GIÁO HỘI HIỆN THẾ

 

 

Ý Chỉ của Đức Thánh Cha cho Tháng 5/2003

 

 

Ý Chung: “Xin cho trẻ em gặp khốn khó và những ai dấn thân phục vụ các em được luôn tìm thấy nơi Mẹ Maria, Mẹ sự sống, sự nâng đỡ và trợ giúp”.

Ý Truyền Giáo: “Xin Thánh Linh thắp lên lòng nhiệt thánh mới nơi các Giáo Hội địa phương ở Á Châu trong việc truyền bá phúc âm cho toàn Lục Địa này”.

 

 

___________________________________________

 3-10/5/2003

 

10/5 Thứ Bảy

Giá Trị Kinh Mân Côi

nơi Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria

Để biết được giá trị của một vật gì hay của một việc nào cần phải xem bản chất của nó ra sao và tác dụng hay lợi ích của nó như thế nào. Vậy bản chất của Kinh Mân Côi là gì và tác dụng của Kinh Mân Côi ra sao? Theo Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria, bản chất của Kinh Mân Côi liên quan đến tính cách Kitô học và nhân loại học siêu nhiên, và tác dụng của Kinh Mân Côi liên quan đến đời sống gia đình và hòa bình thế giới.

 

Trước hết, về bản chất, Kinh Mân Côi liên quan đến tính cách Kitô học, nghĩa là lấy Chúa Kitô làm trọng tâm, qui về Chúa Kitô. Như bài “Cách Thức Cầu Kinh Mân Côi Theo Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria” đã nhận định, Kinh Kính Mừng Maria chỉ là lời diễn tả “đức tin tuân phục” (Rm 1:5) của Mẹ Maria trước Mầu Nhiệm Chúa Kitô được gọi là Mầu Nhiệm Mân Côi. Tức là, ở Mầu Nhiệm Chúa Kitô nào cũng thế, nhất là Mầu Nhiệm Thương Khó của Người, chúng ta cũng tuyên xưng “Kính Mừng Maria đầy ơn phúc”, tuyên xưng “Mẹ có phúc vì đã tin” (Lk 1:45), một đức tin khiếm Mẹ lúc nào cũng “đầy ơn phúc” (Lk 1:28). Tính cách Kitô học này nơi Kinh Mân Côi, được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nói đến trong Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria chẳng những liên quan đến cả việc lập lại lời Kinh Kính Mừng mà còn liên quan cả đến cấu trúc của Tràng hạt Mân Côi nữa:

·        “Có điều rõ ràng là, mặc dù Kinh Mân Côi lập đi lập lại được trực tiếp dâng lên Mẹ Maria, nhưng tác động yêu thương với Mẹ và nhờ Mẹ cuối cùng lại được nhắm đến Chúa Giêsu. Việc lập đi lập lại được nuôi dưỡng bằng ước muốn nên giống Chúa Kitô hoàn toàn hơn, một hoạt trình đích thực của đời sống Kitô hữu… Kinh Mân Côi giúp chúng ta nên giống Chúa Kitô mỗi ngày một hơn cho đến khi chúng ta đạt tới tầm mức thánh thiện thực sự” (đoạn 26);

 

·        “Việc lần hạt Mân Côi từ trước đến nay vẫn được thi hành bằng việc sử dụng một cỗ tràng hạt. Nếu lần hạt mà chẳng để ý gì lắm thì các hạt chuỗi thường trở thành một cái máy thuần túy đếm thứ tự các Kinh Kính Mừng. Tuy nhiên, những hạt chuỗi này cũng có thể trở thành một biểu hiệu cho việc sâu xa chiêm niệm nữa. Ở đây, điều đầu tiên phải để ý là cách thức những hạt chuỗi này đồng qui nơi Cây Thánh Giá, nơi vừa mở ra lại vừa đóng lại cái tiến trình tỏ hiện của việc nguyện cầu. Đời sống và việc cầu nguyện của người tín hữu được tập trung vào Chúa Kitô. Hết mọi sự được bắt đầu từ Người, hết mọi sự đều qui về Người, hết mọi sự nhờ Người mà đến cùng Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần” (đoạn 36).

Sau nữa, bản chất Kinh Mân Côi liên quan đến vấn đề nhân loại học siêu nhiên, bởi vì, Mầu Nhiệm Chúa Kitô là Mầu Nhiệm Con Người (tiểu đề của đoạn 25), nghĩa là, nhờ chiêm ngắm dung nhan Chúa Kitô qua Mầu Nhiệm Mân Côi, chúng ta biết được ơn gọi làm người của mình và sống trọn thân phận làm người của mình (x Hiến Chế Vui Mừng Và Hy Vọng đoạn 22). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, một vị Giáo Hoàng xuất thân từ một nước cộng sản Balan, một vị Giáo Hoàng nổi bật chẳng những về lòng biệt tôn Thánh Mẫu mà còn cả về khoa nhân bản Kitô giáo nữa, đã khám phá ra nơi Kinh Mân Côi chiều kích nhân loại học siêu nhiên này như thế này:

·        “Theo ý nghĩa của những gì đã được nói đến về các mầu nhiệm của Chúa Kitô thì cũng chẳng khó khăn gì khi đi sâu vào tầm quan trọng về nhân loại học này của Kinh Mân Côi, một kinh nguyện rất sâu xa hơn dự tưởng ban đầu nhiều. Người nào chiêm ngưỡng Chúa Kitô qua các đoạn đời của Người không thể nào không nhận thấy nơi Người sự thật về con người… Kinh Mân Côi giúp vào việc mở đường dẫn đến ánh sáng này. Theo bước chân của Chúa Kitô, nơi Người con đường của con người được “qui hướng”, được thể hiện và được cứu chuộc, tín hữu tiến đến chỗ được giáp diện với hình ảnh của một con người thực sự. Khi chiêm ngưỡng Chúa Kitô giáng sinh, họ biết được tính cách linh thánh của sự sống; nhìn vào gia đình Nazarét, họ biết được sự thật nguyên thủy của đời sống gia đình theo dự án của Thiên Chúa; lắng nghe Vị Sư Phụ nơi những mầu nhiệm Người công khai thi hành thừa tác vụ của Người, họ thấy được ánh sáng dẫn họ vào Vương Quốc của Thiên Chúa; và theo Người trên con đường lên Canvê, họ biết được ý nghĩa của đau khổ cứu độ. Sau hết, khi chiêm ngưỡng Chúa Kitô và Thánh Mẫu của Người trong vinh quang, họ thấy được mục đích mà mỗi người trong chúng ta được kêu gọi tiến đến, nếu chúng ta để cho Thánh Linh chữa lành và biến đổi. Có thể nói rằng mỗi một mầu nhiệm Mân Côi được suy niệm cẩn thận sẽ làm sáng tỏ mầu nhiệm về con người. Đồng thời, tất cả mọi rắc rối, lo âu, vất vả và nỗ lực xẩy ra làm nên đời sống của chúng ta cũng có thể được dễ dàng dẫn đến với cuộc gặp gỡ với nhân tính thánh hảo này của Đấng Cứu Chuộc. ‘Hãy phó mặc nỗi nhọc nhằn của anh em cho Chúa, Ngài sẽ nâng đỡ anh em’ (Ps 55:23). Việc cầu Kinh Mân Côi là việc trao phó những gánh nặng của chúng ta cho trái tim nhân hậu của Chúa Kitô và Mẹ Người. Hai mươi lăm năm sau, khi nghĩ lại những khó khăn cũng là những gì làm nên thừa tác vụ Phêrô Tôi đã thực hiện, Tôi cảm thấy cần phải lập lại một lần nữa, như một lời thiết tha mời gọi hết mọi người hãy cảm nhận nơi bản thân mình, đó là: Kinh Mân Côi thực sự ‘làm nên nhịp sống của con người’, khi làm cho nhịp sống này hòa hợp với ‘nhịp’ sống của Thiên Chúa trong mối hiệp thông hoan lạc của Thiên Chúa Ba Ngôi, đích điểm và là ước vọng sâu xa nhất của cuộc đời chúng ta” (đoạn 25).

 

Sau hết, giá trị của Kinh Mân Côi chẳng những được chất chứa nơi bản chất của kinh này mà còn được thể hiện qua các tác dụng của mình nữa, đặc biệt nhất nơi vấn đề hòa bình thế giới và đời sống gia đình. Hai khía cạnh tác dụng này của Kinh Mân Côi hình như bao giờ cũng đi với nhau như hình với bóng. Trong Ngày Thế Giới Bệnh Nhân Lễ Đức Mẹ Lộ Đức 11/2/2003, mặc dù đang bị cảm cúm đến mất cả tiếng, nhưng Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng cố ra chào những người đến tham dự, kể cả những người ngồi trong xe lăn, từ cửa sổ phòng của Ngài. Ngài khan tiếng đọc lên mấy lời như sau:

·        “Trong năm nay, trước không ít lo âu về tương lai nhân loại, Tôi xin anh chị em hãy cầu Kinh Mân Côi cho hòa bình và các gia đình. Anh chị em bệnh nhân thân mến, anh chị em là những người đi tiên phong trong việc cầu nguyện cho ý chỉ chính này”.

Ở đoạn 6 Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria, Đức Thánh Cha đã nói đến khía cạnh Kinh Mân Côi liên quan đến cả hai vấn đề hòa bình thế giới và đời sống gia đình như sau:

·        “Một số những hoàn cảnh về lịch sử cũng cho thấy việc làm tái sinh động Kinh Mân Côi là việc rất hợp thời. Trước hết là nhu cầu nài xin Thiên Chúa ban cho tặng ân hòa bình. Có nhiều lần Kinh Mân Côi đã được những vị tiền nhiệm của Tôi cũng như chính Tôi đề ra như là một kinh nguyện cầu cho hòa bình. Vào lúc mở màn cho một thiên kỷ được bắt đầu bằng cuộc khủng bố tấn công kinh hoàng ngày 11/9/2001, một thiên kỷ hằng ngày chứng kiến thấy nơi vô số phần đất trên thế giới những cảnh tượng đổ máu và bạo loạn mới, thì việc tái nhận thức Kinh Mân Côi đó là việc dìm mình vào việc chiêm ngưỡng mầu nhiệm Chúa Kitô, Đấng ‘là hòa bình của chúng ta’, vì Người đã làm cho ‘chúng ta là hai trở thành một, và đã phá đổ bức tường hận thù ngăn cách’ (Eph 2:14). Bởi thế, người ta không thể lần hạt Mân Côi mà lại không cảm thấy gắn bó với việc dứt khoát dấn thân cổ võ hòa bình, nhất là ở miền đất của Chúa Giêsu là nơi vẫn còn phải chịu rất nhiều đau thương và rất thân thương với cõi lòng của hết mọi người Kitô hữu. Một nhu cầu tương tự cũng cần phải dấn thân và cầu nguyện liên quan đến một vần đề hiện đại quan trọng khác, đó là gia đình, tế bào căn bản của xã hội, đang càng ngày càng bị nguy biến bởi những lực lượng phân tán về cả phương diện ý hệ lẫn thực hành, khiến cho chúng ta lo sợ tương lai của cơ cấu nên tảng bất khả thiếu này, theo đó, lo sợ cho tương lai của toàn thể xã hội nữa. Việc làm sống lại Kinh Mân Côi nơi gia đình Kitô giáo, trong tương quan của một thừa tác mục vụ bao rộng hơn về gia đình, sẽ là một trợ giúp hữu hiệu để đối đầu với những ảnh hưởng tác hại của thứ khủng hoảng này nơi thời đại chúng ta”.

Về lý do tại sao Kinh Mân Côi có tác dụng xây dựng hòa bình thế giới, Đức Thánh Cha đã nói đến tác dụng hòa bình này nơi chính con người Cầu Kinh Mân Côi, nghĩa là một con người thực sự muốn cùng Mẹ Maria chiêm ngắm dung nhan Chúa Kitô, không thể nào lại là một con người sống hận thù chia rẽ, trái lại, theo tinh thần của Người, họ sẽ là một con người dấn thân xây dựng hòa bình:

·        “Kinh Mân Côi tự bản chất của mình là một kinh nguyện cầu cho hòa bình, vì kinh này bao gồm việc chiêm ngắm Chúa Kitô, Vua Hòa Bình, Đấng là ‘hòa bình của chúng ta’ (Eph 2:14). Ai liên kết mình với mầu nhiệm của Chúa Kitô – một liên kết thực sự là mục đích của Kinh Mân Côi – thì biết được bí quyết hòa bình và biến bí quyết này thành dự án hoạt động cho cuộc sống của mình. Ngoài ra, vì tính cách suy niệm của kinh này, ở chỗ âm thầm liên tục đọc các Kinh Kính Mừng, Kinh Mân Côi làm cho những ai lần hạt cảm thấy an bình, giúp cho họ lãnh nhận và cảm nghiệm được tận đáy lòng mình, và truyền bá ra chung quanh họ, một thứ hòa bình chân chính, ân huệ đặc biệt của Chúa Kitô Phục Sinh (x Jn 14:27; 20:21)… Kinh Mân Côi là một kinh nguyện cầu cho hòa bình còn là vì những hoa trái bác ái được trổ sinh từ kinh nguyện này. Khi được dùng để cầu nguyện theo đúng đường lối suy niệm, Kinh Mân Côi dẫn con người lần hạt đến chỗ gặp gỡ Chúa Kitô nơi các mầu nhiệm của Người, do đó, cũng không thể nào không chú ý tới dung nhan của Người nơi các kẻ khác, nhất là nơi thành phần khốn khổ nhất… Tóm lại, khi chúng ta gắn mắt nhìn lên Chúa Kitô, Kinh Mân Côi biến chúng ta thành những con người đi xây dựng hòa bình cho thế giới. Tự bản chất của mình, đóng vai trò như là một tiếng vang liên tục kêu xin hợp với lời kêu gọi của Chúa Kitô ‘hãy cầu nguyện không ngừng’ (Lk 18:1), Kinh Mân Côi khiến cho chúng ta hy vọng là, thậm chí kể cả ngày hôm nay đi nữa, chúng ta có thể chiến thắng trận chiến ‘khó khăn’ để tạo lập hòa bình này. Chẳng những không làm cho chúng ta lẩn tránh khỏi những rắc rối trục trặc của thế giới, Kinh Mân Côi còn bắt chúng ta phải nhìn những trục trặc rắc rối này bằng con mắt đầy trách nhiệm và dấn thân, và chiếm lấy cho chúng ta sức mạnh để chúng ta có thể đương đầu với những trục trặc rắc rối này bằng một lòng tin tưởng vào ơn trợ giúp của Thiên Chúa, cũng như bằng một ý hướng mãnh liệt muốn làm chứng ở mọi nơi mọi lúc cho một ‘tình yêu liên kết mọi sự lại với nhau trong hòa hợp’ (Col 3:14)” (đoạn 40).

Về lý do tại sao Kinh Mân Côi có thể cứu vãn tình trạng khủng hoảng hôn nhân và gia đình trong thời đại tân tiến hiện nay, Đức Thánh Cha cũng nhấn mạnh đến tác dụng của kinh này nơi chính con người Cầu Kinh Mân Côi, tức là, một con người thực sự muốn cùng Mẹ chiêm ngắm dung nhan Chúa Kitô qua các Mầu Nhiệm Chúa Kitô không thể nào lại là một người cha người chồng hay người vợ người mẹ bê bối được, không thể nào đi đến chỗ đổ vỡ hôn nhân và tan nát gia đình được, trái lại, còn xây dựng gia đình theo mẫu gương Thánh Gia Nazarét nữa:

·        “Là một kinh nguyện cầu cho hòa bình, Kinh Mân Côi còn là và bao giờ cũng là một kinh nguyện của gia đình và cho gia đình. Có một thời kinh nguyện này được các gia đình Kitô giáo đặc biệt mến chuộng, và kinh này chắc chắn đã làm cho họ gắn bó với nhau hơn. Vấn đề quan trọng là đừng làm mất đi cái gia sản quí báu ấy. Chúng ta cần phải trở lại với việc gia đình cầu nguyện và cầu nguyện cho gia đình, bằng cách tiếp tục đọc Kinh Mân Côi. Gia đình cùng nhau cầu nguyện là gia đình cùng nhau chung sống. Kinh Mân Côi Thánh, theo truyền thống lâu đời của mình, đã cho thấy công hiệu đặc biệt của mình như là một kinh nguyện làm cho gia đình chung sống với nhau. Những phần tử của mỗi gia đình, khi hướng mắt nhìn lên Chúa Giêsu, cũng lấy lại được khả năng nhìn vào mắt của nhau, khả năng nói chuyện với nhau, khả năng chứng tỏ tình đoàn kết gắn bó với nhau, khả năng tha thứ cho nhau, và khả năng nhìn thấy giao ước yêu thương của họ được canh tân trong Thần Linh Chúa. Các gia đình đương thời hiện nay đang phải đối diện với nhiều vấn đề, nhất là trong những xã hội phát triển về kinh tế, gây ra bởi tình trạng họ càng ngày càng cảm thấy khó nói chuyện trao đổi với nhau hơn. Các gia đình ít khi tổ chức việc qui tụ các phần tử gia đình của mình lại với nhau, và khi họ thực hiện những cơ hội hiếm hoi này thường lại là việc họ ngồi coi truyền hình. Vấn đề quay về với việc lần hạt Mân Côi gia đình nghĩa là việc làm cho đời sống thường nhật tràn đầy những hình ảnh khác hẳn, những hình ảnh về mầu nhiệm cứu độ, tức hình ảnh về Đấng Cứu Chuộc, hình ảnh về Người Mẹ Rất Thánh của Người. Gia đình đọc Kinh Mân Côi chung với nhau làm phát sinh một cái gì đó giống như bầu khí của ngôi nhà Nazarét, ở chỗ, các phần tử của gia đình lấy Chúa Giêsu làm tâm điểm của mình, biết cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, biết đặt các nhu cầu và dự định của mình vào bàn tay của Người, biết tìm kiếm từ nơi Người niềm hy vọng và sức mạnh để tiến bước” (đoạn 41).

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

9/5 Thứ Sáu

Cách Thức Cầu Kinh Mân Côi

theo Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria

Nếu những ai coi trọng Phụng Vụ đến nỗi đã chẳng những không lần hạt Mân Côi, mà còn thậm chí đả phá truyền thống tốt đẹp này, cho rằng Kinh Mân Côi là một thứ kinh của đàn bà con nít, xin hãy đọc kỹ Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, nhất là ở đoạn 4 sau đây:

·        “Có một số người nghĩ rằng vai trò chính yếu của phụng vụ đã được Công Đồng Chung Vaticanô II nhấn mạnh cần phải tiến đến chỗ làm cho Kinh Mân Côi ít quan trọng đi. Tuy nhiên, như Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã làm sáng tỏ, chẳng những kinh nguyện này không tương khắc với Phụng Vụ, kinh này còn bảo dưỡng cho phụng vụ nữa, vì kinh này đóng vai trò dẫn lỗi tuyệt vời tới Phụng Vụ và là một tiếng vang trung thực của Phụng Vụ, giúp tín hữu tham dự Phụng Vụ một cách trọn vẹn và sâu xa, cũng như giúp cho họ gặt hái được những hoa trái phụng vụ trong đời sống hằng ngày của họ”.



Đúng thế, nếu bản chất của Phụng Vụ là cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô, là “nhớ đến Thày” (Lk 22:19), thì việc suy niệm Mầu Nhiệm Chúa Kitô bằng Kinh Mân Côi không phải là việc sống phụng vụ, là khát vọng muốn Mầu Nhiệm Chúa Kitô được hiện thực nơi đời sống Kitô hữu của mình hay sao?

Thật vậy, theo Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trọng tâm của Kinh Mân Côi là Chúa Kitô hơn là Mẹ Maria. Bởi thế, Ngài đã minh định bản chất của hành động thực hiện việc cầu nguyện bằng thứ Kinh Nguyện Thánh Mẫu tuyệt diệu này như sau:

·        “Việc lần hạt Mân Côi không là gì khác ngoài việc cùng với Mẹ Maria chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô” (đoạn 3);  

·        “Kinh Mân Côi là một trong những đường lối truyền thống của việc Kitô hữu cầu nguyện hướng đến vấn đề chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô” (đoạn 18).

Đó là lý do, theo cấu trúc của mình, Kinh Mân Côi gồm có hai phần rõ rệt, phần khẩu nguyện là việc đọc kinh, nhất là Kinh Kính Mừng Maria, và phần tâm nguyện là việc suy niệm các Mầu Nhiệm Mân Côi, tức các Mầu Nhiệm Chúa Kitô. Nếu Mầu Nhiệm Mân Côi là Mầu Nhiệm Chúa Kitô, cốt lõi làm nên Kinh Mân Côi, một kinh nguyện chính yếu lại là Kinh Kính Mừng Maria, thì đọc Kinh Mân Côi mà không suy niệm Mầu Nhiệm Mân Côi sẽ chẳng khác gì như xác không hồn. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã lập lại điều này của Đức Thánh Cha Phaolô VI như sau:

·        “Chính vì được bắt nguồn từ cảm nghiệm riêng của Mẹ Maria, Kinh Mân Côi là một kinh chiêm niệm tuyệt hảo. Thiếu chiều kích chiêm niệm này, Kinh Mân Côi sẽ mất đi ý nghĩa của mình, như Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã tỏ tường vạch ra cho thấy điều ấy: ‘Thiếu chiêm niệm, Kinh Mân Côi là một cái xác không hồn, và việc lần hạt có nguy cơ sẽ trở thành một việc lập đi lập lại theo công thức như máy móc, một việc phạm đến lời cảnh cáo của Chúa Kitô: ‘Khi cầu nguyện chớ lảm nhảm như kiểu của Dân Ngoại, vì họ nghĩ rằng cứ phải nhiều lời thì việc cầu nguyện của họ mới có công hiệu’ (Mt 6:7)” (đoạn 12).

Tuy nhiên, theo Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II dạy, ngay trong chính Kinh Mân Côi, tức Kinh Kính Mừng Maria, Chúa Giêsu cũng đóng vai chủ chốt nữa:

·        “Trọng tâm nơi Kinh Kính Mừng, cái then chốt thực sự gắn nối hai phần của kinh này lại với nhau đó là tên của Chúa Giêsu. Đôi khi, vì vội vàng lần hạt chúng ta đã không để ý đến trọng tâm này cho lắm, và bởi thế cũng chẳng chú ý tới việc chiêm ngưỡng mầu nhiệm Chúa Kitô liên quan đến trọng tâm ấy. Tuy nhiên, chính việc chăm chú đến danh của Chúa Giêsu cũng như đến mầu nhiệm của Người là dấu hiệu chứng tỏ việc lần hạt Mân Côi có ý vị và hiệu quả” (đoạn 33);  

·        “Bằng việc đọc lên những lời của Thiên Thần Gabiên và của bà Thánh Isave trong Kinh Kính Mừng, chúng ta cảm thấy mình liên lỉ được thúc đẩy tìm kiếm lại nơi Mẹ Maria, nơi đôi cánh tay của Mẹ, cũng như nơi trái tim của Mẹ, ‘quả phúc của lòng Mẹ’ (x Lk 1:42)” (đoạn 24).

Chính vì Chúa Giêsu là trọng tâm của Kinh Kính Mừng nói riêng và của Mầu Nhiệm Mân Côi nói chung mà một trong những cách Đọc Kinh Mân Côi (say Rosary), đúng hơn, Cầu Kinh Mân Côi (pray Rosary – ở Fatima Mẹ Maria bao giờ cũng dùng chữ “cầu Kinh Mân Côi” nhấn mạnh đến cõi lòng, chứ không dùng chữ đọc Kinh Mân Côi có vẻ môi miệng bề ngoài), hay trịnh trọng hơn nữa, Cử Hành Mầu Nhiệm Mân Côi, đó là chú trọng đến Danh Thánh Giêsu, bằng cách thêm một câu vắn tắt hợp với mỗi mầu nhiệm của chục kinh vào ngay sau tên Chúa Giêsu trong Kinh Kính Mừng. Đây là phương pháp của Thánh Long-Mộng-Phố (Louis Montfort) từ đầu thế kỷ 18, được thánh nhân đề nghị trong cuốn Bí Mật Kinh Mân Côi, chương nói về “Phương Pháp Thứ Hai”. Trong Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng đã nhắc lại phương pháp đã được thịnh hành này như sau:

·        “Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, trong Tông Huấn Marialis Cultus của Ngài, đã để ý đến thói lệ ở một số nơi về việc đề cao tên của Chúa Kitô, bằng cách thêm vào một cụm từ nói đến mầu nhiệm đang được chiêm ngắm. Đây là một thói lệ đáng khen, nhất là khi lần hạt chung. Thói lệ này cho thấy việc bày tỏ mạnh mẽ đức tin của chúng ta nơi Chúa Kitô ở những lúc khác nhau trong cuộc đời của Đấng Cứu Chuộc. Nó đồng thời là một lời tuyên xưng đức tin và còn giúp cho cả việc cầm trí suy niệm của chúng ta nữa, vì nó làm cho tiến trình thấm nhập vào mầu nhiệm Chúa Kitô dễ dàng hơn ở việc lập đi lập lại lời Kinh Kính Mừng. Khi chúng ta lập lại tên Chúa Giêsu – một danh xưng duy nhất đã được ban cho chúng ta để nhờ đó chúng ta hy vọng được cứu rỗi (x Acts 4:12) – đi liền với tên của Vị Thánh Mẫu, một việc hầu như được thực hiện theo ý nghĩ của Mẹ, là chúng ta khởi sự con đường nhắm đến việc giúp chúng ta đi sâu hơn vào đời sống của Chúa Kitô” (đoạn 33).

Ngoài ra, vì Kinh Mân Côi có tính cách chiêm niệm mới có việc lập đi lập lại Kinh Kính Mừng. Thật vậy, một khi lên tới bậc chiêm niệm cao, con người cầu nguyện sẽ đi tới chỗ Cảm Nghiệm Thần Linh trong mọi lúc, đến độ, họ chỉ có thể cầu nguyện bằng lòng hơn bằng lời, tuy nhiên, có những lúc chất ngất, họ cũng có thể thốt lên “những lời than khôn tả” (Rm 8:26), ngắn thôi, ít thôi, nhưng tràn đầy ý nghĩa, tràn đầy ý thức, tràn đầy yêu thương. Kinh Kính Mừng thật sự là một lời than khôn tả, một lời lẽ hợp với Mẹ nhất, cần phải lập đi lập lại, để cùng với Mẹ “đầy ơn phúc”, chẳng những “được Chúa ở cùng” (Lk 1:28) mà còn “có phúc vì đã tin” (Lk 1:45), ở chỗ, lúc nào cũng Mẹ chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô, tức cũng tỏ ra “đức tin tuân phục” (Rm 1:5) trước Mạc Khải Thần Linh, dù dung nhan ấy, Con Người Thần Linh ấy có bé nhỏ thấp hèn ở Mầu Nhiệm Mùa Vui, hay có khổ nhục thảm bại ở Mầu Nhiệm Mùa Thương, một Mầu Nhiệm Vượt Qua thậm chí đã làm lay chuyển tận gốc đức tin của các vị tông đồ chứng nhân tiên khởi. Trong Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã xác nhận tính cách tái lập Kinh Kính Mừng theo chiều hướng chiêm niệm này như sau:

·        “Việc suy niệm các mầu nhiệm Chúa Kitô nơi Kinh Mân Côi được thực hiện bằng phương pháp giúp cho những mầu nhiệm này thấm nhập. Đó là phương pháp căn cứ vào việc lập đi lập lại. Phương pháp này áp dụng nhất là cho Kinh Kính Mừng, được lập lại 10 lần ở mỗi chục. Nếu nông cạn suy nghĩ về việc lập đi lập lại này sẽ có khuynh hướng thấy rằng Kinh Mân Côi là một việc làm khô khan và nhàm chán. Tuy nhiên, vấn đề lại hoàn toàn khác hẳn, một khi Kinh Mân Côi được cho như là việc tuôn tràn một thứ yêu thương không ngừng trở về với người được yêu, bằng những bày tỏ như nhau ở nội dung của chúng, nhưng mới mẻ hơn, với đầy cảm nhận trong những lời bày tỏ này” (đoạn 26).

Tuy nhiên, chính vì Kinh Mân Côi là một kinh nguyện chiêm niệm, chiêm niệm Mầu Nhiệm Chúa Kitô, chiêm niệm những mầu nhiệm cao cả chứ không phải tầm thường, mà Kitô hữu có thể hay cần phải thực hiện thêm ba điều bề ngoài sau đây: hình ảnh tượng hình hợp với mỗi mầu nhiệm, tuyên bố Lời Chúa cho từng mầu nhiệm, và thinh lặng sau khi nghe công bố mỗi mầu nhiệm. Trong Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhắc đến ba tác động bề ngoài hữu ích này, như đã được đề cập đến ở lời mở đầu là:

·        “Việc công bố mỗi một mầu nhiệm, thậm chí có thể dùng một ảnh tượng xứng hợp nào đó về mầu nhiệm này, thực sự là việc mở ra cho thấy một thảm kịch cần chúng ta phải chú ý tới” (đoạn 29);  

·        “Để có một nền tảng Thánh Kinh và suy niệm sâu xa hơn, cần phải theo dõi việc công bố mầu nhiệm bằng việc loan báo một đoạn Thánh Kinh liên hệ với từng mầu nhiệm, dài hay ngắn cũng được, tùy hoàn cảnh cho phép” (đoạn 30);  

·        “Sau việc công bố mầu nhiệm và loan báo lời Chúa cần phải dừng lại một khoảng thời gian thích hợp để chú tâm đến mầu nhiệm liên hệ trước khi bước sang phần khẩu nguyện. Việc nhận thức ra tầm mức quan trọng của sự thinh lặng là một trong những bí quyết của việc thực hành chiêm niệm và suy niệm… Như những giây phút thinh lặng được khuyên giữ trong Phụng Vụ thế nào, trong việc lần hạt Mân Côi cũng thế, cũng cần thinh lặng một chút sau khi nghe lời Chúa để tâm trí chúng ta chú ý đến nội dung của mầu nhiệm được công bố” (đoạn 31).

Thế nhưng, nếu Kinh Mân Côi là một kinh nguyện chiêm niệm, chiêm niệm Mầu Nhiệm Chúa Kitô, Con của Mẹ Maria, mà không ai biết Con bằng Mẹ, gắn bó với Con bằng Mẹ, chiêm niệm Con như Mẹ, thì không còn cách nào hay hơn, tuyệt hơn trong việc chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô bằng cách với Mẹ Maria, với chính con mắt của Mẹ. Đây là điểm nổi bật nhất trong Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria, một phương pháp và là một tác động Cầu Kinh Mân Côi, Lần Hạt Mân Côi được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II dạy thực hiện:

·        “Việc chiêm ngắm Chúa Kitô đã được thể hiện nơi một mô phạm khôn sánh là Mẹ Maria. Dung nhan của Người Con này đặc biệt thuộc về Mẹ Maria. Chính trong cung lòng của Mẹ mà Chúa Kitô đã được hình thành, khi Người nhận lấy từ nơi Mẹ một hình ảnh giống như con người, một hình ảnh cho thấy cái giống nhau về thiêng liêng còn hơn thế nữa. Không một ai đã từng chú trọng vào việc chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô một cách trung thành cho bằng Mẹ Maria. Ánh mắt của trái tim Mẹ đã hướng về Người vào lúc Truyền Tin, khi Mẹ thụ thai Người bởi quyền phép Thánh Linh. Vào những tháng sau đó, Mẹ bắt đầu cảm nhận được sự hiện diện của Người và mường tượng thấy được những đường nét của Người. Cho đến khi Mẹ hạ sinh Người ở Bêlem, đôi mắt của Mẹ trìu mến nhìn vào dung nhan Người Con của Mẹ, khi Mẹ ‘bọc Người trong khăn và đặt Người nằm vào máng cỏ’ (Lk 2:7). Sau đó, ánh mắt đầy kính tôn và suy tưởng của Mẹ Maria không bao giờ xa lìa Người. Có những lúc nó là một cái nhìn thắc mắc, như trong trình thuật tìm thấy Người trong Đền Thờ: ‘Hỡi Con, sao con lại đối xử với chúng tôi như vậy?’ (Lk 2:48); nó bao giờ cũng là một cái nhìn thấu suốt, một cái nhìn có khả năng thấu triệt được Chúa Giêsu, cho đến độ nhận thấy được cả những xúc cảm kín đáo của Người và tiên vọng được cả những quyết định của Người, như ở tiệc cưới Cana (x Jn 2:5). Có những lúc nó là một cái nhìn sầu bi, nhất là ở dưới chân cây Thập Giá, nơi mà cái nhìn của Mẹ cũng giống như cái nhìn của một người mẹ đang lâm bồn sinh con, vì Mẹ Maria chẳng những thông phần khổ nạn và tử nạn với Con Mẹ, mà còn nhận lấy một người con mới được trao phú cho Mẹ nơi bản thân của người môn đệ Chúa Giêsu yêu (x Jn 19:26-27). Vào buổi sáng lễ Phục Sinh, cái nhìn của Mẹ là một ánh mắt rạng ngời niềm vui Phục Sinh, và sau hết, vào ngày Lễ Ngũ Tuần, cái nhìn của Mẹ là một ánh mắt bừng sáng khi Thần Linh được tuôn đổ xuống (x Acts 1:14)” (đoạn 10);

Tóm lại, nếu Kinh Mân Côi Thật là một kinh nguyện chiêm niệm tuyệt hảo thì cách thức, phương pháp hay đường lối Cầu Kinh Mân Côi hay nhất là “cùng với Mẹ Maria chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô” (đoạn 3). Bởi vì:

·        “Mẹ Maria đã sống động bằng đôi mắt gắn chặt vào Chúa Kitô, lưu giữ hết mọi lời Người nói: ‘Mẹ giữ lấy tất cả những điều ấy mà suy niệm trong lòng’ (Lk 2:19; x 2:51). Những ký ức về Chúa Giêsu được in sâu trong lòng Mẹ ấy luôn luôn ở với Mẹ, khiến cho Mẹ suy nghĩ vào những giây phút khác nhau của cuộc đời Mẹ ở bên Con Mẹ. Những điều Mẹ tưởng niệm này có thể được coi như ‘kinh mân côi’ Mẹ không ngừng lần suốt cuộc sống trần gian của Mẹ” (đoạn 11).

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

8/5 Thứ Năm

Trong Năm Mân Côi (16/10/2002-19/10/2003), gần 6 tháng qua đi rồi, chúng ta đã đáp ứng lời kêu gọi của Vị Chủ Chăn tối cao của chúng ta trong việc lần hạt Mân Côi hay chưa? Chúng ta đã đọc và thấu hiểu phần nào những gì Ngài viết trong bức tông thư mục vụ quan trọng này chưa? Chúng ta đã thực hành ra sao những lời Ngài khuyên dụ trong văn kiện này? Thoidiemmaria.net xin mạo muội chia sẻ loạt bài về Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria của ÐTC Gioan Phaolô II, hôm nay, ngày mai và ngày mốt.

 

Mục Đích Năm Thánh Mẫu Mân Côi 10/2002-2003

 

Để biết được đích xác lý do tại sao Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mở Năm Mân Côi hay để biết mục đích Ngài mở Năm Mân Côi làm gì, chúng ta cần phải chẳng những căn cứ vào những gì Ngài viết ở đoạn 3 về Năm Mân Côi trong Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria được ban bố trong buổi triều kiến chung hằng tuần, Thứ Tư 16/10/2002, ngày kỷ niệm đúng 24 năm được bầu làm giáo hoàng, mà còn phải căn cứ vào cả Tông Thư Vào Lúc Mở Màn Cho Một Tân Thiên Niên Kỷ được ban hành vào ngày Lễ Chúa Hiển Linh 6/1/2001 để kết thúc Đại Năm Thánh 2000 nữa. Thật vậy, trong Tông Thư Vào Lúc Mở Màn Cho Một Tân Thiên Niên Kỷ, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tỏ ra, về phần tiêu cực, cảm thấy lo âu về vấn đề sống đạo Hậu Đại Năm Thánh của cộng đồng Dân Chúa khắp nơi trên thế giới, nên về phần tích cực, Ngài đã thúc giục cộng đồng Dân Chúa hãy tiếp tục làm cho Hồng Ân Năm Thánh được trổ sinh hoa trái, ở chỗ tiếp tục sống di sản của Đại Năm Thánh là việc chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô, bằng nỗ lực nên thánh qua đời sống cầu nguyện.

Trước hết, ĐTC cảm thấy lo âu về vấn đề sống đạo Hậu Đại Năm Thánh:

• “Giờ đây chúng ta phải nhìn về phía trước, chúng ta phải tin tưởng vào lời của Chúa Kitô: Duc in altum để ‘thả lưới ở chỗ nước sâu’. Những gì chúng ta đã thực hiện trong năm nay không thể biện minh cho cảm giác tự mãn, và càng không thể để cho những việc đó khiến chúng ta buông lơi việc dấn thân của mình. Ngược lại, cảm nghiệm chúng ta có được phải khơi lên trong chúng ta một nguồn sinh lực mới, và thôi thúc chúng ta đem nhiệt tình chúng ta đã cảm nghiệm được đầu tư vào những việc làm cụ thể. Chính Chúa Giêsu đã cảnh giác chúng ta rằng: ‘Ai đã tra tay vào cầy mà còn quay trở lại thì không xứng với vương quốc của Thiên Chúa’ (Lk 9:62). Vì Vương Quốc này mà chúng ta không có thời gian để nhìn lại, thậm chí càng không được trở thành lười biếng” (đoạn 15.2);

• “Vào lúc kết thúc Cuộc Mừng Kỷ Niệm đây, khi mà chúng ta trở lại với sinh hoạt thường nhật, ôm ấp trong lòng kho tàng của chính thời điểm đặc biệt ấy, mắt chúng ta lại càng phải gắn chặt vào dung nhan của Chúa hơn bao giờ hết” (đoạn 16.2).

Sau nữa, ĐTC thúc giục cộng đồng Dân Chúa tiếp tục làm cho Hồng Ân Năm Thánh sinh hoa kết trái:

• “Tôi hy vọng rằng, trong số những ai tham dự vào Cuộc Mừng Kỷ Niệm này, nhiều người sẽ được lợi ích bởi ân sủng ấy, ở chỗ, hoàn toàn nhận thức được những đòi hỏi của ân sủng mình nhận được. Để rồi, Cuộc Mừng Kỷ Niệm có qua đi, trở về với đời sống bình thường, chúng ta vẫn ý thức được rằng, sự thánh thiện quan thiết vẫn còn là một việc mục vụ khẩn trương hơn bao giờ hết” (đoạn 30.2).

Sau hết, ĐTC kêu gọi tiếp tục sống di sản của Đại Năm Thánh là việc chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô, bằng nỗ lực nên thánh qua đời cầu nguyện:

• “Cuộc mừng kỷ niệm này đã để lại nơi chúng ta nhiều nhung nhớ. Thế nhưng, nếu chúng ta hỏi cốt lõi của di sản lớn lao lưu lại nơi chúng ta ấy là gì, Tôi sẽ không ngần ngại cho di sản lớn lao đó là việc chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô, một Chúa Kitô được nhìn qua những tính chất lịch sử và mầu nhiệm của Người, một Chúa Kitô được nhận biết ở việc Người hiện diện nhiều mặt nơi Giáo Hội cũng như trên thế giới, và được tuyên xưng như là chính ý nghĩa của lịch sử cũng như là ánh sáng cho cuộc hành trình của cuộc sống” (đoạn 15.1);

• “Việc luyện tập nên thánh này đòi cuộc sống Kitô hữu phải nổi vượt về nghệ thuật cầu nguyện. Năm Mừng Kỷ Niệm là một năm cầu nguyện tha thiết hơn, riêng cũng như chung… Cầu nguyện làm phát triển cuộc trao đổi với Chúa Kitô, Đấng làm cho chúng ta trở thành những bạn hữu thân thiết của Người: ‘Các con hãy ở trong Thày và Thày ở trong các con’ (Jn 15:4). Cuộc trao đổi tương thân này là chính bản chất và là linh hồn của đời sống Kitô hữu, cũng là điều kiện cho tất cả mọi sinh hoạt mục vụ đích thực nữa. Cuộc trao đổi tương thân này, do Chúa Thánh Thần mang lại cho chúng ta, hướng chúng ta tới việc chiêm ngưỡng dung nhan Cha, nơi Chúa Kitô và trong Chúa Kitô. Học được việc cầu nguyện theo kiểu mẫu Ba Ngôi Thiên Chúa này, cũng như sống kiểu mẫu cầu nguyện đó một cách trọn vẹn, đặc biệt trong phụng vụ là tuyệt đỉnh và là nguồn mạch của đời sống Giáo Hội (Hiến Chế Phụng Vụ Thánh, 10), mà còn cả theo cảm nghiệm riêng tư của mình nữa, đó là bí quyết của một Kitô Giáo thực sự sinh động, một Kitô Giáo không lo sợ về tương lai, vì nó liên tục trở về nguồn và tìm thấy nơi chính mình sự sống mới” (đoạn 32);

• “Nhu cầu khẩn thiết trước tiên là hãy lợi dụng lòng ước muốn chiêm ngưỡng Chúa Giêsu Kitô như chúng ta đã cảm nghiệm thấy trong năm Mừng Kỷ Niệm. Qua dung nhan nhân loại của Người Con Mẹ Maria ấy, chúng ta nhận ra Lời hóa thành nhục thể nơi tất cả thần tính và nhân tính của Người” (đoạn 8.1).

Theo chiều hướng sống di sản Đại Năm Thánh là việc chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô bằng việc cầu nguyện này của Tông Thư Mở Màn Cho Một Tân Thiên Niên Kỷ trên đây, trong Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria, ĐTC Gioan Phaolô II đã minh định là Ngài muốn bổ túc thêm bức Tông Thư kết thúc Năm Thánh ấy về khía cạnh Thánh Mẫu, khía cạnh cùng Mẹ chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô bằng Kinh Mân Côi:

• “Bởi thế, để tiếp tục ý tưởng của Tôi trong Tông Thư ‘Vào Lúc Mở Màn Cho Một Ngàn Năm Mới’, một bức tông thư Tôi đã mời gọi dân Chúa sau khi cảm nghiệm được Năm Thánh hãy ‘bắt đầu lại từ Chúa Kitô’ (AAS 93 [2001], 285), Tôi cảm thấy được thúc đẩy trong việc cần phải cống hiến những suy tưởng về Kinh Mân Côi, như một thứ bổ túc về Thánh Mẫu cho Bức Tông Thư ấy và như là một lời kêu gọi hãy chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô với Mẹ Rất Thánh của Người và tại học đường của Mẹ Người. Việc lần hạt Mân Côi không là gì khác ngoài việc cùng với Mẹ Maria chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô. Như là một cách thức để nhấn mạnh đến lời mời gọi này, nhân dịp kỷ niệm 120 năm tới đây của bức Thông Điệp đã được nhắc đến trên đây của Đức Lêô XIII, Tôi muốn rằng trong thời gian của năm này, Kinh Mân Côi phải được đặc biệt đề cao và phát động nơi các cộng đồng Kitô giáo khác nhau. Vậy Tôi công bố từ Tháng 10/2002 tới 10/2003 là Năm Mân Côi… Kinh Mân Côi, với tất cả ý nghĩa của mình, nằm ngay tâm điểm của đời sống Kitô hữu; kinh này cống hiến một cơ hội quen thuộc nhưng lại đầy linh thiêng và tri thức cho việc chiêm ngưỡng của mỗi người, cho việc đào luyện Dân Chúa cũng như cho việc tân truyền bá Phúc Âm Hóa” (đoạn 3).

Như thế, về lý do sở dĩ Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mở Năm Mân Côi, theo Huấn Từ ban hành Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria ngày 16/10/2002, Đức Thánh Cha cho biết ba lý do chính, thứ nhất, liên quan đến việc kỷ niệm mừng 25 năm Giáo Hoàng của Ngài vào tháng 10 năm tới, thứ hai, liên quan đến việc mừng 120 năm Thông Điệp đầu tiên về Kinh Mân Côi của Đức Thánh Cha Lêô XIII, và thứ ba liên quan đến Đại Năm Thánh 2000 như sau:

• “Cùng với việc ban hành văn thư nói về kinh nguyện Mân Côi này, Tôi cũng công bố một năm kéo dài từ Tháng Mười 2002 tới Tháng Mười 2003, đó là ‘Năm Mân Côi’. Tôi làm như vậy, chẳng những vì đây là năm thứ 25 giáo triều của Tôi, mà còn vì là dịp kỷ niệm 120 năm Thông Điệp ‘Supremi Apostolatus Officio’ được Vị Tiền Nhiệm của Tôi là Đức Lêô XIII ban hành vào ngày 1/9/1883 để mở màn cho một loạt các văn kiện đặc biệt khác của Ngài về Kinh Mân Côi. Ngoài ra, còn có một lý do nữa, đó là trong lịch sử của Các Cuộc Đại Hỷ Kỷ Niệm còn có một truyền thống tốt lành, ở chỗ, sau Năm Thánh dâng kính Chúa Kitô và tôn kính công cuộc Cứu Chuộc của Người còn có một năm dâng kính cho Mẹ Maria nữa, như thể muốn kêu cầu với Mẹ để Mẹ giúp cho các ân sủng đã nhận lãnh từ Năm Thánh được sinh hoa kết trái”.

Nếu lý do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mở Năm Mân Côi có liên hệ với ba dịp mừng kỷ niệm trên đây thì mục đích Ngài mở Năm Mân Côi là để làm gì, thì Ngài đã nói rõ ở đoạn 3 trên đây, đó là:

• “Tôi muốn rằng trong thời gian của năm này, Kinh Mân Côi phải được đặc biệt đề cao và phát động nơi các cộng đồng Kitô giáo khác nhau. Vậy Tôi công bố từ Tháng 10/2002 tới 10/2003 là Năm Mân Côi… Kinh Mân Côi, với tất cả ý nghĩa của mình, nằm ngay tâm điểm của đời sống Kitô hữu; kinh này cống hiến một cơ hội quen thuộc nhưng lại đầy linh thiêng và huấn đức cho việc chiêm ngưỡng của mỗi người, cho việc đào luyện Dân Chúa cũng như cho việc tân truyền bá Phúc Âm Hóa”.

Căn cứ vào câu cuối cùng của đoạn văn này, nhất là ở những chỗ chữ đậm, chúng ta thấy Năm Mân Côi có hai mục đích rõ ràng, mục đích gần và mục đích xa. Tóm lại, chúng ta có thể hiểu mục đích của Năm Mân Côi như thế này: Đức Thánh Cha có ý mở Năm Mân Côi không phải chỉ để “đặc biệt đề cao và phát động Kinh Mân Côi nơi các cộng đồng Kitô giáo khác nhau” (mục đích gần), mà còn để nhờ Năm Mân Côi này, nhờ thời gian “đề cao và phát động Kinh Mân Côi” này, Kitô hữu đi sâu vào đời sống nội tâm hơn, ở chỗ cùng Mẹ Maria “chiêm ngưỡng” dung nhan Chúa Kitô, và nhờ chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô, Kitô hữu được “đào luyện” trở nên thánh thiện hơn, đến độ có thể chiếu tỏa dung nhan của Người ra nơi đời sống chứng nhân của mình, qua “việc tân truyền bá phúc âm hóa” trong thời điểm Hậu Đại Năm Thánh “Mở Màn Cho Một Tân Thiên Niên Kỷ” là Ngàn Năm Thứ Ba Kitô Giáo, một Mùa Xuân Gieo Tin Mừng Cứu Độ.
 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
 

7/5 Thứ Tư

Bản Công Bố về Iraq của Hội Đồng Giám Mục Anh và Welsh ngày 1/5/2003: “Iraq và nền hòa bình trong vùng”.

1. Tại cuộc họp vào dịp Low Week, chúng tôi đã nhớ cầu nguyện cho những ai đã chết hay đã bị thương trong cuộc chiến tranh ở Iraq, cũng như cho những thường dân vô tội đã phải khủng khiếp chịu đựng hành động quân sự này cùng với những gì xẩy ra sau đó. Chúng tôi cũng cầu nguyện cho nhân viên phục vụ vẫn còn đang trong cuộc để họ trở về vào thời điểm của họ.

2. Cho dù có cẩn thận hết cỡ để tránh gây thương vong cho thường dân đi nữa thì bản chất của thứ chiến tranh tân tiến vẫn là vấn đề dân chúng nói chung của một nước bao giờ cũng lầm vào tình trạng bị tấn công. Chúng tôi hết sức quan tâm về việc sử dụng những thứ vũ khí gây ra một hậu quả kèm theo bất chợt hay kéo dài, như những thứ bom chùm và những thứ vũ khí có xả chất uranium. Khi cuộc xung đột kết thúc, những ai đã sử dụng những loại vũ khí này có trách nhiệm về luân lý trong việc phải làm tất cả những gì có thể để giải quyết những hậu quả của việc sử dụng ấy.

3. Giờ đây là cơ hội cho nhân dân Iraq có một tương lai tốt đẹp hơn, thành phần trước cuộc chiến đã chịu đựng một chế độ độc tài tàn bạo và hơn một thập niên phải chịu những trừng phạt toàn diện. Để tương lai này trở thành hiện thực, Phe Liên Minh cũng phải dấn thân để ‘gây dựng hòa bình’ như đã gây ra chiến tranh vậy. Trước hết cần phải thiết lập luật lệ và trật tự để đáp ứng những nhu cầu nhân đạo. Sau đó là công cuộc khó nhọc dài hạn về việc tái thiết chính trị và kinh tế là những gì cần đến lòng quảng đại và khả năng của cộng đồng quốc tế. Chúng tôi tin rằng Liên Hiệp Quốc phải đóng vai trò chính yếu về phương diện này.

4. Quyền thừa hưởng của những người dân Iraq trong việc tự quyết định ở vấn đề tái thiết xứ sở của họ cần phải được quân bình bởi những chuẩn mức cần thiết đối với các thứ quyền lợi về dân sự và tôn giáo của tất cả mọi người cũng như đối với việc bảo vệ các thành phần thiểu số. Iraq có một tính cách đa diện phong phú về các cộng đồng nhân sinh, trong đó có các cộng đồng đức tin. Quyền được bày tỏ lòng tin tưởng về tôn giáo mà không cảm thấy sợ hãi và bị kỳ thị phải được coi như là một nguyên tắc nồng cốt cho vấn đề phát triển xứ sở.

5. Việc giải quyết cuộc khủng hoảng ở Iraq sẽ đạt được thành quả chỉ khi nào cộng đồng quốc tế cũng dấn thân vào việc cổ võ tình trạng bền vững của toàn thể vùng này nữa. Không có một việc giải quyết nào có thể bảo đảm được mục đích này trừ phi cuộc xung khắc giữa những người Do Thái và Palestine được giải quyết một cách chính đáng. Chúng tôi đồng ý và tiếp tục ủng hộ sứ vụ đặc biệt của Giáo Hội ở Thánh Địa trong việc mang lại hòa giải cho hai phe và việc trợ giúp vào vấn đề tìm kiếm một nền hòa bình chân chính, cũng như đồng ý và tiếp tục ủng hộ chứng từ đặc biệt của Đức Thượng Phụ Latinh Michel Sabbat.
 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu được Zenit phổ biến ngày 4/5/2003
 

6/5 Thứ Ba

Chuyến Tông Du 99: Chuyến Tông Du Tái Truyền Bá Phúc Âm Hóa Tây Ban Nha (tiếp)

Với Giới Trẻ

“…. Hãy đáp lại tình trạng bạo lực ngông cuồng mù quáng và lòng thù ghét vô nhân bản bằng mãnh lực lạ lùng của yêu thương. Hãy khống chế hận thù bằng sức mạnh của lòng thứ tha. Hãy tránh xa mọi hình thức ngông cuồng của chủ nghĩa quốc gia, chủng tộc và bất chấp. Hãy làm chứng bằng đời sống của mình cho sự kiện là vấn đề ý nghĩ không phải là vấn đề áp đặt mà là vấn đề trình bày. Đừng bao giờ thất đảm trước sự dữ!

“Bởi thế các bạn cần đến sự trợ giúp của việc nguyện cầu cũng như cần đến sự an ủi phát xuất từ mối thân tình mật thiết với Chúa Kitô. Chỉ có thế, chỉ khi nào sống cái cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa và chiếu sáng tình huynh đệ Phúc Âm, các bạn mới có thể trở thành những tay xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, mới có thể trở thành những con người nam nữ chân chính của hòa bình và là những con người đi xây dựng hòa bình.

ĐTC kêu gọi giới trẻ “hãy tham dự vào ‘học đường của Trinh Nữ Maria’. Người là một mô phạm chiêm niệm siêu việt và là một mẫu gương tuyệt vời của đời sống nội tâm sinh hoa trái, hân hoan và phong phú”.

“Hỡi giới trẻ, Tôi muốn nói với từng người trong các bạn là, nếu các bạn cảm thấy Thiên Chúa kêu gọi các bạn ‘Hãy theo Ta!’, các bạn đừng làm cho tiếng gọi này bị câm nín. Hãy quảng đại, hãy đáp lại như Mẹ Maria, bằng việc dâng cho Chúa lời xin vâng hoan hỉ của bản thân các bạn cũng như của cuộc đời các bạn. Tôi chia sẻ với quí bạn về chứng từ của Tôi. Tôi được chịu chức linh mục khi Tôi 26 tuổi. Từ đó đến nay đã 56 năm trời rồi. Khi nhìn lại và nhớ lại những tháng năm ấy của cuộc đời mình, Tôi có thể bảo đảm với các bạn rằng thật là xứng đáng để hiến mình cho Chúa Kitô”.

Trước khi dâng lời nguyện kết thúc, Ngài khuyên giới trẻ “hãy trở thành tông đồ cho các bè của các bạn. Tôi quá biết rằng đây không phải là một việc làm dễ dàng… Các bạn đừng chán nản, vì các bạn không cô đơn một mình đâu: Chúa không ngừng đồng hành với các bạn, với ân sủng của Người cũng như với Thần Linh của Người”.

Cuộc gặp gỡ giới trẻ của ĐTC này đã kéo dài gần hai tiếng hơn chương trình dự định.

Lễ Phong Thánh

Chúa Nhật 4/5, vào lúc 9 giờ sáng, ĐTC rời tòa khâm sứ đến Plaza de Colon ở quảng trường Columbus để dâng Thánh Lễ Phong Thánh với cả triệu người tham dự cho 5 chân phước: Pedro Poveda Castroverde (1874-1936), Jose Maria Rubio y Prealta (1864-1929), Genoveva Torres Morales (1870-1956), Angela de la Cruz (1846-1932) và Maria Maravillas de Jesus (1891-1974) vào lúc 10 giờ.

Trong bài giảng của mình, trong khi dẫn giải lời Chúa Giêsu kêu gọi các tông đồ hãy làm chứng nhân cho cuộc phục sinh của Người, ĐTC cũng đã kêu gọi dân tộc Tây Ban Nha như sau: “Hỡi Tây Ban Nha, sau sau một quá khứ can trường truyền bá phúc âm hóa, hãy là chứng nhân cho Chúa Giêsu Kitô, Đấng Phục Sinh, ngay cả ở ngày hôm nay đây! Các vị thánh mới được tỏ cho chúng ta thấy hôm nay đây như là những người môn đệ đích thực của Chúa và là những chứng nhân cho sự phục sinh của Người.

"Thánh Pedro Poveda, hiểu được tầm quan trọng của việc giáo dục về lãnh vực xã hội, đã thực hiện một cuộc dấn thân quan trọng về lãnh vực nhân đạo và giáo dục nơi thành phần nghèo khổ và túng thiếu. Ngài là một bậc thày của việc cầu nguyện, là sư phụ của đời sống Kitô giáo cũng như của mối liên hệ giữa đức tin và khoa học, Ngài cũng thâm tín rằng Kitô hữu phải mang những giá trị cùng với những đóng góp thực sự cho việc xây dựng một thế giới công chính và hiệp nhất hơn. Ngài đã kết thúc cuộc sống của mình bằng vinh phúc tử đạo”. Thời gian bắt đạo ở Tây Ban Nha xẩy ra vào những năm 1936-1939, một thời kỳ bắt đạo đã có gần 12 ngàn linh mục và nữ tu được phúc tử đạo.

Thánh Jose Maria Rubio đã sống thiên chức linh mục của mình, trước hết như một linh mục triều rồi sau đó là một linh mục Dòng Tên, với tất cả tấm lòng hy hiến cho hoạt động tông đồ Lời Chúa và các Bí Tích, giàng nhiều giờ trong tòa giải tội và điều khiển rất nhiều khóa linh thao để huấn luyện nhiều Kitô hữu bấy giờ chịu chết như những vị tử đạo trong thời bắt đạo ở Tây Ban Nha. Khẩu hiệu của Ngài là ‘Hãy làm những gì Thiên Chúa muốn và hãy muốn những gì Thiên Chúa làm’”. Trong số những vị linh mục đồng tế trong Thánh Lễ Phong Thánh này có một vị linh mục Dòng Tên được Thánh Rubio chữa khỏi bệnh ung thư lâm tử.

Về Thánh Genoveva Torres, ĐTC nói: “Ngài là một dụng cụ của lòng nhân ái Thiên Chúa đối với thành phần cô đơn và cần đến yêu thương, niềm an ủi và việc chăm sóc tinh thần cũng như thể lý. Đặc tính đáng kể chi phối linh đạo của Ngài là việc tôn thờ Thánh Thể, nền tảng cho hoạt động tông đồ đầy khiêm tốn và đơn thành, bỏ mình và bác ái vị tha”.

“Tình yêu và lòng nhậy cảm hướng về người nghèo khổ đã khiến Thánh Angela de la Cruz thành lập ‘Company of the Cross’, theo chiều hướng bác ái và xã hội đối với thành phần thiếu thốn nhất, và đã gây được ảnh hưởng lớn lao trong Giáo Hội cũng như trong xã hội Seville thời bấy giờ. Đặc tính nổi bật của Ngài là tự nhiên và giản dị, tìm các thánh hóa bằng một tinh thần hãm mình để phục vụ Thiên Chúa nơi anh chị em mình.

Về Thánh Maravillas de Jesus, ĐTC nhấn mạnh là thánh nhân đã sống một đời sống “được đức tin anh dũng điều khiển, một đời sống được huấn luyện để đáp lại tiếng gọi khổ hạnh, lấy Thiên Chúa làm trọng tâm cuộc đời mình. Thắng vượt được những hoàn cảnh đau buồn của Cuộc Nội Chiến Tây Ban Nha, Ngài đã đạt được những nền tảng mới trong Dòng Camelô, thấm nhuần tinh thần canh tân của Thánh Têrêsa. Đời sống đan việc và chiêm niệm của Ngài cũng không ngăn cản việc Ngài phục vụ các nhu cầu của con người cũng như ngăn cản Ngài cổ võ các dự án xã hội và bác ái nơi môi trường sống của Ngài”. Trong số những người tham dự Thánh Lễ Phong Thánh, có một em trai người Á Căn Đình nhờ phép lạ của vị thánh này đã được hồi sinh, sau khi y khoa công nhận là đã chết vì bị chìm trong hồ nước.

“Tín hữu Công Giáo thân mến, hãy lắng nghe những mẫu gương này. Trong khi dâng lời tạ ơn Chúa về rất nhiều tặng ân Ngài đã đổ xuống cho Tây Ban Nha, Tôi mời anh chị em hãy cùng Tôi xin cho mảnh đất này được tiếp tục phát sinh các vị thánh mới. Những hoa trái thánh thiện nữa sẽ được trổ sinh nếu các cộng đồng giáo hội biết trung thành với Phúc Âm… nếu gia đình hiệp nhất lại với nhau như là một cung thánh đích thực của yêu thương và sự sống. Lần hành hương tới Santiago de Compostela, Tôi đã nói: ‘Đức tin Kitô giáo và Công giáo đã làm nên căn tính của nhân dân Tây Ban Nha’. Nhận biết và đi sâu hơn nữa vào quá khứ của một dân nước là kiên cường và làm phong phú căn tính riêng của quốc dân ấy. Xin đừng loại bỏ các nguồn gốc Kitô giáo của mình! Chỉ có thế anh chị em mới có thể mang lại cho thế giới cũng như cho Âu Châu cái phong phú về văn hóa nơi lịch sử của anh chị em mà thôi”.

Sau Thánh Lễ và trước Kinh Lạy Nữ Vương, ĐTC đã ngỏ lời cám ơn Quốc Vương và Nữ Hoàng Tây Ban Nha, hoàng tộc, các vị thẩm quyền trong chính phủ, cũng như ĐHY Antonio Maria Rouco Varela, TGM Ma Ní, và các Giám Mục Tây Ban Nha về việc mời Ngài trở lại nước của họ và nồng hậu đón tiếp Ngài.

“Anh chị em là những người đã tiếp nhận một gia sản thiêng liêng phong phú là những gì có thể làm kiên cường vững mạnh sức sống Kitô giáo của anh chị em, một sức sống gắn liền với tình yêu mến đối với Giáo Hội cũng như đối với Vị Thừa Kế Thánh Phêrô. Bằng đôi cánh tay rộng mở, Tôi ôm ấp tất cả anh chị em trong lòng của Tôi. Hình ảnh về những ngày này sẽ được khắc sâu nơi việc nguyện cầu để xin ơn hòa bình cho cuộc chung sống huynh đệ của anh chị em, một cuộc chung sống được tác động bởi niềm hy vọng không làm thất vọng của Kitô giáo. Và với tất cả lòng cảm mến, Tôi muốn nói với anh chị em, như Tôi đã nói vào lần đầu tiên, đó là ‘Tây Ban Nha muôn năm! Mảnh đất của Mẹ Maria!’”

Thấy đám đông dân chúng, ĐTC nói tiếp: “Mặc dù anh chị em có phải hy sinh, nhưng cũng đáng. Công Trường Columbus đã trở thành một đền thờ lớn để tiếp đón cuộc cử hành này, một cuộc cử hành chúng ta đã sốt sắng nguyện cầu và đã chăm chú hát ca. Chúng ta gặp nhau ở lòng thủ đô Ma Ní, gần những bảo tàng viện, những thư viện và các trung tâm văn hóa lớn được thiết lập trên nền tảng của một đức tin Kitô giáo mà Tây Ban Nha, một phần của Âu Châu, qua các tổ chức của nước này, đã có thể cống hiến cho Mỹ Châu và sau đó cho các phần đất khác trên thế giới. Bởi thế, đây là nơi cổ võ ơn gọi những người Công Giáo Tây Ban Nha trở thành những người xây dựng Âu Châu cũng như đoàn kết với những phần đất khác trên thế giới. Tây Ban Nha được truyền bá phúc âm hóa. Tây Ban Nha truyền bá phúc âm hóa. Đường lối là ở chỗ này”.

Sau đó, ĐTC đã trở về tòa khâm sứ dùng bữa trưa với các vị hồng y, hội đồng giáo phẩm và đoàn tùy tùng của Ngài. Sau khi Ngài gặp Quốc Vương và Hoàng hậu Tây Ban Nha lúc 5 giờ tại tòa khâm sứ, Ngài đã lên đường trở về Vatican, hoàn tất chuyến tông du 99, chuyến tông du để tái truyền bá phúc âm hóa Tây Ban Nha.
 

5/5 Thứ Hai

Chuyến Tông Du 99: Chuyến Tông Du Tái Truyền Bá Phúc Âm Hóa Tây Ban Nha

Huấn từ khai mở

Rời phi trường Fiumicino lúc 9 giờ 30 sáng, và sau 2 tiếng rưỡi bay qua 1362 cây số, ĐTC đã đáp xuống phi trường quốc tế Barajas. Sau khi vị quốc vương của nước này là Vua Juan Carlos ngỏ lời chào mừng, Đức Thánh Cha đã lên tiếng với hàng ngàn vị cao cấp trong dân với những lời lẽ nhấn mạnh đến hòa bình như sau:

Tôi mong ước cho hết mọi người được một thứ bình an chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban nơi Chúa Giêsu Kitô, một thứ bình an là hoa trái của công lý, sự thật, tình yêu, đoàn kết, một thứ bình an con người có thể gặt hái được vào lúc họ tuân theo lề luật của Thiên Chúa, một thứ bình an làm cho con người cảm thấy như anh chị em với nhau. Bình an cho Tây Ban Nha!

ĐTC nhắc đến việc phong thánh cho “năm con người nam nữ của xứ sở này” vào ngày hôm sau là: “Các vị biết làm thế nào để tiếp nhận lời mời gọi của Chúa Giêsu Kitô, đó là lời ‘các con sẽ là những chứng nhân của Thày’, khi các vị loan truyền lời mời gọi này bằng đời sống và cái chết của mình. Trong giây phút lịch sử này đây, các vị là ánh sáng soi đường dẫn lối cho chúng ta tới chỗ sống đức tin can trường, tới một đức ái vươn lên tới tha nhân và tới chỗ hy vọng theo đuổi việc xây dựng một xã hội được đặt nền tảng ở cuộc chung sống an lành cũng như ở cuộc thăng tiến về luân lý và nhân bản của hết mọi người công dân. Tôi hằng chú ý theo dõi những đổi thay đã xẩy ra ở Tây Ban Nha. Tôi lấy làm hài lòng khi thấy tình trạng tiến bộ của đất nước này phục vụ cho phúc hạnh của tất cả mọi người. Tiến trình của cuộc phát triển đất nước phải được xây dựng trên những giá trị chân chính và bền vững, những giá trị tìm kiếm thiện ích cho hết mọi người, chủ thể của các thứ quyền lợi và nghĩa vụ, từ giây phút đầu tiên hiện hữu được đón nhận vào gia đình cũng như trong những giai đoạn sau đó khi họ dấn thân dự phần vào đời sống xã hội”.

ĐTC cũng lập lại những gì Ngài đã kêu gọi Âu Châu vào lần viếng thăm Tây Ban Nha lần đầu tiên khi nhấn mạnh rằng: “trong giây phút quan trọng này, đối với việc củng cố cho một Âu Châu hiệp nhất, bằng một tiếng kêu đầy yêu thương khi nhắc lại những nguồn gốc phong phú và thăng hoa của nó: ‘Hỡi Âu Châu, hãy về lại với chính mình. Hãy là mình. Hãy phục hồi căn tính của mình. Tôi tin rằng Tây Ban Nha sẽ mang cái gia sản văn hóa và lịch sử phong phú bắt nguồn từ Công Giáo cùng với những giá trị riêng của mình đến chỗ hội nhập với một Âu Châu mà, nhờ tính cách đa văn hóa và việc tôn trọng căn tính của các quốc gia phần tử của nó, tìm kiếm sự hiệp nhất được xây dựng trên các qui chuẩn và nguyên tắc phục vụ cho sự thiện toàn vẹn của thành phần công dân của mình”.

Đức Thánh Cha đã kết thúc bài huấn từ mở đầu cho chuyến tông du 99 có tính cách tái truyền bá phúc âm hóa của mình như sau: “Tôi nài xin Chúa cho Tây Ban Nha cũng như cho toàn thể thế giới một thứ bình an sinh hoa kết trái, một thứ bình an vững chắc và bền bỉ, và một cuộc chung sống trong hiệp nhất, trong sự đa dạng kỳ diệu và khác biệt nơi các dân tộc và thành đô của nó”.

Với giới trẻ

Sau đó, Ngài đã về Tòa Khâm Sứ Tòa Thánh bằng chiếc Giáo Hoàng Xa của Ngài. Tại đây, vào lúc 5 giơ ụ 30 chiều, Ngài đã gặp Thủ Tướng Jose Maria Aznar và gia đình ông. Sau cuộc gặp gỡ này, Ngài đã được chiếc giáo hoàng xa đưa tới Phi Trường Quatros Vientos, cách thủ đô Ma Ní 30 cây số, để gặp gỡ giới trẻ. “Các con là các chứng nhân của Thày” là đề tài của bài huấn dụ ĐTC muốn nói và kêu gọi thành phần tương lai của chung Giáo Hội và riêng xã hội Tây Ban Nha này. Nhưng trước bài huấn dụ của ĐTC cho 700 ngàn giới trẻ tham dự, có bốn người trẻ đã phụ trách suy niệm về 4 Mầu Nhiệm Mân Côi khác nhau, Vui, Sáng, Thương, Mừng, và đọc các bài Phúc Âm về các mầu nhiệm này. ĐTC sau khi bày tỏ “hết sức cảm động trước sự tiếp đón nồng hậu và thân ái của các bạn”, Ngài đã lập lại những gì Ngài đã nói với họ 20 năm trước vào lần viếng thăm Tây Ban Nha lần đầu tiên, đó là “Các bạn là niềm hy vọng của Giáo Hội cũng như của xã hội… Tôi tiếp tục tin tưởng nơi giới trẻ, tin tưởng nơi các bạn”. Sau đó Ngài tiếp tục nhận định và kêu gọi họ như sau:

“Cuộc sống của các bạn phải chiếu sáng ân sủng của Thiên Chúa, cùng một thứ ân sủng đã rạng ngời nơi Mẹ Maria, Đấng đầy ơn phúc. Các bạn muốn đêm hôm nay suy niệm về các mầu nhiệm của Kinh Mân Côi, thực hành câu tâm niệm cổ kính: ‘Nhờ Mẹ Maria đến với Chúa Giêsu’… Mẹ Maria, ngoài vai trò làm một Người Mẹ gần gũi, khôn ngoan và thông cảm, còn là một đệ nhất tôn sư trong việc tiến tới sự thật qua việc chiêm niệm.

Thảm kịch của nền văn hòa hiện nay đó là thiếu đời sống nội tâm, thiếu việc chiêm niệm. Không có đời sống nội tâm thì văn hóa chỉ là những gì rỗng ruột, nó như một cái xác những chưa có hồn sống. Các bạn đừng bao giờ tách biệt hoạt động với chiêm niệm; nhờ đó các bạn mới có thể góp phần vào việc biến đổi giấc mơ cao cả trở thành thực tại; trở thành một cuộc hạ sinh cho một tân Âu Châu trong tinh thần. Một thứ Âu Châu trung thành với những cội nguồn Kitô Giáo của mình, chứ không gắn bó với chính nó, song hướng tới việc trao đổi và hợp tác với các dân tộc khác trên thế giới.

“Giới trẻ thân mến, các bạn quá rõ Tôi quan tâm biết bao đến nền hòa bình trên thế giới này. Con lốc bạo lực, khủng bố và chiến tranh đã làm bùng lên, ngay cả trong những ngày sống của chúng ta đây, hận thù và chết chóc. Hòa bình, như chúng ta biết, trước hết là một tặng ân của Trời Cao mà chúng ta phải thiết tha kêu xin cũng như tất cả chúng ta phải cùng nhau xây dựng bằng việc hoán cải tận đáy lòng. Bởi thế, hôm nay Tôi xin các bạn hãy là những người đi làm hòa bình và là những tay xây dựng hòa bình….

(còn tiếp)
 

4/5 Chúa Nhật III Phục Sinh

Thông Ðiệp về Thánh Thể

  (tiếp theo Thứ Hai 28/4 và Thứ Năm 1/5)

6.     Tôi muốn làm dậy lên “nỗi ngất ngây” Thánh Thể này bằng Thông Điệp đây, để tiếp tục di sản Năm Thánh mà Tôi đã để lại cho Giáo Hội trong Tông Thư Mở Màn Cho Một Tân Thiên Kỷ Novo Millennio Ineunte cũng như trong Tông Thư tôn vinh Thánh Mẫu của năm này là Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria Rosarium Virginis Mariae. Việc chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô, và việc cùng Mẹ Maria chiêm ngưỡng dung nhan Người là “chương trình” Tôi đã đề ra cho Giáo Hội vào lúc rạng đông của đệ tam thiên kỷ, kêu gọi Giáo Hội hãy ra chỗ nước sâu của đại dương lịch sử bằng lòng nhiệt thành thực hiện cuộc tân truyền bá phúc âm hóa. Việc chiêm ngưỡng Chúa Kitô bao gồm việc có thể nhận biết Người bất cứ Người tỏ mình ra ở đâu, qua rất nhiều hình thức hiện diện của Người, mà trên hết ở nơi bí tích sống động của mình máu Người. Giáo Hội kín múc sự sống của mình từ Chúa Kitô trong Thánh Thể; Giáo Hội được Người nuôi dưỡng và được Người soi sáng. Thánh Thể vừa là mầu nhiệm đức tin vừa là “mầu nhiệm ánh sáng” (3). Bất cứ khi nào Giáo Hội cử hành Thánh Thể là tín hữu có thể sống lại một cách nào ấy cảm nghiệm của hai người môn đệ trên đường đi Emmau: “Mắt họ đã mở ra và nhận ra Người” (Lk 24:31).

7.     Từ khi Tôi bắt đầu sứ vụ Thừa Kế Thánh Phêrô, Tôi lúc nào cũng đã đánh dấu Ngày Thứ Năm Tuần Thánh, ngày của Thánh Thể và của thiên chức linh mục, bằng việc gửi một bức thư cho tất cả mọi vị linh mục trên thế giới. Năm nay, năm thứ 25 Giáo Triều của mình, Tôi muốn cả Giáo Hội tham dự vào việc suy niệm Thánh Thể trọn vẹn hơn, như một cách thức tạ ơn Chúa về tặng ân Thánh Thể và chức linh mục: “Tặng Ân và Mầu Nhiệm” (4). Bằng việc công bố Năm Mân Côi, Tôi muốn đặt điều này, biến cố mừng kỷ niệm 25 năm giáo triều của Tôi đây, dưới sự bảo trợ của việc chiêm ngưỡng Chúa Giêsu tại học đường Maria. Bởi vậy, Tôi không thể để cho Ngày Thứ Năm Tuần Thánh 2003 này qua đi mà không dừng lại trước “dung nhan Thánh Thể” Chúa Kitô và hướng Giáo Hội đến tâm điểm Thánh Thể bằng một nghị lực mới.

Giáo Hội kín múc sự sống của mình từ Thánh Thể. Nơi thứ “bánh sự sống” này, Giáo Hội được nuôi dưỡng. Làm sao Tôi lại không cảm thấy cần phải thúc giục hết mọi người hãy cảm nghiệm Thánh Thể một cách mới mẻ hơn bao giờ hết?

8.     Khi Tôi nghĩ đến Thánh Thể, và nhìn vào đời sống của Tôi với tư cách là một vị linh mục, một vị Giám Mục và là vị Thừa Kế Thánh Phêrô, Tôi tự nhiên nghĩ đến nhiều lần và nhiều nơi Tôi đã cử hành Thánh Thể. Tôi nhớ nhà thờ xứ Niegowíc, nơi Tôi thi hành bài sai đầu tiên của mình, nhà thờ Thánh Florian ở Krakow cho sinh viên đại học, Vương Cung Thánh Đường Wawel, Đền Thờ Thánh Phêrô và nhiều đền thờ và nhà thờ ở Rôma cũng như trên khắp thế giới. Tôi đã có thể cử hành Thánh Lễ ở những nguyện đường dọc các sườn núi, trên các bờ hồ và các ven biển; Tôi đã cử hành Thánh Thể trên các bàn thờ dựng lên ở các thao trường cũng như ở các công viên thành phố… Cảnh trí của những lần cử hành Thánh Thể khác nhau này đã hiến cho Tôi một cảm nghiệm mãnh liệt về tính chất đại đồng và có thể nói tính chất vũ trụ của Thánh Thể. Phải, vũ trụ! Vì ngay cả khi Thánh Thể được cử hành ở bàn thờ thô sơ của một nhà thờ thôn quê thì Thánh Thể, một cách nào đó, bao giờ cũng được cử hành trên bàn thờ thế giới. Thánh Thể liên kết trời đất lại với nhau. Thánh Thể bao gồm và thấm nhập tất cả thiên nhiên tạo vật. Con Thiên Chúa đã làm người để phục hồi tất cả thiên nhiên tạo vật, bằng một tác động chúc tụng duy nhất tối cao, về cho Đấng đã tạo nên nó từ hư không. Là Vị Thượng Tế Hằng Hữu, bằng máu Thập Giá của mình, Người đã tiến vào thánh cung vĩnh cửu, nhờ đó trả về cho Đấng Hóa Công và là Cha tất cả mọi tạo sinh đã được cứu chuộc. Người làm như thế bằng thừa tác vụ tư tế của Giáo Hội cho vinh quang của Ba Ngôi Chí Thánh. Đây thực sự là mầu nhiệm đức tin mysterium fidei, một mầu nhiệm được nên trọn nơi Thánh Thể, ở chỗ, thế giới phát xuất từ bàn tay Thiên Chúa Hóa Công giờ đây trở về với Ngài do Chúa Kitô cứu chuộc.

9.     Với sự hiện diện cứu độ của Chúa kitô nơi cộng đồng tín hữu và như lương thực thiêng liêng cho cộng đồng này, Thánh Thể là sản vật quí nhất Giáo Hội có được trong cuộc lữ hành của mình qua giòng lịch sử. Đó là lý do Giáo Hội đã luôn luôn tỏ ra quan tâm đến mầu nhiệm Thánh Thể, một quan tâm được phản ảnh trung thực nơi công việc của các Công Đồng cũng như của các vị Giáo Hoàng. Làm sao chúng ta lại không khen ngợi những trình bày về tín lý của các Sắc Lệnh về Thánh Thể Rất Thánh cũng như về Hy Tế Thánh Lễ do Công Đồng Chung Triđentinô ban bố? Qua các thế kỷ, các Sắc Lệnh này đã hướng dẫn khoa thần học và việc dạy giáo lý, chúng còn là một qui chiếu tín điều cho việc liên tục canh tân và phát triển của Dân Chúa trong đức tin và đức mến đối với Thánh Thể. Ở vào thời điểm gần chúng ta hơn, có ba bức Thông Điệp cần phải đề cập đến, đó là Thông Điệp Mirae Caritatis của Đức Lêô XIII ban hành ngày 28/5/1902 (5), Thông Điệp Mediator Dei của Đức Piô XII ban hành ngày 20/11/1947 (6), và Thông Điệp Mysterium Fidei của Đức Phaolô VI ban hành ngày 3/9/1965 (7).

Công Đồng Chung Vaticanô II, dù không ban hành một văn kiện đặc biệt về mầu nhiệm Thánh Thể, cũng đã xét đến những khía cạnh khác nhau của Thánh Thể nơi các văn kiện của mình, nhất là Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium và Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh Sacrosanctum Concilium.

Bản thân Tôi, trong những năm đầu thừa tác vụ tông truyền Thừa Kế Thánh Phêrô, đã viết Bức Tông Thư Dominicae Cenae ban hành ngày 24/2/1980 (8), một bức tông thư Tôi đã bàn đến một số khía cạnh về mầu nhiệm Thánh Thể cùng tính cách quan trọng của Thánh Thể đối với đời sống của những vị là thừa tác viên Thánh Thể. Hôm nay đây, Tôi lại tiếp tục đi sâu vào luận đề này, bằng một lòng cảm nhận và cảm mến sâu xa hơn nữa, thực sự âm vang những lời của vị Tác Giả Thánh Vịnh: “Tôi sẽ lấy gì trả lại cho Chúa về tất cả ơn lành Ngài đã ban tặng cho tôi? Tôi sẽ nâng chén cứu độ và kêu cầu danh Chúa” (116:12-13).

10. Việc quyết tâm của Huấn Quyền trong việc loan báo mầu nhiệm Thánh Thể vẫn là những gì tương hợp với việc phát triển nội tâm của cộng đồng Kitô hữu. Việc canh tân phụng vụ của Công Đồng Chung Vaticanô II chắc chắn đã góp phần vào việc tín hữu tham dự ý thức hơn, chủ động hơn và hiệu quả hơn vào Hy Tế Thánh trên Bàn Thờ. Ở nhiều nơi, việc tôn thờ Bí Tích Thánh còn là một việc quan trọng được thực hiện hằng ngày, và đã trở thành một mạch nguồn vô tận thánh đức. Việc tín hữu sốt sắng tham dự vào việc rước kiệu Trọng Thể Mình Máu Thánh Chúa Kitô là một ân huệ Chúa ban đã mang lại hằng năm niềm vui cho những ai dự phần.

Những dấu hiệu tích cực khác về đức tin và đức mến Thánh Thể cũng cần phải được nhắc đến nữa.

Tiếc thay, song song với những điểm sáng này, còn có những bóng tối. Ở một số nơi, việc thực hành tôn thờ Thánh Thể hầu như đã bị loại bỏ. Ở những phần khác nhau trong Giáo Hội lại xẩy ra những thứ lạm dụng, tiến đến chỗ lầm lẫn liên quan đến đức tin lành mạnh và tín lý Công Giáo về bí tích tuyệt vời này. Có những lúc người ta đụng phải một kiến thức hết sức giảm thiểu về mầu nhiệm Thánh Thể. Bị lột tước ý nghĩa hy tế của mình, Thánh Thể được cử hành như thể một bữa tiệc huynh đệ mà thôi. Ngoài ra, nhu cầu linh mục thừa tác được bắt nguồn từ vấn đề tông truyền có những lúc đã bị lu mờ đi, và bản tính bí tích của Thánh Thể đã biến thành tính cách công dụng thuần túy như là một hình thức công bố vậy thôi. Điều này đã dẫn đến những việc làm đại kết đó đây, những việc làm Thánh Thể cho hài lòng người, dù có ý tốt chăng nữa, cũng phản lại qui luật Giáo Hội đặt ra để diễn tả đức tin của mình. Làm sao chúng ta lại không bày tỏ lòng đau buồn sâu xa về tất cả những điều ấy chứ? Thánh Thể là một tặng ân cao cả không thể bị lu mờ và giảm giá.

Tôi hy vọng rằng bức Thông Điệp này đây sẽ hiệu nghiệm giúp vào việc đánh tan những đám mây mù bất khả chấp về tín lý cũng như thực hành, nhờ đó Thánh Thể tiếp tục chiếu sáng tất cả mầu nhiệm rạng ngời của mình.

ĐTC tại Tây Ban Nha

Theo đúng chương trình và giờ giấc ấn định, Đức Thánh Cha đã tới Tây Ban Nha. Ngài đã được Vua Juan Carlos, Hoàng Hậu Sofia và Thủ Tướng Aznar tiếp đón tại phi trường Barajas ngoại ô thủ đô Ma Ní. Ngài đã mở lời với đất nước này là: “Tôi mong ước cho hết mọi người được một thứ bình an chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban nơi Chúa Giêsu Kitô, một thứ bình an là hoa trái của công lý, sự thật, tình yêu, đoàn kết, một thứ bình an con người có thể gặt hái được vào lúc họ tuân theo lề luật của Thiên Chúa, một thứ bình an làm cho con người cảm thấy như anh chị em với nhau… Tôi tin rằng Tây Ban Nha sẽ mang cái gia sản văn hóa và lịch sử phong phú bắt nguồn từ Công Giáo cùng với những giá trị riêng của mình đến chỗ hội nhập với một Âu Châu tôn trọng căn tính của các quốc gia phần tử theo chiều hướng đa diện văn hóa của nó”.

Các quan sát viên của Tòa Thánh thấy rằng sức khỏe về thể chất của vị giáo hoàng 83 tuổi bị bênh phong giật này tự nhiên khá hơn trước trong mấy tuần qua. Thế nhưng, Ngài vẫn cảm thấy nhức nhối tâm can về tình hình đạo nghĩa của Giáo Hội tại Tây Ban Nha này, một trong ba nước (Pháp và Ý) có nhiều vị thánh nhất với những vị thánh lừng danh nhất thế giới. Bởi vì, cũng như các quốc gia truyền thống Kitô Giáo tại Âu Châu, hơn 9/10 người Tây Ban Nha tuyên xưng mình là Công Giáo, nhưng chưa đầy hai người ngồi một hàng ghế tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật. Vai trò của tôn giáo không còn làm chủ và chi phối sinh hoạt xã hội, chính trị, kinh tế và văn hóa nữa. Đó là lý do chính Đức Thánh Cha viếng thăm Tây Ban Nha, hơn là chỉ để phong thêm 4 vị thánh cho quốc gia này. Trong thời gian ngắn ngủi hai ngày viếng thăm, Ngài gặp riêng giới trẻ, vì trong cuộc chống lại chiến tranh với Iraq vừa rồi, trong khi vị lãnh đạo của họ vào hùa với phe chủ chiến thì hơn 90% giới trẻ đã cực lực phản chiến. Trong lời chào mở đầu của Ngài tại phi trường, ĐTC nói Ngài “toàn toàn tin tưởng” là giới trẻ Tây Ban Nha sẽ trung thành với đức tin Công Giáo khi họ tiến đến chỗ trở thành những nhà lãnh đạo. Ý hướng của Đức Thánh Cha quí mến giới trẻ và đặc biệt dẫn dắt giới trẻ qua các Ngày Giới Trẻ Thế Giới từ 1985 tới nay cũng vì mục đích xây dựng một xã hội mới cho loài người, một trật tự mới cho một thế giới đại kết. ĐTC đã viếng thăm nhiếu nhất là Balan (9 lần), Pháp (6 lần), Tây Ban Nha, Hoa Kỳ và Mễ Tây Cơ (5 lần).
 

3/5 Thứ Bảy Đầu Tháng Biệt Kính Mẹ Maria

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II: Chuyến Tông Du 99 - Phong Thánh tại Tây Ban Nha.

Đây là chuyến tông du thứ năm của Ngài sang Tây Ban Nha. Những chuyến tông du trước xẩy ra vào những năm 1982, 1984, 1989 và 1993. Lần này Ngài sẽ ở đó 2 ngày cuối tuần 3-4/5/2003, mục đích chính là để phong thánh cho 4 vị chân phước của nước này là Pedro Poveda Castroverde, Jose Mari Rubio y Peralta, Genoveva Torres Morales, Angela de la Cruz và Maria Maravillas de Jesus. Thánh Lễ phong thánh sẽ được cử hành tại Plaza de Colon ở trung tâm thủ đô Maní.

Chương trình của chuyến tông du này như sau: Ngài lên máy bay lúc 9:30 sáng tại Phi Trường Fiumicino ở Rôma, đến phi trường quốc tế Barajas ở Maní vào buổi trưa, nơi Ngài sẽ được Vua Juan Carlos và Hoàng hậu Sofia nghênh đón, sau đó Ngài ngỏ lời chào hỏi rồi tới tòa khâm sứ ở đó. Chiều, Ngài tiếp Thủ Tướng Jose Maria Aznar, người đã đến gặp Ngài vào tháng Hai và là người chủ trương chủ chiến với US và UK trong cuộc chiến giải giới Iraq. Tiếp theo là việc Ngài gặp gỡ giới trẻ ở căn cứ không quân Cuatro Vientos ở ngoại ô Maní. Sáng Chúa Nhật Ngài chủ tế Thánh Lễ Phong Thánh. Chiều, Ngài tiếp Quốc Vương và Hoàng Hậu nước này tại tòa khâm sứ, trước khi ra phi trường ban lời tạ từ để lên máy bay lúc 6:45 chiều để về lại Rôma vào lúc 8:15 tối. Chúng ta hãy cầu nguyện cho Đức Thánh Cha.

Tòa Thánh Rôma với Ủy Ban Phát Triển Khả Thủ của Liên Hiệp Quốc

Ngày Thứ Tư 30/4/2003, Đức Tổng Giám Mục Celestino Migliore, quan sát viên thường trực của Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc đã ngỏ lời ở phiên họp thứ 11 của Ủy Ban Phát Triển Khả Thủ (CSD: Commission on Sustainable Development) của Liên Hiệp Quốc, một phiên họp để kiểm điểm Cuộc Họp Thượng Đỉnh Thế Giới Năm 2002 về Vấn Đề Phát Triển Khả Thủ (WSSD: World Summit on Sustainable Development) ở Jahannesburg Nam Phi. ĐTGM phát biểu như sau:

“Cần phải nhớ lại đệ nhất Nguyên Tắc của Bản Tuyên Ngôn ở Rio cho rằng ‘con người là tâm điểm của những mối quan tâm về vấn đề phát triển khả thủ…. Tòa Thánh thường nhấn mạnh rằng con người ở cốt lõi của việc phát triển khả thủ. Chúng ta phải suy nghĩ về môi sinh nhân bản; chúng ta cần bắt đầu việc nói chuyện với nhau về môi sinh; chúng ta phải thay đổi các kiểu cách sản xuất và tiêu thụ; chúng ta phải nghiêm trọng xem xét vấn đề nghèo khổ với tất cả mọi yếu tố liên quan đến nhiều chiều kích khác nhau của nó. Công việc hiện nay đó là phải làm sao để CSD có thể đóng góp những thành quả thực sự và tích cực một cách hữu hiệu hơn; làm sao để có thể làm tái sinh động tầm quan trọng của vấn đề đa phương được đặt trên những giá trị của trách nhiệm, tình đoàn kết và đối thoại. Có nhiều thứ chiếm hữu có thể đạt được nhờ ở việc rộng rãi tham phần của thành phần có tiền cũng như qua việc tích cực tham gia của tất cả mọi diễn viên có trách nhiệm sinh lợi… theo chiều hướng của nguyên tắc phụ trợ được áp dụng cho việc quản trị toàn cầu…. Những con người sống trong bần cùng phải được coi là những chủ thể trong cuộc. Cá nhân con người cũng như các dân tộc không phải là những thứ dụng cụ mà là những vai chính cho tương lai của họ và là tác nhân cho việc phát triển của họ… Một trong những cái mới mẻ chính yếu bắt nguồn từ WSSD là con số của những hợp đồng giao hữu giữa các chính phủ, giữa các tổ chức quốc tế cũng như giữa thành phần thương gia và dân sự có tiền”. Về vấn đề ấy, ĐTGM kết luận cần phải đặt ra “rõ ràng các điều dẫn, qui chuẩn và đường lối kiểm tra thích hợp”.

ĐTC ban huấn từ cho Viện Giáo Hoàng Về Các Khoa Học Xã Hội: Vấn Đề Toàn Cầu Hóa

Sáng Thứ Sáu 2/5/2003, ĐTC đã gặp gỡ các phần tử của Viện Giáo Hoàng này trong đại hội lần thứ chín của họ tại Rôma. Căn cứ vào chủ đề của cuộc đại hội này là “Việc Quản Trị của Vấn Đề Toàn Cầu Hóa”, ĐTC đã nói với họ là Ngài hy vọng rằng hoạt động của họ “sẽ giúp vào việc làm sao để vấn đề toàn cầu hóa có thể được hướng dẫn và điều hành một cách tốt đẹp nhất cho thiện ích của toàn thể gia đình nhân loại”.

Ngài đã mở đầu bài huấn từ bằng tiếng Anh của mình bằng việc nói rằng “các tiến trình, nhờ đó giúp vào việc trao đổi và tuần hoàn vốn liếng, sản vật, tín liệu, kỹ thuật và kiến thức khắp thế giới ngày nay, thường vượt khỏi các thứ hệ thống cổ truyền của việc kiểm soát thông thường là những gì thuộc phạm vi của chính quyền toàn quốc và các cơ quan quốc tế. Những lợi lộc đặc biệt và những đòi hỏi của thị trường thường làm chủ chi phối mối quan tâm về công ích. Chiều hướng này khiến cho các phần tử yếu kém hơn trong xã hội không được bảo vệ một cách đầy đủ và có thể bắt cả nhiều dân tộc và văn hóa phải gay go đối chọi để sống còn. Ngoài ra, thật là buồn khi chứng kiến thấy một thứ toàn cầu hóa làm cho điều kiện sống của thành phần thiếu thốn trở nên tệ hơn nữa, một thứ tòan cầu hóa không góp phần một cách đầy đủ trong việc giải quyết những tình trạng của thành phần đói khổ, bần cùng và chênh lệch xã hội, một thứ toàn cầu hóa không bảo toàn môi trường thiên nhiên. Những khía cạnh này của vấn đề toàn cầu hóa có thể gây ra những phản ứng cực đoan, đưa tới khuynh hướng quốc gia quá khích, tới tình trạng cuồng tín và thậm chí tới những hành động khủng bố”.

“Tất cả những điều ấy hoàn toàn xa lạ với những quan niệm về một thứ toàn cầu hóa biết luân thường đạo lý có khả năng đối xứ với tất cả mọi dân tộc như những bằng hữu bình đẳng chứ không phải như những phương tiện thụ động. Việc toàn cầu hòa tự bản chất không có vấn đề gì cả. Mà là những khó khăn xẩy ra do bởi thiếu những đường lối hoạt động hiệu nghiệm để lái nó đi đúng hướng… Mục tiêu này sẽ bất khả đạt nếu không được hướng dẫn bởi cộng đồng quốc tế cũng như không có qui tắc đầy đủ trong việc thiết định về chính trị thế giới. Thật vậy, trong Sứ Điệp cho Ngày Hòa Bình Thế Giới 2003, Tôi đã nhận định là đây là thời điểm ‘cùng nhau hoạt động cho một tổ chức hiến định mới của gia đình nhân loại’, một tổ chức giữ vai trò đáp ứng những đòi hỏi mới của một thế giới được toàn cầu hóa. Điều này không có nghĩa là để tạo nên một ‘siêu Quốc toàn cầu’, mà là để tiếp tục những tiến trình vốn đang diễn tiến”.

Viện Giáo Hoàng Về Các Khoa Học Xã Hội do ông Edmond Malinvaud thuộc Viện Quốc Gia Thống Kê và Nghiên Cứu Kinh Tế ở Paris làm chủ tịch. Đại hội lần chín của viện này với sự có mặt của gần đầy đủ 35 thành viên trên khắp thế giới. Theo bản thông báo của viện này thì nó “được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thành lập từ năm 1994, với mục đích phát động việc nghiên cứu và sự tiến bộ của các ngành khoa học về xã hội, kinh tế, chính trị và luật pháp, nhờ đó cung cấp cho Giáo Hội những yếu tố hữu ích để Giáo Hội học hỏi và khai triển sâu rộng hơn vấn đề giáo huấn xã hội của Giáo Hội. Sau khi bàn kỹ hai vấn đề quan trọng, trước hết là vấn đề lao động và công ăn việc làm vào những phiên họp trong các năm 1996, 1997 và 1999, rồi tới vấn đề dân chủ vào những phiên họp trong càc năm 1998 và 2000, viện này đã bắt đầu cứu xét đến vấn đề toàn cầu hóa”. Cũng theo bản thông báo thì đề tài toàn cầu hóa rất hợp với Đức Thánh Cha, vì vào năm 1997, Ngài đã nói với các phần tử của viện này như sau:

Chúng ta phải nhìn nhận rằng trong lãnh vực của một thứ kinh tế ‘được toàn cầu hóa’, thì qui luật về luân thường đạo lý và pháp luật của thị trường, khách quan mà nói, lại càng trở nên khó khăn hơn. Thật vậy, các hoạt động chính trị của các quốc gia riêng biệt không đủ để ứng dụng nó một cách hiệu nghiệm; bởi thế, cần phải thực hiện một cuộc trao đổi giữa các cường quốc, cũng như cần phải củng cố một trật tự dân chủ thế giới, với những cơ cấu cho thấy bình đẳng nhau về tất cả mọi lợi lộc của toàn thể gia đình nhân loại”.

Đại hội được khai mạc vào buổi sáng với ĐTGM Renato Martino, chủ tịch Hội Đồng Công Lý Và Hòa Bình của Tòa Thánh. Buổi chiều được giành để các vị chuyên viên về luật pháp chia sẻ quan điểm của mình, dưới quyền chủ tọa của giáo sư luật ở Đại Học Harvard, Mary Ann Glendon. Sáng Thứ Bảy, 3/5, chia sẻ về các quan điểm luân thường đạo lý và triết học, và buổi chiều chú trọng tới quan điểm của các nhà xã hội học. Quan điểm về khoa học sẽ được tái nghiên cứu vào chiều Thứ Hai 5/5. Ngày cuối cùng, sáng 6/5, tới quan điểm của các nhà kinh tế học, và đại hội đúc kết các quan điểm về đề tài được nêu lên và bàn đến.

Tiếng vọng từ đáy vực

Ngày Thứ Bảy 26/4/2003, Văn Phòng báo Chí của Tòa Thánh Vatican đã phổ biến bức thư do Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Angelo Sodano nhân danh Đức Thánh Cha gửi cho Tổng Thống Cuba Fidel Castro yêu cầu ông hãy tỏ ra nhân ái trong việc trừng trị thành phần chống đối, nhất là những ai bị án tử hình.

Trong ngày kỷ niệm cách mạng tại Plaza ở thủ đô Havana, Tổng Thống Fidel đã cho mấy chục ngàn người dân chúng tập trung bấy giờ biết rằng: “Ở Miami và Washington hiện nay họ đang bàn đến vấn đề Cuba sẽ bí tấn công ở đâu, ra sao và khi nào. Tôi muốn chuyển một sứ điệp đến cho thế giới cũng như cho nhân dân Hoa Kỳ biết là: Chúng tôi không muốn thấy máu của người Cuba cũng như của người Hoa Kỳ phải đổ ra trên chiến trường”. Dân chúng liền vừa vẫy cờ vừa hô hoán lên rằng “với bất cứ giá nào Fidel”. Vị tổng thống 76 tuổi này đã nói gần hai tiếng đồng hồ. Ông nói rằng các viên chức Hoa Kỳ “cổ động và khích lệ” những cuộc tấn công như những vụ không tặc cưới máy bay và hải tặc cướp tầu bè của Cuba gần đây.

Biến cố này xẩy ra sau hai tuần lễ xẩy ra vụ khủng bố một chiếc tầu đầy hành khách trên đường tới Hoa Kỳ. Chính phủ Bush cùng với các chính phủ khác và các nhóm nhân quyền quốc tế đã lên án hành động kết án và hành quyết quá nhanh này. Nhưng tổng thống Cuba trả lời là những vụ hành quyết này cần phải có để ngăn ngừa những vụ không tặc hay hải tặc. Tuy nhiên, ông cũng cho biết ông sẽ xét lại vấn đề án tử hình theo lời yêu cầu của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, cũng như của một số người vẫn ủng hộ ông lâu nay, như Mục Sư Lucius Walker, Jr, thuộc Giáo Hội Salvation Baptist ở Brooklyn Nữu Ước.

Ngoài ra, vị tổng thống này còn bị phản đối vì đã tống giam 75 người chống đối vì tội hợp tác với các nhà ngoại giao Hoa Kỳ để làm lung lay chế độ xã hội chủ nghĩa. Biến cố gay go nhất cả thập niên qua đã thậm chí làm cho thành phần khuynh tả vốn ủng hộ Cuba phải lên tiếng phản đối. Vị tổng thống này cảm thấy rất đau lòng với “những người bạn của Cuba”, như tiểu thuyết gia người Mễ là Carlos Fuentes, những người “đã tấn công Cuba một cách bất công”. Ông cảnh giác là họ sẽ “cảm thấy vô cùng buồn khổ” nếu Cuba bị tấn công, và “họ sẽ nhận ra rằng những lời tuyên bố của họ đã bị lèo lái một cách trơ trẽn bởi những kẻ tấn công trong việc biện minh cho một cuộc tấn công quân sự”.
 


(Giáo Hội Hiện Thế các tuần trước)