GIÁO HỘI HIỆN THẾ

 

Ý Chỉ của Đức Thánh Cha cho Tháng 7/2003

 

Ý Chung: “Xin cho các chính quyền và những ai lãnh trách nhiệm về kinh tế và tài chính thế giới biết nỗ lực tìm những đường lối và điều kiện bảo đảm cho tất cả mọi dân tộc có phương tiện cần thiết để sống một cách xứng với phẩm giá của mình”.

Ý Truyền Giáo: “Xin cho tất cả những ai ở Phi Châu đang bị yếu đau, nạn nhân của Chứng Liệt Kháng AIDS cũng như của các chứng bệnh trầm trọng khác, được cảm thấy niềm an ủi và yêu thương của Thiên Chúa qua việc phục vụ của các vị y sĩ và của những người ân cần chăm sóc họ.”.

 

___________________________________________

 6-12/7/2003

Giovanni Paolo II

 

12/7 Thứ Bảy

Tông Huấn Giáo Hội Tại Âu Châu (tiếp)

Chương 5

Phục Vụ Phúc Âm Hy Vọng


83. “Để phục vụ Phúc Âm hy vọng, Giáo Hội ở Âu Châu cũng được kêu gọi đi theo con đường yêu thương”.

1. Việc Phục Vụ của Đức Ái

85. “Tự chính bản chất của mình, chứng từ đức ái cần phải vươn ra ngoài giới hạn của các cộng đồng giáo hội và vươn đến hết mọi người, để tình yêu thương đối với tất cả mọi người có thể trở thành một động lực xây dựng tình đoàn kết chân thực ở hết mọi lãnh vực xã hội

2. Phục vụ con người nam nữ trong xã hội

86. “Tình yêu thương ưu tiên giành cho người nghèo là một chiều kích cần thiết của đời sống Kitô hữu cũng như của việc phục vụ Phúc Âm”.

87. “Bởi thế mới cần phải đương đầu với cuộc thách đố thất nghiệp là thách đố ở nhiều xứ sở Âu Châu trở thành một nạn trầm trọng của xã hội. Cộng với nạn thất nghiệp này còn có những vấn đề liên quan tới tình trạng tăng thêm con số di dân”.

88. “Việc mục vụ chăm sóc cho thành phần bệnh nhân cũng cần phải được chú trọng. Vì vấn đề bệnh tật là tình trạng đặt ra những điều liên quan tới ý nghĩa của cuộc sống, thì ‘trong một xã hội thịnh đạt và hiệu năng, trong một nền văn hóa thần tượng thân xác, loại trừ đau khổ và đau đớn theo huyền thoại về tính chất trẻ trung lâu dài, phải đặt ưu tiên trong việc chăm sóc cho bệnh nhân”.

90. “Giáo Hội tại Âu Châu ở mọi tầng lớp cần phải trung thành loan báo một cách mới mẻ chân lý về hôn nhân và gia đình…. Giá trị của tính cách bất khả phân ly càng ngày càng bị chối bỏ; đang có những đòi hỏi được pháp luật công nhận cho những thứ liên hệ de facto như thể chúng giống với những cuộc hôn nhân hợp lệ; cũng đang có những nỗ lực muốn chấp nhận một thứ định nghĩa về vợ chồng làm cho vấn đề khác phái không còn quan trọng nữa.

“Trong tình trạng ấy, Giáo Hội được kêu gọi để loan báo bằng một nghị lực đổi mới về những gì Phúc Âm truyền dạy về hôn nhân và gia đình, để nắm vững ý nghĩa và giá trị của chúng theo dự án cứu độ của Thiên Chúa”.

92. “Cần phải đặc biệt thực hiện việc giáo dục yêu thương cho giới trẻ và các đôi vợ chồng trẻ”.

93. “Không được loại trừ thành phần tín hữu ly dị và tái hôn theo tòa đời ra khỏi cộng đồng…; trái lại, cần phải khuyến khích họ tham dự vào sinh hoạt của cộng đồng, trong khi thực hiện một cuộc hành trình tiến triển theo tinh thần của những gì được Phúc Âm đòi hỏi”.

95. “Không được quên thành phần già lão cũng như thành phần suy yếu ở những xứ sở Âu Châu khác nhau.

“Cùng với tình trạng suy yếu con số sinh sản… cần phải đề cập đến cả các yếu tố khác nữa… Đáng buồn thay, trong số những yếu tố cần phải liệt kê này, trước hết là tình trạng lan tràn vấn đề phá thai, bằng việc sử dụng những thứ cung cấp về dược hóa chất giúp cho việc phá thai khả dĩ mà không cần đến bàn tay bác sĩ và bằng một đường lối bất chấp trách nhiệm xã hội. Sự kiện này được thuận lợi bởi sự kiện là các hệ thống pháp luật ở nhiều xứ sở Âu Châu có luật cho phép thực hiện một hành động vẫn là một ‘tội ác đáng ghê tởm’ và là một hành động bao giờ cũng đưa đến một tình trạng đổ vỡ trầm trọng về luân lý. Cũng cần phải đề cập đến những thứ tấn công liên quan đến ‘các hình thức đụng chạm đến những thai bào con người’.

“Chúng ta cũng cần phải nói đến sự hiện hữu của một xu hướng ở một số phần đất ở Âu Châu coi là được phép trong việc sáng suốt quyết định để chấm dứt sự sống riêng của mình hay của người khác, với hậu quả xẩy ra là tình trạng lan tràn việc trợ an tử một cách kín đáo hay thậm chí công khai, một việc đã tìm cách để được hợp thức hóa, thê thảm thay, có những lúc nó đã thành công.

96. “Trước tình hình này, cần phải ‘phục vụ Phúc Âm sự sống’ bằng ‘một cuộc vận động chung lương tâm con người cũng như bằng một nỗ lực liên kết về luân thường đạo lý để đẩy mạnh một cuộc vận động mãnh liệt trong việc hỗ trợ cho sự sống’”.

100. “Những thách đố hiện nay gây khó dễ cho việc chúng ta phục vụ phúc âm hy vọng bao gồm cả hiện tượng tăng số di dân, một tình trạng cần đến khả năng của Giáo Hội trong việc đón tiếp từng con người một, bất kể họ thuộc về dân tộc hay quốc gia nào. Hiện tượng này cũng thúc đẩy xã hội Âu Châu cũng như tất cả các cơ cấu tổ chức của lục địa này tìm kiếm một trật tự chân chính cùng những hình thức chung sống biết tôn trọng mọi người, cũng như tìm kiếm những đáp ứng của pháp lý đối với tiến trình hội nhập khả lượng”.

101. “Hiện tượng di dân thách đố khả năng của Âu Châu trong việc thực hiện những hình thức tiếp nhận và hiếu khách khôn ngoan.

“Hết mọi người cần phải hoạt động cho sự phát triển của một nền văn hóa chín mùi của việc chấp nhận mà, một khi lưu ý tới vấn đề phẩm giá bình đẳng của mỗi người cùng với nhu cầu liên kết với thành phần kém may mắn, cần phải nhìn nhận các thứ quyền lợi căn bản của mỗi một con người di dân. Các thẩm quyền dân sự có trách nhiệm kiểm soát làn sóng di dân theo những đòi hỏi của công ích. Việc chấp nhận những người di dân bao giờ cũng phải tôn trọng các qui tắc luật pháp, bởi thế, nếu cần cũng phải bao gồm cả vấn đề mạnh mẽ loại trừ những thứ lạm dụng”.

3. Dấn thân sống Đức Ái

104. “Lời kêu gọi thực hiện một đức ái chủ động được các Nghị Phụ Giám Mục ngỏ cùng tất cả mọi Kitô hữu thuộc lục địa Âu Châu tiêu biểu cho thấy một tổng luận tốt đẹp của việc thực sự phục vụ cho Phúc Âm hy vọng. Giờ đây Tôi cũng lập lại vấn đề này cùng người, hỡi Giáo Hội Chúa Kitô ở Âu Châu. Niềm vui và hy vọng, nỗi buồn và lo âu của những con người Âu Châu đương thời, nhất là của thành phần nghèo khổ và đau khổ, phải là niềm vui và hy vọng của người, nỗi buồn và lo âu của người. Chớ gì không có gì là nhân bản đích thực lại không vang vọng trong lòng của người”.

Kết luận

Ký thác cho Mẹ Maria

124. “Hỡi Giáo Hội ở Âu Châu! Hãy tiếp tục chiêm ngắm Mẹ Maria, ý thức rằng Mẹ ‘đang âu yếm hiện diện và thông phần với nhiều vấn đề phức tạp ngày nay đang bủa vây cuộc sống của cá nhân con người, của gia đình và các dân nước’, và đang ‘giúp cho thành phần Kitô hữu liên lỉ đối chọi giữa thiện và ác, để bảo đảm là họ không sa ngã hay nếu có ngã cũng lại chỗi dậy’”.

125. “Hỡi Mẹ của niềm hy vọng và ủi an, chúng con tin tưởng dâng lời cầu nguyện của chúng con lên Mẹ, đó là chúng con xin ký thác tương lai Giáo Hội Tại Âu Châu cho Mẹ cùng với tương lai của tất cả mọi con người nam nữ của lục địa này”.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tài liệu của Tòa Thánh Rôma VIS được phổ biến ngày 30/6/2003, tuy nhiên, căn cứ vào toàn bản Tông Huấn, người dịch đã thêm các số đoạn và đã lấy thêm một số câu khác trong cùng văn kiện này để người đọc có thể hiểu rõ hơn những câu trích dẫn trong bản văn tóm gọn bức Tông Huấn rất hay và hợp thời được phổ biến trên đây.

 

11/7 Thứ Sáu

Tòa Thánh với Ngoại Trưởng Do Thái về Hòa Bình Trung Đông

Chiều hôm qua, Thứ Năm 10/7/2003, Cha Ciro Benedettini, C.P., phó giám đốc văn phòng báo chí của Tòa Thánh, (tạm thay cho ông giám đốc đã đi hộ tống Đức Thánh Cha dịp Ngài nghỉ hè từ sáng cùng ngày), đã công bố cuộc gặp gỡ giữa Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Angelo Sodano (thay Đức Thánh Cha đang đi nghỉ hè) với ngoại trưởng Do Thái Silvan Shalom như sau:

“Chiều nay, Thứ Năm 10/7, ĐHY Angelo Sodano, Quốc Vụ Khanh, với Đức Ông Pietro Parolin, thứ trưởng ngoại giao của Tòa Thánh, đã gặp ông Silvan Shalom, bộ trưởng ngoại giao Do Thái. Trong cuộc nói chuyện, các vị đã đề cập đến hiện trình hòa giải và hòa bình giữa Do Thái và Palestine. Nhân danh Đức Thánh Cha, Đức Hồng Y đã bày tỏ ước muốn thiết tha đối với việc tiến triển cũng như việc mau chóng kết thúc tiến trình này. Cuộc gặp gỡ này sau đó cũng kiểm điểm lại một số vấn đề song phương liên quan đến chiều hướng sinh hoạt của Giáo Hội Công Giáo ở Thánh Địa, vấn đề cần phải được giải quyết một cách khẩn trương theo những quyết định của các Bản Thỏa Hiệp Chính Yếu năm 1993”.

Tông Huấn Giáo Hội Tại Âu Châu (tiếp)

Chương 4

Cử Hành Phúc Âm Hy Vọng



“Hỡi Giáo Hội của Thiên Chúa cư ngụ ở Âu Châu, cả người nữa cũng được kêu gọi để trở thành một cộng đồng cầu nguyện, cử hành Chúa của người nơi các Bí Tích, nơi phụng vụ cũng như nơi suốt cuộc sống của mình”.

1. Tái nhận thức Phụng Vụ

“Mặc dù tình trạng Kitô giáo bại hoại ở nhiều miền rộng lớn trên lục địa Âu Châu, người ta vẫn thấy được những dấu hiệu cho thấy hình ảnh của một Giáo Hội tin tưởng loan báo, cử hành và phụng sự Chúa của mình”.

“Trong khi có nhiều gương đức tin chân thực thì Âu Châu cũng thấy có chiều hướng tôn giáo mơ hồ và có những lúc lệch lạc…. Có những dấu hiệu rõ ràng cho thấy xu hướng đồng bóng, chủ trương hòa đồng tôn giáo và mật hội, việc mù quáng tìm kiếm những biến cố phi thường, thậm chí cho tới độ đi đến những quyết định dị thường, chẳng hạn như tham gia vào các giáo phái nguy hiểm hay tìm kiếm các cảm nghiệm tôn giáo giả tạo”.

“Tôi tha thiết mời gọi người, hỡi Giáo Hội đang sống ở Âu Châu, hãy trở thành một Giáo Hội cầu nguyện, chúc tụng Thiên Chúa, bằng việc nhận biết thẩm quyền tuyệt đối của Ngài, bằng việc hân hoan tin tưởng chúc tụng Ngài. Hãy tái nhận thức cái cảm quan về mầu nhiệm:… Hãy cử hành ơn cứu độ của Chúa Kitô”.

“Bởi thế cần phải phục hồi cảm quan phụng vụ thực sự”.

“Điều này bao gồm việc cảm nghiệm phụng vụ như một việc làm của Chúa Ba Ngôi”.

“Phụng vụ cần phải được sống như là việc loan báo và ngưỡng vọng vinh quang mai hậu”.

“Mặc dù trong giai đoạn sau Công Đồng Chung Vaticanô IIđã có những tiến bộ thực sự về việc cảm nghiệm thấy ý nghĩa thực sự của phụng vụ, nhưng vẫn còn nhiều sự cần phải thực hiện. Cần phải thực hiện việc canh tân liên tục và huấn luyện liên lỉ cho hết mọi người, thành phần chức thánh, tu sĩ và giáo dân”.

2. Cử Hành Các Phép Bí Tích

“Cần phải coi trọng việc cử hành các phép bí tích là những tác động của Chúa Kitô và Giáo Hội hướng đến việc tôn thờ Thiên Chúa, thánh hóa con người và xây dựng cộng đồng giáo hội…. Các Nghị Phụ Giám Mụcđã nhấn mạnh đến nhu cầu này để đáp ứng hai nguy hiểm: một đàng có một số nào đó trong Giáo Hội dường như đã đánh mất ý nghĩa đích thực của các phép bí tích và coi thường các mầu nhiệm được cử hành; đàng khác, trong khi có nhiều người đã lãnh nhận phép rửa tuân giữ các tập tục và thực hành truyền thống, tiếp tục lãnh nhận các Bí Tích vào những lúc quan trọng của đời minh, song lại không sống hợp với giáo huấn của Giáo Hội”.

“Đối diện với tình trạng càng mất đi cảm thức tội lỗi cũng như tình trạng phát triển của cái ý hệ sặc mùi tương đối và chủ quan về luân lý, hết mọi cộng đồng giáo hội cần phải triệt để thực hiện việc huấn luyện lương tâm. Các Vị Nghị Phụ Giám Mục nhấn mạnh đến việc nhìn nhận thực tại tư tội và nhu cầu cần được Thiên Chúa thứ tha riêng tư nhờ thừa tác vụ của linh mục. Những thứ xá giải chung không phải là cách thay thế cho việc ban phát Bí Tịch Hòa Giải.”

“Song song với việc cử hành Thánh Thể, cũng cần phải phát động những thể thức khác của việc cầu nguyện cộng đồng…. Nhất là, để trung thành với truyền thống Giáo Hội Latinh, cũng phải cổ võ những thể thức khác của việc tôn thờ Thánh Thể ngoài Thánh Lễ, như việc chầu Thánh Thể riêng, việc đặt Mình Thánh ra ngoài và những thứ rước kiệu Thánh Thể, là những gì cần phải được coi như là việc thể hiện lòng tin tưởng vào sự hiện diện liên tục của Chúa Kitô trong Bí Tích Bàn Thờ”.

“Cũng cần phải lưu tâm đặc biệt đến lòng đạo đức phổ thông”.

“Về vấn đề lòng đạo đức phổ thông, cần phải liên lỉ khôn ngoan tránh những cái mập mờ nơi một số những gì bộc lộ, để giữ chúng khỏi bị những ảnh hưởng trần thế, khỏi bị sặc mùi thương mại, thậm chí khỏi gặp nguy hiểm nơi mê tín dị đoan, và để giữ chúng nơi những thể thức lành mạnh và chân thực”.

“Tóm lại, Tôi muốn lập lại lời Tôi khuyến khích ‘hãy tái phục hồi ý nghĩa sâu xa nhất về ngày của Chúa. Chúa Nhật phải được thánh hóa bằng việc tham dự Thánh Thể cũng như bằng việc nghỉ ngơi đầy hân hoan và hiệp thông Kitô giáo…. Bởi thế, đừng sợ phải bênh vực ngày của Chúa, chống lại với hết mọi cuộc tấn công và nỗ lực bảo đảm rằng Chúa Nhật được bảo toàn nơi các tổ chức lao động, nhờ đó, Chúa Nhật là một ngày thực sự có ý nghĩa cho con người, sinh lợi cho toàn thể xã hội’”.

 

10/7 Thứ Năm

Đức Thánh Cha nghỉ hè

Sáng nay, vào lúc 10 giờ, ĐTC đã đi xe hơi đến ngôi nhà nghỉ hè của Ngài ở Castelgandolfo, phía đông nam thành phố Rôma. Tại đây, trong năm nay, theo dự định, Ngài sẽ viết một cuốn sách chia sẻ về kinh nghiệm làm giám mục của Ngài. Hôm Chúa Nhật vừa rồi, nhân dịp kết thúc cuộc mừng kỷ niệm 100 năm Thánh Nữ Maria Goretti qua đời, ở cuối bài Huấn Từ Truyền Tin, ĐTC đã nhấn mạnh đến tính cách thiêng liêng và mục đích siêu nhiên của thời gian nghỉ ngơi hay nghỉ hè như sau: “việc nghỉ hè, đối với một số người giờ đây đã bắt đầu, có thể trở thành một cơ hội thuận tiện cho việc canh tân đời sống nội tâm”. Xin xem chi tiết về các cuộc nghỉ hè của ĐTC năm 2000-2002.

Ngân quĩ của Tòa Thánh năm 2002: tổng kết và tường trình

Sáng nay, Thứ Năm 10/7/2003, tại văn phòng báo chí của Tòa Thánh, ĐHY Sergio Sebastiani, chủ tịch phân bộ Kinh Tế Vụ Tòa Thánh, đã tường trình bản tổng kết tài chính của Tòa Thánh. Bản tường trình này đã được đệ lên Đức Thánh Cha hôm 7/7 và cho Hội Đồng Hồng Y Nghiên Cứu Các Vấn Đề Về Tổ Chức Và Kinh Tế Của Tòa Thánh hôm 8/7. Vị hồng y chủ tịch cho biết vấn đề chi tiêu được thực hiện cho 4 lãnh vực: thứ nhất là các hoạt động về tổ chức, thứ hai là các hoạt động về tài chính, thứ ba là phần bất động sản và thứ bốn là phần hoạt động của các cơ cấu truyền thông. Chỉ có phần về bất động sản là tăng lợi tức, với số thu là 19.082.000 đồng Âu (21.685.070$). Còn phần hoạt động về cơ cấu tổ chức của Tòa Thánh bao gồm các văn phòng như Bộ Nội Vụ, các thánh bộ, các hội đồng, các tòa án, các Công Nghị Giám Mục v.v. là những hoạt động chỉ chi chứ không thu. Riêng về hoạt động truyền thông đã tiêu cho việc cải tiến tới 1.659.000 đồng Âu (1.882.965$) trong năm 2002 so với năm 2001 là 21.636.000 đồng Âu (24.556.860$), trong đó Đài Phát Thanh Vatican vốn là phần chi tiêu nhiều nhất.

Chiều hôm qua, một bản thông báo của Tòa Thánh đã cho biết chiều Thứ Ba 8/7/2003 đã có một cuộc họp lần thứ 37 của Hội Đồng Hồng Y Nghiên Cứu Các Vấn Đề Về Tổ Chức Và Kinh Tế Của Tòa Thánh do ĐHY Quốc Vụ Khanh Angelo Sodano chủ sự. ĐHY Sergio Sebastiani, chủ tịch phân bộ Kinh Tế Vụ Tòa Thánh, đã tường trình tổng kết tình hình tài chính năm 2002 của Tòa Thánh cho Hội Đồng như sau: tổng thu cả năm là 216.575.034 đồng Âu (245.184.596$) và tổng chi là 230.081.756 đồng Âu (260.475.556$), tức hụt 13.506.722 đồng Âu (15.290.960$). Có 2.659 người làm việc cho Tòa Thánh Rôma, trong đó có 744 vị chức sắc trong Giáo Hội, 351 tu sĩ, 1.564 giáo dân, và 892 nhân viên về hưu hưởng hưu trí.

Theo bản tường trình tài chính 2002 này thì Quốc Đô Vatican (Vatican City State) đã bị thâm thủng 16.048.508 đồng Âu (18.215.057$). Quốc Đô Vatican có tất cả 1.511 nhân viên, bao gồm 4 viên chức, 75 tu sĩ, 1.432 giáo dân và 566 người hưởng hưu trí.

Vấn đề cuối cùng được tường trình là Qũi Thánh Phêrô (Peter’s Pence) năm 2002 lên tới 52.836.693$, tức tăng 1.8% so với năm 2001. Qũi Thánh Phêrô là để cho Đức Thánh Cha sử dụng trong việc cứu trợ các nước thuộc thế giới thứ ba trong tình trạng họ cần trợ giúp vì chiến tranh hay gặp phải thiên tai.

Tông Huấn Giáo Hội Tại Âu Châu (tiếp)

Chương 6

Phúc Âm Hy Vọng cho Một Tân Âu Châu


1. Ơn Gọi Thiêng Liêng của Âu Châu

“Lịch sử của lục địa Âu Châu đã được đánh dấu một cách đặc biệt bởi ảnh hưởng ban sự sống của Phúc Âm”.

“Đức tin Kitô giáo thực sự thuộc về những nền tảng làm nên văn hóa Âu Châu một cách sâu xa và quyết liệt. Kitô giáo thực sự đã hình thành Âu Châu, ghi dấu trên Âu Châu một số giá trị căn bản. Chính Âu Châu tân tiến ngày nay, một Âu Châu đã cống hiến cho thế giới lý tưởng dân chủ và nhân quyền đã rút tỉa những giá trị của mình từ gia sản Kitô giáo”.

“Trong tiến trình biến đổi hiện đang được thực hiện đây Âu Châu được kêu gọi trước hết hãy tái nhận thức cái căn tính đích thực của mình”.

“Trong tiến trình hội nhập lục địa này vấn đề quan trọng nhất cần phải nhớ là mối hiệp nhất sẽ thiếu nội dung nếu nó chỉ nhắm đến chiều kích thuần địa dư và kinh tế; trái lại, trước hết nó phải hợp với những giá trị được thể hiện nơi lề luật cũng như qua sinh hoạt của nó”.

“Những tình trạng càng xung đột chủng tộc gần đây, những cuộc xung đột lại làm máu đổ trên lục địa Âu Châu, một lần nữa cho mọi người thấy rằng hòa bình mong manh biết bao, nó đòi tất cả mọi người phải chủ động dấn thân như thế nào, và nó chỉ được bảo đảm bằng việc hướng về những quan điểm mới của việc trao đổi, thứ tha và hòa giải giữa cá nhân, dân tộc và quốc gia.

“Trong tình huống này, Âu Châu cùng với tất cả mọi dân cư của mình cần phải không ngừng xây dựng hòa bình trong lãnh giới của nó cũng như trên khắp thế giới”.

2. Việc xây dựng Âu Châu

“Cùng với các vị Nghị Phụ Giám Mục, Tôi xin các tổ chức Âu Châu cũng như mỗi quốc gia Âu Châu hãy nhìn nhận rằng tình trạng trật tự xã hội xứng hợp cần phải được bắt nguồn từ những giá trị luân thường đạo đức và dân sự chân thực, những giá trị được thành phần công dân chung dự bao nhiêu có thể; đồng thời Tôi cũng muốn lưu ý là những giá trị ấy trước hết là gia sản của các cơ cấu xã hội khác nhau. Các tổ chức và mỗi quốc gia cần phải nhìn nhận là những cơ cấu xã hội này bao gồm cả những Giáo Hội và các Cộng Đồng Giáo Hội cùng với những tổ chức tôn giáo khác”.

“Theo chiều hướng những gì Tôi vừa nhấn mạnh, một lần nữa Tôi muốn kêu gọi những ai phác họa bản thỏa hiệp hiến pháp Âu Châu sau này, để bản thỏa hiệp hiến pháp bao gồm chi tiết về tôn giáo, đặc biệt về gia sản Kitô giáo của Âu Châu. Trong khi hết mình tôn trọng bản chất trần thế của các cơ cấu, Tôi cho rằng cần phải công nhận ba yếu tố bổ túc là quyền của các Giáo Hội cũng như của các cộng đồng tôn giáo trong việc được tự do tổ chức hợp với các qui chế và niềm tin xứng hợp của mình; tôn trọng căn tính riêng biệt của những niềm tin tôn giáo khác nhau cũng như tôn trọng điều khoản đối thoại xây dựng giữa Khối Hiệp Nhất Âu Châu và các niềm tin này; và tôn trọng tính cách pháp lý các Giáo Hội cũng như các tổ chức tôn giáo đã được thừa hưởng theo hiến định của quốc gia phần tử trong Khối Hiệp Nhất”.

“Vì Âu Châu cần phải được xây dựng trên những nền tảng vững chắc mà cần phải có những giá trị chân thực được căn cứ vào lề luật luân lý phổ quát được ghi khắc nơi tâm can của hết mọi con người nam nữ”.

“Hôm nay Tôi xin lập lại một lần nữa là: Hỡi Âu Châu, ở vào lúc mở màn cho thiên kỷ thứ ba, ‘hãy mở cửa cho Chúa Kitô! Hãy là mình. Hãy tái nhận thức các cội nguồn của mình. Hãy phục hồi các căn gốc của mình’”.

“Đừng sợ! Phúc Âm không phản lại ngươi đâu mà là giúp cho ngươi đó. Điều này được xác nhận ở chỗ nguồn cảm hứng Kitô giáo có khả năng biến những thành phần chính trị, văn hóa và kinh tế thành một thể thức chung sống làm cho hết mọi người cảm thấy tự nhiên như ở nhà và có thể làm thành một gia đình các quốc gia, nhờ đó các miền khác trên thế giới mới có thể chiếm được nguồn cảm hứng tốt đẹp”.

“Hãy tin tưởng! Ngươi sẽ tìm thấy nơi Phúc Âm là Chúa Giêsu niềm hy vọng bền bỉ và vững chắc ngươi khát vọng”.

“Hãy tin tưởng! Phúc Âm hy vọng không làm thất vọng”.

(còn tiếp)

 

9/7 Thứ Tư

Tông Huấn "Giáo Hội Tại Âu Châu" (tiếp)

Chương 3: Loan Truyền Phúc Âm Hy Vọng

1. Loan báo Mầu Nhiệm Chúa Kitô

“Hỡi Giáo Hội tại Âu Châu, ‘việc tân truyền bá phúc âm hóa’ là công việc trước mắt của người! Hãy tái phục hồi lòng nhiệt thành rao giảng… Chớ gì việc loan báo Chúa Giêsu là Phúc Âm hy vọng là niềm hãnh diện và là tất cả cuộc sống của người”.

“Cần phải thực hiện việc truyền bá phúc âm hóa tiên khởi nơi những phần đất khác nhau ở Âu Châu, vì con số thành phần chưa được rửa tội tăng phát, do bởi cả việc hiện diện đông đảo của những người di dân thuộc các tôn giáo khác lẫn thành phần trẻ em được sinh ra từ các gia đình theo truyền thống Kitô giáo chưa lãnh nhận phép rửa, hoặc vì ở dưới chế độ Cộng Sản hay vì tình trạng dửng dưng khô đạo đang lan tràn”.

“Cả ở phần lục địa Âu Châu ‘cổ’ nữa cũng có những lãnh vực xã hội và văn hóa bao rộng thực sự phải cần đến một cuộc truyền giáo cho muôn dân ‘missio ad gentes’”.

“Cần phải thực hiện một cuộc loan báo được đổi mới cho ngay cả những người đã được rửa tội. Nhiều người Âu Châu ngày nay nghĩ rằng họ biết được Kitô giáo là gì, song thật ra họ chẳng biết tôn giáo này gì cả…. Những ý thức cao cả về đức tin đang bị tiêu hao nơi nhiều người bởi một tôn giáo tính mơ hồ thiếu dấn thân thực sự; những hình thức khác nhau của trào lưu bất khả tri và vô thần thực dụng đang lan tràn…. Một số người đã bị chi phối bởi tinh thần của một thứ nhân bản phiếm thần làm yếu kém đức tin và thường dẫn đến chỗ hoàn toàn loại trừ đức tin một cách thê thảm”.

“Việc loan báo Phúc Âm hy vọng dòi phải kiên trì trung thành với chính Phúc Âm. Việc rao giảng của Giáo Hội, nơi tất cả moị hình thức của mình, cần phải càng tập trung vào ngôi vị Chúa Giêsu và càng qui về Người. Cần phải khôn ngoan loan báo một Chúa Kitô trọn vẹn hoàn toàn”.

“Âu Châu cần đến những nhà truyền bá phúc âm hóa khả tín, thành phần có đời sống, trong việc hiệp thông với Thập Giá và Phục Sinh của Chúa Kitô, chiếu tỏa vẻ đẹp của Phúc Âm. Những nhà truyền bá phúc âm hóa như vậy cần phải được huấn luyện kỹ lưỡng”.

“Con người đương thời của chúng ta ‘thích nghe theo những chứng nhân hơn là các bậc thày, và nếu họ có nghe các bậc thày là vì các vị là các chứng nhân’.”

“Bởi thế Kitô hữu được ‘kêu gọi sống đức tin có khả năng đương đầu một cách thận trọng với nền văn hóa hiện đại và chống lại những lôi cuốn của nó; có khả năng thực hiện một tác dụng thực sự trên thế giới văn hóa, tài chính, xã hội và chính trị,… có khả năng hân hoan truyền đạt đức tin cho các thế hệ mới”.

2. Làm chứng bằng hiệp nhất và đối thoại

“Mỗi Giáo Hội Riêng không thể chỉ phải đối đầu với thách đố trước mặt. Cần phải thực sự hợp tác giữa tất cả mọi Giáo Hội Riêng trên Lục Địa này như biểu hiện mối hiệp thông thiết yếu của mình”.

“Nhiệm vụ hợp tác đại kết huynh đệ và dấn thân cũng được phát xuất như là một mệnh lệnh bất khả vãn hồi”.

“Việc loan báo Phúc Âm hy vọng cũng cần phải thiết lập một cuộc đối thoại liên tôn sâu xa và hiểu biết, nhất là với Do Thái giáo và Hồi giáo.

“Cần phải khích lệ việc đối thoại với Do Thái giáo, ý thức rằng thật là quan trọng cho việc Kitô hữu nhận biết mình cũng như thắng vượt những chia rẽ giữa các Giáo Hội, và cần phải hoạt động cho việc thăng hoa một mùa xuân mới nơi các mối liên hệ hỗ tương… Vấn đề dấn thân đối thoại này cũng bao hàm ‘việc nhìn nhận về trách nhiệm con cái Giáo Hội gánh chịu trong vấn đề phát triển và lan truyền nạn chống chủng tộc Do Thái trong lịch sử; phải xin Thiên Chúa tha thứ cho điều này, và phải thực hiện mọi nỗ lực hướng về những cuộc hội ngộ hòa giải và thân hữu với những người con của dân tộc Do Thái’”.

“Mối liên hệ xứng hợp với Hồi giáo là một vấn đề hết sức quan trọng… Điều này cần được thực hiện một cách khôn ngoan, ở chỗ hiểu được rõ ràng về những khả năng và giới hạn cũng như ở chỗ tin tưởng vào dự án cứu độ của Thiên Chúa giành cho tất cả mọi con cái của Ngài. Cũng cần phải chú ý tới cái khoảng cách giữa văn hóa Âu Châu nơi các cội nguồn Kitô giáo sâu xa của nó với tư tưởng của Hồi giáo”.

“Về vấn đề này, cần phải huấn luyện một cách xứng hợp những Kitô hữu đang sống giao tiếp hằng ngày với những người Hồi giáo để họ hiểu biết một cách khách quan về Hồi giáo cũng như để nhờ đó họ đem ra so sánh với niềm tin riêng của mình…. Ngoài ra, người ta có thể hiểu được là Giáo Hội… cảm thấy cần phải nhấn mạnh rằng vấn đề hỗ tương trong việc bảo đảm quyền tự do tôn giáo cũng cần được tuân giữ ở những xứ sở thuộc các truyền thống tôn giáo khác, nơi chỉ có một thiểu số Kitô hữu”.

“Trong trường hợp này, ‘người ta có thể hiểu được cái ngỡ ngàng và cảm giác chán nản của những người Kitô hữu tỏ ra đón nhận, chẳng hạn như ở Âu Châu, những tín đồ thuộc các tôn giáo khác, ở chỗ cống hiến cho họ cơ hội để họ có thể thực thi việc thờ phượng của họ, trong khi đó thành phần Kitô hữu lại bị cấm đoán không cho thực thi hết mọi việc tôn thờ theo Kitô giáo’ ở những xứ sở có những tín đồ thuộc đạo giáo ấy chiếm đa số và chỉ muốn chấp nhận cùng cổ võ tôn giáo của mình mà thôi. Con người có quyền tự do tôn giáo, và tất cả moị dân tộc ở mọi phần đất trên thế giới không thể nào lại bị áp chế bởi những cá nhân, những phái nhóm xã hội và hết mọi quyền lực của con người”.

3. Việc truyền bá phúc âm hóa sinh hoạt xã hội

“Việc loan báo Chúa Giêsu Kitô cũng cần vươn đến cả nền văn hóa Âu Châu hiện đại…. Công tác mục vụ phải được thực hiện việc hình thành ý hệ Kitô giáo trong sinh hoạt bình thường, như tại gia đình, ở học đường, nơi các phương tiện truyền thông xã hội, trong sinh hoạt văn hóa, tại chỗ làm việc và hoạt động kinh tế, nơi lãnh vực chính trị, vào giờ chơi giải trí, lúc khỏe mạnh cũng như khi yếu đau”.

“Một phần quan trọng của bất cứ một chương trình truyền bá phúc âm hóa văn hóa nào đó là dịch vụ được các học đường Công giáo cung cấp”.

“Chúng ta cũng không được coi thường việc đóng góp tích cực ở chỗ biết cách khôn ngoan sử dụng các kho tàng văn hóa của Giáo Hội”.

“Tôi khuyến khích Giáo Hội ở Âu Châu hãy chú trọng hơn nữa đến việc huấn luyện đức tin cho giới trẻ. Trong lúc chúng ta đang hướng về tương lai, chúng ta không thể nào không nghĩ đến họ, ở chỗ chúng ta cần phải giáo tiếp với trí khôn, lòng muốn và tính chất của giới trẻ để cống hiến cho họ một thứ huấn luyện lành mạnh về nhân bản và Kitô giáo”.

“Để đạt được mục đích này, cần phải thực hiện một thừa tác vụ đổi mới cho giới trẻ, được tổ chức theo nhóm tuổi và chú trọng tới những tình trạng khác nhau của thành phần trẻ em, vị thành niên và thanh niên. Việc cống hiến thừa tác vụ giới trẻ này cũng cần phải được thực hiện có phương pháp tổ chức và liên tục hơn, cũng như cần phải nhẫn nại quan tâm tới những vấn đề do giới trẻ nêu lên, để biến họ trở thành những người đóng vai chính trong việc truyền bá phúc âm hóa cũng như trong việc xây dựng xã hội”.

“Đối với tầm quan trọng của các phương tiện truyền thông xã hội, Giáo Hội ở Âu Châu cần phải đặc biệt chú trọng tới thế giới muôn mặt của vấn đề truyền thông đại chúng. Vấn đề này sẽ bao gồm nhiều sự trong đó có việc huấn luyện đầy đủ cho thành phần Kitô hữu làm việc trong ngành truyền thông cũng như cho những ai sử dụng truyền thông, để nhờ đó họ hiểu hơn những thứ ngôn ngữ mới mẻ do truyền thông phổ biến.”

“Khi Tôi bước qua Cửa Thánh vào lúc mở màn cho Cuộc Đại Hỷ Mừng Năm 2000, Tôi đã nâng cao Sách Phúc Âm để tỏ cho Giáo Hội và thế giới thấy. Cũng cùng một tác động theo lễ nghi này được tất cả các vị Giám Mục ở các vương cung thánh đường khác nhau trên thế giới thực hiện đã tỏ ra cho thấy công việc đang đợi chờ Giáo Hội của Lục Địa chúng ta hiện nay cũng như mãi mãi sau này.

“Hỡi Giáo Hội tại Âu Châu, hãy tiến vào ngàn năm mới bằng Sách Phúc Âm!… Chớ gì Thánh Kinh tiếp tục là một kho tàng cho Giáo Hội này cũng như cho hết mọi Kitô hữu”.

“Chúng ta hãy cầm Thánh Kinh lên! Chúng ta hãy nhận lấy Thánh Kinh từ Chúa Kitô, Đấng tiếp tục ban Thánh Kinh cho chúng ta qua Giáo Hội của Người. Chúng ta hãy ngấu nghiến Thánh Kinh để Thánh Kinh trở thành chính sự sống của chúng ta. Chúng ta hãy hết lòng gìn giữ Thánh Kinh”.

 

8/7 Thứ Ba

Tòa Thánh chính thức lên tiếng về chuyến tông du của ĐTC đến Mông Cổ

Trưa hôm nay, Thứ Ba 8/7/2003, vị giám đốc văn phòng báo chí của Tòa Thánh là tiến sĩ Joaquin Navarro-Valls đã công bố những lời sau đây:

“Tôi xin xác nhận là Đức Thánh Cha đã được Chính Phủ Mông Cổ và Văn Phòng Giáo Khu của Tòa Thánh ở Ulaanbaator mời thực hiện một cuộc viếng thăm mục vụ ở xứ sở này. Tòa Thánh rất biết ơn về lời mời ấy, nhưng tôi cần phải nói là cho đến nay vẫn chưa có quyết định gì về chuyến tông du này cả. Do đó, tin về chuyến đi đến thủ đô Mông Cổ vào tháng tới chưa được xác nhận”.

Sửa Soạn cho Thượng Hội Giám Mục Thế Giới Thường Lệ lần thứ 11

Theo một công báo của Tòa Thánh hôm nay, Thứ Ba 8/7/2003, thì Hội Đồng Tổng Thư Ký Thượng Hội Giám Mục đã họp nhau lần thứ sáu vào ngày 1-2/7/2003 tại văn phòng chính của mình. Hội Đồng này gồm có ĐHY Jan P. Schotte, C.I.C.M., 6 HY, 4 TGMvà 4 phần tử của văn phòng tổng thư ký, để bàn đến Thượng Hội Giám Mục Thế Giới Thường Lệ lần thứ 11. Hội Đồng này sẽ tái họp vào Tháng 10/2003.

Nhân dịp này thoidiemmaria.net xin mời độc giả lược qua tiến trình của các Thượng Hội Giám Mục Thế Giới cũng như Hội Nghị Giám Mục Châu Lục.

Các khóa họp của Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới đã được Đức Thánh Cha Phaolô VI đề xướng vào thời gian gần kết thúc Công Đồng Chung Vaticanô II, bằng văn kiện Apostolica Sollicitudo ban hành ngày 15-9-1965, với kỳ họp đầu tiên đã được bắt đầu từ tháng 10 năm 1967, sau Công Đồng 2 năm.

Kỳ họp thường lệ thứ 1, 29/9-29/10-1967, về việc bảo trì và kiên cường đức tin Công Giáo : chuyên chính, năng lực, phát triển cùng sự nối kết của đức tin Công Giáo giữa tín điều và lịch sử.

Kỳ họp ngoại lệ thứ nhất, 11-28/10/1969, về bản chất và ý nghĩa của giáo phẩm đoàn, về mối liên hệ của giám mục và hội đồng giám mục với giáo hoàng cũng như với nhau.

Kỳ họp thường lệ thứ 2, 30/9-6/11/1971, về các vị tư tế thừa tác và sự chính trực trong thế giới.

Kỳ họp thường lệ thứ 3, 29/9-26/10/1974, về việc truyền bá Phúc Âm hóa trong thế giới tân tiến, được đúc kết trong tông huấn Evangelii Nuntiandi do Đức Thánh Cha Phaolô VI ban hành ngày 8-12-1975.

Kỳ họp thường lệ thứ 4, 30/9-29/10/1977, về việc dạy giáo lý trong thời đại của chúng ta, được đúc kết trong tông huấn Catechesi Tradendae do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban hành ngày 16-10-1979.

Kỳ họp thường lệ thứ 5, 26/9-25/10/1980, về vai trò của gia đình Kitô hữu trong thế giới tân tiến, được đúc kết trong tông huấn Familiario Consortio do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô ban hành ngày 22-11-1981.

Kỳ họp thường lệ thứ 6, 29/9-29/10/1983, về việc hòa giải và thống hối trong sứ mệnh của Giáo Hội hôm nay, được đúc kết trong tông huấn Reconciliatio et Paenitenlia do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban hành ngày 2-12-1984.

Kỳ họp ngoại lệ thứ hai, 24/11-8/12/1985, về Công Đồng Vaticanô II, trong việc thẩm định sự áp dụng của Công Đồng 20 năm qua, cũng như trong việc tìm cách phát động sự canh tân trong Giáo Hội theo tinh thần và văn tự của Công Đồng.

Kỳ họp thường lệ thứ 7, 1-30/10/1987, về ơn gọi và sứ mệnh của giáo dân trong Giáo Hội và thế giới, được đúc kết trong tông huấn Christifideles Laici do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban hành ngày 20-12-1988.

Kỳ họp thường lệ thứ 8, 30/9-28/10/1990, về việc đào tạo linh mục trong các hoàn cảnh của ngày hôm nay, được đúc kết trong tông huấn Pastores Dabo Vobis do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban hành ngày 25-3-1992.

Kỳ họp thường lệ thứ 9, 2-29/10//1994, về đời tận hiến và sứ mệnh của nó trong Giáo Hội và trong thế giới, được đúc kết trong tông huấn Vita Consecrata do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban hành ngày 25-3-1996.

Kỳ họp thường lệ thứ 10 đã diễn ra vào ngày 30/9-27/10/2001 với mục tiêu nhắm đến giới còn lại là hàng giáo phẩm, bàn về chủ đề là "Giám mục: Tôi tớ của Phúc Âm Chúa Giêsu đối với niềm hy vọng của Thế Giới". Theo định kỳ thì đáng lẽ Thượng Hội Thường Lệ X lần này được nhóm họp vào cuối năm 1999, nhưng thời điểm được dời lại không ngờ trúng ngay sau Cuộc Khủng Bố Hoa Kỳ 11/9/2001, và đang khi xẩy ra Cuộc Trừng Trị Khủng Bố của hai nước Mỹ và Anh kể từ ngày Lễ Mẹ Mân Côi 7/10/2001.

Còn các Hội Nghị của Hội Đồng Giám Mục Châu Lục, do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II kêu gọi trong tông thư Tertio Millennio Adveniente của ngài ban hành 10-11-1994, đoạn 38, theo gương của Hội Đồng Giám Mục Châu Âu, nơi Kitô giáo trưởng thành và từ đó lan tràn khắp thế giới, cũng như gương của Hội Đồng Giám Mục Phi Châu.

Hội Nghị Giám Mục Âu Châu, đáp lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, đã diễn ra tại Rôma từ ngày 28-11 đến 14-12 năm 1991, tức theo sau Biến Cố Đông Âu sụp đổ năm 1989 và ngay trước biến cố Nước Nga trở lại ngày 25-12-1991, để lợi dụng tình trạng sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản bàn về vai trò Kitô giáo trong tương lai của Âu Châu cũng như về vai trò tác hiệu của Giáo Hội Công Giáo trong việc hình thành một trật tự xã hội chân chính.

Hội Nghị Giám Mục Phi Châu nhóm họp tại Rôma vào ngày 10/4-8/5/1994 với chủ đề "Giáo Hội ở Phi Châu với sứ mệnh truyền bá Phúc Âm hướng về năm 2000: 'Các con sẽ là nhân chứng của Thày'", được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đúc kết trong tông huấn Ecclesia in Africa ban hành ngày 14-9-1995, dịp ngài thăm Phi Châu.

Hội Nghị Giám Mục Mỹ Châu nhóm họp tại Rôma vào ngày 16/11-12/12/1997, với chủ đề "Gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô hằng sống: Con đường dẫn đến Hối Cải, Hiệp Thông và Đoàn Kết", được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đúc kết trong tông huấn Ecclesia in America ban hành tại Mexicô City ngày 22-1-1999, dịp ngài thăm Mỹ Châu.

Hội Nghị Giám Mục Á Châu nhóm họp tại Rôma vào ngày 19/4-14/5/1998, từ ngày 19-4 đến 14-5, với chủ đề "Chúa Giêsu Kitô Cứu Thế với Sứ Mệnh Yêu Thương và Phục Vụ của Người ở Á Châu", đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đúc kết trong tông huấn Ecclesia in Asia ban hành ngày 6/11/1999 tại Tân Đề Ly Ấn Độ, nhân dịp Lễ Ánh Sáng của Ấn giáo.

Hội Nghị Giám Mục Đại Dương Châu nhóm họp tại Rôma vào ngày 23/11-12/12/1998, với chủ đề "Chúa Giêsu Kitô và nhân dân Đại Dương Châu - 'Đi Con Đường của Người, nói Sự Thật của Người và sống Sự Sống của Người'", đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đúc kết trong tông huấn Ecclesia in Oceania ngày 22/11/2001.

Hội Nghị Giám Mục Âu Châu đã họp lần thứ hai vào thời khoảng 1-23/10/1999 tại Rôma, với chủ đề "Chúa Giêsu Kitô vẫn sống nơi Giáo Hội, Nguồn Mạch Hy Vọng cho Châu Âu”, đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đúc kết trong tông huấn Ecclesia in Europa ngày 28/6/2003, vào buổi Kinh Tối áp Lễ hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô.

ĐTC gửi sứ điệp cho Đại Hội Caritas Quốc Tế lần tứ 17

Đại Hội Caritas Quốc Tế lần thứ 17 được diễn ra từ ngày 7-12/7/2003 ở Rôma, với câu tâm niệm “Toàn cầu Hóa Tình Đoàn Kết”, qui tụ 450 đại biểu của hơn 150 tổ chức Caritas cấp quốc gia. Sứ điệp ĐTC gửi cho Đại Hội này qua vị chủ tịch là ĐGM Youhanna Fouad El-Hage, vị giám mục ở Tripoli nước Lebanon. Ngài bắt đầu sứ điệp của mình bằng nhận định:

“Vấn đề toàn cầu hóa đã trở thành một chân trời cần thiết của tất cả mọi thứ chính trị. Để tình đoàn kết được toàn cầu hóa, người ta phải thực sự để ý tới tất cả mọi dân tộc thuộc tất cả mọi miền trên thế giới. Điều này đòi hỏi nhiều nỗ lực, nhất là đòi hỏi những thứ bảo đảm quốc tế vững chắc liên quan tới các tổ chức nhân đạo, những thứ bảo đảm thường thiên lệch ở những nơi xẩy ra xung khắc vì chúng không thể bảo đảm tình trạng an ninh cũng không thể nắm được quyền hạn để trợ giúp con người ta.

“Việc toàn cầu hóa tình đoàn kết cũng đòi phải hoạt động băng một mối liên hệ gần gũi và liên tục với các tổ chức quốc tế, những tổ chức bảo đảm luật lệ và pháp lý, trong việc cân bằng những đường lối mới mẻ các mối liên hệ giữa quốc gia giầu nghèo, hầu chấm dứt những mối liên hệ trợ giúp một chiều, những thứ liên hệ trợ giúp thường góp phần vào tình trạng chênh lệch đưa đến những thứ nợ nần thường xuyên. Cần phải công hiệu hóa việc hợp tác thực sự dựa vào các mối liên hệ cân bằng và hỗ tương là những gì nhìn nhận quyền mỗi người và mọi người đều làm chủ tương lai của họ.

“Vấn đề toàn cầu hóa tình đoàn kết trước hết là việc đáp ứng những lời kêu gọi khẩn trương của Phúc Âm Chúa Kitô. Đối với Kitô hữu chúng ta, cũng như đối với tất cả mọi con người nam nữ, thì điều này đòi phải có một đường lối thiêng liêng thực sự, phải hoán cải tâm trí và con người. Việc trợ giúp không thể chỉ là việc bố thí cho kẻ nghèo, khiến cho kẻ cho cảm thấy hãnh diện và thành phần nhận lãnh cảm thấy nhục nhã. Việc trơ ỉ giúp cần phải là một việc ‘chia sẻ huynh đệ’”.
 

7/7 Thứ Hai

Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật về Đức Trong Sạch theo gương Thánh Nữ Maria Goretti

ĐTC đã đề cập đến biến cố hôm nay là ngày bế mạc mừng kỷ niệm 100 năm cái chết của thánh nữ Maria Goretti, vị đã được chôn táng ở Neptuno thuộc giáo phận Albano, Ý quốc. ĐTC đã đặt vấn đề như sau:

 “Người con gái mỏng dòn nhưng trưởng thành Kitô giáo này nói gì với giới trẻ ngày nay qua cái chết anh hùng của mình? Marietta, một tên gọi gia đình vẫn gọi người con gái ấy, nhắc nhở giới trẻ của ngàn năm thứ ba là hạnh phúc chân thực đòi phải có lòng can đảm và một tinh thần hy sinh, cần phải loại trừ bất cứ nhượng bộ nào trước sự dữ cũng như cần phải sẵn sàng liều mình trung thành với Thiên Chúa cũng như với các giới răn của Ngài, cho dù có phải chết… Ngày nay, vấn đề khoái lạc, vị kỷ và thậm chí vô luân thường được tôn vinh nhân danh những thứ lý tưởng sai lầm về tự do và hạnh phúc. Cần phải tái xác nhận một cách rõ ràng là chúng ta cần phải bênh vực cái tinh tuyền của con tim và thân xác, vì đức trong sạch ‘canh giữ’ tình yêu chân thực… Tính chất tinh tuyền của con tim, cũng như tất cả mọi nhân đức khác, đòi phải hằng ngày huấn luyện ý chí và liên lỉ nghiêm khắc nội tâm. Nhất là nó đòi phải thiết tha trông cậy vào Thiên Chúa bằng việc nguyện cầu. Nhiều thứ bận rộn và các thứ nhịp sống gia tốc đôi khi gây khó khăn trong việc vun trồng chiều kích thiêng liêng quan trọng này. Tuy nhiên, việc nghỉ hè, đối với một số người giờ đây đã bắt đầu, có thể trở thành một cơ hội thuận tiện cho việc canh tân đời sống nội tâm, miễn là cơ hội này không bị làm hoang phí… Xin Trinh Nữ Maria giúp cho hết mọi người, nhất là thành phần vị thành niên và giới trẻ nhận thức được một lần nữa giá trị và tầm quan trọng của đức trong sạch để xây dựng một nền văn minh yêu thương, như Mẹ đã gìn giữ Maria Goretti trong cơn thử thách của nữ thánh”.

ĐTC với tân lãnh sự Cyprus về việc xây dựng Khối Hiệp Nhất Âu Châu

Trong bài diễn từ của mình, trước hết ĐTC bày tỏ việc Ngài “sung sướng ghi nhận rằng ông là vị lãnh sự đầu tiên của xứ sở ông với Tòa Thánh”.

Sau đó, Ngài nhận định về những gì ông tân lãnh sự này trình bày với Ngài: “Ông đã đề cập tới việc ký kết mới đây về Bản Thỏa Ước Gia Nhập của Cộng Hòa Cyprus với Khối Hiệp Nhất Âu Châu. Chắc chắn đây là một bước tiến quan trọng đối với một quốc gia để bắt đầu những việc sửa soạn quan trọng cho vị thế chính thức của mình trong cộng đồng kính tế và chính trị Âu Châu. Với gia sản Kitô giáo lâu đời và sâu xa của xứ sở ông có được ngay từ ban đầu của chính Kitô giáo, Cyprus sẽ đóng một vai trò thuận lợi trong việc làm cho Âu Châu nhận biết hơn nữa những cội nguồn Kitô giáo riêng của nó”.

Lập lại những gì Ngài đã chia sẻ với phái đoàn ngoại giao với Tòa Thánh dịp đầu năm, ĐTC nói: “Âu Châu là tác nhân truyền bá các thứ giá trị mang lại hoa trái cả hai ngàn năm về một thứ ‘nghệ thuật’ suy tư và sinh động đã làm lợi cho cả thế giới. Kitô giáo giữ một vị thế nổi bật đối với những giá trị ấy… Một Âu Châu ruồng bỏ quá khứ của mình, chối bỏ sự kiện về tôn giáo và thiếu chiều kích thiêng liêng sẽ bị suy kiệt trước dự án đầy tham vọng cần đến tất cả nghị lực của nó, đó là dự án kiến trúc một Âu Châu cho tất cả mọi người. Trong thế giới hiện đại của chúng ta, cần phải tỏ ra hoàn toàn tôn trọng một cách xứng hợp những gì hợp lý nơi các ước vọng, truyền thống và niềm tin của dân chúng thuộc các lịch sử khác nhau. Chỉ bao giờ biết chấp nhận nhau và chân thành đối thoại với nhau nơi các dâ tộc và các phái nhóm mới có thể bảo tồn hoạt động duy trì những mối liên hệ hòa hợp. Nền hòa bình chân thực đòi con người phải thực sự nhìn nhận và bảo toàn phẩm giá cùng các thứ quyền lợi của tất cả mọi phần tử thuộc gia đình nhân loại, như là một tiêu chuẩn căn bản nơi qui chế và hành động, đặc biệt hướng về và nâng đỡ thành phần cần thiết nhất, như những người nghèo khổ, bệnh tật, giới trẻ, giới già, lao nhân, di dân”.

ĐTC nhắc đến tình hình tại Cyprus như sau: “Một trong những vấn đề khẩn trương nhất đối với Cyprus hiện nay đó là tình trạng liên tục chia rẽ của hải đảo này. Tòa Thánh, cùng với cộng đồng quốc tế, cảm thấy rất buồn khi thấy rằng dự án hòa bình và tái hiệp nhất đã được vị Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc trình bày năm vừa qua… không đạt được việc thỏa thuận cần thiết giữa các nhóm trong cuộc nên không được chấp thuận… Tôi hân hoan nghe thấy ông nói về việc chính phủ của ông sẵn sàng ngồi xuống một lần nữa để đối thoại và thương thảo theo chiều hướng thuận lợi của Liên Hiệp Quốc. Việc thương thảo chân tình đòi phải ổn định những khác biệt bằng một đường lối mang lại thiện ích thực sự cho tất cả mọi người… Dĩ nhiên, trong tất cả mọi vấn đề này, các phần tử của cộng đồng Công giáo bao giờ cũng nhiệt tình đóng góp phần của mình cùng vơí đồng bào Cyprus”.

Tông Huấn "Giáo Hội Tại Âu Châu" (tiếp)

Chương Hai

"Phúc Âm Hy Vọng đã được ký thác cho Giáo Hội của Ngàn Năm Thứ Ba

"1. Chúa Kitô kêu gọi hoán cải

“Âu Châu đã được Kitô giáo thấm nhiễm một cách rộng rãi và sâu xa. ‘Một điều chắc chắn là, nơi lịch sử phức tạp của Âu Châu, Kitô giáo là một yếu tố chính yếu và hình thành được thiết lập trên nền tảng vững chắc của gia sản cổ kính cũng như trên nhiều thứ đóng góp của các chủng tộc cùng các triều sóng văn hóa khác nhau liên tục kéo dài qua các thế kỷ. Đức tin Kitô giáo đã hình thành văn hóa của Lục Địa này và liên kết bất khả phân ly với lịch sử của nó, đến độ lịch sử Âu Châu sẽ không thể nào hiểu nổi mà lại không đề cập tới những biến cố đánh dấu trước hết giai đoạn truyền bá phúc âm hóa sâu rộng rồi tớinhững thế kỷ dài Kitô giáo trở thành một tôn giáo của các dân tộc Âu Châu, mặc dù xẩy ra tình trạng chia rẽ đau thương giữa Đông và Tây”.

“Qua các thế kỷ, Giáo Hội vẫn gắn bó chặt chẽ với lục địa của chúng ta, nhờ đó gương mặt thiêng liêng của Âu Châu mới được dần dần rõ nét nhờ những nỗ lực của các vị đại thừa sai, chứng từ của các vị thánh cũng như của các vị tử đạo, cùng với những nỗ lực không ngừng của các đan sĩ cũng như của các nữ tu dòng kín, của những con người nam nữ tu trì cũng như của các vị mục tử. Từ ý niệm thánh kinh về con người, Âu Châu đã rút lấy được một nền văn hóa nhân bản tuyệt nhất, một nền văn hóa tác động những sáng tạo nghệ thuật và trí thức, một nền văn hóa đã thiết lập các hệ thống luật pháp, chưa hết, và là một nền văn hóa thăng tiến phẩm giá của con người như là chủ thể của các thứ quyền lợi bất khả phân ly. Như thế, Giáo Hội, với tư cách phổ biến Phúc Âm, đã giúp vào việc làm lan truyền và củng cố những giá trị làm cho văn hóa Âu Châu trở thành phổ quát.”

“Giáo Hội Tại Âu Châu được kêu gọi hãy tin tưởng hơn nữa là Chúa Kitô, băng tặng ân Thần Linh của Người, hằng hiện diện và hoạt động nơi Giáo Hội cũng như trong suốt giòng lịch sử nhân loại”.

“Trước tình trạng tái diễn những động lực gây chia rẽ và chống đối, các Giáo Hội Riêng khác nhau ở Âu Châu, được kiên cường cũng bởi việc gắn bó với Vị Thừa Kế Thánh Phêrô, phải dân thân để trở thành một định vị và là phương tiện của mối hiệp thông cho toàn thể Dân Chúa trong đức tin và đức mến”.

“Nếu mối hiệp nhất trong Giáo Hội được cảm nghiệm một cách trọn vẹn hơn nữa thì cần phải hết sức thực hiện những đặc sủng và ơn gọi khác nhau mỗi ngày một qui về mối hiệp nhất và có thể làm cho mối hiệp nhất này nên phong phú. Về vấn đề này, các phong trào mới cũng như các cộng đồng giáo hội mới cần phải ‘loại trừ đi tất cả mọi khuynh hướng đòi quyền trưởng nam cũng như loại trừ đi tình trạng thiếu hiểu biết lẫn nhau’, tiến bước trên con đường hiệp thông chân chính với nhau hơn, và cùng với tất cả các thực thể giáo hội khác, ‘sống yêu thương bằng một lòng hoàn toàn tuân phục Giám Mục’.

“Để đáp ứng tiếng gọi của Phúc Âm trong việc hoán cải, ‘chúng ta phải cùng nhau thực hiện việc khiêm tốn và can đảm xét lại lương tâm, để nhìn nhận những nỗi sợ hãi của chúng ta cũng như những lỗi lầm của chúng ta, chân thành thú nhận việc chúng ta trì trệ tin tưởng, việc chúng ta bỏ qua không làm, việc chúng ta bất trung và việc chúng ta lầm lỗi’”.

“Sau hết, Phúc Âm hy vọng cũng là một lời hiệu triệu mãnh liệt kêu gọi thực hiện việc hoán cải trong lãnh vực đại kết,… một lãnh vực ngày nay thiết yếu để tạo được một thế giá hơn nữa trong việc truyền bá phúc âm hóa cũng như cho việc phát triển mối hiệp nhất Âu Châu”.

“Cần phải cương quyết dứt khoát tiếp tục việc đối thoại, bất chấp những khó khăn và khốn khó”.

“Chúng ta không được phép đứng khựng lại trong cuộc hành trình này hay được phép quay đầu trở lại!”

“Tôi xin hết mọi người hãy nhìn nhận và cảm nhận, trong yêu thương và tình huynh đệ, việc đóng góp được các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương cống hiến để xây dựng mối hiệp nhất chân chính hơn… Tôi cũng xin các vị mục tử và các anh chị em thuộc Giáo Hội Chính Thống một lần nữa là không thể lẫn lộn vấn đề truyền bá phúc âm hóa với việc dụ giáo kẻo làm tổn thương đến nhiệm vụ tôn trọng sự thật, tự do và phẩm giá con người”.

"2. Toàn Thể Giáo Hội được sai đi truyền giáo

(Vấn đề truyền giáo liên quan đến đời sống độc thân các vị linh mục, đến các phó tế, đến các tu sĩ, giáo dân, đến nữ giới)

(còn tiếp)
 

6/7 Chúa Nhật XIV Thường Niên

Phụng Vụ: Những Mạc Khải Phi Thường 

Chủ đề của Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh là Mầu Nhiệm Chúa Kitô – Sự Sống Tái Sinh. Như tuần trước đã chia sẻ, Chúa Kitô đã tái sinh con người bằng việc tỏ mình ra của Người, trước hết bằng “nước” qua các sinh động của nhân tính Người, rồi sau đó bằng “Thần Linh” khi Người từ trong kẻ chết sống lại. Việc Người tái sinh con người bằng “nước”, qua lời Người nói và việc Người làm, là để con người tin vào Người, là để con người được “sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô” (Jn 17:3). Thế nhưng, vấn đề là ở chỗ con người có biết đáp lại Mạc Khải Thần Linh hay chăng, tức có biết chấp nhận những lời Người nói và việc Người làm hay chăng, đúng hơn có biết chấp nhận chính bản thân Người “là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16) hay chăng? Đó là vấn đề của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XIV Thường Niên Năm B, vấn đề liên quan đến thái độ đáp ứng của dân Do Thái, một thái độ cứng lòng tin của dân này, một dân đã được Thiên Chúa tuyển chọn và được Ngài tỏ mình ra cho suốt giòng Lịch Sử Cứu Độ của họ, một mạc khải đã lên đến tuyệt đỉnh nơi Lời Nhập Thể là Con Người Giêsu Nazaret, Vị Thiên Sai của Ngài.

Thật vậy, việc dân Do Thái đáp ứng Mạc Khải Thần Linh, (một Mạc Khải được thể hiện qua Giao Ước và Lề Luật của họ do Chúa đã tự ký kết với họ và ban bố cho họ), bằng thái độ cứng lòng của dân Do Thái đã được chính Thiên Chúa minh định qua miệng tiên tri Êzêkiên trong bài đọc một như sau: “Hỡi con người, Ta sai ngươi đến cùng những người Do Thái, đến cùng những kẻ phản loạn chống lại Ta; họ và cha ông họ đã phản chống Ta cho tới ngày hôm nay. Ta sai ngươi đến với họ là những kẻ dầy mặt và cứng lòng”. Thái độ thiếu đáp ứng đến cứng lòng này của thành phần dân tuyển chọn này được bộc lộ rất r ràng nơi thánh phần dân Do Thái ở quê quán của Vị Thiên Chúa Làm Người. Ở chỗ, trước Mạc Khải Thần Linh là Chúa Giêsu Kitô, họ đã đặt vấn đề: “Làm sao hắn lại có được tất cả những điều này nhỉ? … Khôn ngoan…? …. Các việc lạ lùng….? Hắn chẳng phải là một tay thợ mộc, đứa con trai của bà Maria, anh em của James, Joses, Judas và Simon hay sao? Và chị em của hắn không phải là dân làng của chúng ta hay sao?” Thánh Ký Marcô tóm lược nội dung thắc mắc của họ như sau: “Họ thấy Người quá sức đối với họ”. Đến nỗi, vị tác giả Phúc Âm này kết luận: “Người không làm một phép lạ nào ở đó, ngoại trừ chữa một ít người bị bệnh bằng cách đặt tay lên họ”. Chưa hết, “Người cảm thấy hết sức buồn phiền trước việc thiếu niềm tin của họ”.

Qua những câu Phúc Âm vừa trích dẫn trên đây, chúng ta thấy, trước hết, muốn thấy phép lạ hay muốn được hưởng phép lạ cần phải có đức tin. Việc Chúa Kitô thực sự có làm một vài phép lạ ở quê quán của Người bấy giờ chứng tỏ không phải tất cả mọi người không tin vào Người. Song kẻ tin vào người thường là thành phần xấu số bất hạnh, như thành phần khốn khổ, thành phần mong được Đấng Quyền Năng giải cứu cho khỏi cảnh khốn khổ của mình, thành phần Đấng Toàn Năng thực sự cũng muốn sử dụng hay lợi dụng để tỏ vinh hiển của Người ra, như trường hợp thiếu rượu ở tiệc cưới Cana (x Jn 2:11), hay trường hợp người mù từ lúc mới sinh (x Jn 9:3), nhất là trường hợp Lazarô ở Bêthania (x Jn 11:4). Tuy nhiên, khi tỏ mình ra cho một cá nhân nào hay nơi một cá nhân nào, Thiên Chúa cũng muốn qua cá nhân ấy tỏ mình ra cho những người khác nữa. Ba trường hợp vừa được viện dẫn trên đây đã cho thấy r ý định này của Chúa Giêsu. Thậm chí chính việc Người tỏ mình ra cho riêng chị phụ nữ Samaritanô bên bờ giếng Giacóp cũng đã trở thành động lực thúc đẩy chị làm cho dân làng chị tiếp đón Người để rồi đi đến chỗ tự động nhận biết Người (x Jn 4:39-42).

Nếu mục đích của Lời Nhập Thể là để “tỏ Cha ra” (Jn 1:18), và Người đã làm hết mình để cho con người nhận biết Cha qua Người, thì quả thực Người chỉ khao khát được mọi người nhận biết và yêu mến, đúng như Người đã có lần bày tỏ nỗi niềm thao thức của mình: “Thày đến để thắp sáng trên thế gian. Thày muốn cho nó bừng lên biết bao!” (Lk 12:49). Bởi thế, một khi không được mãn nguyện, về bản tính loài người, Người làm sao không thật sự cảm thấy buồn phiền, một nỗi buồn phiền sâu xa day dứt, đúng như Thánh Ký Marcô đã nhận định về Người ở gần cuối bài Phúc Âm “Người cảm thấy hết sức buồn phiền trước việc thiếu niềm tin của họ”. Thế nhưng, Người vẫn không nản. Chính vì thế mà Người càng phải nỗ lực tỏ mình ra hơn nữa cho con người, không ở nơi này thì ở nơi khác, không vào lúc này thì ở lúc kia, nhất là cho thành phần chiên lạc của Người, thành phần nghe thấy tiếng của Người và cũng là thành phần Người đến tìm kiếm cho bằng được, cho đến khi họ đi theo Người (x Jn 10:27,26). Đó là lý do, bài Phúc Âm đã kết luận bằng câu: “Thế nhưng, (tức là cho dù có cảm thấy hết sức buồn phiền về tình trạng thiếu lòng tin nơi quê quán của mình), Người đã rảo khắp các làng mạc lân cận để giảng dạy”.

Nếu Chúa Kitô đã khẳng định với người Do Thái: “Chiên Tôi thì nghe tiếng của Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi” (Jn 10:27), và Người cũng đã khẳng định với tổng trấn Philatô: “Ai tìm kiếm chân lý thì nghe thấy tiếng của Tôi” (Jn 18:37), thì quả thực ai được nghe Lời Chúa đã là một đặc ân và ai nghe được Lời Chúa là càng là một ơn phúc chứ không phải chuyện thường. Tức là muốn nghe được Lời Chúa vô cùng sâu nhiệm như chính Thượng Trí của Người thì con người trần gian cần phải được Người ban cho chính Thần Linh của Người là Thần Chân Lý nữa, một Thần Linh Người quả thực đã thông ban cho Giáo Hội qua các vị tông đồ vào ngày thứ nhất trong tuần sau khi Người từ trong kẻ chết sống lại (x Jn 20:22), họ mới có thể phần nào thấu triệt “tất cả sự thật” (Jn 16:13), thấu triệt “những mạc khải phi thường” mà đạt đến Thực Tại Thần Linh.

Ở bài đọc thứ hai, qua bức thư thứ hai gửi cho giáo đoàn Côrintô, Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô đã cho thấy hậu quả và thái độ của chính bản thân mình, một con người đã nhận được “những mạc khải phi thường”, những mạc khải được thánh nhân cho biết là “nghe thấy những lời khôn tả không ai có thể nói” trên tầng trời thứ ba (x 2Cor 12:4). Hậu quả mà con người nhận được “những mạc khải phi thường” này phải chịu đó là, như đương sự thành thật chia sẻ trong bài đọc thứ hai: “một cái gia đâm vào xác thịt, một thần của Satan làm tôi bầm dập để giữ cho tôi khỏi kiêu hãnh”. Và thái độ của con người nhận được “những mạc khải phi thường” này cần phải tỏ ra là “bằng lòng với nỗi yếu hèn, với bạc đãi, với buồn đau, với bách hại và các thứ khốn khó vì Chúa Kitô. Vì khi tôi bất lực là lúc tôi mạnh mẽ”. Thái độ của vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, một con người không hề ở với Chúa Kitô ngay từ đầu đến cuối như Mathias, vị tông đồ được chọn thay cho Giuđa (x Acts 1:21-22), nhưng vẫn được gọi là Tông Đồ, tức thuộc về thành phần chứng nhân tiên khởi, thành phần phải hội đủ điều kiện được Chúa Kitô đích thân tỏ mình ra cho và trực tiếp sai đi, vì con người này cũng được chính Chúa Kitô tỏ mình và sai đi (x Gal 1:12, 16; Acts 9:3-6, 13:2-3), thực sự là tinh thần của một người môn đệ đích thực của Chúa Kitô, một người môn đệ sau khi nhận được những mạc khải phi thường thì vì Chúa mang đi chia sẻ, bất chấp mọi khó khăn thử thách.

Ở đầu bài Phúc Âm Chúa Nhật XIV năm B cũng nhắc đến sự kiện các môn đệ theo Chúa Giêsu về quê quán của Người, thành phần đi theo Người ấy không thể nào không chứng kiến thấy nỗi khổ tâm buồn phiền của Thày mình trước tình trạng cứng lòng tin nơi dân làng của Thày, hay nói cách khác, tình trạng có vẻ thất bại của Thày, nhưng đồng thời các vị cũng chứng kiến thấy thái độ hăng say không nản chí của Thày, như cuối bài Phúc Âm nói tới, trong việc hoàn thành sứ vụ chứng nhân của Người về chính bản thân Người và về Cha của Người. Các môn đệ được Chúa Kitô tuyển chọn để sống sát bên Người không phải chỉ để nghe lời Người nói và thấy việc Người làm, mà còn để thấy được tinh thần sống của Người nữa hầu bắt chước mà làm theo, như Người khẳng định với các vị sau khi làm gương phục vụ qua việc rửa chân cho các vị trước Bữa Tiệc Ly (x Jn 13:15).

Tóm lại, tất cả những gì phát xuất từ Chúa Kitô là Lời Nhập Thể đều là “những mạc khải phi thường”, những mạc khải trước hết được tỏ ra cho thành phần môn đệ của Người (x Mt 13:16-17), để họ có thể trở thành những chứng nhân của Thày (x Lk 24:48), thành phần sẽ được Người sai đi rao giảng ngay khi Người còn sống, như bài Phúc Âm tuần tới nói đến…

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

Tông Huấn: "Giáo Hội tại Âu Châu" (tiếp Thứ Sáu 4/7 và Thứ Bảy 5/7)

"2. Trở Về Với Chúa Kitô, Nguồn Mạch của Mọi Niềm Hy Vọng

"Một niềm xác tín rõ ràng và mãnh liệt phát xuất từ Hội Nghị Giám Mục này, đó là Giáo Hội phải cống hiến cho Âu Châu một quà tặng quí giá nhất, một quà tặng không ai có thể hiến cho, đó là niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô, nguồn mạch của một niềm hy vọng không làm thất vọng; một quà tặng ở tận gốc rễ của mối hiệp nhất thiêng liêng và văn hóa nơi các dân tộc Âu Châu, và là một quà tặng cả ngày nay lẫn sau này có thể góp phần thiết yếu vào việc phát triển và hòa nhập của họ”.

“Có nhiều căn gốc thiêng liêng nhấn mạnh đến việc nhìn nhận giá trị con người và phẩm giá bất khả loại trừ của họ, đến tính cách linh thánh của sự sống con người và vai trò chính yếu của gia đình, tầm quan trọng của vấn đề giáo dục và tự do tư tưởng, phát ngôn và đạo giáo, việc bảo vệ hợp pháp những con người và phái nhóm, việc cổ võ tình đoàn kết và công ích, cùng với việc nhìn nhận giá trị của lao công. Những gốc rễ này đã giúp dẫn tới việc tùng phục quyền lực chính trị theo qui tắc luật lệ cũng như tôn trọng các thứ quyền lợi của cá nhân và các dân tộc. Đến đây chúng ta phải đề cập đến tinh thần của Hy La cổ điển, đến những phần đóng góp của các dân tộc Celtic, Germanic, Slav và Finno-Ugric, cũng như đến ảnh hưởng của văn hóa Do Thái và Hồi giáo. Tuy nhiên cần phải công nhận là những nguyên tắc tác động này, về lịch sử, đã thấy nơi truyền thống Do-Thái-Kitô-Giáo một thứ lực có khả năng hòa hợp, liên kết và phát triển chúng. Đây là một sự kiện không thể coi thường; ngược lại, trong tiến trình xây dựng một Âu Châu hiệp nhất cần phải công nhận là việc thiết dựng này cũng cần phải được xây dựng trên các gía trị hầu như hoàn toàn được tỏ bày nơi truyền thống Kitô giáo. Việc công nhận ấy đều có lợi cho hết mọi người”.

“Các Giáo Hội Riêng ở Âu Châu không phải chỉ là các cơ quan hay là những tổ chức tư. Trái lại, các giáo hội này thi hành nhiệm vụ của mình theo chiều kích cơ cấu đáng được luật pháp nhìn nhận, hoàn toàn tôn trọng việc nhìn nhận hợp pháp này, hoàn toàn tôn trọng những tổ chức liêm chính hợp pháp của dân sự”.

“Sứ vụ của mỗi Giáo Hội Riêng ở Âu Châu đó là chú ý tới hết mọi thứ khao khát của con người đối với chân lý cũng như đối với nhu cầu cần đến những giá trị chân chính có thể làm dậy men ngay trong lục địa, …bày tỏ cho thấy, bằng hành động cũng như bằng các thứ lập luận về cách thức tân Âu Châu cần phải tái nhận thức thấy những cội nguồn tột đỉnh của mình”.

"Chương Hai

"Phúc Âm Hy Vọng đã được ký thác cho Giáo Hội của Ngàn Năm Thứ Ba

"1. Chúa Kitô kêu gọi hoán cải

“Âu Châu đã được Kitô giáo thấm nhiễm một cách rộng rãi và sâu xa. ‘Một điều chắc chắn là, nơi lịch sử phức tạp của Âu Châu, Kitô giáo là một yếu tố chính yếu và hình thành được thiết lập trên nền tảng vững chắc của gia sản cổ kính cũng như trên nhiều thứ đóng góp của các chủng tộc cùng các triều sóng văn hóa khác nhau liên tục kéo dài qua các thế kỷ. Đức tin Kitô giáo đã hình thành văn hóa của Lục Địa này và liên kết bất khả phân ly với lịch sử của nó, đến độ lịch sử Âu Châu sẽ không thể nào hiểu nổi mà lại không đề cập tới những biến cố đánh dấu trước hết giai đoạn truyền bá phúc âm hóa sâu rộng rồi tớinhững thế kỷ dài Kitô giáo trở thành một tôn giáo của các dân tộc Âu Châu, mặc dù xẩy ra tình trạng chia rẽ đau thương giữa Đông và Tây”.

(còn tiếp)


(Giáo Hội Hiện Thế các tuần trước)