Họ đang chuẩn bị tinh thần cho cuộc viếng thăm này bằng cách cầu nguyện. Trong các Thánh lễ Chúa Nhật đều có nhấn mạnh rằng người Kitô giáo cần phải cải cách đời sống tâm linh theo các nguyên tắc Tin Mừng một cách khẩn cấp. Đây phải là hoa quả của cuộc thăm viếng của ĐGH ở giữa chúng ta.

 

Trong dịp này, ĐGM Luigi Padovese, Đại diện tông toà tại Anatolia, đã gởi một lá thư đến các tín hữu nói về đề tài niềm hy vọng, là điều thiết yếu không chỉ cho Giáo hội tại Anatolia nhưng cho tất cả các Kitô hửu tại Thổ nhỉ kỳ.

 

Các cộng đoàn của chúng ta mỗi ngày phải đối diện với không ít khó khăn về kinh tế; nhưng trên hết, họ phải đương đầu với phức cảm tự ti trước sự đàn áp của thành phần đa số người Hồi giáo, làm cho họ cảm thấy bị áp bức và tự coi mình như những người ‘vô đạo’.

 

Hỏi: Với những sự kiện gần nhất, chúng ta có nên quan ngại về vấn đề an ninh, hay là chúng ta chỉ lo sợ về một vài trường hợp cố chấp cá biệt?

 

Cha Kmetec: Tôi chắc chắn sẽ không có vấn đề liên quan đến sự an tòan của ĐTC. Chính quyền Thổ nhỉ kỳ sẽ làm tất cả những gì có thể để chuyến công du này diễn ra mà không có những sự cố nghiêm trọng. Tuy nhiên, ta không thể loại trừ một vài cuộc biểu tình nhỏ hay một số trường hợp phản ứng cá biệt; nhưng chắc chắn không trên con đường mà ĐGH đi qua.

 

Hỏi: Cha có thể trình bày vắn tắt về đạo Hồi tại Thổ nhỉ kỳ? Tôn giáo này thể hiện lòng mộ đạo và đời sống xã hội như thế nào?

 

Cha Kmetec: Như mọi tôn giáo, đạo Hồi là một yếu tố hiện tại đang thâm nhập toàn thể xã hội Thổ nhỉ kỳ: những nơi công cộng như là giáo đường; trong đời sống người dân, như việc ăn chay; và trong lời cầu nguyện phổ thông. Lòng mộ đạo cũng được biểu lộ trong những dấu chỉ bên ngoài, như mạng che mặt của phụ nữ, tiệc mừng lớn để kết thúc tháng Ramadan, và việc dâng hy lễ.

 

Phong trào trần tục hóa đang thịnh hành ở các thành phố lớn, nhưng không ai loại bỏ các ngày lễ tôn giáo lớn. Ngược lại, ở các vùng nông thôn và thị trấn, người ta trung thành hơn với đời sống tôn giáo trong những cử chỉ kinh điển cũng như trong hành động đạo đức.

 

Ở Thổ nhỉ kỳ, phái Sunni chiếm phần đa, đến 75% dân số; 25% là thành phần Alawite, một chi nhánh của phái Shiite.

 

Ở mức độ chính thức, bắt đầu từ năm 1923 với Mustafa Kemal Ataturk [người thiết lập và vị tổng thống đầu tiên của cộng hòa Thổ nhỉ kỳ], nước này trở nên một quốc gia phi giáo hội. Vì thế đất nước đã trải qua một thời kỳ phát triển. Tư tưởng ‘kemal’, là những quy tắc căn bản mà Ataturk đặt ra cho nước này, là nền tảng của một quốc gia hiện đại, một Thổ nhỉ kỳ mới.

 

Việc thủ tiêu các tổ chức huynh đệ Hồi giáo, hay ‘tarikat’, và việc hạn chế đạo Hồi vào vị trí riêng tư trong đời sống người dân, vẫn tồn tại như một vấn đề công khai, mà các phong trào và tổ chức Hồi giáo bình dân muốn chinh phục.

 

Trên thực tế, sau năm 1950, có một số lãnh đạo chính trị muốn lợi dụng thành phần vẫn còn bám chặt vào Hồi giáo bình dân. Điều này đã đánh dấu sự trở lại của Hồi giáo trên trường chính trị và trở nên nguyên do của các cuộc đảo chính thực hiện bởi phe quân đội. Sau đó chính thành phần quân đội đã quyết định cho phép sự biểu lộ đạo Hồi một cách công khai.

 

Ngày nay, khi đảng AKP của Tayyip Erdogan đang chiếm quyền, họ đã gia tăng sức mạnh.

 

Phong trào phi tôn giáo ở Thổ nhỉ kỳ phản đối đạo Hồi như là một hệ thống chính trị, nhưng dường như họ là thành phần duy nhất có ý định duy trì Thổ nhỉ kỳ theo đường hướng phi tôn giáo.

 

Câu hỏi thực sự là Hồi giáo có sẵn sàng từ bỏ khái niệm của mình về xã hội và quốc gia, và công nhận nhân quyền của các thành phần thiểu số, đặc biệt người Alawite, là những người không được công nhận là tín hữu với bản sắc và các thể chế của mình?

 

Hỏi: Có chăng những lĩnh vực họat động chung với Hồi giáo? Cá nhân cha có hợp tác với họ không?

 

Cha Kmetec: Các lĩnh vực để hợp tác rất hạn chế. Là một cộng đoàn Phanxicô, chúng tôi đối thoại một cách cởi mở với mọi người mà chúng tôi gặp gỡ. Đây là lối sống hiện diện, bắt nguồn từ việc noi gương thánh Phanxicô, là cách mang lại hy vọng và sự cứu rổi cho mọi người.

 

Ngoại trừ hội nghị Hồi giáo – Kitô giáo, không còn sự hợp tác nào với Giáo hội Công giáo. Giáo hội Công giáo không được chính quyền công nhận là một thể chế đạo đức. Điều này làm cho sự hợp tác không khả thi, ngay cả trong việc tông đồ từ thiện; tuy nhiên, Caritas, như một tổ chức của Vatican, giúp đỡ khá nhiều trong lĩnh vực xã hội.

 

Tuy nhiên, cộng đồng Kitô giáo tại Thổ nhỉ kỳ cảm thấy khá hạnh phúc nếu họ có thể sống ôn hòa với người khác trong đời sống thường nhật, trong mối quan hệ công việc và trong các mối quan hệ đơn giản giữa con người với con người.

 

Hỏi: Giáo hội Công giáo có được xem là có ích lợi chung không?

 

Cha Kmetec: Các chính trị gia phi tôn giáo, đặc biệt những người trí tuệ, tôn trọng Giáo hội, đức tin Công giáo và thành viên của Giáo hội, và nhận ra nơi Giáo hội một dấu chỉ tích cực cho đời sống của thế giới.

 

Nhưng đối với đại đa số, Giáo hội Công giáo không có gì để đóng góp và không có gì bổ ích. Có luồng báo chí có uy thế coi chúng tôi như là những kẻ xâm phạm, mang những tư tưởng và sự xáo trộn vào xã hội Thổ nhỉ kỳ, và tốt nhất là phải giải phóng họ khỏi chúng tôi.

 

Hỏi: Theo cha ý nghĩa của chuyến công du đến Thổ nhỉ kỳ là gì?

 

Cha Kmetec: Theo ý kiến tôi, bộ phần chính quyền cũng như các chính trị gia muốn tạo nên một hình ảnh tốt và coi chuyến thăm viếng của ĐGH như một dịp đặc biệt để thăng cấp trên trường thế giới, và đặc biệt, họ muốn Âu châu nhìn vào Thổ nhỉ kỳ như một quốc gia cởi mở và không cố chấp.

 

Họ muốn lợi dụng chuyến đi này như một lá bài trong tiến trình xin gia nhập Liên hiệp Âu châu. Đương nhiên, sẽ không thiếu những người cứng đầu do các thành kiến của mình và sẽ tiếp tục tìm cách để miêu tả ĐGH, Giáo hội và người Công giáo bằng những màu sắc đen tối và tiêu cực.


Rev Lê Ngọc Đức Phúc, SVD, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 24/11/2006

 

 

TOP

 

 

"ĐGH đã thực hiện một bước nhảy vọt về chất lượng trong sự đối thoại giữa Kitô giáo và Hồi giáo"

 

Phỏng vấn Thần học gia Công giáo Ilaria Morali

 

Roma, 29.11.2006 - ĐGH Benedictô XVI đã khởi xướng một kiểu đối thoại mới với Hồi giáo, đó là ý kiến của thần học gia Ilaria Morali. Morali, một giáo sư thần học tín lý tại trường Đại học Gregorian thuộc Toà Thánh, là người tham gia vào các cuộc họp nhằm đối thoại liên tôn được tổ chức hàng năm tại Thổ nhĩ kỳ.

 

Trong bài phỏng vấn này với ZENIT, Morali đưa ra ý kiến về các điểm trao đổi về đức tin và đối thoại liên tôn với các học giả Hồi giáo.

 

Hỏi: Bà mới ở Thổ nhĩ kỳ trở về. Trong thế giới trí tuệ mà bà sinh hoạt, bầu không khí đối với chuyến thăm viếng của ĐGH như thế nào?

 

Morali: Các thông tin những ngày qua cho thấy rõ có nhiều khó khăn khách quan, đặc biệt giữa người dân bình thường và các phong trào bên lề. Chắc chắn hoàn cảnh này đã góp phần vào làn sóng tuyên truyền trong giới truyền thông xảy ra sau bài diễn văn tại Regensburg. Điều này đã gây nên một sự bùng nổ cảm xúc, trước khi ý nghĩa của ngôn từ của ĐTC được làm rõ và trước khi có thời giờ đ đọc lại nội dung.

 

Và sự bùng nổ cảm xúc này cũng đã đụng vào môi trường trí tuệ, mà có lẻ họ chưa hoàn toàn quen thuộc với phong cách mới nơi chức vị giáo hoàng mà ĐTC Benedictô XVI đã khởi xướng.

 

Tuy nhiên, trong các cuộc trao đổi của tôi, tôi đã xác định được rằng, đằng sau sự thiếu tin tưởng bên ngoài, họ rất quan tâm đến ĐGH. Ngài đã thực hiện một bước nhảy vọt về chất lượng trong sự đối thoại giữa Kitô giáo và Hồi giáo, chứng tỏ rằng sự chạm trán, nếu có tính chân thật, phải dám đụng vào các điểm tranh cãi hay khó chịu cho cả hai bên.

 

Hỏi: Phải chăng ĐGH Benedictô đã khởi xướng một lối đối thoại mới với Hồi giáo?

 

Morali: Từ những gì tôi đã thu thập được tại Istanbul, trao đổi với một số đồng nghiệp Hồi giáo, tôi nhận ra rằng họ không bao giờ hình dung ra được một lối đối thoại khác với cách của ĐGH Gioan Phaolô II. Họ nghĩ rằng đó là cách truyền đạt duy nhất, trong khi đó, một bước cần thiết phải diễn ra để làm cho việc trao đổi thêm chín mùi.

 

Và bước này, cũng như mọi trường hợp có cái mới lạ, đã đưa đến việc tái thiết về sự thăng bằng và tạo nên những tiền đề mới nhằm đưa việc đối thoại từ mức độ cử chỉ sang việc chạm trán trí tuệ; đây là điều sống động và khó khăn, nhắm vào các vấn đề và có sự tham gia của các nhà trí thức ôn hoà một cách trực tiếp hơn, tạo cho họ một cơ hội đặc biệt để hiện diện và tham gia một cách can đảm hơn vào cuộc trao đổi.

 

Trong cuộc họp của chúng tôi, có một đồng nghiệp Hồi giáo phát biểu rằng, 'đối thoại' đã trở nên một cụm từ đã bị thổi phòng, vì nó được sử dụng mà không đi đến một mục đích nào. Trên thực tế, ý nghĩa đã hoàn toàn bị đánh mất đối với những gì Giáo hội Công giáo muốn trình bày khi ĐGH Phaolô VI đã đề cập đến nó lần đầu tiên trong Thông điệp "Ecclesiam Suam".

 

Và tôi cho rằng ý kiến của người đồng nghiệp là đúng. Nhiều người Công giáo đã đánh mất ý nghĩa đích thc mà huấn giáo đã nêu lên về đối thoại và đã thu hẹp giá trị, tư duy -- đồng thời làm cho người Hồi giáo nghĩ rằng -- đối thoại được biểu lộ chính yếu qua các cử chỉ thân tình và đoàn kết, tránh né sự chạm trán tuy thanh bình nhưng khó khăn đối với các điểm nhức nhối.

 

Hỏi: Nhưng đối thoại không thể bị thu hẹp thành các đề tài thần học và các điểm 'nhức nhối', như bà đã nêu lên?

 

Morali: Đối thoại không thể được ứng khẩu; thêm vào đó, nhận thức nó một cách trừu tượng là sai lầm, như người ta thường nghĩ, 'đối thoại giữa các tôn giáo'.

 

Vì thế, tôi tin rằng, và tôi đã chia sẻ điều này với các người bạn Hồi giáo tại Istanbul, nhờ chuyến thăm viếng của ĐGH, họ không chỉ được biết thêm về khuôn mặt của ngôi vị giáo hoàng, nhưng điểm tập trung mới mẻ của ĐTC Benedictô XVI sẽ làm cho họ được tham gia vào việc trao đổi và suy niệm nhiều hơn trước đây.

 

Hỏi: Suy nghĩ của bà đối với hoàn cảnh của người Kitô giáo tại Thổ nhĩ kỳ như thế nào?

 

Morali: Tôi nhận thấy có nhiều đau khổ, một phần vì lịch sử kỳ thị và đàn áp không quá xa trong quá khứ, và một phần do tình trạng phân tán và chia cách trong chính các cộng đoàn Kitô giáo.

 

Sự kiện thảm sát Cha Andrea Santoro [ngày 5.2 vừa qua] quả thực là một dấu hiệu nói lên nhữg nguy hiểm khách quan mà những người dấn thân nhất phải đối mặt.

 

Hồi giáo tại Thổ nhĩ kỳ, như một số người đã giải thích cho tôi, không phải chỉ là các thành phố lớn như Istanbul, mà ngày càng nhìn giống như các thành phố Tây phương, nhưng đồng thời ở các vùng xa xôi, các thôn làng và những phong trào cực đoan.

 

Quá nhiều lần chúng ta đơn giản hoá vấn đề cho rằng Hồi giáo là một sự kiện đồng nhất, nhưng các người bạn Thổ nhĩ kỳ đã giải thích, ở đất nước này Hồi giáo bao gồm nhiều thực trạng khác nhau.

 

Mặt khác, trên thực tế, việc đối thoại như những gì đang diễn ra tại Istanbul được bảo trợ bởi trường đại học Marmara, cho thấy sự thay đổi bầu khí.

 

Tôi sẽ nêu lên những ví dụ để khẳng định điều tôi đang nói: Năm ngoái tôi đến thăm Trung tâm Hồi giáo học tại Istanbul, đặc biệt là thư viện. Lúc đó những người bạn Thổ nhĩ kỳ đã hãnh diện khoe với tôi phần thư viện tập hợp các sách về Kitô giáo. Họ đã chủ ý thiết lập nó hầu các sinh viên Hồi giáo có thể trực tiếp tham khảo từ nguồn Kitô giáo để học hỏi về truyền thống đức tin và lịch sử của chúng ta.

 

Tôi đã xem xét các ngăn sách và nhận ra họ đã rất thận trọng để tìm ra những cuốn sách này. Tuy nhiên, họ chia sẻ với tôi rằng rất khó để họ có thể tìm ra những cuốn sách đáng tin cậy nơi các nhà xuất bản Công giáo có trình bày quan điểm về tín lý và lịch sử Kitô giáo một cách khách quan.

 

Tôi trả lời là họ nói đúng, nhiều tác phẩm của các nhà xuất bản Công giáo rất kém chất lượng, có khi họ còn phát hành những cuốn sách có nội dung thần học theo thuyết tương đối thay vì thần học Công giáo lành mạnh.

 

Tôi biết rằng một đồng nghiệp Hồi giáo đã dịch ra tiếng Thổ nhĩ kỳ thông điệp "Fides et Ratio" và sẽ đưa nó vào xuất bản. Nỗ lực này sẽ không chỉ hỗ trợ cho sinh viên trong khoa so sánh thần học nhưng còn chính các người Kitô giáo là những người không có điều kiện và khả năng để thực hiện những việc như thế.

 

Hỏi: Bà lập mối quan hệ hữu nghị với người Hồi giáo Thổ nhĩ kỳ như thế nào?

 

Morali: Là một nhà thần học tín lý tôi phải thưa với những người Kitô giáo có ý định muốn bước vào cuộc đối thoại liên tôn rằng, một yêu cầu cho cuộc trao đổi là tránh sự ứng khẩu. Tôi không phải là một giáo sư chuyên về Hồi giáo và những người đàm thoại với tôi biết điều này, vì thế trong việc trình bày của mình, tôi đưa ra tín lý Công giáo một cách đơn giản, để dành các vấn đề hàm ý đối vói Hồi giáo cho cha Murice Bormanns.

 

Những điều tôi truyền đạt được hưởng ứng vì tôi nói vô cùng thẳng thắn về niềm tin của mình mà không mong đợi đối phương phải đồng ý với tôi.

 

Các cuộc họp tại Istanbul đòi hỏi từng người phải chuẩn bị kỹ lưỡng. Phần tôi, tôi làm việc nhiều giờ với cha Bormanns để thảo công phu từ quan điểm mà có thể nhận được sự quan tâm của đối phương nhiều hơn. Thường thì các cuộc hội nghị của tôi là cơ sở cho việc đối thoại mà cha Bormanns với khả năng rất lớn của ngài thực hiện trong việc nêu lên những điểm so sánh và song song hay, ví dụ, trích từ các tác giả. Như thế chuyên gia về tín điều Công giáo và chuyên gia Công giáo về Hồi giáo trở nên những người có vai trò rất quan trọng trong cuộc đối thoại.

 

Vì thế một trong những điều tôi đã xác định được là một số điểm nông cạn trong giới Công giáo, trong đó người ta nói về việc đối thoại giữa các tôn giáo, như tôn giáo nào cũng giống nhau, hay có những 'nỗ lực đối thoại' được tổ chức mà không có sự chuẩn bị thích đáng, đối với các đề tài niềm tin Công giáo hay truyền thống của những người đàm thoại với mình.

 

Hỏi: Tại sao bà có nhiều phê bình đối vói một số hình thức đối thoại liên tôn?

 

Morali: Tôi nhớ năm ngoái, trong giây phút trao đổi với các tham dự viên, có người trong khán giả hỏi rằng, ít nhất tôi có thể chấp nhận việc Mohammed là vị tiên tri cuối cùng và vĩ đại nhất?

 

Đứng trước khán giả người Hồi giáo, và trước khi trả lời câu hỏi, tôi đã hỏi ngược người ấy: "Nếu tôi nêu lên câu hỏi tương đương về Đức Giêsu Kitô, ví dụ, hỏi một giáo sư Hồi giáo phải công nhận rằng, ít ra thì Đức Giêsu Kitô phải vĩ đại như tiên tri Mohammed, ông có cho rằng vị giáo sư đó là một tín hữu Hồi giáo tốt nếu ông công nhận điều đó để làm tôi vui lòng? Tôi nghĩ rằng ông muốn tôi trả lời trên cương vị một người Công giáo chứ không muốn một câu trả lời nhượng bộ để làm ông hài lòng. Ông sẽ không cho rằng tôi là một người Công giáo tốt. Đó là cách mà tôi nghĩ rằng bất cứ người Công giáo nào cũng nên trả lời: với thái độ chân thành và bình thản."

 

Tôi nhớ rằng lối lý luận này đã tác động mạnh mẽ vào các đồng nghiệp Hồi giáo, họ đã bày tỏ sự hưởng ứng với lòng chân thành và minh bạch mà tôi đã thể hiện, cũng như lòng can đảm mà tôi đã thể hiện trong câu trả lời mà chắc chắn không hoàn toàn dễ đón nhận đối với người Hồi giáo.

 

Một vị giáo sư đã nói với tôi: "Tiến sĩ Morali, chúng tôi muốn đối thoại với những người Công giáo đích thực, chứ không phải những người Công giáo xoàng, tuy nhiên điều này chắc chắn là khó khăn hơn. Xin bà hãy tiếp tục như thế này."

 

Rev Lê Ngọc Đức Phúc, SVD, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 29/11/2006

 

 

TOP

 

 

"ĐGH cảm thấy cần phải có sự đối thoại giữa Kitô giáo và Hồi giáo ở mức độ văn hoá và tôn giáo"

 

Phỏng vấn Cha Justo Lacunza Balda

 

Roma, 19.11.2006 - Thổ nhĩ kỳ là một cộng hoà phi tôn giáo, nơi đạo Hồi có một vai trò quan trọng trong bản sắc của người dân, đó là ý kiến của một học giả chủ trương rằng không có lý do gì quốc gia này nên gia nhập Liên hiệp Âu châu.

 

Cha Justo Lacunza Balda, thuộc tu hội Truyền giáo Châu Phi, là giáo sư tại Học viện Giáo Hoàng về Ả rập và Hồi giáo học (PISAI), nơi mà ngài đã làm hiệu trưởng từ năm 2000 đến 2006.

 

Ngài có bằng cử nhân trong khoa tiếng Ả rập và Hồi giáo học từ PISAI, và bằng tiến sĩ về ngôn ngữ và văn hoá Châu Phi từ trường Đại học London, khoa Đông phương và Châu Phi học.

 

Cha Lacunza đã trao đổi với ZENIT về các con đường mà ngài cho rằng ĐGH Benedictô đang theo đuổi trong cuộc đối thoại với Hồi giáo.

 

Hỏi: ĐGH một vài ngày nữa sẽ đến thăm viếng Thổ nhĩ kỳ, việc này đang gây ra nhiều mong đợi. Tại sao đây là một chuyến đi khó khăn?

 

Cha Lacunza: Thổ nhĩ kỳ là một cộng hoà phi tôn giáo, dân chủ và thế tục. Quốc gia không có tôn giáo chính thức, nhưng ta không thể quên rằng đa số người dân tại Thổ nhĩ kỳ là Hồi giáo.

 

Vì thế, mối quan hệ với Giáo hội Công giáo có vai trò đối với phần đa số người dân là Hồi giáo, và điều này khó khăn nhìn từ góc độ người Kitô giáo thiểu số, tự do tôn giáo và hoạt động mục vụ.

 

Đây là một chuyến đi khó khăn vì đây là khoảnh khắc quan trọng đối với việc Thổ nhĩ kỳ gia nhập vào Cộng đồng Âu châu.

 

Bản thân tôi không hiểu tại sao Thổ nhĩ kỳ nên trở thành một thành phần của Liên Hiệp Âu châu. Nếu nhìn tình hình địa lý là đủ để nhận ra điều này. Phải chăng chúng ta đã quên rằng Thổ nhĩ kỳ có ranh giới giáp các quốc gia Iran, Iraq và Syria?

 

Tâm điểm của vấn đề là các trở ngại phải được phân tích từng điểm một, chứ không thể nêu lên một cách thẳng thắn: "Đúng, Thổ nhĩ kỳ là một phần của Âu châu".

 

Việc Thủ tướng Recep Tayyip Erdogan sẽ không đón tiếp ĐGH là một sự kiên quan trọng sẽ không giúp củng cố mối quan hệ giữa Toà thánh và Thổ nhĩ kỳ.

 

Hỏi: Thổ nhĩ kỳ khẳng định rằng họ tôn trọng nhân quyền. Điều này có thực không?

 

Cha Lacunza: Mọi điều nằm ở việc 'nhân quyền' được thông hiểu như thế nào. Nếu ai đó phải bảo vệ Thổ nhĩ kỳ bằng mọi giá -- và điều này ngăn cản không cho người dân tự do thay đổi tôn giáo -- thì thực ra có vấn đề nghiêm trọng liên quan đến nhân quyền và tự do.

 

Nếu cụm từ 'Thổ nhĩ kỳ' được đồng nghĩa với Hồi giáo thì con đường vẫn còn dài. Ta phải nhìn xem thành phần Kitô giáo thiểu số có cảm thấy tự do hay không. Khái niệm về một chính quyền Hồi giáo tại Thổ nhĩ kỳ chưa hề bị loại trừ khỏi các luồng suy nghĩ Hồi giáo.

 

Hỏi: Là một học giả về Hồi giáo, cha có nghĩ rằng ĐGH Benedictô XVI đang có những bước đi quan trọng trong cuộc đối thoại với Hồi giáo?

 

Cha Lacunza: Tôi tin rằng ĐGH cảm thấy cần phải có sự đối thoại giữa Kitô giáo và Hồi giáo ở mức độ văn hoá và tôn giáo.

 

Ngài đã khẳng định điều này trong bài diễn văn tại Cologne vào tháng 8, 2006 trong chuyến đi Đức vào dịp Đại hội giới trẻ Thế giới, lúc ấy ngài đã trao đổi với các đại diện Hồi giáo. ĐGH Benedictô đã khẳng định điều này vào một số dịp khác nhau.

 

Theo ý kiến của tôi, ĐGH đang theo đuổi ba con đường, với một mục đích chung: làm cho chính ngài trở nên người mang sứ mệnh của Giáo hội đến toàn thế giới. Nhìn ở một góc độ nào đó, đây là sự tiếp diễn của sứ mệnh tông đồ của vị tiền nhiệm là ĐGH Gioan Phaolô II.

 

Bước đầu tiên là áp dụng hai khía cạnh 'đức tin và lý luận' vào cuộc đối thoại liên tôn và liên văn hoá, đặc biệt trong mối quan hệ với Hồi giáo, là giới xem ra mang thái độ khó khăn và xung đột nhất.

 

Thách đố này được hướng đến tất cả người Công giáo, các vị giám mục và các tổ chức giáo hội. Sự đối thoại không phải được phát minh phi lợi ích, kiến thức và sự học hỏi. Tuy nhiên, hành động của ĐGH Benedictô XVI cũng hướng đến các tổ chức chính trị có xu hướng gạt tôn giáo qua một bên, bóp nghẹt niềm tin của tín đồ, và tuyên truyền ý tưởng cho rằng đức tin là điều chỉ có trong quá khứ. Thái độ khả nghi trong giới tôn giáo là một bệnh ung thu nguy hiểm của thời đại chúng ta.

 

Bước thứ hai là xây dựng bản sắc tôn giáo cho người Công giáo một cách khôn ngoan và bảo vệ nó một cách thông minh.

 

Việc người Công giáo nhận thức được như thế nào là một người tín đồ Kitô giáo rất quan trọng. Điều này đòi hỏi sự giáo dục, giáo lý, và niềm tin tiến triễn. Đây là cách duy nhất để người Công giáo chuẩn bị để đối thoại liên tôn và liên văn hoá.

 

Việc thứ hai rất gian khổ và khó khăn nếu bản sắc tôn giáo của người Công giáo bị lưỡng lự và thiếu chắc chắn. Nếu niềm tin bị thu hẹp thành một lớp véc ni bóng loáng, mọi việc đối thoại sẽ bao gồm sự sợ hãi, thành kiến, và xung đột.

 

Bước thứ ba là phải đặt ngón tay vào vết thương và khẳng định một cách tuyệt đối rằng những người bào chữa niềm tin không thể sử dụng bạo hành để biện hộ cho hành động của mình. Trong sự liên hợp này, tự do ngôn luận phải chiếm vị trí chính yếu trong mọi hình thức đối thoại liên tôn và liên văn hoá.

 

Bài diễn văn tại Regensburg, bản thân nó không phải là bài nói về Hồi giáo, đã gây nên giông bão với những chỉ trích, phản đối và tranh cãi trong lẫn ngoài Giáo hội. Điều này có nghĩa con đường vẫn còn dài, và các tiếng nói không phải lúc nào cũng hài hòa.

 

Rev Lê Ngọc Đức Phúc, SVD, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 19/11/2006

 

TOP

 

 

 

Thách đố của những người Hồi giáo theo đạo Kitô giáo

 

Roma, 16.10.2006. - Những người cải đạo từ Hồi giáo qua Kitô giáo đưa đến cho các chính phủ quốc gia một thách đố phải bảo đảm tự do tôn giáo; đồng thời chứng từ của họ là một thách đố với chính Giáo hội. Đó là ý kiến của ông Giorgio Paolucci, chủ bút của tờ báo Công giáo Avvenire tại Ý. Ông đã hợp tác với một ký giả người Lebanon là bà Camille Eid, phóng viên phụ trách vùng Trung Đông, phát hành cuốn sách có tựa đề "Những người theo đạo Kitô giáo từ Hồi giáo". Sách này tập hợp các lời chứng từ của những người Hồi giáo đang sinh sống tại Ý đã theo đạo Kitô giáo.

 

Theo ông Paolucci, "Mục đích của cuốn sách là rọi sáng vào một núi băng trôi. Những người Tây phương theo đạo Hồi được biết đến rất nhiều, họ lên truyền hình, được lời mời từ các chương trình nổi tiếng, làm chủ tịch các hội Hồi giáo nổi tiếng, và không có vấn đề gì với danh tiếng, nhưng chúng tôi đã tìm đến những người mà do chính bản chất của kinh nghiệm của mình, đã gặp phải khó khăn trong việc chia sẻ những gì họ đã trải qua, mặc dầu họ rất hạnh phúc với những gì đã xảy đến".

 

Sau đây là một phần được trích từ bài phỏng vấn ông Paolucci với thông tấn xã Zenit.

 

Hỏi: Thưa ông, việc nghiên cứu này có nhạy cảm và nguy hiểm không?

 

Ô. Paolucci: Vấn đề thứ nhất là tìm cho được người Hồi giáo đã theo đạo Kitô giáo. Ai cũng đã nghe về Abdul Rahman, người đàn ông 41 tuổi có quốc tịch Afghanistan đã bị đe doạ án phạt tử hình vào tháng 3 vừa qua với tội phản đạo. Hiên nay ông đang sống ở Ý, nhờ sự can thiệp quyết liệt của cộng đồng quốc tế.

 

Khi trường hợp này xảy ra, suốt 15 ngày tất cả các báo chí tại Ý, Âu châu, và trên thế giới đã bàn luận về vấn đề tội phản đạo và án phạt tử hình mà đạo Hồi đưa ra cho những ai theo một tôn giáo khác.

 

Công việc của chúng tôi là tìm hiểu những khuôn mặt và câu chuyện của những người này để mọi người hiểu rằng vấn đề không chỉ ảnh hưởng đến các quốc gia xa xôi như Afghanistan, nhưng ngay cả ở Úc châu và Ý.

 

Hỏi: Thưa ông, tại sao vấn đề này ảnh hưởng đến chúng ta?

 

Ô. Paolucci: Một trong những kết quả của việc di dân là có sự hiện diện của đạo Hồi ở giữa chúng ta. Đạo Hồi hiện diện ở giữa chúng ta kèm theo tất cả sự phức tạp của nó, trong đó có vấn đề tự do tôn giáo. Đây là một vấn đề mà Hồi giáo và các cộng đồng liên quan trên thế giới chưa từng làm rõ.

 

Chúng tôi muốn viết một cuốn sách để phản ảnh thêm về những vấn đề thần học và luật pháp liên can của tội phản đạo, và các hình phạt liên quan; và chúng tôi muốn  làm việc này qua kinh nghiệm của con người, cố thấu hiểu tại sao có người yêu mến Đức Giêsu đến nỗi họ sẵn sàng chịu đựng sự đàn áp và án phạt tử hình.

 

Năm 1955, cuốn sách "Họ đến từ đạo Hồi, được Đức Kitô gọi mời" của tảc giả Jean-Pierre Gaudeul, đã được Emi phát hành tại Ý. Mục đích là để phân tích các câu chuyện theo quan điểm thần học.

 

Tuy nhiên, chúng tôi quan tâm đến câu chuyện một cách toàn diện. Chúng tôi đã bỏ ra hai năm để tìm đến những người này bởi vì rất khó thuyết phục họ chia sẻ. Chúng tôi sắp xếp các mẩu chuyễn một cách có thể duy trì bản chất của nó, chỉ thay đổi những chi tiết để đảm bảo an ninh.

 

Kết cuộc, chúng tôi đã tìm được 30 câu chuyện, một số được thuật lại trực tiếp với chúng tôi, một số được kể qua điện thoại hay qua mạng lưới, một số khác được tìm trong những bài báo chí khan hiếm tại Ý.

 

Hỏi: Trong phần giới thiệu của sách, vị linh mục Dòng Tên người Ai Cập Samir Khalil Samir, giáo sư khoa lịch sử văn hoá Ả rập và Hồi giáo học tại trường đại học Beirut, có bàn luận về tội phản đạo. Ông có thể cho chúng tôi biết kết quả của sự phân tích này?

 

Ô. Paolucci: Theo cha Khalil Samir, khi nghiên cứu sách Koran cho thấy không có án phạt tưhỉnh đối với tội phản đạo.

 

Có 14 thiên Xu-ra đề cập đến các trừng phạt đối với tội phản đạo, nhưng chỉ có một thiên su-ra nói về loại hình phạt và tuyên bố rằng, "Tội phản đạo sẽ bị trừng phạt trong thế giới này và thế giới sau".

 

Đoạn nói về "trong thế giới này" không nói cụ thể phạt bằng cách nào, trong khi sách Koran nói chung rất cụ thể về các loại hình phạt: nếu ăn cắp thì bị chặt tay, nếu ngoại tình thì bị đánh 100 roi, v.v.

 

Vì thế cha Khalil Samir nhấn mạnh rằng, hình phạt tử hình đối với người phạm tội phản đạo trong bộ luật hình sự ở các nước Saudi Arabia, Iran, Sudan, Yemen, Mauritania, và Afghanistan, không có nguồn gốc trong sách kinh Koran.

 

Nếu đây là sự thật thì khi những người Hồi giáo theo thuyết cơ bản chủ trương rằng người phạm tội phản đạo phải bị giết, họ không nói điều này nhân danh sách kinh Koran. Sự thật này không chỉ quan trọng đối với những người Hồi giáo theo Kitô giáo, nhưng bởi vì suốt 30 năm qua, tội phản đạo đã trở nên dụng cụ chính yếu để loại trừ các đối thủ chính trị.

 

Có rất nhiều trường hợp tổ chức Huynh đệ Hồi giáo và các nhóm khác tố cáo các đối thủ của họ là phạm tội phản đạo; vì thế, đây không còn là một vấn đề tôn giáo nhưng là một cách để loại trừ phe đối lập. Lời phân tích của cha Samir về vấn đề tranh cải này mang tính cách mạng và hy vọng rằng nó sẽ lóe lên một sự tranh luận nội bộ trong đạo Hồi.

 

Hỏi: Có bao nhiều người Hồi giáo theo đạo Kitô giáo tại nước Ý?

 

Ô. Paolucci: Không có dữ kiện nào chính xác. Theo nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi có thể nói có vài trăm người cải đạo, đến từ các quốc gia vùng Bắc Châu Phi, Trung Đông và Á châu.

 

Một số đã được rửa tội tại Ý, những người khác được rửa tội trong nước của họ rồi sau đó di cư sang Ý, còn những người khác thì được rửa tội ở một nước thứ ba trước khi đến sinh sống ở Ý.

 

Từ các câu chuyện mà chúng tôi đã tập hợp cho thấy rõ có nhiều câu hỏi trong thâm tâm của mỗi con người: ý nghĩa của cuộc sống, hạnh phúc, tình yêu, tình bạn, và đời sống về sau.

 

Một số người chúng tôi gặp đã không tìm ra câu trả lời thoả mãn trong sách Koran và trong lối giáo dục Hồi giáo mà họ đã nhận được; ngược lại, họ đã tìm ra những chứng từ có sức thu hút nơi những người Kitô giáo - bạn bè, đồng nghiệp, người xóm giềng, giáo sư - là những người đã giới thiệu cho họ một câu trả lời khác với những gì trong sách Koran của Hồi giáo.

 

Các kinh nghiệm khác đã kích thích một ý tưởng rằng có thể chính Kitô giáo, Đức Giêsu chứ không phải sách Koran, là những gì họ đang tìm kiếm trong cuộc hành trình con người của mình.

 

Hỏi: Ông có thể cho chúng tôi biết về một số câu chuyện trong sách của ông?

 

Ô. Paolucci: Một cô gái người Algeria, có cha là Công giáo và mẹ là Hồi giáo, sinh ra tại Varese, Ý, và được giáo dục theo cách Hồi giáo.

 

Khi 15 tuổi, cô ta tự vấn tại sao có một người bạn của mình lúc nào cũng thấy vui vẻ và hạnh phúc, nên cô tìm đến hỏi: "Có thể cho tôi đi chung với bạn trong các cuộc dã ngoại và cuộc họp mà bạn tổ chức không?" Chỉ sau khi sống với các nhóm người trẻ đoàn kết trong đức tin Kitô giáo, cô ta mới thấu hiểu rằng nguồn gốc của niềm vui này là Đức Giêsu và tình yêu của Ngài. Nên cô đã tuyên bố rằng: "Tôi cũng muốn điều đó".

 

Lúc đầu cô đẵ gặp vấn đề với mẹ mình vì bà ta không đồng ý cho cô đi tới nhà thờ hay tham dự thánh lễ. Sau đó cô đã tự mình quyết định.

 

Thường thì trong một gia đình Hồi giáo luôn có người cha, người mẹ, hay cộng đồng rất phản đối việc theo đạo Kitô giáo. Có những trường hợp cực đoan, trong đó có người bị giết vì bỏ các phong tục Hồi giáo. Từ các câu chuyện khác nhau, tôi đã rút ra một khẳng định còn rõ ràng hơn, đó là nền tảng của sự cải đạo là sự thu hút con người được biểu hiện trong sự chứng nhân Kitô giáo.

 

Nếu một người trẻ Thổ nhỉ kỳ không thoả mãn với những câu trả lời trong truyền thống Hồi giáo đến nhờ thầy tế tư vấn sẽ nhận được lời khuyên là hãy đi đọc sách Koran. Người trẻ Thổ nhỉ kỳ đó đọc sách Koran những không tìm ra những câu trả lời. Một ngày nọ, em đến thăm một tu sĩ dòng Phanxicô, đưa ra những câu hỏi của mình và đã nhận được những câu trả lời chính xác và thoả đáng. Điều này đã dẫn em đến việc cải đạo.

 

Hỏi: Có phải một số người đã cải đạo sau khi đọc sách Tin Mừng?

 

Ô Paolucci: Đúng vậy. Có một người Bosnia trong quân đội Hồi giáo đang đánh trận tại vùng Balkan chống lại quân Serbia và Croatia. Trong đêm khi ngồi dưới hầm anh ta thường nghe một chương trình radio Sarajevo phát thanh những bài diễn văn của Mustafa Ceric, vị lãnh đạo của cộng đồng Hồi giáo tại Bosnia-Herzegovina, cũng như các bài diễn văn của Đức Hồng Y Vinko Puljic nói về chiến tranh.

 

Ceric thường tuyên bố: Chúng ta phải có cuộc thánh chiến để đấu tranh cho vùng đất này trở nên đất Hồi, và bổn phận của mỗi người Hồi giáo là tham gia jihad. Đối với ĐHY Puljic, ngài lại nói rằng sẽ không bao giờ có hòa bình trên vùng đất này nếu chúng ta không can đảm tha thứ cho nhau; ngài nói thêm, sự hòa giải là cách duy nhất đưa đến tình bằng hữu.

 

Anh lính Bosnia này đã ấn tượng với việc vị lãnh đạo của anh luôn kích động việc sử dụng vũ khí, trong khi địch thù của mình lại kêu gọi sự hoà giải.

 

Vì vài lý do anh ta đã đến Ý, nơi mà anh đã bị vu oan trong một vụ cháy và đã bị bỏ tù. Nhưng sau đó, anh đã được tha bổng.

 

Thời gian ở trong tù, anh gặp một nữ tu sĩ người Croatia đến thăm tù nhân. Seour hỏi anh có muốn đọc sách Koran không? Nhưng người lính Bosnia trả lời rằng, anh đã thông hiểu sách Koran, và muốn đọc sách Tin Mừng. Đó là cụm từ mà anh đã nhớ trong bài nói chuyện của ĐHY Puljic khi ngài nói, trong sách Tin Mừng Đức Giêsu dạy chúng ta về sự tha thứ.

 

Nữ tu sĩ này đã rất ấn tượng và đã trao cho anh một cuốn sách Tin Mừng bằng tiếng Croatia.

 

Những câu chuyện này rất huyền diệu, cũng như tất cả các trường hợp cải đạo đều rất huyền diệu...

 

Hỏi: Có một chương trình mục vụ nào nhắm vào người cải đạo Hồi giáo không?

 

Ô. Paolucci: Hội đồng giám mục Ý đã soạn một văn bản, "Dự tòng theo đạo từ Hồi giáo" do Walther Ruspi viết. Trên thực tế phải rất thận trọng vì nhiều người cải đạo từ Hồi giáo gặp nguy hiểm đến tính mạng. Đây là một vấn đề tự do mà không chỉ liên quan đến các quốc gia Hồi giáo.

 

Rất tiếc, vấn đề tự do cũng thấy rõ tại một quốc gia như Ý, bởi vì đạo Hồi thiết lập chỉ một tôn giáo mà không ai có thể thoát ra được. Từ quan điểm này, việc yêu cầu các cộng đồng Hồi giáo công nhận sự tự do tôn giáo của người anh em để họ có thể cải đạo và sống tự do là một điều rất quan trọng.

 

Hỏi: Ông đã rút ra những kết luận gì từ công trình nghiên cứu này?

 

Ô. Paolucci: Sách này đưa ra ba thách đố: Nó thách thức đạo Hồi phải công nhận sự tự do tôn giáo; nó thách thức các chính quyền công dân phải bảo đảm sự tự do này; và nó thách thức chúng ta, những người Kitô giáo "nguội lạnh", phải nung nấu tình yêu đối với Đức Giêsu.

 

Như đã được trình bày trong Điều khoản 18 của Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền, được chấp thuận năm 1948, tự do tôn giáo là nền tảng của mọi xã hội văn minh. Việc các cộng đồng Hồi giáo đề nghị quồc gia chúng ta bảo vệ quyền tôn giáo của họ là điều hợp lý, nhưng chính vì điều này mà họ phải công nhận quyền lợi này đối với những ai muốn tự nguyện theo một tôn giáo khác.

 

Theo quan điểm này, chính quyền công dân Ý phải bảo đảm quyền lợi và việc thực hiện tự do tôn giáo. Việc một người theo đạo từ đạo Hồi phải sống một cách giấu giếm, phải đi lễ ở nhà thờ cách 30 km bởi vì họ sợ rằng cộng đồng Hồi giáo sẽ trừng phạt họ là không đúng.

 

Thành phần thứ ba được thách thức là Giáo hội, bởi vì những người mới theo đạo là một phần của mùa xuân mới trong Kitô giáo, trong một quốc gia mà đạo Công giáo đã nhiều khi trở nên như một thứ trang điểm. Trong quá trình nghiên cứu, tôi và bà Camille Eid (đồng tác giả) đã rất ấn tượng với sự hăng say và lòng can đảm của những người theo đạo từ Hồi giáo. Họ nói với chúng tôi: "Các bạn không ý thức được kho báu lớn lao mà các bạn đang có -- Đức Giêsu Kitô đã cách mạng hoá đời sống của chúng tôi".

Rev Lê Ngc Đức Phúc, SVD, chuyển dịch theo Zenit ngày 16/10/2006 

 

TOP 

 

 

 

Thiên Chúa được coi như Lý Trí và Allah được coi như Ý Muốn

 

Washington, D.C. 3.10.2006 (Zenit.org) – Phản ứng “quá mức” đối với bài diễn văn gần đây của ĐGH Benedictô XVI tại trường đại học Regensburg cho thấy quan điểm của ngài cần nhiều sự chú tâm, đó là ý kiến của một học gia Mỹ.

 

Cha James Schall, vị linh mục dòng Tên, và giáo sư khoa triết lý chính trị tại trường đại học Georgetown, là tác giả của cuốn sách “Đời sống của lý trí: Nói về niềm vui và sự đau khổ của tư duy”.

 

Ngài đã chia sẻ với Zenit tại sao bài giảng thuyết tại Regensburg mang tính giải phóng và cấp bách, và tại sao cách phản ứng đã nêu bật khoảng cách giữa đức tin và lý luận ngày nay.

 

Hỏi: Ở Regensburg, ĐGH Benedictô nêu bật khái niệm Kitô giáo về Thiên Chúa là Logos. Khái niệm về Thiên Chúa là Logos khác với khái niệm của Hồi giáo về Thiên Chúa như thế nào?

 

Lm Schall: ĐTC đã đưa ra một vấn đề căn bản ẩn nấp đàng sau các cuộc bàn luận về chiến tranh và khủng bố. Nếu Thiên Chúa là Logos, điều này có nghĩa quy tắc lý luận bắt nguồn từ điều mà Thiên Chúa là. Thụ tạo là như thế, bởi vì chúng có bản tính và được hướng tới cách như thế bởi vì Thiên Chúa là như thế: Ngài có một trật tự bên trong riêng.

 

Nếu Thiên Chúa không phải là Logos mà là "Ý chí", như đa số nhà tư tưởng Hồi giáo quan niệm về Đấng Allah, điều này có nghĩa đối với họ, Logos tạo nên sự "hạn chế" cho Allah. Ngài không thể làm mọi điều bởi vì ngài không thể thực hiện điều tốt lẫn điều xấu. Ngài không thể làm những điều trái ngược nhau.

 

Vì thế, nếu chúng ta muốn "thờ phượng" Allah, điều này có nghĩa chúng ta phải có khả năng biến điều xấu thành tốt và điều tốt thành xấu. Có nghĩa, chúng ta có thể làm bất cứ điều gì được xem là "ý chí" của Allah, ngay cả việc bạo hành như là một điều "hợp lý".

 

Nếu không, chúng ta sẽ "hạn chế" "quyền lực" của Allah. Đây là quan điểm của ĐGH về việc làm cho bạo hành trở nên "hợp lý". Khái niệm khác biệt về Thượng Đế tạo nên sự khác biệt chủ yếu giữa Kitô giáo và Hồi giáo, cả trong khái niệm về thờ phượng lẫn khoa học.

 

Hỏi: Cuốn sách mới nhất của cha có tựa đề "Đời sống của Lý trí: Nói về niềm vui và sự đau khổ của tư duy". Bằng những cách nào mà đời sống của lý trí là sự tham gia vào Logos của Thiên Chúa?

 

Lm Schall: Thánh Aquinô nói rằng, chân lý là "lý trí thích ứng với thực tại".  Điều này có nghĩa có một thực tại mà không do chúng ta dựng nên. Nó là một thực tại mà không thể "khác được" qua ý chí của chúng ta. Đây cũng có nghĩa Thiên Chúa đã thiết lập điều đó, không phải chính chúng ta.

 

Vì thế, nếu chúng ta biết đến "chân lý", là điều làm cho chúng ta được "tự do", có nghĩa chúng ta biết cái mà Thiên Chúa đã tạo nên. Chúng ta vui mừng vì biết được chân lý mà không tự mình dựng nên. Sự kỳ diệu về những gì hiện diện làm cho chúng ta hoan hỉ.

Nếu Allah là ý chí thuần tuý, thì bất kể thứ gì là đều có thể ngược lại, làm cho không có gì thực sự như nó là. Lúc nào nó cũng có thể khác.

 

Hỏi: Bàn luận của ĐGH Benedictô XVI về "đức tin và lý luận" có khác với thông điệp "Fides et Ratio" của ĐGH Gioan Phaolo II không?

 

Lm Schall: Tôi không nhận thấy có nhiều sự khác biệt. Như tôi đã cố chứng minh trong sách "Triết lý chính trị Công giáo La mã" của mình, "Fides et Ratio" chính nó là một lời bào chữa cho triết lý. Nhưng nó cũng công nhận rằng đức tin cũng là cái hướng dẫn triết lý. Không phải tất cả triết lý đều đi đến thực tại đang có.

 

Cả hai vị giáo hoàng quan niệm rằng mỗi người đều có thể tìm đến triết lý. Nhưng các ngài cũng nhận ra rằng vài hệ thống triết lý không thể bảo vệ cho đức tin hay lý luận. Đây là khúc mắc của "thuyết duy ý chí" của triết Hồi giáo kinh điển. Triết lý này cũng hiện diện ở Tây phương, như ĐGH Benedictô đã nêu lên.

 

Thực ra, bài thuyết trình ở Regensburg được nhắm vào Tây phương cũng như Hồi giáo trong vấn đề này. Những người biện hộ cho việc phá thai đi theo quan điểm triết lý giống y như điều mà ĐGH đã nhận ra nơi Cordova, nhà tư tưởng Hồi giáo thời trung cổ.

 

Hỏi: ĐGH Benedictô XVI cho rằng sự tổng hợp của tư duy Hy lạp và Do thái đã hiện diện từ thời sách khôn ngoan trong Cửu Ước, nhưng được thể hiện cách hoàn hảo nhất trong Tin Mừng của thánh Gioan. Tại sao lập trường này quan trọng đối với Giáo hội trong việc mà ĐGH Benedictô XVI gọi là "cuộc đối thoại giữa các nền văn hoá"?

 

Lm Schall: Việc ĐGH Benedictô đề cập đến "cuộc đối thoại giữa các văn hoá" cho thấy ngài không chỉ nghĩ về Tây phương và Hồi giáo; Trung Quốc và Ấn Độ cũng nằm trong tầm nhìn này. ĐGH hiểu rõ mệnh lệnh sai thánh Phaolô phải đi đến Macedonia, chính nó đã mang tính quan phòng của Chúa.

 

Quả thực, tương tự như chuyến đi của ĐGH Gioan Phaolô II đến Ba Lan, chuyến đi của ĐGH Benedictô đến Regensburg là do sự quan phòng. Cả hai đều nhắm vào vấn đề cốt yếu của thời đại. Chúng ta quên rằng, chức giáo hoàng không phải chỉ là một quyền lực con người, mặc dầu đây cũng là con người. Rất kỳ lạ khi thấy thế giới hiện đại cứ tiếp tục quan sát ngôi vị giáo hoàng, một hành động mà chính nó cũng cảm thấy bất ngờ.

 

ĐGH cho rằng lý luận bây giờ cũng là một yếu tố của đức tin. Ngài không nói rằng nó không còn là lý luận. Đó là lý do tại sao trong chức vị giáo hoàng, ngài đã trình bày một bài "thuyết trình", mà luận điệu công khai duy nhất của nó chính là bản chất biết suy luận. Về bản tính, một bài thuyết trình không đòi hỏi cảm xúc mạnh mẽ nhưng là lý luận để nắm được điều đang trình bày.

 

Trong vài ngày sau bài thuyết trình, lúc các bão tố nổi lên trong thế giới Hồi giáo, và nhiều phản đối ở Tây phương - kể cả giới Công giáo - chúng ta thấy rõ bài nói của ĐGH Benedictô đã được hiểu một cách khác với mục đích.

 

Bài này đã không được chuyển dịch ngay qua tiếng Ả-rập trong các báo chí dẫn đầu của Hồi giáo. Đa số ở Tây phương chỉ đọc vài đoạn trích. Tinh thần học thuật của bài thuyết trình, với mục tiêu trình bày sự thật về cái là, đã bị xâm phạm.

 

Tôi đoán rằng, thế giới Hồi giáo đang bắt đầu nghĩ lại về lối phản ứng vô kiểm soát đối với bài diễn văn này. Sự phản ứng trên thực tế không chứng minh rằng ĐGH đã "không tế nhị" hay "làm nhục". Nhưng nó chứng minh rằng điều ngài nêu lên cần được chú ý đến, như ngài đã dự định.

 

Hỏi: Bài diễn văn của ĐGH Benedictô XVI cũng là một lời chỉ trích đối với thế giới Tây phương; đáng ra nhiều người Hồi giáo phải hưởng ứng nó. Tuy nhiên, bài diễn văn đã bị chỉ trích và phản đối rộng rải, điều này chứng minh quan điểm mà ĐGH muốn trình bày về lý do cần có sự đối thoại giữa các văn hoá. Phải chăng sự kiện này nói lên số phận tối tăm cho dự án của ĐGH Benedictô XVI?

 

Lm Schall: Cá nhân tôi không nghĩ rằng ĐGH Benedictô đã bất ngờ trước sự phản ứng này. Thực ra, tôi đoán rằng chính lối phản ứng quá mức này đã chứng minh quan điểm của ngài cách rõ rệt đến nỗi không ai biết suy nghĩ đúng đắn có thể từ chối. Đây là một quan điểm cần được phát biểu.

 

Quan điểm này không thể được phát biểu bởi các chính trị gia, là những người trên thực tế đã không phát biểu ngay cả khi họ cần làm điều đó. Các chính trị gia nói về "những người khủng bố", như là ở đây không có một vấn đề thần học căn bản hơn. Nếu vấn đề sâu xa hơn không được làm rõ, đó là mục tiêu của bài diễn văn tại Regensburg, thì chúng ta mới có một số phận tối tăm.

 

Bài diễn văn này là một trong những bài mang tính giải phóng nhất được phát biểu bởi một vị giáo hoàng hay bất cứ ai khác. Sau khi tầm mức quan trọng được thấm nhuần, những ai trước đây không sẵn sàng cân nhắc nội dung của nó sẽ cảm thấy hổ thẹn - nếu họ thành thật - hay là hung hăng hơn, nếu họ từ chối thách đố của lý luận.

 

Không nên nhầm lẫn: Bài diễn văn này đã làm sáng tỏ, hơn bất cứ điều gì chúng ta biết, về các vấn đề của sự hiện đại được xây dựng trên thuyết duy ý chí ngầm hay rõ ràng, trong đó quy định rằng chúng ta có thể thay đổi thế giới, bản tính, và Thiên Chúa tùy theo ý muốn của chúng ta.

 

Hỏi: Truyền thông Tây phương đã nhiều lần mang những từ ngữ của ĐGH Benedictô XVI ra khỏi văn cảnh và thổi lửa cho sự hung hăng của giới Hồi giáo. Sự cai trị văn hoá và thái độ chống đối của giới truyền thông đối với Giáo hội ảnh hưởng đến khả năng giới truyền thông tham gia và cuộc đối thoại như thế nào?

 

Lm Schall: Không thể có "đối thoại" về bất cứ điều gì nếu những quy tắc lý luận căn bản chưa được công nhận trên lý thuyết cũng như hành động. Chesterton đã nói rằng, những ai bắt đầu tấn công Giáo hội bởi vì lý do này hay lý do khác, đa phần sẽ tấn công giáo hội vì bất cứ lý do gì.

 

Điều nằm phía sau sự tấn công lý luận hay từ chối không công nhận Thiên Chúa là Logos đã là một điều giúp chúng ta đoán được rằng Giáo hội không sai về trí tuệ và các điều kiện của nó. Chúng ta không cách nào bảo đảm rằng lý luận sẽ được chấp nhận một cách tự do.

Von Balthasar đã nói rằng, chúng ta đã được cảnh giác mình được sai đi vào giữa đàn sói. Chúng ta quá ngây thơ nếu nghĩ rằng Đức Kitô đã sai lầm khi Ngài cảnh giác chúng ta rằng thế gian sẽ ghét chúng ta vì chúng ta tin vào Logos và trật tự được hàm ý ở đó.

 

Nhưng ĐGH Benedictô rất đúng. Ngài đã cảnh giác thế giới rằng họ cũng phải chịu trách nhiệm đối với cách họ sử dụng hay không sử dụng lý luận. Không ai khác có thể làm điều này. Trên thực tế, thế giới đã quá coi thường ĐGH Benedictô chính vì họ không thể nhận ra khả năng ngài thể hiện trong việc đi tận gốc của các vấn đề trí tuệ.

 

Nói cho cùng, tất cả những điều này đều liên quan đến "đời sống của lý trí". Cả lý luận và đức tin đều nói với chúng ta như vậy.

 

Rev Lê Ngc Đức Phúc, SVD, chuyển dịch theo Zenit ngày 3/10/2006

 

 

TOP

 

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI gặp Triết Gia Hồi Giáo Mustapha Cherif người Algeria

 

Hôm Thứ Bảy 11/11/2006, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã gặp triết gia Mustapha Cherif người Algeria, vị được tiếng là chống lại những hận thù về tôn giáo, và là một chuyên gia về Hồi Giáo ở Đại Học Algiers. Sau cuộc hội kiến riêng tư với Đức Giáo Hoàng, ông đã bày tỏ nhận định với mạng điện toán toàn cầu Zenit như sau: “Tôi lấy làm cảm kích trước việc ngài gặp gỡ tiếp đón và chăm chú lắng nghe”.

 

Vị triết gia 50 tuổi này đã xin được yết kiến ngài trước khi xẩy ra những phản ứng của tín đồ Hồi Giáo với bài nói của ngài ở Đại Học Regensburg Đức quốc hôm 12/9/2006. Đức Thánh Cha đã đọc lời kêu gọi đối thoại của vị này trên một tờ nhật báo ở Balê là tờ Le Monde.

 

Vị giáo sư người Algeria này cũng bày tỏ mối quan tâm sau khi ĐTC quyết định tái bổ nhiệm cùng vị hồng y lãnh đạo Hội Đồng Tòa Thánh Về Đối Thoại Liên Tôn và Hội Đồng Tòa Thánh Về Văn Hóa. Thành phần lãnh đạo tín đồ Hồi Giáo cho rằng hành động của ngài như thiếu tế nhị đối với vấn đề đối thoại liên tôn, làm suy yếu đi tầm quan trọng và căn tính của phân bộ Vatican này.

 

Về cuộc hội kiến, vị giáo sư triết gia này nói rằng Đức Thánh Cha bảo đảm là tín đồ Kitô Giáo và tín đồ Hồi Giáo là ‘đồng minh và bạn hữu’. Tuy nhiên, ông nói tiếp, ‘việc trở lại với tình trạng hận thù về chủng tộc và tôn giáo, về chủ nghĩa bài sắc dân Sơ Mít - Semitism (biệt chú của người dịch: sắc dân nói tiếng Sơ Mít cổ xưa này bao gồm cả Do Thái lẫn Ả Rập ở Trung Đông), đặc biệt nhắm đến tín đồ Hồi Giáo, là một mối đe dọa cho tất cả mọi người’.

 

Ông còn nói: ‘Hơn ai hết, Đức Thánh Cha biết rằng, ở lãnh vực đạo lý, một trong những sứ vụ của Giáo Hội đó là thực hiện việc chống lại con thú dơ bẩn này, chống lại thứ lý lẽ kiểu Faustian (biệt chú của người dịch: dường như ở đây vị giáo sư này muốn nói tới một thứ lý lẽ cuồng si, như được một huyền thoại Đức quốc là Faust legend, kể về một chiêm tinh gia muốn bán linh hồn cho quỉ để đổi lấy sự trẻ trung, kiến thức và ma thuật) và những chính sách háo chiến mạo ái quốc, tình trạng làm biến dạng các tôn giáo.

 

‘Tôi nói với ngài rằng tín đồ Hồi Giáo chúng tôi tin rằng Đức Thánh Cha sẽ nói những gì xác đáng liên quan tới những vấn đề của thế giới, nhờ đó đẩy lui những gì là bất công và duy chủng. Ngài đã hoàn toàn đồng ý là chúng ta cần có tâm tưởng nghiêm chỉnh khách quan và những dấu hiệu huynh đệ’.

 

Vị này còn cho biết khi ông bày tỏ quan điểm của Hồi Giáo thì ‘Đức Giáo Hoàng ân cần lắng nghe tôi nói… Về vấn đề bạo lực, tôi đã giải thích rằng Hồi Giáo yêu cầu mỗi một tín đồ của mình hãy thứ tha khi đối diện với đối phương, hãy nhẫn nại và xót thương.

 

‘Về trách nhiệm chung đương đầu với những thứ hung hăng tấn công, để tránh vấp phải lập luận về sói với chiên, cũng như để bênh vực quyền hiện hữu của các dân tộc, Hồi Giáo cho phép sử dụng một phương tiện ‘chiến tranh chính đáng’ một cách triệt để – một thứ chiến tranh được Vị Tiên Tri diễn tả như là một cuộc ‘tiểu’ thánh chiến – như việc tự vệ hợp pháp’.

 

Vị này cắt nghĩa thêm là nguyên tắc ‘chiến tranh chính đáng’, chứ không phải là ‘thánh chiến’, là những gì bao gồm ‘việc không bao giờ trở thành một kẻ tấn công, việc bảo vệ dân chúng – và theo những đan sĩ Kitô Giáo đặc biệt thì đó là thành phần yếu kém – bảo vệ môi trường và bao giờ cũng vô tư công bằng’.

 

‘Thánh Âu Quốc Tinh cũng nói như thế. Đức Giáo Hoàng đã đồng ý với tôi bằng một nụ cười. Cuộc đại thánh chiến là một nỗ lực tự chủ, hướng tới việc thăng hóa tinh thần, hướng tới những công việc đẹp đẽ. Định nghĩa này đối với ngài hình như là một thứ sáng tỏ hữu ích cần phải được biết tới’.

 

Triết gia người Algeria này đã cắt nghĩa thêm là ‘nhiệm vụ của chúng ta là ở chỗ chỉ trích những thứ sát nhập một cách thiếu tế nhị giữa Hồi Giáo và chủ nghĩa cực đoan. Cộng đồng Hồi Giáo có thể tự phục hồi và giúp thế giới tân tiến, một thế giới đang trải qua một thời điểm thảm thương, cho dù có những tiến bộ kỳ diệu về khoa học, trong việc tái sáng tạo một nền văn minh mới rất ư là cần thiết’.

 

Vị này cho biết rằng Đức Giáo Hoàng ‘bảo tôi là một trong những vấn đề của thời đại chúng ta đó là tình trạng tục hóa thái quá và chúng ta cần phải là chứng nhân can đảm và sáng suốt cho chiều kích tôn giáo nơi cuộc sống’.

 

Vị giáo sư triết gia này nói rằng ông đã đề nghị với Đức Thánh Cha 3 điều: 1) ‘tổ chức một cuộc hội luận liên tôn về đề tài chiến đấu với tình trạng hận thù tôn giáo’; 2) ‘nhậy cảm hóa cộng đồng quốc tế về tính chất đáng bị lên án nơi thành phần vi phạm và những cuộc tấn công phạm tới những biểu hiệu linh thánh của các tôn giáo’, và tôn trọng quyền ‘tự do phát biểu và bình luận’; 3) ‘nới rộng những nhóm hội và tổ chức thân hữu, đối thoại và nghiên cứu nơi tín đồ Hồi Giáo và Kitô Giáo trên khắp thế giới’.

 

‘Đức Thánh Cha đã nói với tôi rằng ngài hoàn toàn đồng ý với những quan tâm của chúng tôi, và hoàn toàn ủng hộ những mục tiêu cao quí ấy. Đây là một cuộc đối thoại không thể nào quên được về niềm tin và tư tưởng, hướng về người khác, chống lại tất cả mọi thứ hận thù, là một dấu hiệu của niềm hy vọng’.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 13/11/2006

 

 

TOP

 

 

“Tín Đồ Kitô Giáo và Hồi Giáo với Cuộc Tin Tưởng Đối Thoại để Cùng Nhau Giải Quyết Những Thách Đố Trên Thế Giới của Chúng Ta”.

 

Tòa Thánh gửi Sứ Điệp cho Tín Đồ Hồi Giáo nhân dịp Kết Thức Mùa Chay Tịnh Ramadan hằng năm

 

 

Các bạn Hồi Giáo thân mến,

 

1.         Tôi hân hoan gửi sứ điệp này đến các bạn lần đầu tiên với tư cách là chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh Đặc Trách Đối Thoại Liên Tôn, và gửi lời chào thân ái nhất của hội đồng này đến các bạn nhân dịp các bạn kết thúc mùa chay tịnh Ramadan.

 

Tôi xin chúc các bạn bình an, tĩnh lặng và hân hoan trong tâm hồn các bạn, trong gia đình các bạn và trong xứ sở của các bạn. Các lời chúc tốt đẹp này là những gì âm vang những lời chúc được Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đích thân bày tỏ vào đầu mùa chay tịnh Ramadan cùng những vị ngoại giáo thuộc các quốc gia đa số Hồi Giáo làm việc với Tòa Thánh, cùng những ai thuộc các xứ sở là phần tử và là quan sát viên của Tổ Chức Hội Nghị Hồi Giáo, cũng như cho các vị đại diện những cộng đồng Hồi Giáo ở Ý quốc.

 

2.         Thật là hay khi có thể chia sẻ giây phút quan trọng này với các bạn trong tương quan của việc đối thoại đang diễn tiến của chúng ta. Những hoàn cảnh đặc biệt chúng ta vừa cùng nhau cảm nghiệm được đã rõ ràng chứng tỏ rằng, dù gian nan khốn khó đến thế nào đi chăng nữa, có những lúc cuộc đối thoại chân thực là những gì cần hơn bao giờ hết.

 

3.         Tháng Ramadan mà các bạn vừa hoàn tất chắc chắn cũng là một thời gian nguyện cầu và suy nghĩ đến những tình trạng khó khăn trên thế giới ngày nay. Trong khi chiêm ngưỡng và tạ ơn Thiên Chúa về tất cả những gì tốt lành, chúng ta không thể nào không nhận thấy những vấn đề trầm trọng ảnh hưởng tới thời đại của chúng ta đây, như tình trạng bất công, nghèo khổ, căng thẳng và xung đột giữa các quốc gia cũng như trong các quốc gia với nhau.

 

Bạo lực và khủng bố đặc biệt là một nạn nhức nhối. Có quá nhiều mạng sống con người bị hủy diệt, có quá nhiều phụ nữ trở thành góa bụa, có quá nhiều trẻ em bị mất cha mất mẹ, có quá nhiều trẻ em bị mồ côi… Có quá nhiều người bị thương tật, về thể lý lẫn tâm thần…. Có quá nhiều thứ cần nhiều tháng năm hy sinh và lao nhọc để dựng xây lại bị hủy diệt trong vòng mấy giây phút!

 

4.         Là thành phần tín đồ Kitô Giáo và Hồi Giáo, không phải hay sao chúng ta là thành phần đầu tiên được kêu gọi để góp phần đặc biệt của chúng ta vào việc giải quyết tình hình trầm trọng và những vấn đề phức tạp ấy? Chắc chắn là cái thế giá của các tôn giáo, cũng như uy tín của các vị lãnh đạo tôn giáo cũng như của tất cả mọi tín hữu, là những gì cứng cát. Nếu chúng ta không thực hiện vai trò của chúng ta như thành phần tín hữu thì nhiều người sẽ đặt vấn đề về sự hữu ích của tôn giáo cùng tính chất chính đáng của tất cả mọi con người nam nữ cúi đầu trước Thiên Chúa.

 

Hai tôn giáo của chúng ta đều nhấn mạnh đến tầm quan trọng của yêu thương, nhân hậu và đoàn kết. Về khía cạnh này tôi muốn chia sẻ cùng các bạn sứ điệp nơi bức thông điệp đầu tiên của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI,ø “Thiên Chúa là Tình Yêu”, một sứ điệp âm vang “cái định nghĩa” sắc nét nhất về Thiên Chúa theo Thánh Kinh Kitô Giáo, “Thiên Chúa là tình yêu” (1Jn 4:8).

 

Tình yêu chân thực đối với Thiên Chúa là những gì bất khả phân ly với tình yêu tha nhân: “Ai nói rằng ‘tôi kính mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình là kẻ dối trá, vì một người không yêu thương anh em họ thấy được cũng không thể mến yêu Thiên Chúa là Đấng họ không thấy” (1Jn 4:20). Khi nhắc lại điều này, bức thông điệp ấy đã nhấn mạnh tới tầm quan trọng của đức ái huynh đệ trong sứ vụ của Giáo Hội, đó là Yêu Thương cần phải hiệu nghiệm mới khả tín.

 

Cần phải trợ giúp hết mọi người, bắt đầu là thành phần thiếu thốn nhất. Tình yêu chân thực cần phải phục vụ tất cả mọi nhu cầu trong cuộc sống hằng ngày; nó cũng cần phải tìm kiếm những giải pháp chính đáng và ôn hòa cho những vấn đề trầm trọng đang chi phối thế giới của chúng ta.

 

5.         Thành phần tín hữu đang dấn thân giúp đỡ dân chúng bị thiếu thốn hay tìm kiếm những giải pháp cho những vấn đề này, hãy làm như thế trước hết bằng tình họ kính mến Thiên Chúa, “vì dung nhan Thiên Chúa”. Thánh Vịnh 27 nói: “Ôi Chúa, con tìm kiếm dung nhan Chúa, xin đừng ẩn mặt xa con” (8b-9a).

 

Tháng chay tịnh mà các bạn vừa hoàn tất đây chẳng những làm cho các bạn quan tâm hơn tới việc nguyện cầu, còn làm cho các bạn nhạy cảm hơn với nhu cầu của người khác, nhất là thành phần đói khổ, gia tăng lòng quảng đại hơn với những ai đang lâm vào tình trạng buồn khổ.

 

6.         Chúng ta cần chú trọng và hành động đối với những nỗi lo lắng hằng ngày cùng với những trục trặc trầm trọng hơn nữa đang gây khó khăn cho thế giới đây. Chúng ta hãy nguyện cầu Thiên Chúa giúp chúng ta đương đầu với những thứ ấy một cách can đảm và cương quyết. Chúng ta đừng lao nhọc một cách tách biệt ở những nơi chúng ta có thể cùng nhau hoạt động.

 

Thế giới này đang cần đến và chúng ta cũng cần đến thành phần Kitô hữu và Hồi hữu biết tôn trọng và trân quí nhau và làm chứng cho lòng họ yêu thương nhau và cộng tác với nhau cho vinh quang của Thiên Chúa và thiện ích của toàn thể nhân loại.

 

7.         Bằng lòng cảm mến của tình bạn chân thành, tôi chào các bạn và gửi đến các bạn những tâm tưởng của tôi để các bạn suy nghĩ. Tôi xin Thiên Chúa Toàn Năng để những tâm tưởng ấy góp phần vào việc làm gia tăng ở khắp nơi mối liên hệ hiểu biết nhau hơn và hợp tác với nhau hơn giữa tín đồ Kitô Giáo và Hồi Giáo, nhờ đó họ góp phần quan trọng vào việc tái thiết lập và củng cố nền hòa bình trong các quốc gia và giữa các dân tộc, theo lòng mong muốn sâu xa của tất cả mọi tín đồ cũng như của tất cả mọi con người thành tâm thiện chí.

 

Hồng Y Paul Poupard, Chủ Tịch

 

Tổng Giám Mục Pier Luigi Celata, Bí Thư


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 20/10/2006

TOP