ĐÂU LÀ CHÂN TƯỚNG TIÊN TRI GIẢ – PHẢN KITÔ

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

 

 

Có một số người kể cả giới trẻ, hỏi tôi về một số vấn đề liên quan tới những hiện tượng thường xẩy ra. Chẳng hạn như một số hiện tượng rất thông dụng và tỏ tường hiện nay, đó là hiện tượng cầu nguyện bằng tiếng lạ, hiện tượng đặt tay ngã lăn quay, hiện tượng Đức Mẹ Mễ Du ở Nam Tư, hiện tượng bùa ngải v.v.

 

Về hiện tượng cầu nguyện bằng tiếng lạ, vào dịp Đại Hội Hồn Nhỏ Việt Nam Hải Ngoại 20 năm ở Orange County năm 1998, sau khi nghe tôi chia sẻ về chủ đề Hồn Nhỏ hôm đó, một chị bạn của nhà tôi ở San Dimas thuộc Tổng Giáo Phận Los Angeles đã đến với tôi trong giờ nghỉ giải lao và cho tôi biết là chị được ơn  cầu nguyện bằng tiếng lạ suốt mấy tiếng đồng hồ. Đó là lần đầu tiên tôi được một người trực tiếp đến nói với tôi về hiện tượng này. Tôi vui vẻ hỏi chị rằng vậy khi cầu nguyện bằng tiếng lạ như vậy chị có biết chị nói gì hay chăng, và chị trả lời là “không”, hay người khác có hiểu chị nói gì hay chăng, chị cũng đáp là “không”. Sau này, có một người bạn thân của tôi, cũng tích cực tham gia những sinh hoạt như người chị em này, đã cho tôi biết rằng cầu nguyện bằng tiếng lạ mà chính mình và người khác không hiểu gì là vì đó là “những lời than khôn tả” do Chúa Thánh Thần ở trong người được ơn cầu nguyện bằng tiếng lạ, như Thánh Phaolô nói tới trong Thư gửi giáo đoàn Rôma, đoạn  8 câu 26. Nghe thế, tôi lấy làm thắc mắc và đặt vấn đề với người bạn tôi như sau: Nếu vậy thì tại Kinh Lạy Cha là kinh Chúa dạy, hay Ca Vịnh Ngợi Khen của Mẹ Maria, những kinh tràn đầy Thánh Linh hơn bất cứ một lời nguyện cầu nào hết, thế mà đọc lên ai cũng hiểu, lại không được gọi là kinh tiếng lạ!

 

Về hiện tượng đặt tay ngã lăn quay, thì chứng nhân là một người thân trong đại gia đình của chúng tôi. Người nữ này đi tham dự những lễ nghi này với chồng, cách đây cả 20 năm, ở một cộng đoàn thuộc Tổng Giáo Phận Los Angeles. Trong khi người chồng tò mò tìm đến xem sao, như chẳng tin tưởng gì, nên chẳng hề hấn chi, còn người vợ thì thú rằng khi vừa được đặt tay lên đầu một chút thì tự nhiên cảm thấy choáng váng, tối tăm mặt mũi lại, rồi ngã lăn đùng ra. Sau khi nghe thuật lại như thế, tôi nói với người nữ thân thuộc ruột thịt này rằng, nếu “Thiên Chúa là ánh sáng, trong Ngài không hề có tối tăm” (1Gioan 1:5), thì Ngài phải kéo con người đến với ngài, như trường hợp xẩy ra nơi một số vị thánh, cầu nguyện đến xuất thần ngất trí, thậm chí có vị còn bay bổng cả thân mình trên cả mặt đất nữa, chứ Ngài đâu có đẩy mình ra, xô mình ngã bổ ngửa như vậy, chẳng còn biết trời đất đâu nữa, chẳng biết mình ở đâu nữa là làm sao? Một vị linh mục tiến sĩ giáo luật rất thân với tôi phỏng đoán hiện tượng này có liên quan tới vấn đề nhân điện sao đó.

 

Về hiện tượng Đức Mẹ Mễ Du Nam Tư. Tôi chưa hề đi, mà chỉ nghe thôi. Người ta nói là nhiều người đến đấy được thấy phép lạ, nhất là được ơn ăn năn cải thiện đời sống. Tôi thú thực là tôi không chú trọng tới hiện tượng Đức Mẹ Mễ Du cho lắm, trước hết vì giáo quyền chưa công nhận, trong khi đó lại xẩy ra tình trạng bất tuân phục giáo quyền ở đây; sau nữa, nhất là vì tôi “bị” thu hút bởi Biến Cố Fatima, đến nỗi, sau khi đi sâu vào Fatima, tôi thấy Fatima là Biến Cố Thánh Mẫu cả thể nhất và hệ trọng nhất, liên quan tới cả sứ mệnh của Giáo Hội hoàn vũ và định mệnh của thế giới trong lịch sử hiện đại. Tuy nhiên, tôi cũng thành thật bày tỏ điều thắc mắc của tôi về kiểu cách và thời gian kéo dài của hiện tượng Thánh Mẫu này với những ai hỏi tôi, những gì xẩy ra hoàn toàn khác hẳn với hai Linh Địa Thánh Mẫu lừng danh nhất thế giới, hai nơi đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến kính viếng với tư cách là Giáo Hoàng, đó là Linh Địa Lộ Đức và Linh Địa Fatima. Thật vậy, điều tôi thắc mắc ở đây là, trong khi ở Linh Địa Lộ Đức cũng như ở Linh Địa Fatima, Mẹ Maria khi hiện ra đều xin hãy đến với Mẹ bao nhiêu lần thôi (ở Fatima 6 lần, và ở Lộ Đức 15 lần), vào ngày giờ và địa điểm nhất định, và ban bố sứ điệp rất vắn gọn nhưng lại rất sâu xa và đầy đủ ý nghĩa, trong khi hiện tượng Đức Mẹ Mễ Du lại hoàn toàn khác hẳn. Cũng có thể vì thời điểm khác nhau mà Mẹ cần phải đổi phương pháp làm việc hay chăng? Bởi thế, riêng tôi, cần phải khôn ngoan chờ đợi phán quyết tối hậu của Giáo Hội.

 

Về hiện tượng bùa ngải, tôi chưa bao giờ thấy cũng chưa bao giờ gặp, chỉ nghe nói tới mà thôi. Trong trường hợp này tôi không có chứng nhân như hiện tượng cầu nguyện bằng tiếng lạ hay hiện tượng đặt tay ngã ngửa trên đây. Theo tôi thì có hiện tượng bùa ngải, do thành phần phù thủy thực hiện. Thật vậy, căn cứ vào Thánh Kinh, thành phần phù thủy của vua Pharao nước Ai Cập, cũng làm được những gì Aaron đi theo Moisen làm, như quẳng cây gậy cầm tay ra trở thành rắn và đồng thời họ cũng có thể biến nước thành máu (xem Xuất Hành 7:12, 22). Thánh Kinh không cho biết rõ quyền lực phù phép này của họ từ đâu mà có hay làm thế nào có được. Tất nhiên nếu không bởi Chúa thì bởi ma quỉ, vì quỉ cũng có thể làm được những sự lạ, chẳng hạn có thể đưa Chúa Giêsu lên  nóc đền thờ, hay đưa Người từ hoang địa lên núi cao, sau thời gian Người chay tịnh 40 ngày (xem Mathêu 4:5,8). Chưa hết, thành phần phù thủy này, theo Thánh Kinh, còn có thể liên lạc được với cả bên kia thế giới nữa. Như đã xẩy ra trong trường hợp của vua Saolê, vị vua đầu tiên của dân Do Thái bị Chúa bỏ, trong lúc bối rối trước quân lực Philitinh, không biết cầu vấn ai ngoài vị tiên tri Samuel đã qua đời của Chúa, nên đã phải giả dạng đến vào ban đêm xin một bà đồng bóng trong dân ở Endor giúp cho gặp lại vị tiên tri này, và vị tiên tri đã thực sự hiện về bảo cho vua biết rằng vua cùng với các con vua sẽ bị quân Philitinh sát hại vào ngày hôm sau (1Samuel 28:6-19).

 

Vấn đề được nhiều người hỏi tôi đặt ra ở đây là làm sao biết được đâu là giả và đâu là thật? Tức những hiện tượng này hay những hiện tượng tương tự xuất phát từ Chúa, mà không phải từ “tên gian trá và là cha của những dối trá” (Gioan 8:44), “tên dụ dỗ cả thế gian” (Khải Huyền 12:9), nhất là ở vào một thời điểm một số người cảm thấy loài người như đang sống vào thời tận thế, thời điểm “có nhiều tiên tri giả xuất hiện lừa được nhiều người” (Mathêu 24:11).

 

Hôm Thứ Năm 15/3/2007, tôi sang Tòa Giám Mục giáo phận Orange tham dự Thánh Lễ 12 giờ trưa hằng ngày tại đây như thường lệ vào giờ lunch của mình. Bài Phúc Âm hôm ấy là bài Phúc Âm theo Thánh Ký Luca, đoạn 11, từ câu 14 đến hết câu 23, về việc Chúa Giêsu trừ một tên quỉ câm, làm cho người câm nói được, và Người vừa được dân chúng khâm phục vừa bị một số người trong họ bấy giờ cho là Người dùng tướng quỉ mà trừ quỉ. Vị linh mục trẻ Việt Nam diễn giảng bài Phúc Âm và áp dụng vào tình trạng sống đạo của Kitô hữu, thành phần nhiều khi cũng bị quỉ câm ám, đến  nỗi không thể nào nói chuyện với nhau được, chỉ vì ghen tức với nhau. Vị linh mục này còn đặt vấn đề là làm sao phân biệt được đâu là việc bởi Chúa và đâu là việc do quỉ làm. Theo ngài thì quỉ không thể nào công nhận và chúc tụng Đức Kitô là Chúa. Tức là nếu ở đâu hay người nào không công nhận hay chúc tụng Đức Kitô là Chúa thì không phải từ Chúa mà là từ quỉ.            

 

Đúng thế, ngay trong thời của Chúa Giêsu, có những lúc ma qủi nhận ra Người, khi Người vừa xuất đầu lộ diện để thực hiện sứ vụ Thiên Sai của Người, điển hình nhất là lần Người, sau khi rời khỏi Nazarét là quê quán của Người, nơi dân chúng tính xô Người xuống suờn  núi cho chết (xem Luca 4:30), đến Caphanaum, vào hội đường, nơi đang có một người bị thần ô uế ám, thấy Người thì kêu to lên rằng: “Xin hãy mặc thây chúng tôi. Ông Giêsu Nazarét ơi, ông muốn làm gì chúng tôi đây? Chẳng lẽ ông lại đến để hủy diệt chúng tôi hay sao? Tôi biết ông là ai rồi: là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Luca 4:34). Tuy nhiên, dù có nhận ra Người, ma qủi cũng không chúc tụng Người.

 

Tuy nhiên, vì tự bản chất, ma quỉ là thành phần gian trá. Chúng có thể sử dụng bất cứ thủ đoạn nào để lọc lừa con người cho bằng được. “Thậm chí Satan tàng hình thành một thiên thần sáng láng” (2Corinto 11:14). Chẳng hạn, tự mình chúng không thể nào chúc tụng Đức Kitô là Chúa, nhưng qua thành phần tay sai, vô tình hay hữu ý theo hắn, hắn cũng chúc tụng Đức Kitô là Chúa, để nhờ đó lôi kéo những ai căn cứ vào dấu này mà tưởng là thành phần tay sai ấy bởi Chúa. Satan có thể dùng hai thủ đoạn, một phò một chống, tùy lúc và tùy người. Hắn chống là lúc hắn ra tay ngăn cản chúng ta làm lành, nhất là những trường hợp liên quan tới đức khiêm nhượng và phục tùng. Song cũng có những lúc hắn để cho chúng ta đang sốt sắng cứ tiếp tục sốt sắng. Chỉ cần vào một lúc nào đó, tưởng mình đã lên tới tận “tầng trời thứ ba” (2Cor 12:2) trên đường tu đức, chúng ta có một ý nghĩ tự cao, tự mãn, khinh người, bất phục v.v. là xong. Bởi thế, theo tôi, dấu hiệu để nhận ra đâu là bởi Chúa hay bởi quỉ còn ở chỗ những gì chính ma quỉ không thể nào tự mình thực hiện mà cả thành phần  tay sai của hắn cũng không thể làm được nữa mới là những dấu hiệu chính xác cho thấy bởi Chúa hay bởi quỉ. Dấu hiệu đó là gì? Chúng ta hãy lật lại Thánh Kinh.

 

Trước hết, vấn đề được đặt ra ở đây là nếu Satan và ngụy thần thực sự biết được nhân vật Giêsu Nazarét là chính Thiên Chúa, Vị Thiên Chúa Nhập Thể Làm Người, đúng như hắn cùng 1/3 thần trời theo hắn ngay từ ban đầu được Thiên Chúa tỏ cho biết (xem Khải Huyền 12:3-5), thì một đệ nhất tạo vật khôn ngoan như hắn có ngu đần dại dột đến nỗi xui bẩy con người sát hại Người để những gì Người hứa với hai nguyên tổ loài người sau nguyên tội (xem Khởi Nguyên 3:15) được nên trọn hay chăng; hay ngược lại, hắn sẽ dùng hết cách để ngăn trở dự án và công cuộc cứu độ của Người.  Chính vì một tên kiêu ngạo đưa mình lên đến tận trời như hắn không thể nào hiểu nổi và chấp nhận được việc một vị Thiên Chúa Làm Người, mặc lấy một bản tính thấp hèn hơn hắn, trở thành con của một người nữ tầm thường hơn hắn, mà hắn mới không nhận ra Đấng Thiên Sai nơi con người Giêsu Nazarét.

 

Tuy nhiên, qua những việc làm phi thường của nhân vật Giêsu Nazarét này, liên quan tới sự khôn ngoan và quyền năng phi thường của Người, một nhân vật hắn chưa từng thấy có trên thế gian là vương quốc vốn thuộc về hắn sau nguyên tội, hắn cũng cảm thấy thắc mắc và muốn dò la xem sao, qua việc cám dỗ Người trong hoang địa (xem Mathêu 4:1-11; Luca 4:1-13). Cũng chính vì hắn tự bản chất vốn kiêu  căng, ngạo mạn và ham quyền lực mà hắn đã có thể nhận ra Người "là Đấng Thánh của Thiên Chúa" (Luca 4:34; Marcô 1:24), thậm chí còn tuyên xưng Người "là Con Thiên Chúa Tối Cao" (Luca 8:28), bất cứ khi nào Người tỏ ra quyền năng hơn hắn, qua việc Người ra tay khu trừ hắn. Tuy nhiên, chính vì hắn thấy Người quyền năng trừ được hắn như thế, mà hắn lại càng bị confused lẫn lộn, chẳng hiểu gì cả, khi thấy Người có nhiều lúc trở nên quá ư là yếu đuối bất lực.

 

Chẳng hạn như những trường hợp Người tẩu thoát trước những kẻ muốn sát hại Người (xem Luca 4:30; Gioan 8:59); hay trường hợp Người là Thày và là Chúa mà lại cúi mình xuống rửa chân cho thành phần tôi tớ của Người (xem Gioan 13:13-14); đặc biệt là khi Người để cho thành phần bộ hạ của Hội Đồng Đầu Mục Do Thái bắt giải đi ở Vườn Cây Dầu sau Bữa Tiệc Ly (xem Marcô 14:43-52); nhất là khi thấy Người gò lưng vác thập giá, và dù cứu được người khác mà Người cũng không thể nào cứu được mình bằng cách tự mình xuống khỏi thập giá cho dù có bị trêu ngươi thách đố (xem Mathêu 27:39-44). Thế nhưng, tiếc thay cho hắn, chính lúc hắn nhận ra được Người qua miệng của viên đại đội trưởng Rôma dân ngoại: "Quả thực người này là Con Thiên Chúa" (Mathêu 27:54) thì đã quá muộn. Hắn đã hoàn toàn thảm bại, ở chỗ, trong khi hắn tìm kiếm thần tính của Người thì lại bị lầm lạc bởi nhân tính của Người, vị Thiên Chúa là "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14).

 

Đúng thế, Thánh Gioan Tông Đồ đã chỉ cho chúng ta thấy dấu hiệu ấy, khi ngài khẳng định rằng: “Ai là kẻ gian trá? Kẻ chối bỏ rằng Đức Giêsu là Chúa Kitô. Họ là tên phản Kitô…” (1Gioan 1:22-23); “nhiều người lừa đảo đã xuất hiện trong thế gian, những con người không nhận biết Chúa Giêsu Kitô đến trong xác thịt. Đó là kẻ lừa đảo! Họ là tên  phản Kitô” (2Gioan 7).

 

Căn cứ vào lời Chúa Giêsu trách cứ thánh Phêrô trong việc thánh nhân “không phán đoán theo Thiên Chúa mà chỉ theo loài người” (Mathêu 16:23), tức chỉ theo phán đoán tự nhiên của mình hướng về những gì tốt lành chủ quan, chứ “không chấp nhận” (Gioan 1:12) mạc khải của Thiên Chúa, một mạc khải được trọn vẹn thể hiện nơi “Lời đã hóa thành nhục thể” (Gioan 1:14) là Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thịt, chúng ta có thể kết luận để lột trần bộ mặt phản kitô nơi chính bản thân mình cũng như trong việc giao tiếp xã hội. Sau đây là một số dấu hiệu:           

 

Dấu hiệu thứ nhất: những ai không tuân phục quyền bính Giáo Hội và Đức Thánh Cha nói riêng, đều là phản kitô, vì Giáo Hội là thân thể của Chúa Kitô và vị đại diện của Người trên trần gian là đầu của thân thể này, không tuân phục Giáo Hội và Đức Thánh Cha là không công nhận Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thể. Căn cứ vào dấu hiệu thứ nhất này, chúng ta có thể quả quyết rằng bất cứ thần học gia nào, dù tài giỏi mấy đi nữa, mà không tuân phục Giáo Hội, không truyền đạt theo giáo huấn truyền thống của Giáo Hội, đều không phải bởi Chúa! Hay bất cứ một tín hữu nào nhiệt thành mấy đi nữa với việc nhà Chúa, song chỉ hăng say hoạt động và hy sinh đóng góp chỉ khi nào được như ý mà thôi, bằng không sẽ quay ra chống cha chống Chúa thì chắc chắn không phải bởi Chúa mà ra. Có thể lúc đầu họ hoàn toàn vì ý ngay lành, sau đó, không để ý và liên lỉ sống tinh thần cầu nguyện, họ đã từ từ xa cách Chúa.           

 

Dấu hiệu thứ hai có thể nhận diện thành phần phản kitô là họ không tin hay coi thường Bí Tích Thánh Thể, một thực tại thần linh mà Đức Giêsu Kitô còn đang hiện diện bằng cả thần tính cũng như nhân tính của Người nói chung và Mình Máu Thánh Người nói riêng; không tin hay tôn sùng Thánh Thể là dấu chứng tỏ phản kitô, thành phần không công nhận Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thịt.            

 

Dấu hiệu thứ ba cũng không kém phần vững chắc để nhận ra thành phần phản kitô là họ không nhận biết Mẹ Maria, thậm chí còn chỉ trích và chống đối việc tôn sùng Mẹ, vì như thế là họ tỏ ra cũng không công nhận Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thịt, tức đã được sinh ra bởi Mẹ Maria. Ở đây chúng ta có thể nghĩ đến những ai, vì vô tình hay hữu ý, đả phá hay chống đối lòng tôn sùng Thánh Mẫu, nhất là những việc tôn sùng Mẹ,  chẳng hạn  như việc lần hạt Mân Côi, cho rằng chỉ cần Thánh Thể và Phụng Vụ là đủ. Chúng ta có thể đặt vấn đề với những người này rằng, nếu Đức Kitô thực sự là Lời Nhập Thể mà còn nhờ Mẹ để vào trần gian và đến với loài người, là chính Thiên Chúa mà còn trở thành con cái của Mẹ và ngoan ngoãn vâng lời Mẹ, thì họ là ai mà lại coi thường Mẹ, trong khi đó lại tự cho rằng mình tôn thờ Vị Thiên Chúa Làm Người là Đấng có Thánh Thể được cấu tạo nên bởi chính huyết nhục trinh nguyên của Mẹ.

           

Dấu hiệu thứ bốn để nhận ra thành phần phản kitô là lòng thù hằn thánh giá của họ, ở chỗ không phải họ chỉ sợ hãi và tránh né thánh giá theo tính tự nhiên như mọi con người bình thường, mà còn dùng thủ đoạn bất chính để tiêu diệt thánh giá nữa, như ly dị, phá thai, triệt sản, triệt sinh an tử hay triệt sinh trợ tử v.v.; mà thánh giá là đường lối duy nhất Lời nhập thể đã dùng để cứu rỗi nhân loại, do đó, họ “trở thành những kẻ thù của thánh giá Đức Kitô” (Philiphê 3:18), tức là không công nhận Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thịt.

 

Như thế, theo tôi, muốn biết những gì (người và việc) bởi Thiên Chúa hay không, hãy căn cứ vào 4 dấu hiệu trên: đó là, trước hết và trên hết, tuân phục và hiệp nhất với Giáo Hội, sau đó, một khi đã hoàn toàn cùng hết lòng tuân phục và hiệp nhất với Giáo Hội rồi thì tự nhiên, chẳng những, về nội tâm, có một lòng tôn sùng Thánh Thể và Thánh Mẫu theo truyền thống và tinh thần của Giáo Hội, mà còn, về chứng từ, biết hy sinh chấp nhận mọi thánh giá đau khổ để theo Chúa và phục vụ tha nhân, theo gương Thánh Thể và Thánh Mẫu. Nếu thiếu 1 trong 4 dấu hiệu này, hãy cẩn thận coi chừng!

 

Có một lần cách đây cả 15 năm, tôi được một nhóm mời tới tham dự một buổi cầu nguyện và chia sẻ ở Orange County, thuộc thành phố Westminster. Họ đã đọc 50 Kinh Mân Côi rất sốt sắng, bằng những bài hát, lời nguyện tự phát, và những cử điệu đặc biệt, nửa tiếng mới xong. Sau đó, họ ngồi xuống chia sẻ sống đạo, một buổi chia sẻ sống đạo hầu như xoay quanh việc kêu ca, phê bình, và chỉ trích các vị linh mục. Nghe giọng điệu của họ tôi biết được những tâm tưởng ấy của họ phát xuất từ đâu. Tôi đã cho họ biết những gì tôi cảm nhận về họ, và khuyên họ hãy cẩn thận về những thứ tín liệu họ nhận được và bị ảnh hưởng hết sức tiêu cực như thế. Thế rồi sau buổi cầu nguyện và chia sẻ này, tôi không bao giờ được hân hạnh tới với họ lần thứ hai nữa.

 

Không cần phải áp dụng 4 dấu hiệu trên đây cho bất cứ người nào hay việc nào để biết người ấy hay việc ấy có thực sự bởi Chúa hay chăng, hãy áp dụng vào chính bản thân mình, chúng ta sẽ thấy chúng ta có thực sự hoàn toàn sống vì Chúa và cho Chúa hay chăng, chúng ta đã sống đạo chân thực tới đâu và trọn lành tới đâu. Ở đây, chúng ta hãy nhớ rằng cho dù chúng ta có những ý kiến hay đến đâu và có những ý muốn đẹp đến mấy đi nữa, lợi đến đâu chăng nữa, song ý kiến tự bản chất tốt lành ấy, hay ý muốn đầy thành tâm thiện chí ấy, vẫn có thể không hợp với ý muốn toàn thiện và vô cùng khôn ngoan của Thiên Chúa, đến nỗi chúng cần phải bỏ đi, bằng không, việc chúng ta làm không bởi Chúa hơn là bởi ý riêng chúng ta, bởi tinh thần bất phục của ngụy thần, tức bởi ma quỉ.

 

Điển hình nhất là trường hợp Mẹ Maria, đệ nhất tạo vật về ân sủng, cho dù có khấn giữ mình trinh nguyên “không hề biết đến nam nhân” (Luca 1:34) để có thể hoàn toàn sống cho Chúa và thuộc trọn về Chúa là hạnh phúc duy nhất của mình và là Sự Thiện tối cao của mình đi nữa, song Mẹ đã mau mắn bỏ ý định hết sức lành thánh này của Mẹ đi để tuân theo Ý Chúa, bằng không, việc Mẹ giữ mình đồng trinh sẽ không còn bởi Chúa nữa.

 

Điển hình thứ hai là trường hợp Thánh Phêrô, sau khi được Thày tỏ cho biết về thân phận Thiên Sai hết sức bất hạnh của Người, liền vì tình yêu mến Thày và lo cho Thày mà lên tiếng can gián Thày đừng có để xẩy ra như thế, song lại bị chính Thày quở trách thậm tệ: “Đồ Satan, hãy xéo đi cho khuất mắt Ta”. Tại sao? “Vì ngươi không phán đoán theo Thiên Chúa mà chỉ theo loài người thôi” (Mathêu 16:23).

 

Điển hình thứ ba là trường hợp của vua Saolê, vị vua thứ nhất của dân Do Thái, khi ông giữ lại những con vật béo tốt trong cuộc sát phạt dân Amalek, một cuộc sát phạt mà ông được lệnh phải tận diệt tất cả mọi sự, cả người lẫn thú, để mang về làm lễ vật dâng lên cho Chúa, nhưng việc ông làm lại bị tiên tri Samuel trách móc rằng vua sẽ bị Chúa phế bỏ vì vua bất tuân phục Ngài, và vị tiên tri kết luận: “vâng lời trọng hơn của lễ” (1Samuel 15:22).

 

Tóm lại, nếu Chúa Giêsu thực sự là Đấng Thiên Sai, do Thiên Chúa sai đến và từ Thiên Chúa mà đến, được chứng thực bởi việc Người không bao giờ làm theo ý riêng mình, mà chỉ làm theo ý Đấng đã sai (xem Gioan 6:38), “cho dù chết trên thập tự giá” (Philiphê 2:8), và cho dù có thể xuống khỏi thập giá trước những thách thức của thành phần chủ mưu sát hại Người, Người cũng không làm, thì bất cứ ai bởi Chúa mà đến hay việc gì bởi Chúa mà ra, đều mang ấn tín tuân phục, theo tinh thần “khôn như rắn và chân thật như bồ câu” (Mathêu 10:16), như Mẹ Maria đã làm mô phạm: Mẹ đã “khôn ngoan như rắn” khi ý thức (chứ không mù quáng) đặt vấn đề về sự thật “việc ấy thành sự sao được, vì tôi không hề biết đến nam nhân”, nhưng đồng thời Mẹ cũng “chân thật như bồ câu”, khi ngoan ngoãn tỏ ra mau mắn tuân phục vừa lúc biết được sự thật là Ý Chúa, bằng lời “Xin Vâng” (Luca 1:38)!