GIÁO HỘI HIỆN THẾ

 

Ý Chỉ của Đức Thánh Cha cho Tháng 8/2003

 

Ý Chung: “Xin cho các nhà nghiên cứu về lãnh vực khoa học và kỹ thuật biết đón nhận các lời kêu gọi không ngừng của Giáo Hội trong việc sử dụng một cách khôn ngoan và hữu trách những thành đạt họ chiếm được”.

Ý Truyền Giáo: “Xin cho các giáo lý viên ở những Giáo Hội trẻ biết chứng thực lòng họ trung thành gắn bó với Phúc Âm”.

 

___________________________________________

 10-16/8/2003

Giovanni Paolo II


 

16/8 Thứ Bảy

 

Mẹ Maria và Việc Đối Thoại Liên Tôn với Do Thái Giáo

Nếu Hồi Giáo là một tôn giáo không có liên hệ với Kitô giáo bằng Do Thái giáo mà có một liên hệ như thế với Mẹ Maria của chúng ta thì hẳn Do Thái giáo còn có một liên hệ hơn nữa với Mẹ Maria, vì như Phật giáo phát xuất từ Ấn giáo thế nào Kitô giáo theo lịch sử cũng bắt nguồn từ Do Thái giáo như vậy?

ĐTGM chủ tịch các Cuộc Hành Hương tới Ngai Tòa Phêrô tác giả cuốn “Maria, Mẹ Ngôi Lời, Mô Phạm của Việc Đối Thoại giữa Các Tôn Giáo”, sau khi cho biết cuốn Thánh Kinh Koran của Hồi giáo và tín đồ Hồi giáo đối với Mẹ Maria thế nào, đã cho biết về Do Thái giáo đối với Mẹ như sau.

“’Maria’ và ‘Giêsu’ là những diễn tả của truyền thống thánh kinh cố kính nhất của Do Thái giáo. Những cội rễ chung giữa con cháu của Abraham và thành phần môn đệ của Chúa Kitô thì nhiều hơn là những khác nhau và cách nhau. Nếu truyền thống Do Thái giáo hiện đại tiến đến biên giới Chúa Kitô, để rồi ngay sau đó, trở về với các nguồn gốc chung, thì sẽ có nhiều cơ hội đồng ý với nhau hơn. Thiên Chúa của Chúa Giêsu cũng chính là Thiên Chúa của Abraham, của Isaac và của Giacóp, ‘Vị Thiên Chúa của cha ông chúng ta’. Bởi thế, lời diễn tả ‘Tất cả chúng ta đều có cùng một Vị Thiên Chúa’ là một lời diễn tả hết sức chân thực cho cả con cái Do Thái lẫn thành phần môn đệ Chúa Kitô. Sinai là ngọn núi thánh và Giêrusalem là thành thánh cho một dân tộc cũng như cho tất cả mọi dân tộc”.

Đó là lý do, theo vị TGM này, “những cái khác nhau hiện nay cần phải trở thành những thứ phụ thuộc cho nhiều điều làm cho chúng ta liên kết với nhau, chẳng những để biện minh cho vấn đề đối thoại còn để thiết lập một bầu khí thân tình nữa. Một cách sâu xa trong tuyên ngôn ‘Nostra Aetate’, Công Đồng Chung Vaticanô II, sau khi nhấn mạnh đến các nguồn gốc Do Thái của Mẹ Maria, đã ghép cho Mẹ một danh hiệu mới, khi gọi Mẹ là ‘Người Nữ Tử Sion cao vời’ (Hiến Chế Lumen Gentium, đoạn 55)”. Đối với việc đối thoại, nhất là vấn đề liên quan tới nhân vật Maria, ĐTGM tác giả này chủ trương là “việc đối thoại giữa Kitô hữu và người Do Thái cho đến nay tập trung vào nhân vật Thiên Sai, chỉ lờ mờ nói đến Mẹ Maria thôi. Thật vậy, Do Thái giáo cũng đang vượt qua giai đoạn tranh luận, như được lịch sử ghi nhận, cũng như giai đoạn thinh lặng, giai đoạn trải qua nhiều thế kỷ quanh quẩn với một người phụ nữ được gọi là Myriam. Chẳng hạn như Avital Wohlmann, vị giáo sư ở Đại Học Giêrusalem, ‘chấp nhận Maria là người Do Thái nhưng bác bỏ Người là một Kitô hữu’. Thế nhưng hy vọng là từ trường hợp này Do Thái giáo sẽ tiến hơn nữa. Một chứng từ đáng chú ý về việc tiến thêm hơn nữa này của họ được thấy nơi Lea Sestieri Scazzocchio, một tác giả người Do Thái đã coi Mẹ Maria như là ‘một Nữ Tử của dân Do Thái’, ‘một phụ nữ đạo hạnh không lầm lỗi’, ‘một người đàn bà nhân đức và tận hiến’, một đàn bà ‘hát cho dân Do Thái’. Ở một trong những tác phẩm của mình, Lea Sestieri đã kết luận như sau: ‘Phải chăng vì thế mà Maria là một người mẹ Do Thái? Chắc chắn là thế, nơi lòng tin tưởng của bà, nơi nỗi sâu thương thảm thiết trước cái chết của con mình; cũng như nơi niềm hy vọng thiên sai cao cả nữa’”.

ĐTGM chủ tịch này kết luận: “Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, khi hướng tín hữu về gương anh hùng của Thánh Edith Stein, một nữ tu Camêlô thánh thiện nạn nhân của một Đức Quốc Xã dã man tàn bạo ở Trại Auschwitz, đã nói: ‘Những người Do Thái và Kitô hữu không thể quên được tình huynh đệ chuyên biệt của mình, một tình huynh đệ đã đâm rễ sâu nơi dự án quan phòng của Thiên Chúa, một tình huynh đệ đã đồng hành với lịch sử của họ. Hỡi Maria, Nữ Tử Sion và là Mẹ Giáo Hội, cầu cho chúng con!’”.

Người Ả Rập và Do Thái cùng hành hương đến địa điểm của Trại Tế Thần Auschwitz

Ba tháng trước đây, Cha Emile Shoufani, vị linh mục coi xứ ở cộng đồng Công Giáo Hy Lạp Melkite ở Bêlem, đã phát động sáng kiến hành hương này, và nghĩ rằng chắc có khoảng 300 người tham dự là cùng. Thế nhưng, sự kiện đã xẩy ra ngoài dự tưởng. Con số cho thấy có 125 người Ả Rập Do Thái, 25 Kitô hữu, 100 người Hồi Giáo và 135 Do Thái đã ghi danh tham dự cuộc hành hương 4 ngày, bắt đầu từ ngày Thứ Hai 26/5/2003, một cuộc hành hương đến địa điểm Trại Auschwitz, một trong những Trại Tế Thần Do Thái nổi tiếng nhất thời Đức Quốc Xã ở Thế Chiến Thứ Hai, cuộc hành hương không phải chỉ để tưởng niệm một biến cố đau thương đã qua mà là để tiến đến cuộc hòa giải trong tương lai giữa hai dân tộc Do Thái và Palestine.

Tham dự đoàn hành hương này còn có 100 phóng viên, cùng với 200 người Pháp và Bỉ, trong 200 người này đó có 140 người Ả Rập (một nữa số này là Kitô hữu và một nửa là Hồi Giáo). Đoàn hành hương này ngoài việc hành hương tới trại tế thần Auschwitz ở Balan còn viếng thăm cả thành phố Wadowice, nơi sinh trưởng của Đức Gioan Phaolô II, vị “ban những giáo huấn và việc dấn thân hòa giải giữa những ngươiụi Ả Rập và Do Thái đã đánh động tôi”, vị linh mục tổ chức gốc Palestine nhưng có công dân Do Thái này cho biết như thế.

 

ĐTC với Phái Đoàn Do Thái: “Liên kết với nhau để hoạt động cho hòa bình và công lý trên thế giới”

Sáng nay, 22/5/2003, ĐTC Gioan Phaolô II đã tiếp một nhóm đại diện Hội Nghị Thế Giới Do Thái và Ủy Ban Do Thái Quốc Tế Về Tham Vấn Liên Tôn. Trong bài chia sẻ của mình, ĐTC đã xác định là “Cho dù thế giới ngày nay có bị đánh dấu bằng bạo lực, đán áp và khai thác thì những thực tại này cũng không phải là những gì nói lên phán quyết cuối cùng về định mệnh của thế giới chúng ta. Thiên Chúa hứa hẹn một Trời Mới và một Đất Mới. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa sẽ lau khô tất cả mọi giọt nước mắt, và không còn than van đau khổ nữa. Người Do Thái và Kitô hữu tin rằng cuộc sống của chúng ta là một cuộc hành trình tiến tới chỗ hoàn tất những lời hứa hẹn của Thiên Chúa. Theo chiều hướng của gia sản tôn giáo chung phong phú của mình, chúng ta có thể coi thời hiện đại đây như là một cơ hội thử thách cho những nỗ lực liên kết với nhau để hoạt động cho hòa bình và công lý trên thế giới. Việc bênh vực phẩm giá của hết mọi người được dựng nên theo hình ảnh và tương tự Thiên Chúa là lý do liên kết tất cả mọi tín hữu lại với nhau. Loại cộng tác cụ thể này giữa Kitô hữu và Do Thái hữu đòi phải có lòng can đảm và nhãn giới, cũng như cần phải có lòng tin tưởng rằng chính Thiên Chúa là Đấng làm cho nỗ lực của chúng ta phát sinh thiện hảo”.

Bản Tuyên Cáo của Công Giáo và Do Thái Giáo

về Sự Sống Con Người cũng như về Những Giá Trị Gia Đình

Sau cuộc họp sơ khởi ở Giêrusalem hôm 5/6/2002, những vị đại biểu cao cấp của Ủy Ban Tòa Thánh về Những Liên Hệ Tôn Giáo với Người Do Thái và của Văn Phòng Tôn Sư Trưởng của Do Thái đã gặp nhau ở Grottaferrata gần Rôma ngày 23-27/2/2003, cả hai đã phổ biến một bản tuyên cáo chung vào chiều ngày Thứ Hai 3/3/2003. Bản tuyên cáo này được viết bằng tiếng Anh và đề ngày 26/2/2003, với chữ ký của Tôn Sư Ratzon Arrusi, Tôn Sư David Brodman, Oder Wiener và Shmuel Hadas về phía đại biểu Do Thái, và ĐGM Giacinto-Boulos Marouzzo, Cha George Cottier, OP, Cha Elias Shacour, Đức Ông Pier Francesco Fumagalli, Cha Norbert Hofmann, SDB, và TGM Pietro Sambi, khâm sứ tòa thánh ở Do Thái về phía đại biểu Công Giáo.

“Chúng tôi đang đối thoại với nhau với tư cách là con người tin tưởng có cùng những gốc rễ thiêng liêng và gia sản. Việc đối thoại tự nó có giá trị và không có ý hướng nào về vấn đề trở lại đạo cả. Chúng tôi chú trọng đến những truyền thống khác nhau của chúng tôi và tôn trọng cái khác của nhau.
Sau đây là phần riêng về sự sống con người cùng với các giá trị về gia đình:

“Sự Thánh Hảo của Sự Sống Con Người. Sự sống con người có một giá trị chuyên nhất và cao cả nhất trong thế giới của chúng ta đây. Bất cứ nỗ lực nào muốn hủy diệt sự sống con người đều phải được loại trừ, và cần phải hết sức nỗ lực để cổ võ các thứ nhân quyền, tình đoàn kết nơi tất cả loài người, tôn trọng tự do lương tâm

“Động lực tôn giáo chung của chúng tôi đối với niềm xác tín chính yếu này được căn cứ vào lời thánh kinh cho thấy con người được tạo dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa hằng sống, tưởng tự như Ngài. Thiên Chúa là Đấng Thánh và là Đấng Tạo Dựng sự sống con người, và con người được chúc phúc và thắt buộc với sự thánh thiện của Ngài. Thế nên hết mọi sự sống con người đều thánh hảo, linh hóa và bất khả phạm.

“Việc bảo vệ sự sống con người là thành quả hiển nhiên về luân thường đạo lý của niềm xác tín này. Hết mọi tín hữu, nhất là các vị lãnh đạo tôn giáo, phải hợp tác với nhau để bảo vệ sự sống con người. Bất cứ điều gì phạm đến sự sống con người đều đi ngược lại với ý muốn của Thiên Chúa, là tục hóa Danh Thiên Chúa, trực tiếp phản lại giáo huấn của các vị tiên tri. Việc lấy mạng sống con người, kể cả chính bản thân mình, cho dù nhân danh Thiên Chúa, đều là những gì bất kính.

“Như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh, nhất là trong sứ điệp cho Ngày Thế Giới Hòa Bình 2002, là không một vị lãnh đạo tôn giáo nào có thể coi thường việc khủng bố (bất cứ ở đâu) trên thế giới. Thật là tục hóa tôn giáo khi cho mình là một tay khủng bố nhân danh Thiên Chúa, bạo lực với kẻ khác nhân danh Ngài. Việc bạo động khủng bố khắp nơi trên thế giới là tình trạng tương phản với niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng Tạo Dựng nên con người, Đấng chăm sóc con người và yêu thương con người.

“Chúng ta không được ra tay sát hại nhân danh Thiên Chúa là Đấng đã truyền ‘Các ngươi không được giết hại’, tránh việc lạm dụng tôn giáo một cách cuồng tín hay bạo động, như các vị lãnh đạo Do Thái, Kitô Hữu và Hồi Giáo đã công bố trong bản tuyên cáo chung Alexandria (1/2002).

“Tất cả mọi nhà giáo dục phải củng cố nỗ lực của mình trong việc phác họa những chương trình giáo dục giới trẻ trong việc tôn trọng giá trị cao cả nhất nơi sự sống con người. Trước khuynh hướng bạo lực và sát hại hiện nay trong các xã hội của mình, chúng ta cần phải duy trì việc hợp tác với các tín hữu của tất cả mọi tôn giáo cũng như với tất cả mọi người thiện tâm trong việc cổ võ một thứ ‘văn hóa sự sống’.

“Đời sống gia đình. Cơ cấu gia đình phát xuất từ ý muốn của Đấng Toàn Năng, Đấng dựng nên con người theo hình ảnh Thiên Chúa; ‘Ngài đã dựng nên họ có nam có nữ’. Theo quan điểm tôn giáo thì hôn nhân có một giá trị cao cả vì Thiên Chúa đã chúc lành cho việc hiệp nhất này và thánh hóa nó.

“Gia đình và mối hiệp nhất gia đình tạo nên một hoàn cảnh ấm cúng và an toàn cho việc nuôi dưỡng con cái và bảo đảm cho việc giáo dục xứng hợp của chúng theo truyền thống và niềm tin. Mối hiệp nhất gia đình là nền tảng cho toàn thể xã hội.

“Cuộc cách mạng về điện tử và truyền thông đại chúng chắc chắn đã mang lại nhiều đổi thay trong xã hội. Tuy nhiên, đồng thời cũng quá thường làm lan tràn những ảnh hưởng tiêu cực về hành vi cử chỉ của xã hội. Người lớn cũng như giới trẻ đều bị phô bày cho thấy những khía cạnh méo mó và tệ hại của đời sống, như vấn đề bạo động và khiêu dâm. Là những vị lãnh đạo tôn giáo, chúng ta phải đối đầu với những biến chuyển gây hủy hoại ấy.

“Hơn bao giờ hết, chúng ta buộc phải thực hiện việc giáo dục ở gia đình cũng như ở học đường về những giá trị của gia đình theo truyền thống tôn giáo phong phú của chúng ta. Cha mẹ phải giành nhiều giờ hơn nữa để tỏ tình yêu thương con cái mình và hướng dẫn chúng tỏ ra những thái độ tích cực. Trong số những giá trị quan trọng gia đình, chúng ta phải nhấn mạnh đến tình yêu thương, lòng vị tha, việc chăm sóc sự sống và trách nhiệm hỗ tương đối với con cái và gia mẹ”

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo tài liệu của VIS 4/3/2003

 

15/8 Thứ Sáu Lễ Mẹ Mông Triệu

 
Giáo Hội Tin Tưởng Vào Việc Mông Triệu Của Mẹ Maria (bài giáo lý của ÐTC GPII)


1.- Theo Trọng Sắc Munificentissimus Deus được Vị Tiền Nhiệm của Tôi là Đức Piô XII công bố, Công Đồng Chung Vaticanô II đã xác nhận Vị Trinh Nữ Vô Nhiễm “được đưa cả hồn lẫn xác vào vinh quang thiên quốc khi cuộc sống trần thế của Mẹ chấm dứt” (Lumen Gentium, 59).

Các Nghị Phụ Công Đồng muốn nhấn mạnh là Mẹ Maria, không giống như trường hợp Kitô hữu chết trong ơn nghĩa Chúa, đã được đưa lên hưởng vinh quang thiên đình với cả thân xác của Mẹ. Niềm tin rất cổ kính này đã được biểu lộ qua truyền thống lâu dài nơi các ảnh tượng cho thấy Mẹ Maria “tiến vào” thiên đình với cả thân xác của Mẹ.

Tín điều Mông Triệu xác nhận rằng thân xác của Mẹ Maria đã được hiển vinh sau khi Mẹ chết. Thật vậy, đối với những người khác, cuộc phục sinh về thân xác của họ chỉ xẩy ra vào ngày tận thế, còn đối với Mẹ Maria, thân xác của Mẹ đã được hưởng vinh quang trước bằng một đặc ân riêng.

2.- Vào ngày 1/11/1950, khi xác định tín điều Mông Triệu, Đức Piô XII đã tránh dùng từ ngữ “phục sinh”, cũng như đã không khẳng định rõ ràng về vấn đề cái chết của Đức Trinh Nữ như là một chân lý đức tin. Trọng Sắc Munificentissimus Deus chỉ giới hạn vào việc xác định thân xác của Mẹ Maria được nâng lên trong vinh quang thiên quốc, khi tuyên bố rằng chân lý này là một “tín điều theo mạc khải thần linh”.

Làm sao chúng ta lại không thể thấy rằng việc Mông Triệu của Đức Trinh Nữ bao giờ cũng thuộc về đức tin của dân Kitô giáo, thành phần đã nhắm đến việc công bố sự vinh hiển của thân xác Mẹ, khi xác nhận là Mẹ Maria được vào hưởng vinh quang thiên quốc?

Dấu vết tiên khởi nơi niềm tin tưởng vào việc Mông Triệu của Vị Trinh Nữ này có thể được thấy ở những mẩu truyện trong ngụy kinh dưới nhan đề Transitus Mariae (xin tạm dịch là Cuộc Đổi Đời của Đức Maria), phát xuất từ thế kỷ thứ hai, thứ ba. Những truyện kể này trở nên thịnh hành và đôi khi còn được thêu dệt cho hay, song những sự kiện này cũng đã cho thấy cái trực giác nơi đức tin của Dân Thiên Chúa.

Sau đó là một thời gian dài càng ngày càng suy tư hơn về định mệnh của Mẹ Maria ở đời sau. Việc suy tư này từ từ đã dẫn tín hữu đến chỗ tin tưởng vào việc vinh thăng Người Mẹ của Chúa Giêsu cả xác lẫn hồn, cũng như đến chỗ bên Đông Phương đã thiết lập các lễ phụng vụ về Cái Chết và Mông Triệu của Mẹ Maria.

Niềm tin vào định mệnh vinh hiển nơi cả xác lẫn hồn của Người Mẹ Chúa Kitô sau khi Mẹ chết đã được truyền lan rất nhanh từ Đông sang Tây, và đã trở thành phổ thông từ thế kỷ 14. Trong thế kỷ của chúng ta, vào lúc gần xác định tín điều này, niềm tin ấy đã trở thành một sự thật hầu như được mọi người chấp nhận và được công đồng Kitô hữu khắp nơi trên thế giới tuyên xưng.

3.- Bởi đó, vào Tháng Năm 1946, với Thông Điệp Deiparea Virginis Mariae, Đức Piô XII đã kêu gọi một cuộc tham vấn rộng rãi, lấy ý kiến từ các Vị Giám Mục, và qua các vị, từ hàng giáo sĩ và Dân Chúa, về khả thể cũng như về cơ hội xác định việc mộng triệu về thể lý của Mẹ Maria như là một tín lý thuộc đức tin. Kết quả cho thấy hết sức tích cực: chỉ có 6 trong 1.181 hồi âm tỏ ra lưỡng lự làm sao ấy về tính cách mạc khải của sự thật này.

Trích dẫn sự kiện tham vấn này, Trọng Sắc Munificentissimus Deus đã viết: “Từ việc đồng ý chung về Huấn Quyền bình thường của Giáo Hội, Chúng Tôi đã có được một chứng cớ chắc chắn và mạnh mẽ cho thấy rằng việc Mông Triệu về thể lý của Đức Trinh Nữ Maria về trời… là một sự thật được Thiên Chúa mạc khải, và vì vậy tất cả mọi người con của Giáo Hội cần phải vững vàng và trung thành tin tưởng” (Tông Hiến Munificentissimus Deus: AAS 42, 1950, 757).
Việc xác định tín điều này, hợp với đức tin chung của Dân Chúa, đã hoàn toàn loại trừ hết mọi ngờ vực, và kêu gọi tất cả mọi Kitô hữu phải tỏ ra ưng thuận một cách minh nhiên.

Sau khi nhấn mạnh đến niềm tin thực sự vào việc Mông Triệu, bản Trọng Sắc đã nhắc lại nền tảng Thánh Kinh về sự thật này.

Mặc dù không rõ ràng xác nhận việc Mông Triệu của Mẹ Maria, Tân Ước cũng cống hiến cho thấy cái nền tảng của việc này, vì Tân Ước nhấn mạnh một cách mãnh liệt về việc Đức Trinh Nữ được hoàn toàn hiệp nhất với định mệnh của Chúa Giêsu. Việc hiệp nhất này, một việc, ngay từ lúc Chúa Cứu Thế được mầu nhiệm thụ thai, được biểu lộ nơi việc Mẹ tham dự vào sứ vụ của Con Mẹ, nhất là trong việc Mẹ liên kết với hy tế cứu chuộc của Con, lại không thể nào không tiếp tục xẩy ra cả sau khi chết. Hoàn toàn được hiệp nhất với đời sống và công cuộc cứu chuộc của Chúa Giêsu, Mẹ Maria cũng được thông phần cả xác lẫn hồn với định mệnh vinh quang của Người.

4.- Trọng Sắc Munificentissimus Deus trên đây đã qui chiếu về việc người nữ trong cuốn Tiền Phúc Âm tham dự vào cuộc chiến chống lại con rắn, nhìn nhận Mẹ Maria là Tân Evà, và cho thấy việc Mông Triệu là thành quả của việc Mẹ Maria hiệp nhất với công cuộc cứu độ của Chúa Kitô. Về khía cạnh này, bản Trọng Sắc đã viết: “Bởi thế, như Cuộc Phục Sinh vinh hiển của Chúa Kitô là yếu tố chính yếu và là dấu hiệu cuối cùng cho cuộc vinh thắng này thế nào, thì cuộc chiến đấu chung cho cả Đức Trinh Nữ và Người Con thần linh của Mẹ cũng phải được kết thúc bằng việc vinh thăng thân xác trinh nguyên của Mẹ như vậy” (Tông Hiến Munificentissimus Deus: AAS 42, 1950, 768).

Việc Mông Triệu, bởi vậy, là tuyệt đỉnh của một cuộc chiến đấu mà Mẹ Maria đã quảng đại yêu mến dấn thân cộng tác vào việc cứu chuộc loài người, và là hoa trái của việc Mẹ thông phần với cuộc vinh thắng của Thập Giá.


(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ
Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ ngày 9/7/1997)



Thân Xác của Mẹ Thánh Hảo và Ngời Sáng Tuyệt Vời

(Đức Thánh Cha Piô II: Tông Hiến Munificentissimus Deus)


Trong các bài giảng dạy và giảng huấn của mình về lễ này, các thánh giáo phụ và các vị đại tiến sĩ đã nói về việc mông triệu của Người Mẹ Thiên Chúa như một điều gì đó quen thuộc và đã được tín hữu chấp thuận. Các vị làm cho vấn đề sáng tỏ hơn nơi việc giảng thuyết của mình, và dùng những lập luận sâu xa vững chắc để bày tỏ bản chất và ý nghĩa của vấn đề ấy. Nhất là các vị làm sáng tỏ hơn nữa sự kiện là những gì được lễ này tưởng kính không phải chỉ là việc thân xác chết đi của Đức Trinh Nữ Maria không bị băng hoại, mà còn là việc Mẹ chiến thắng trên tử thần cũng như việc Mẹ được hiển vinh trên trời, theo khuôn mẫu được Chúa Giêsu Kitô Con Mẹ ấn định.

Thánh Gioan Đamascênô, nổi tiếng là một vị đại giảng thuyết về sự thật truyền thống này, đã hết sức lợi khẩu khi thánh nhân liên kết việc mông triệu thể lý của Người Mẹ Thiên Chúa dấu yêu với các tặng ân và đặc ân khác của Mẹ: “Mẹ là người đã bảo trì sự trinh nguyên của Mẹ từ thơ bé thì thân thể của Mẹ cũng cần phải được thoát khỏi tất cả mọi hư hoại sau khi chết đi. Vị đã ẵm bế Đấng Hóa Công như một người con trong lòng của mình cũng cần phải được ở trong những nhà tạm của Thiên Chúa. Vị hôn thê mà Ngôi Cha thiết lập hôn ước cần phải làm cho nhà của Mẹ thành một buồng the thiên quốc. Mẹ là người đã nhìn thẳng vào Người Con tử giá của Mẹ, và đã bị lưỡi gươm sầu đau đâm thâu qua lòng mình là những gì Mẹ đã không phải chịu khi hạ sinh Người, cần phải được chiêm ngưỡng Đấng ngự bên Chúa Cha. Mẹ Thiên Chúa cần phải chia sẻ những chiếm hữu của Con Mẹ, và phải được hết mọi tạo vật tôn kính như là Mẹ Thiên Chúa và là nữ tỳ của Thiên Chúa”.

Thánh Germanus thành Contantinôpôli đã nhận định là không phải chỉ vì thiên chức thiên mẫu của Mẹ mà còn vì sự thánh thiện chuyên nhất nơi thân xác trinh nguyên của Mẹ mà thân xác của Mẹ đã không bị hư hoại và được đưa lên trời: “Theo những lời Thánh Kinh, Mẹ hiện lên trong mỹ lệ. Thân xác trinh nguyên của Mẹ hoàn toàn thánh hảo, hoàn toàn thanh sạch, hoàn toàn là nhà của Thiên Chúa, nhờ đó, vì lý do đó, thân xác của Mẹ cũng thoát khỏi tình trạng bị băng hoại, một thân xác, vì là một thân xác con người, được biến đổi thành một sự sống vượt trên tình trạng hư hoại, song vẫn là một thân xác sống động, tuyệt vời trong vinh quang, một thân xác tinh tuyền và thông hưởng sự sống tuyệt hảo”.

Một tác giả thời sơ khai cũng lên tiếng: “Bởi thế, là Người Mẹ vinh hiển nhất của Chúa Kitô, Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ của chúng ta, Đấng ban sự sống và bất tử, Mẹ được Người làm cho sống động để chia sẻ tình trạng vĩnh viễn bất hoại của thân thể với Đấng đã phục sinh Mẹ từ mồ mả và đưa Mẹ lên cùng Người theo cách thức chỉ có Người biết”.

Tất cả những lập luận và nhận định ấy của các thánh giáo phụ đều được căn cứ vào Thánh Kinh như nền tảng tối hậu của các vị. Thánh Kinh phác tả Người Mẹ Thiên Chúa dấu ái, trước mắt của chúng ta, hầu như là một con người được nên một thân mật nhất với Người Con thần linh của Mẹ và luôn luôn được thông phần với thân phận của Người.

Đặc biệt, cần phải ghi nhận là, từ thế kỷ thứ hai, các thánh Giáo Phụ đã trình bày cho thấy Trinh Nữ Maria như là một tân Evà, liên kết chặt chẽ nhất với tân Adong, cho dù có lệ thuộc vào Người trong cuộc chiến chống lại kẻ thù thuộc thế giới âm phủ. Cuộc chiến đấu này, như được hàm ý trong lời hứa ban đầu về việc ban Đấng Cứu Chuộc, đã kết thúc nơi cuộc chiến thắng tuyệt hảo trên tội lỗi và sự chết là những gì luôn gắn liền với nhau theo các bản văn của Vị Tông Đồ Dân Ngoại. Bởi thế, như cuộc phục sinh vinh hiển của Chúa Kitô là phần chính yếu làm nên cuộc chiến thắng và là phần thưởng cuối cùng của cuộc phục sinh thế nào, thì cuộc chiến đấu chung của Đức Trinh Nữ và Con Mẹ cũng được kết thúc trong vinh quang của thân xác trinh nguyên Mẹ như vậy. Vị Thánh Tông Đồ này còn nói: Khi thân xác chết chóc này được mặc lấy tình trạng bất tử, thì lời Thánh Kinh được nên trọn, đó là tử thần bị chiến thắng nuốt đi.

Bởi thế, Người Mẹ Thiên Chúa uy nghi, được hiệp nhất với Chúa Giêsu Kitô một cách nhiệm mầu từ đời đời trong cùng một ý muốn tiền định, vô nhiễm từ lúc hoài thai, tinh tuyền trong vai trò làm mẹ thần linh, hết lòng cộng tác với Đấng Cứu Chuộc thần linh để hoàn toàn chiến thắng tội lỗi cùng với những hậu quả của nó, cuối cùng đã chiếm được triều thiên tối hậu của những đặc ân của mình, đó là được gìn giữ khỏi bị hư hoại trong mồ, và, như Con mình, khi sự chết bị chiến thắng, Mẹ đã được đưa cả xác lẫn hồn lên hưởng vinh quang trên trời, nơi Mẹ hiển ngự bên hữu Con Mẹ, Vị Vua muôn đời bất tử.


(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ The Office of Readings,

Saint Paul Editions, 1983, trang 1517-1518)


  

BIẾN CỐ MẸ MÔNG TRIỆU


(Trích Thần Đô Huyền Nhiệm, phần truyện hợp với đời sống thầm lặng của Mẹ, một đời sống làm mẫu gương của Dòng Carmêlô)

 

Ba ngày trước khi Mẹ Maria từ trần vinh hiển, các tông đồ và môn đệ đã tề tựu tại Giêrusalem trong mái ấm Tiệc Ly. Vị tông đồ đến trước nhất là thánh Phêrô. Một thiên thần đã đưa ngày từ Rôma về. Mẹ Maria ra tận cửa phòng nguyện để đón vị Đại Diện Chúa Giêsu. Mẹ quỳ gối xin thánh nhân ban phép lành và nói: “Mẹ xin cảm tạ Thiên Chúa đã sai người cha thánh thiện đến để giúp Mẹ trong giờ chết”. Liền đó là thánh Phaolô, tiếp đến các tông đồ khác tới bái chào Mẹ với một tâm hồn vừa đau khổ vừa kính cẩn, vì các thiên thần đã nói cho các ngài biết lý do của cuộc tụ họp lạ lùng này. Mẹ tiếp đón tất cả các ngài với 1 đức khiêm nhượng thẳm sâu, và một tình yêu thương hiền ái, Mẹ xin từng vị ban phép lành cho Mẹ.


Các môn đệ trở về vì được một ơn thúc đẩy bền trong mà không biết mục đích. Thánh Phêrô cho mời họ họp lại với các tông đồ để bảo cho họ biết mục đích ấy. Ngài thoạt vừa lên tiếng đã nức nở nghẹn lời. Toàn thể cử tọa cũng chung một cảm xúc đó. Lúc có thể nói lên, ngài nói: “Tất cả anh em và các con, chúng ta hãy vào gần bên Mẹ chúng ta. Ta hãy ở đó với Mẹ trong khoảng thời gian ngắn Mẹ còn sống với ta, và xin Mẹ ban phép lành”.


Các ngài thấy Mẹ đang quỳ trên một bục gỗ nhỏ, nơi Mẹ vẫn thường nằm nghỉ. Một vẻ đẹp rạng ngời từ nơi Mẹ dãi ra, một ánh sáng trời cao bao phủ Mẹ, và các thiên thần hầu cận đứng chung quanh. Vẻ đẹp của thân xác và gương mặt Mẹ là vẻ đẹp của tuổi ba mươi; từ tuổi này Mẹ không hề thay đổi chút nào. Các tông đồ, các môn đệ và một số tín hữu đứng thành hàng lớp trong phòng Mẹ. Thánh Phêrô và thánh Gioan đứng ngay đầu bục, Mẹ ngước nhìn hết mọi người một cách rất đoan trang thuỳ mỵ thường xuyên và nói: “Các con rất yêu dấu của Mẹ, Mẹ xin các con cho phép nữ tỳ của các con đây được nói trước mặt các con và bày giãi những nguyện vọng khiêm hèn của Mẹ”. Thánh Phêrô đáp lại lời Mẹ rằng ai nấy đều lắng nghe Mẹ, sẵn sàng vâng theo ý Mẹ. Ngài xin Mẹ ngồi xuống, lấy lẽ rằng Mẹ quỳ để cầu xin Chúa, còn nói với các ngài Mẹ phải ngồi mới phải, vì Mẹ là nữ vương các Ngài.


Mẹ xin vâng lời, nhưng cũng xin các ngài ban phép lành đã. Trước mặt thánh Phêrô, Mẹ quỳ xuống mà nói: “Con là nguyên thủ, là Chúa chiên toàn thể Giáo Hội, Mẹ xin con chúc lành cho Mẹ là nữ tỳ của các con, xin các con tha lỗi cho Mẹ vì đã khiếm khuyết nhiệm vụ phục vụ các con. Xin cho cho phép Gioan được đem tặng hai chiếc áo cũ của Mẹ cho hai thiếu nữ nghèo đã luôn tỏ lòng quý mến Mẹ”. Rồi Mẹ sụp lạy xuống, rơi lệ hôn kính chân thánh Phêrô, trước sự cảm phục của tất cả mọi người chứng kiến, ai ai cũng cảm động. Mẹ lại phủ phục dưới chân thánh Gioan, nói: “Xin con tha cho Mẹ, vì Mẹ đã thiếu sót bổn phận làm Mẹ đối với con. Mẹ xin hạ mình cảm ơn con, vì lòng tốt lành con đã giúp đỡ Mẹ như con Chính Thánh của Mẹ đã giúp Mẹ. Xin con chúc lành cho Mẹ để Mẹ đến hoan hưởng ánh nhìn của Chúa Tạo Thành Mẹ”. Mẹ tiếp tục giã từ từng tông đồ, từng môn đệ, và chung tất cả những người đến tham dự rất đông. Rồi Mẹ đứng lên nói với các tông đồ rằng: “Hỡi các con rất yêu dấu, các con là thầy của Mẹ, Mẹ đã thiết tha yêu thương các con trong Con Chí Thánh Mẹ. Lúc nào Mẹ cũng nhìn thấy Người trong các con là bạn thân và là người ưu tuyển của Người theo ý Người, Mẹ sắp về trời. Nhưng ở đó, Mẹ hứa sẽ vẫn luôn ấp ủ các con trong trái tim Mẹ như một người Mẹ. Xin các con hãy cố làm vinh danh Chúa, và truyền bá đức tin; các con hãy giữ lời Con Chí Thánh Mẹ, hãy tưởng nghiệm về cuộc đời và các chết của Người, hãy thực hành giáo lý của Người, hãy yêu mến Giáo Hội. Các con hãy yêu nhau trong mối dây đức ái thuận hòa. Còn con, hỡi Phêrô, Mẹ xin trao phó cho con Gioan và tất cả mọi người”.


Những lời đó như những mũi tên lửa xuyên cắm vào tâm hồn hết mọi người hiện diện. Ai cũng đau khổ tái tê, trào lệ phục xuống lạy người Mẹ yêu dấu của mình. Tiếng nức nở nghẹn ngào, tiếng than khóc bi ai của họ đã rung động mạnh tâm hồn Mẹ, khiến Mẹ phải xụt xùi. Một lúc sau, Mẹ khuyên mọi người yên lặng cầu nguyện với Mẹ.


Lúc bầu không khí êm đềm đã trở lại trong phòng, Chúa Giêsu từ trời xuống trên một ngai rất lộng lẫy chói ngời, và với một đoàn tháp tùng là toàn thể các thánh và vô số thiên thần, cả ngôi nhà tiệc ly tràn ngập ánh vinh quang. Mẹ Maria xấp mình trước mặt Chúa, kính hôn chân Chúa, và làm việc tạ ơn khiêm nhượng hết sức thẳm sâu lần cuối cùng ở thế gian. Chúa Giêsu chúc lành cho Mẹ, rồi nói: “Mẹ rất yêu dấu của con, con đã trọn Mẹ là nơi lưu ngụ. Nay đã tới giờ Mẹ phải từ biệt trần gian để lên hưởng vinh hiển của Cha con và của Con; trên đó đã chuẩn bị cho Mẹ ngay bên hữu con một địa vị Mẹ sẽ thụ hưởng đời đời. Nhưng, con đã muốn cho Mẹ với tư cách là Mẹ của con, khi vào trần thế, Mẹ đã không vương chút tì ố, giờ đây con cũng muốn Mẹ ra khỏi thế gian, mà không phải chết. Nếu Mẹ không muốn phải qua cái chết, xin Mẹ đến với con đi”. Mẹ lại cúi sâu lạy Chúa Giêsu và trả lời với một thái độ rất hân hoan rằng: “Con là con của Mẹ, Mẹ xin con cho phép Mẹ là nữ tỳ của con đây được vào nước hằng sống qua cửa sự chết chung cho mọi người. Mẹ đã cố gắng theo con khi sống, Mẹ cũng xin theo con cả khi chết nữa mới phải lẽ”.


Chúa Giêsu chấp thuận quyết định ấy của Mẹ. Tức thì các vị thiên thần sướng lên nhiều ca khúc của Salômon với nhiều thánh ca mới lạ. Chỉ có thánh Gioan và một vài tông đồ nhìn thấy Chúa Giêsu, nhưng mọi người, cả những người ở ngoài phố đều được nghe tiếng nhạc trời. Nhà Tiệc Ly ngập đầy hương thơm Thiên Quốc, tỏa cả ra ngoài. Một ánh sáng chói lọi từ nhà ấy dải chiếu ra, ai ai cũng nhìn thấy. Có rất nhiều dân chúng Giêrusalem tuốn đến xem. Mẹ Maria cúi mình trên chiếc bục gỗ nhỏ của Mẹ, chắp hai tay lại mắt nhìn cắm vào Chúa Giêsu, trái tim Mẹ cháy bừng lên trong tình yêu mến Chúa. Khi thiên thần hát đến câu sau này trong chương hai sách diễm ca: “Bạn tình ca ơi, mau dậy đi nào. Đến đi thôi: Mùa đông qua rồi”. Mẹ Maria thốt lên những lời sau cùng này của Chúa Giêsu trên cây thánh giá: “Chúa ơi, con xin phó linh hồn con trong tay Chúa”. Mẹ nhắm mắt, tắt hơi. Mẹ đã tắt hơn vì tình yêu qúa mãnh liệt, không còn phép lạ nào cản ngăn nữa, nên đã phá vỡ những ràng buộc của thân xác chứ không phải tại một suy nhược bệnh tật, hay tai nạn nào. Mẹ sống là nhờ phép lạ. Phép lạ ngừng, Mẹ đi vào cõi chết.


Linh hồn nguyên tuyền của Mẹ Maria giã từ Thân Xác Trinh Vẹn của Mẹ, lên tới bên hữu Chúa Giêsu trên ngai của Chúa. Ngay lúc đó, Mẹ được tôn lên ngai trong một vinh quang khôn sánh. Tại nhà Tiệc Ly, mọi người nghe tiếng nhạc thiên quốc xa dần trong không gian: đoàn thần thánh tháp tùng đã đi theo Chúa Giêsu và Mẹ Maria lên thiên đàng rồi.


Thi thể Mẹ Maria, một thi thể từng là cung thánh của Thiên Chúa hằng sống mặc một vẻ lộng lẫy rất chói ngời và tỏa lên một mùi hương thanh thoát, ở giữa một nghìn thiên thần hầu cận của Mẹ. Các tông đồ và môn đệ, sầu sầu tủi tủi, vừa bùi ngùi buồn khổ, vừa thanh thoát hân hoan trước những sự việc lạ lùng vô song ấy. Tất cả đều như ngất ngây một lúc dài, rồi mới bắt đầu hát lên được nhiều thánh ca và thánh vịnh tôn kính Mẹ là Nữ Vương mình. Mẹ qua đời vào thứ sáu, lúc 3 giờ chiều, ngày 13 tháng 8 năm 55 sau Chúa Giáng Sinh. Vào năm ấy Mẹ được 70 tuổi, kém 26 ngày, tính từ ngày 13 tháng 8 lên tới ngày mồng tám tháng chín là ngày sinh của Mẹ. Mẹ sống còn lại sau Chúa Giêsu 21 năm, 4 tháng, 19 ngày.


Nhiều hiện tượng phi thường vĩ đại xảy ra ghi dấu sự ly trần qúy báu của Mẹ. Aùnh sáng mặt trời mờ đi trong nhiều giờ. Rất nhiều chim đủ loại đến họp đàn chung quanh nhà, kêu những điệu hót bi thương, ai nghe cũng phải cảm động. Cả thành phố Giêrusalem nhốn nháo; dân thành bỡ ngỡ, lũ lượt kéo đến canh nhà Tiệc Ly. Nhiều người dường như ngơ ngẩn. Nhiều bệnh nhân đến viếng thăm Mẹ đều được lành bệnh; những người qủy ám chưa đến gần nhà Tiệc Ly đã được khỏi. Có ba người nọ, một đàn ông hai đàn bà, ở Giêrusalem, đã chết khi còn mang tội trọng, cùng một lúc với Mẹ, được sống lại nhờ lời Mẹ cầu bầu, để xám hối và được cứu rỗi. Các linh hồn trong luyện ngục được lên trời, lúc Mẹ cùng với Chúa Giêsu tiến vào Thiên Đàng.


Nhân Tính Chúa Giêsu dâng Mẹ lên Cha Hằng Hữu. Chúa nói với Cha: “Mẹ rất yêu dấu của Con nên lĩnh nhận phần thưởng chúng ta đã sắm để ân thưởng công nghiệp của Người. Người đã sinh ra giữa con cháu Adong mà lại được hoàn toàn trong sạch, hoàn toàn mỹ lệ, như bông hồng nở giữa bụi gai. Người đã được chúng ta thông trao cho những vẻ hoàn hảo vượt trên luật chung của các thụ tạo khác. Người đã được chúng ta tặng ban cả kho tàng Thần Tính chúng ta. Không những Người đã tín trung cẩn thủ mà còn làm sinh lợi man vàn. Chúng ta ân thưởng công nghiệp của bạn hữu chúng ta một cách tràn ngập, nên Mẹ của con phải được ân thưởng xứng với tư cách một người Mẹ mới đúng. Nếu, trong cả cuộc đời cũng như trong tất cả công việc Người làm, Người đã nên giống con theo khả năng một thụ tạo, Người cũng phải giống con trong vinh quang, và ngụ trên ngai uy nghi của chúng ta như con, để sự thánh thiện thông phần của Người cũng đồng trị với sự thánh thiện yếu tính của Con”.

 

Chúa Cha và Chúa Thánh Linh đã chuẩn nhận quyết nghị của Ngôi Lời Nhập Thể. Linh Hồn Vô Nhiễm Mẹ Maria được tôn lên ngự trên chính ngai Chúa Ba Ngôi, ngay bên hữu Con Chí Thánh Mẹ. Không có bút nào tả được nguồn vui mới mà các thần thánh được cảm hưởng lúc đó, các ngài hát lên tung hô Thiên Chúa và Đức Nữ Vương các Ngài. Và, mặc dầu chính Thiên Chúa không thể nào có được một vinh quang nội tại mới, nhưng về những cách biểu lộ sự thoả nguyện ra bề ngoài, và việc hoàn tất những thánh thiện hằng hữu ấy, cũng tỏ ra vĩ đại hơn trong dịp này: từ Ngai uy nghi Chúa, phát ra những lời sau: “Ý muốn của chúng ta đã được chu toàn trong vinh quang của Đức Nữ tử dấu ái chúng ta, với một thoả mãn tràn trề. Chỉ duy có Đức Nữ mới không hề dính líu gì vào tội lỗi đạo của những ai khác. Người được làm chủ tất cả các phần thưởng mà những kẽ tự trầm luân bỏ mất, vì đức tuân phục của Người đã tu sửa tội phản nghịch của chúng. Người hoàn toàn làm thoả mãn lòng chúng ta, và như vậy đáng được ngự trị trên cùng một ngai với chúng ta”.


Trên thiên đàng hoan hỉ tràn ngập nhưng ở dưới đất đầy mầu tang và tiếng khóc. Các tông đồ, các môn đệ và các tín hữu, tất cả đều thổn thức buồn sầu không nguôi trước cuộc ly trần của Người Mẹ chí ái, Đấng bảo trợ và là nguồn vui của họ. Chúa phải thêm sức mạnh cho họ, vì lúc nào Ngài cũng cấp cứu các con yêu của Ngài, để họ khỏi bị đau thương đè bẹp và lo làm những nghĩa vụ sau cùng đối với thi thể chí thánh của Mẹ. Các tông đồ đặc biệt đánh đo, đúng mức, đã quyết định sẽ an táng Mẹ tại thung lũng Giosaphát trong một ngôi mồ mới mà Chúa quan phòng vừa liệu cho một cách mầu nhiệm. Theo tục lệ người Do Thái, thể xác Chúa Giêsu đã được khâm liệm trong một tấm khăn liệm dài với nhiều hương liệu, nên các tông đồ cũng khâm liệm thi thể Mẹ Maria như vậy. Để thi hành ý định đó, các Ngài đã cho mời hai thiếu nữ đạo hạnh mà Mẹ đã chối lại cho hai áo ngắn đến ủy lại cho họ việc khâm liệm, và dặn họ phải hết sức thận trọng kính cẩn. Hai thiếu nữ đó hết sức tôn kính vào phòng nguyện của Mẹ; nhưng trước ánh ngời chói bao quanh thi thể chí thánh của Mẹ, họ bị lóa mắt không thể xác định được là thi thể Mẹ nằm chỗ nào.

 

Vừa sợ hãi vừa kinh ngạc, họ ra thuật lại sự kiện đó với các tông đồ, các Ngài hiểu ngay rằng không thể khâm liệm xác từng là Hòm Bia Thánh của tân ước đó theo luật chung được. Thánh Phêrô và Thánh Gioan vào phòng nguyện; hai ngài nghiệm thấy rõ ràng ánh ngời chói đó, đồng thời nghe tiếng các thiên thần hát: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Mẹ”. Các vị khác hát rằng: “Mẹ Đồng Trinh trước sinh hạ, Mẹ Đồng Trinh lúc sinh hạ, Mẹ Đồng Trinh sau sinh hạ”. Hai thánh tông đồ ngẩn người một lúc trước quang cảnh đó, rồi quỳ xuống cầu nguyện xin Chúa soi cho biết phải làm thế nào. Tức thì có tiếng trả lời: “Không ai được động tới hay mở thi thể chí thánh này ra”. Chính Mẹ Maria là nữ vương những người đồng trinh đã cẩn phòng mà xin Chúa như vậy.


Lúc đó, hai thánh tông đồ đi lấy áo quan, đem vào bên gường Mẹ. Aùnh chói ngời dịu đi. Hai ngài hết sức kính cẩn cầm các chéo áo, nương nhẹ đập thi thể Mẹ vào áo quan y nguyên thế nằm cũ. Hai ngài cảm thấy thi thể Mẹ không có một chút sức mạnh nào: ngay tấm áo cũng không nhìn thấy ánh ngời chói vẫn cứ giảm đi mãi, cho tới lúc mọi người có thể nhìn thấy gương mặt và đôi tay Mẹ. Đó là mối ân cần Chúa giữ riêng hẳn cho Mình, để lo cho Mẹ rất trinh trong của Ngài. Ngay đối với thể xác thần hoá của chính Ngài, Ngài cũng không bảo trì đến thế.


Các tông đồ tự khiên lấy Xác Thánh là đền thờ Thiên Chúa của Mẹ, qua các phố Giêrusalem với một trận tự đẹp đẽ nhất, hợp với một đám tang đẹp đẽ nhất. Chúa đã gợi ý cho toàn thể dân thành đi dự tang lễ Mẹ Chí Thánh Ngài. Hầu như không có một người Do Thái nào hay một người dân ngoại nào lại không đến dự khi nghe tin. Nhưng trong cõi vô hình còn có một đám tang lộng lẫy hơn nữa. Trước tiên là một nghìn thiên thần hầu cận Mẹ, vừa đi vừa cử nhạc trời. Tiếp đến một số đông đảo các thiên thần hát đi, theo rồi đến các tổ phụ, các tiên tri, thánh Gioan Kim và thánh nữ Anna, thánh Giuse và thánh Gioan tiền sứ. Sau cùng là một số rất đông các thánh khác.

 

Trên đường tới mồ đã xẩy ra rất nhiều phép lạ. Tất cả bệnh nhân đã dự đám tang đều được hoàn toàn lành mạnh. Nhiều người qủy ám đã được giải cứu ngay trước khi họ đến gần quan tài Mẹ. Người Do Thái và dân ngoại trở lại Đạo Chúa rất đông, đến nỗi sau đó phải dành nhiều ngày để dạy đạo và rửa tội cho họ. Bất cứ ai đi dự tang lễ đều cảm hưởng một hương thơm thanh thoát từ thi thể Thánh của Mẹ tỏa ra, đều được thưởng thức ca nhạc nhiệm mầu của các thiên thần, được nhận thấy nhiều sự kiện phi thường, và thảy đều kinh ngạc tán thưởng. Họ đều cao tiếng xưng tụng rằng: Thiên Chúa đã tỏ rạng những ánh cao quang của Ngài nơi Mẹ Maria. Họ đấm ngực ăn năn sám hối thật sâu sắc. Cả những động vật vô linh cũng không thiếu mặt trong đám lễ an táng Đức Nữ Vương vũ trụ: lúc Xác Thánh Mẹ gần đến mồ, người ta thấy một số đông vô kể chim đủ loại và nhiều dã thú, chim hót lên những giọng bi ai, dã thú kêu lên những tiếng buồn thảm, tỏ ra lòng chúng luyến tiếc Mẹ, như là chúng cũng cảm nghiệm được sự mất mát to lớn mà mọi loài đều phải chịu này. Sau cùng, một điều lạ hơn nữa là những bó đuốc soi đường không những không lụi tắt, mà cũng không hề hao hụt chúng nào.


Khi tới phần mộ, thánh Phêrô và thánh Gioan để Xác Thánh vào, cũng với một niềm tôn kính và dễ dàng như khi đặt vào áo quan. Các Ngài lăn một tảng đá lớn lấp cửa mộ theo thông tục, sau khi đã che trên thi thể Mẹ một khăn phủ mặt cách hết sức nương nhẹ.


Lễ an táng xong, các thần thánh trở về trời; nhưng các thiên thần hầu cận Mẹ vẫn có ở lại tiếp tục tấu nhạc kính tôn. Dân chúng giải tán. Các tông đồ và môn đệ vừa đi vừa sụt sùi sa lệ, trở về nhà Tiệc Ly. Theo quyết định của các Ngài, một số tông đồ và môn đệ liên tục ở lại bên phần mộ của Mẹ bao lâu còn nghe thấy tiếng nhạc thiên thần. Riêng thánh Phêrô và thánh Gioan luôn luôn đến thăm mồ và ở lại lâu hơn các vị khác: tâm hồn và kho tàng các ngài ở cả nơi mồ Mẹ.


Hương thơm toả ra từ Xác Thánh của Mẹ lan khắp nhà Tiệc Ly, suốt một năm còn phảng phất. Riêng tại phòng nguyện của Mẹ, hương thơm ấy vẫn thơm phức nhiều năm. Nơi đây, tất cả những ai đau khổ đều đến kính viếng và tìm được một phương dược lạ lùng, chữa gian nan họ chịu. Cho tới mãi sau này, khi dân thành Giêrusalem phạm qúa nhiều tội, những ơn lạ ấy mới ngưng ban.

 

14/8 Thứ Năm

 ÐỐI THOẠI LIÊN TÔN VỚI HỒI GIÁO

 Tiến trình đối thoại liên tôn với Hồi Giáo sau biến cố khủng bố tấn công Hoa Kỳ 911 và Hoa Kỳ tấn công khủng bố A Phú Hãn và tấn công giải giới khủng bố Iraq.

Có hai hiện tượng vẫn đang xẩy ra song song với nhau, đó là một Âu Châu Kitô giáo bị tục hóa và một thế giới Hồi giáo chẳng những công khai bách hại Kitô giáo ở địa phương mình mà còn đang lan tràn ở Âu Châu nữa, một tôn giáo có thể nói là địch thủ của Kitô giáo và là mối đe dọa cho Kitô giáo. Có thể nói, cuộc khủng bố tấn công Hoa Kỳ, một đệ nhất cường quốc về kinh tế và chính trị, tiêu biểu cho một Tây Phương Kitô giáo bị tục hóa, là dấu chỉ thời đại cho thấy cuộc xung khắc bắt đầu trở thành công khai. Và cuộc Hoa Kỳ tấn công khủng bố ở A Phú Hãn vào ngày Lễ Mẹ Mân Côi 7/10/2001, nhất là cuộc Hoa Kỳ ngang nhiên qua mặt Liên Hiệp Quốc đơn phương tấn công giải giới ở Iraq vào ngày Lễ Thánh Giuse 19/3/2003, đã càng khiến cho cuộc đụng độ này trở thành trầm trọng và càng gây khó khăn cho việc đối thoại liên tôn với tôn giáo này.

Thật vậy, trước những biến cố khủng bố tấn công và tấn công khủng bố vấn đề đối thoại với Hồi giáo đã là một vấn đề khó khăn, sau các cuộc đụng độ xẩy ra từ ngày 11/9/2001, giữa Ả Rập và Tây Phương, hay giữa Hồi giáo và Kitô giáo, kể cả những cuộc ôm bom tự sát khủng bố ở Do Thái đã làm cho mối liên hệ giữa người Công giáo và Hồi giáo càng trở nên khó khăn hơn nữa ở các lãnh thổ truyền giáo, như trường hợp ở Pakistan. Sau đây là một số cảm nghĩ của các vị thừa sai ở các khu vực truyền giáo này đã được phát biểu trên tờ nguyệt san Viện Giáo Hoàng về Những Việc Truyền Giáo Hải Ngoại.

Trước hết là cảm nghĩ của cha Rocus Patras, 40 tuổi, vị linh mục phục vụ tại Giáo Xứ Thánh Đaminh ở Bahawalpur, nơi đã có 17 Kitô hữu bị sát hại ngày 28/10/2001: “Ở xứ sở này, cũng như ở các quốc gia Á Châu khác, việc tuyên truyền của các trào lưu cuồng tín thuộc bất cứ giáo hệ nào cũng đều có khuynh hướng muốn gán ghép cho những ai trở lại Kitô giáo như là thành phần thứ năm của Tây Phương, mặc dù những người trơ ũ lại ấy có cùng một huyết thống và quê hương. Đối với những trào lưu này thì Kitô hữu tiếp tục là kẻ thù cần phải đươcỉc đối đầu, vì họ dấn thân dụ giáo ở mọi nơi và mọi lúc. Việc Giáo Hội nhìn nhận các lầm lỗi vấp phạm ở một số trường hợp trong quá khứ cũng vô bổ. Việc thay đổi quan điểm do Công Đồng Chung Vaticanô II phát động hoàn toàn bị coi thường đối với những ai mang ác tâm tìm cách trả đũa”.

Cha James Channan, vị linh mục phó tỉnh dòng Đaminh ở Pakistan, cũng đụng độ những vấn đề của mình: “Tôi đi cử hành lễ ở một tỉnh Công Giáo Mian Channu. Thật là khó khăn. Có trên 50 người trẻ võ trang vây chung quanh Nhà Thờ này. Họ có nhiệm vụ bảo đảm là chúng tôi thực hiện việc cử hành ‘ôn hòa’. Tôi có cảm tưởng như đi vào vùng chiến tranh, mặc dù cũng chỉ là nơi tôi đã theo học 32 năm trước đây. Bấy giờ không có gì là sơ ỉ hãi cả. Đó là những ngày an bình. Những cuộc rước kiệu được tổ chức và các ngày lễ. Những cuộc đấu túc cầu và các sinh hoạt khác được cử hành trong bầu không khí yên tĩnh”. Thật vậy, vị linh mục dòng Đaminh này cho biết, các cửa nhà thờ bao giờ cũng mở, vào những đêm mùa hè, các vị linh mục và trả em trường học nằm ngủ lộ thiên trên mặt đất. Ngày nay tất cả đều cảm thấy lo âu. Cửa đóng lại. Không còn rước kiệu hay các cuộc đấu bóng. Tại sao dân chúng thay đổi quá nhanh như thế. Tại sao cộng đoàn Kitô hữu của chúng ta lại quá sợ hãi như vậy? Tại sao giới trẻ của chúng ta cần phải võ trang để bảo vệ Kitô hữu cầu nguyện? Tại sao chúng ta cần cảnh sát canh chừng học đường và thánh đường của chúng ta?”

Cha Channan nói rằng sự thù ghét đối với những người Kitô hữu không thể được đổ cho những kẻ ngoại thù: “Những kẻ tội hình chịu trách nhiệm về hành động khủng bố đang ở chung quanh chúng ta và đang cố gắng tạo nên một cuộc đối chọi giữa những tôn giáo và các nền văn minh. Họ muốn hiến mạng sống mình cho ‘các cuộc thánh chiến’”.

Ở Pakistan, con số người Công giáo hơn 1 triệu một chút, trong tổng số dân 147 triệu, và hầu hết tất cả đều thuộc về thành phần hạ cấp hay bên lề xã hội. Để ngăn ngừa tình trạng lan tràn võ lực, Ủy ban Quốc Gia Về Hòa Bình và Công Bằng Xã Hội đã được thiếp lập, bao gồm cả thành phần các Kitô hưũ khác lẫn các vị đại diện Hồi giáo”.

Hội Đồng Tòa Thánh Về Đối Thoại Liên Tôn đã tổ chức một cuộc họp vào ngày 7-9/7/2003, qui tụ các phần tử của mình, các tham vấn viên và một số khách, tại Nữ Tu Viện Thánh Tôma thuộc Tòa Thượng Phụ Greek-Melkite ở Saydnaya. Các tham dự viên đến từ các xứ Lebanon, Jordan, Thánh Địa, Thổ Nhĩ Kỳ, Bắc Phi, Pháp và Gia Nã Đại. Danh sách các đáng bậc được liệt kê như sau: ĐTGM Michael L. Fitzgerald, chủ tịch hội đồng điều hành cuộc họp, và các vị tham dự lễ nghi khai mạc là Đức Ignace Zakka I Iwas, Thượng phụ Chính Thống Syria, Gregory II Lahham, Thượng Phụ Công Giáo Greek-Melkite, Ignace Pierre VIII Abdel-Ahad, Thượng Phụ Công Giáo Syria, Jean Pierre XVIII Kasparian, Thượng Phụ hồi hưu Công Giáo Armeni, ĐTGM Diego Causero, Khâm Sứ Tòa Thánh ở Syria Syria, Đức Ông Ghattas Hazim, đại diện Đức Ignace IV Hazim, Thượng Phụ Antioch Chính Thống Hy Lạp.

Theo bản thông báo của Tòa Thánh hôm 14/7/2003 thì ngày đầu tiên của hội nghị có ba cuộc họp về “vấn đề đối thoại liên tôn với việc phát triển xã hội”, “vấn đề đối thoại liên tôn với nhân quyền”, và “vấn đề đối thoại liên tôn với việc tìm kiếm các giá trị chung”. Các tham dự viên trình bày về tình hình liên hệ giữa Hồi hữu và Kitô hữu ở những xứ sở liên hệ và bày tỏ lòng tri ân cảm mến đối với “vai trò của Đức Gioan Phaolô II, với các vị lãnh đạo Công giáo và các vị lãnh đạo các Giáo Hội khác trên thế giơiùi, nhất là những vị ở Trung Đông, về nền hòa bình thế giới, về việc lên án chiến tranh tấn công Iraq và về yêu cầu một nền hòa bình chân chính hoàn cầu cho Trung Đông, nhất là ở Palestine”. Ngoài ra, các tham dự viên cũng nhận định thấy được “tầm quan trọng nơi hoạt động của Hội Đồng Về Đối Thoại Liên Tôn này cũng như vai trò của hội đồng ấy trong việc cổ võ những liên hệ huynh đệ với các người Hồi giáo trên khắp thế giới, là những gì càng klhẩn trương hơn sau biến cố 911, sau chiến tranh ở Iraq cũng như sau cuộc thoái hóa về tình hình ở Palestine.
 

“Một Âu Châu bại hoại Kitô giáo là thứ mồi ngon cho người Hồi Giáo lặng lẽ xâm chiếm”

Cha Piero Gheddo, một vị thừa sai Ý thuộc PIME (Pontifical Institute of Foreign Missions), với một nửa thế kỷ kinh nghiệm làm linh mục và truyền giáo, đã từng là giám đốc của một số báo chí truyền giáo có tiếng vang nhất, như tờ Tin Á Châu và tờ Mondo e Missione. Nói về tình trạng của các nhà truyền giáo ở các xứ sở Hồi Giáo bảo thủ, vị linh mục này cho biết khoảng 40 hay 50 năm về trước không có cái thứ cảm giác thù ghét này, căn cứ vào những gì ngài đã biết được từ các vị thừa sai ở 20 quốc gia của người Hồi Giáo.

Có nhiều căn nguyên phức tạp, theo cha, “cuộc chiến đấu giữa giầu và nghèo không phải là nguồn gốc của vấn đề mà là sự kiện các dân tộc Hồi giáo đang sống ở một thời đại dường như linh thánh đối với họ, như Âu Châu ở vào những năm 1300 đến 1400 vậy. Thế giới tân tiến, với truyền hình, hưởng thụ chủ nghĩa, trào lưu nữ giới v.v., đều là những gì đụng đến niềm tin và các cộng đồng Hồi giáo. Những người Hồi giáo coi chúng ta như thành phần vô thần và là những dân tộc vô luân; chúng ta thắng vượt họ bằng kỹ thuật, họ thắng vượt chúng ta bằng niềm tin. Việc thù ghét và khủng bố là phản ứng khi cảm thấy bất lực trước một thế giới tân tiến phát xuất từ Tây Phương, một thế giới loại trừ tôn giáo ra khỏi đời sống của các dân tộc ấy. Chúng ta nói đến việc đối thoại, đến việc giáo dục yêu thương, thông cảm và tôn trọng lẫn nhau. Ở các xứ sở Hồi giáo khác nhau, kể cả các nước ‘ôn hòa’, các thứ sách giáo khoa, các tờ nhật báo và truyền hình đều mạnh mẽ chống Tây phương, và xẩy ra cả những cuộc tấn công thành phần Kitô hữu và Kitô giáo. Đó không phải là đối thoại mà là khiêu khích thù hằn hận ghét. Chẳng hạn, Bangladesh là một xứ sở rất nghèo, lệ thuộc vào tài chính của các xứ sở Tây phương và của các tổ chức của Liên Hiệp Quốc do Tây phương tài trợ. Mặc dù thế, ở Bangladesh, cho tới ngày 11/9/2001, đã có cả hằng trăm ‘madrasas’ (trường học Koran) được tài trợ bởi các nước dầu hỏa là những nước vẫn nói đến việc chống lại Tây phương, và sáu trung tâm huấn luyện các tay chiến đấu của người Hồi giáo. Những đám giới trẻ ưu tú nhất được gửi đến Taliban ở A Phú Hãn, mục đích là để chiến đấu trong nhóm chiến đấu quân của người Palestine”.

Vị linh mục thừa sai đầy kinh nghiệm này chia sẻ nhận định tiếp: “Ở các xứ sở Kitô giáo, các người Hồi giáo được tự do”, tình trạng mà không phải thường xẩy ra ở các nước Hồi giáo. Kể cả trường hợp Nam Dương, một quốc gia đông tín đồ Hồi giáo nhất thế giới, cũng là một trong những nơi có những hình thức Hồi giáo ôn hòa nhất và cởi mở nhất, thế mà các nguyện đường và nhà cửa của Kitô hữu cũng bị đốt phá, thành phần Kitô hữu cũng bị kỳ thị ở sinh hoạt công cộng nữa”. Nhà truyền giáo này cho biết thêm tình trạng kỳ thị cũng xẩy ra cả ở Mã Lai, Pakistan, Sudan, Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập và Arab Emirates. “Ở Nam Dương có những ‘pesantren’, tức là có những trường huấn luyện cho các vị lãnh đạo Hồi giáo, thành phần dẫn dắt trẻ em từ tiểu học tới trình độ đại học. Họ lệ thuộc vào Thừa Tác Vụ Đạo Giáo chứ không phải Thừa Tác Vụ Giáo Dục”. Theo vị linh mục này thì có rất nhiều trường huấn luyện kiểu này. Những trường sở ấy áp dụng kỷ luật sắt, giáo dục chuyên về Hồi giáo, và thành lập “những tay cuồng tín Hồi giáo, thành phần hoạt động phục vụ Thừa Tác Vụ Đạo Giáo: Họ dạy Hồi giáo ở các trường học, kể cả tiểu học, ghi danh những cuộc thành hôn và những cuộc hành hương đến Mecca”.

“Có thể nào một xứ sở ‘Hồi giáo ôn hòa’”, được tài trợ bởi Tây phương mà lại huấn luyện các nhà lãnh đạo tôn giáo theo tinh thần này hay chăng? Nếu thế thì, vị linh mục vừa hỏi vừa trả lời, “chiều hướng của Kitô hữu đã hiển nhiên, Đức Giáo Hoàng đã mạnh mẽ kêu gọi chiều hướng ấy là đối thoại, gặp gỡ huynh đệ, chấp nhận, đoàn kết, kiên trì trong đời sống, và loan báo về Chúa Kitô bằng đường lối thích hợp nhất có thể. Đặc biệt là bác ái đối với thành phần nghèo khổ nhất; đó là chứng từ thượng hạng của tinh thần Kitô hữu. Chúng ta phải quay trở về với Chúa Giêsu Kitô nếu, là những người Âu Châu, chúng ta muốn có được một căn tính thực sự cũng như được sức mạnh luân lý đạo giáo. Một Âu Châu bại hoại Kitô giáo là mồi ngon cho việc xâm chiếm lặng lẽ của người Hồi giáo; họ có sức mạnh của niềm tin; chúng ta có một thứ văn minh rỗng tuyếch. Hỡi người Âu Châu, nếu mất đi Kitô giáo thì chúng ta còn lại những gì đây? Tại sao các nhà trí thức và các ký giả soạn dọn tranh biện về bất cứ đề tài nàomà chẳng để ý gì đến thảm trạng của Âu Châu nhỉ? Các dân tộc ‘Kitô giáo’ chúng ta phải nhận thức rằng, như tình trạng chúng ta hiện nay, chúng ta sẽ tiến đến chỗ tiêu biến! Không thể nào tránh nổi: vì ở đâu xuất hiện cái trống rỗng thì ở đấy luôn có người sẵn sàng muốn làm đầy cái trống rỗng đó vậy”.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch tín liệu của Zenit ngày Thứ Sáu 20/6/2003

Người Công Giáo ở Iraq đang phải đối diện với cuộc bách hại

Cha Ángel García, sáng lập viên của tổ chức Công Giáo Những Sứ Giả của Hòa Bình, vừa trở về từ Iraq là nơi cha coi sóc việc phân phối viện trợ nhân đạo cho xứ sở này. Cha cho biết cha đã tận mắt chứng kiến thấy những khổ đau và khốn khó dân chunùng ở Baghdad và Basra đã phải chịu đựng: “Baghdad là một thành phố vô loài, nơi sợ bị tấn công hay đánh đập còn hơn là sợ bị chết vì súng đạn nữa. Những nhân công chưa được trả lương cả ba tháng trời nay. Rác rến chất đống ở các đường phố, nhiệt độ thì quá cỡ, và hiện nay lại thiếu xăng nhớt nữa”.

Về những người Công Giáo, theo vị linh mục này nhận địng thì “Họ sợ hãi, vị họ thấy họ bị bách hại”. Ở Barsa là nơi cha García đã gặp vị giám mục theo lễ nghi Chaldean đã có hai Kitô hữu bị giết chết. Hàng giáo sĩ Iraq cũng đang bị những tay cực bảo thủ bách hại, cha cho biết: “Một số thậm chí đã bị giầy đạp lên thánh giá của họ, vì ở đó chẳng có gì là an ninh cả. Chúng ta phải la lên hết cỡ để trật tự công cộng và tình trạng an ninh được vãn hồi. Đã đến lúc phải nói lên để đạt được nền hòa bình ở Iraq vì nó đã bị mất mát đi mất rồi”.

“Chúng tôi đang làm việc với những người Hồi Giáo để trợ giúp nhân dân Iraq”

Ông Karel Zelenka, vị lãnh đạo Phân Bộ Về Hợp Tác Quốc Tế của Tổ Chức Caritas đã nhận định về nhưnõng nỗ lực nhân đạo tại Iraq từ ngày chấm dứt chiến tranh đến nay: “Chúng tôi đã thiết lập được việc hợp tác tốt đẹp với thế giới những người Hồi Giáo, mặc dù gặp những khó khăn gây ra bởi thiếu an ninh. Sau đây là những gì ông cho biết qua cuộc phỏng vấn với cơ quan Fides của Tòa Thánh Vatican:

Vấn     Tổ Chức Caritas đang làm gì ở Iraq? Qúi vị đã có được những liên hệ hợp tác nào với những người Hồi Giáo?

Đáp     Chúng tôi đã mở những trung tâm ở Baghdad, Basra, Mosul, Kirkuk, Najaf và ở một số làng mạc vùng bắc Iraq. Hết mọi trung tâm đều có một bác sĩ nhi khoa, một y tá và một nhóm cán sự xã hội. Hoạt động chính của chúng tôi là trợ giúp trẻ em và các bà mẹ. Chúng tôi phân phát sữa và rau tương để cải tiến thực đơn của trẻ em. Chúng tôi cũng mở lớp dạy cho các bà mẹ trẻ biết cách chăm sóc con em mình trong tình trạng khó khăn mà hầu hết họ đang trải qua. Chúng tôi đã thiết lập được những mối liên hệ tuyệt vời với thành phần những người Hồi Giáo; thật vậy, 90% những người nhận được sự giúp đỡ ở các trung tâm chúng tôi phục vụ là người Hồi Giáo.

Vấn     Vấn đề trục trặc chính về vấn đề chăm sóc sức khỏe là gì? Giai cấp xã hội nào đang gặp nguy khốn nhất?

Đáp     Các bệnh viện thiếu thốn thuốc men, nhất là những thứ thuốc cho thành phần bị bệnh kinh niên. Ở Iraq nhiều người bị bệnh tim và họ cần phải uống một số thuốc hằng ngày. Tình trạng thiếu điện và nước cũng ảnh hưởng đến các bệnh viện trong việc ngăn trở việc sử dụng dụng cụ quang tuyến. Đối với thành phần bị ảnh hưởng nhất, tôi có thể nói đặc biệt là các người già sống ở các thành phố. Không hề có vấn đề bồi thường vì các văn khố bảo hiểm đã bị hủy hoại. Giải quyết tình trạng này, thẩm quyền Hoa Kỳ hiện trấn đóng đã quyết định hết mọi người đang giữ cuốn sổ bồi thường sẽ được lãnh 40 Mỹ kim mỗi tháng.

Vấn     Vấn đề bất an ảnh hưởng đến tiến trình tái thiết xứ sở này ra sao?

Đáp     Chiến tranh làm rỗng tuyếch quyền lực là những gì vẫn cần phải điền khuyết. Thẩm quyền quân đội Hoa Kỳ cảm thấy khó lòng bảo toàn những điều kiện an ninh. Thật sự họ làm một công việc rắc rối gây ra bởi một loạt những yếu tố. Chẳng hạn, rất khó có thể giữ trật tự cho một thành phố 6 triệu dân như Baghdad. Iraq là một xứ sở có rất nhiều ngoại ô; hầu như 2/3 dận chúng sống ở các tỉnh lị hay thành phố, làm cho càng khó khăn hơn nữa cho những ai có trách nhiệm giữ trật tự. Ngoài ra còn bị ngăn trở về vấn đề ngôn ngữ nữa. Các thông dịch viên được chỉ định cho các đoàn lính Hoa Kỳ để giúp cho việc liên lạc với dân chúng địa phương được dễ dàng, song không thể cắt đặt một thông dịch viên cho hết mọi nhóm quân đội được.

Vấn     Vậy thì làm sao ông có thể nói là các thứ đồ đạc trong nhà được chở trên một chiếc xe vận tải thực sự là của chủ nhân hay là đồ ăn trộm?

Đáp     Tình trạng mất an ninh làm lũng đoạn cuộc sống hằng ngày. Nhiềm cửa tiệm vẫn đóng cửa; phương tiện chuyên chở công cộng lúc có lúc không v.v. Nhiều vùng vẫn chưa có điện, nước và hấu hết các đường giây điện thoại vẫn bị đứt đoạn. Tóm lại, nhiều người hiện không có việc làm nên không có tiền bạc gì cả. Theo quan điểm nhân đạo thì tình trạng này đang ở vào thời điểm vượt qua, nhất là vấn đề cung cấp thực phẩm, vì chế độ cũ đã bắt đầu phân phát các phần lương thực trước khi chiến tranh xẩy ra. Thế nhưng, thấy trước được rằng trong những tháng tới đây sẽ xẩy ra nhiều vấn đề nữa, vì từ khi “chương trình đổi dầu lấy lương thực” của Liên Hiệp Quốc chấm dứt thì Liên Hiệp Quốc không có cách nào để mua lương thực cho nhân dân Iraq bằng việc bán dầu của Iraq cả.

Vấn     Vậy thì từ nay trở đi dân chúng Iraq sẽ phải tùy thuộc vào thị trường, mà nếu dân không có tiền thì làm sao họ có cái ăn đây?

Đáp     Đó là lý do tại sao cần phải tái thiết lập tình trạng an ninh sớm bao nhiêu có thể để kinh tế hoạt động.

Vấn     Là một chuyên viên của một cơ quan nhân đạo lớn của Công Giáo, ông nghĩ thế nào về tình trạng an ninh có thể được bảo toàn để nền kinh tế Iraq được tiếp tục và phát triển?

Đáp     Các lực lượng cảnh sát, nhất là từ các xứ sở Ả Rập, cần phải bắt tay vào việc. Điều này có nghĩa là cần phải có một lực lượng cảnh sát nói được ngôn ngữ Iraq và quen thuộc với văn hóa Iraq. Ngoài ra những người lính không có có kinh nghiệm làm cảnh sát thì làm những việc khác. Còn nữa, tình trạng ở mỗi tỉnh lại khác nhau. Chẳng hạn, ở Mosul, cảnh sát Iraq và quân đội Hoa Kỳ cùng nhau kiểm soát các đường phố. Một khi xứ sở này có được lại một lực lượng cảnh sát thì mới tiến đến chỗ phục hồi tình trạng ổn định vững chắc.

 Liên Hiệp Quốc tặng thưởng một vị linh mục Công Giáo về nỗ lực hòa giải hai dân tộc Trung Đông

Tổ Chức về Giáo Dục, Khoa Học và Văn Hóa của Liên Hiệp Quốc UNESCO (United Nations Educational, Scientific, and Cultural Organization) đã tưởng thưởng cho linh mục Emile Shoufani, một người Palestine có quốc tịch Do Thái, Phần Thưởng Về Giáo Dục Hòa Bình về những nỗ lực hòa giải không ngừng vị linh mục này đã thực hiện nơi hai dân tộc Palestine và Do Thái. Cơ quan UNESCO này đã công bố việc tưởng thưởng này hôm Thứ Tư 28/5/2003. Cha Shoufani vào đời năm 1947, thuộc lễ nghi Greek-Melkite. Ngài đã từng là giám đốc cho Trường Công Giáo Hy Lạp Thánh Giuse ở Nazarét từ năm 1976. Năm 1988, ngài đã viết một chương trình mang tựa đề “Giáo Dục Sống Hòa Bình, Nền Dân Chủ và Việc Chung Sống” để áp dụng ở trường ấy. Trong nỗ lực kéo hai dân tộc Do Thái và Palestine xích lại gần nhau, ngài đã ghép trường của ngài với trường Lyada của người Do Thái ở Giêrusalem. Ngài đã tổ chức việc trao đổi học sinh, với niềm tin tưởng là tính cách đa dạng về văn hóa và tôn giáo không phải là một trở ngại song là một đường lối dẫn đến hòa bình. Vào cuối năm 2002, vị linh mục này đã tổ chức dự án Tượng Niệm Cho Hòa Bình ở Do Thái và Pháp. Dự án này là một cuộc hành hương chung của cả người Ả Rập lẫn Do Thái đến Auschwitz-Bierkenau để tưởng niệm biến cố Tế Thần cũng như để phát động việc hòa giải giữ ahai dân tộc này. Cuộc hành hương này bắt đầu hôm Thứ Hai 26/5/2003 vừa rồi.

Hồi Giáo cũng nhìn thấy nơi Mẹ Maria, vị đã được đề cập đến 34 lần trong cuốn Thánh Kinh Koran, tấm gương cho tất cả mọi tín hữu.

ĐTGM Francesco Gioia, vị chủ tịch về những Cuộc Hành Hương thăm viếng Ngai Tòa Phêrô, đã vạch ra một điều rất đặc biệt về Hồi Giáo, trong tác phẩm của ngài, “Maria, Mẹ Ngôi Lời, Mô Phạm Đối Thoại giữa Các Tôn Giáo”, do Città Nuova xuất bản. Theo vị TGM tác giả này thì “Thiên Chúa là điểm qui chiếu duy nhất đối với tín đồ Hồi Giáo, thế nhưng, sau Ngài là những ai phản ảnh sự thánh thiện của Ngài. Đức Maria là một trong những vị ấy. Đức Maria đã chiếm được một chỗ đứng nổi bật nơi Hồi Giáo. Người là phụ nữ duy nhất được cuốn Koran nhắc đến tên tuổi 34 lần”.

Đức Maria, theo vị TGM này, đặc biệt đã làm cho những người Hồi Giáo ngưỡng phục: “Người là mô phạm cho tất cả mọi tín hữu, bởi đức tin tuyệt đối của Mẹ và việc Mẹ ‘thuận phục’ trọn hảo trước ý muốn của Thiên Chúa. Công Đồng Chung Vaticanô II đã nhận định về thái độ ưu ái này của tín đồ Hồi Giáo với Mẹ Maria, và trong Tuyên Ngôn ‘Nostra Aetate’ (về mối liên lạc giữa Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô Giáo), người ta đọc thấy viết ‘Họ tôn kính Đức Maria, người mẹ đồng trinh của Chúa Giêsu, và có những lúc sốt sắng kêu cầu Người’”.

Vị TGM tác giả này còn nêu bằng chứng về lòng tôn sùng của tín đồ Hồi Giáo đối với Mẹ Maria khi nêu lên những cuộc hành hương của họ đến những đền thờ Thánh Mẫu, nhất là Fatima, và nhất là dữ kiện nhiều người phụ nữ Hồi Giáo được gọi là Maria.

Theo cuốn Koran viết thì “một vị thiên thần, theo lệnh của Thiên Chúa, đã truyền tin cho Đức Maria rằng bà sẽ hạ sinh một người con trai tinh tuyền nhất, một sứ điệp đã làm cho bà bối rối. Bà đã sinh con dưới một cây dừa, một cây đã nuôi dưỡng bà một cách lạ lùng. Bà là một trinh nữ và là một người tinh tuyền. Bà đã bảo toàn đức đồng trinh của mình và đã được Thiên Chúa thấm nhập Thần Linh của Ngài, làm cho bà và con của bà thành một dấu hiệu cho các tạo sinh”.

Vị TGM cho biết thêm: “Cuốn Koran viết rằng Mẹ Maria ‘là một trong những phụ nữ đạo hạnh và là một vị thánh. Bà được Thiên Chúa yêu thích, thanh tẩy và tuyển chọn hơn tất cả mọi phụ nữ tạo thành’. Trong cuốn Koran, Mẹ Maria có một vai trò ấn định liên quan đến Kitô học, vì vấn đề Chúa Giêsu được gọi là ‘con trai của bà Maria’”.

Tuy nhiên, những yếu tố về hạnh tích và linh đạo của cuốn Koran về Mẹ Maria khác với truyền thống Kitô giáo: “Thánh Mẫu Học của người Hồi Giáo được giới hạn một cách vô phương cứu vãn bởi sự kiện là cuốn Koran minh nhiên chối bỏ thần tính của Chúa Giêsu Kitô”. Theo vị TGM tác giả này thì dù đối với nhân vật Maria, “giữa những người Kitô hữu và tín đồ Hồi giáo có những điểm tương đồng và tương dị, nhưng vẫn không được coi thường vấn đề là truyền thống của người Hồi Giáo vẫn coi Đức Maria như là một mô phạm cho tín hữu Hồi Giáo”.

 

13/8 Thứ Tư

 

ÐỐI THOẠI LIÊN TÔN VỚI ẤN GIÁO

 


Những Người Cực Bảo Thủ Ấn Giáo và Dự Luật Chống Việc Trở Lại Công Giáo

 

ĐTGM Calcutta Lucas Sirkar, qua cuộc phỏng vấn với cơ quan Fides dịp đợt giám mục thứ hai sang viếng thăm ngũ niên Tòa Thánh  (chấm dứt vào ngày thứ ba 3/6/2003) đã cho biết về tình hình con số 2% Kitô hữu Ấn Độ trong 1 tỉ dân. Theo ngài thì Kitô hữu Ấn Độ đang quan tâm đến những nhóm cực thủ Ấn Giáo bị tác động bởi ý hệ duy quốc quá khích.

 

“Những nhóm này cản trở sứ vụ của chúng tôi trong việc loan báo Tin Mừng: vì Phúc Aâm, Lời Cứu Rỗi, Chúa Giêsu Kitô là để cho tất cả mọi người Aán Độ. Mặc dù không phải tất cả mọi người Aán Giáo là những cực bảo thủ nhưng nhiều người trong họ lo sợ những cuộc trở lại Kitô giáo. Ý nghĩ của họ về vấn đề trở lại đó là qua những phương tiện phục vụ xã hội những người Kitô hữu lôi kéo dân chúng, dụ dỗ họ, để làm tăng số Kitô hữu lên. Thế nhưng, thái độ lo sợ này là những gì vô lý, vì lương tâm của hết mọi người cần phải được tự do. Chúng tôi đã tổ chức những cuộc họp để giải thích vấn đề trở lại theo quan điểm Kitô giáo, và đã giúp cho nhiều người Aán giáo hiểu được chủ trương của chúng tôi.

 

Tuy nhiên, họ than rằng có những Kitô hữu khác dính dáng đến vấn đề dụ giáo, nhất là các nhóm anh chị em Thệ Phản Tin Lành tiếp tục lan tràn và xây cất những nhà thờ bất kể tình hình xẩy ra. Đó là lý do tại sao những người cực bảo thủ có khuynh hướng cho tất cả mọi Kitô hữu lại thành một nhóm và bắt đầu thực hiện việc bách hại. Một số tiểu bang như Gujarat, Uttar Pradesh và Tamil Nadu đã chấp thuận một dự luật chống lại vấn đề trở lại và việc đi trước làm gương này đang lan tràn sang các tiểu bang khác trong liên bang.

 

“Với tư cách hội đồng giám mục Công Giáo, chúng tôi đã bày tỏ việc phản đối dự luật này bằng một bản công bố chính thức, trong đó, chúng tôi kêu gọi hãy tôn trọng quyền tự do lương tâm cũng như những quyền căn bản của hết mọi người. Chúng tôi cầu xin Chúa giúp dân chúng hiểu được tinh thần làm việc của chúng tôi, và chúng tôi cũng cầu cho những kẻ bách hại chúng tôi để họ tiến tới chỗ hiểu biết mà chấp nhận Lời Chúa. Chúng tôi cũng nỗ lực thực hiện mức tiến bộ trong việc xây dựng hòa bình, vấn đề đại kết và đối thoại liên tôn với tín đồ Ấn giáo, Hồi giáo, Phật giáo và Sikh.

 

Với tất cả những tôn giáo này, chúng tôi đã có những cuộc họp để bàn đến phương tiện loan truyền hòa bình và hòa hợp bằng việc hiểu biết nhau và thông cảm với nhau hơn. Chúng tôi muốn cho hết mọi người đều được tự do và hạnh phúc”.

 

Nói về tình hình ở TGP Calcutta, nơi có 150 ngàn người Công giáo, ĐTGM chủ chiên đã cho biết: “Để loan truyền tình yêu Thiên Chúa, cần phải thực hiện việc huấn luyện đàng hoàng cho hàng giáo sĩ và giáo dân. Tổng giáo phận của chúng tôi được tổ chức một cách tốt đẹp, với 35 giáo xứ tham gia vào các dịch vụ mục vụ và xã hội khác nhau. Tiếc thay, chúng tôi chỉ có 72 vị linh mục, do đó chúng tôi vất vả làm việc với thành phần giới trẻ của chúng tôi để khuyến khích ơn kêu gọi. Năm ngoái chúng tôi ghi danh được 22 tân chủng sinh. Chúng tôi làm việc gần gũi với các giáo lý viên của chúng tôi, thành phần là cánh tay của Giáo Hội: Họ tiến đến với cõi lòng của trẻ em và người lớn. Rất cần phải cung cấp cho các giáo lý viên việc huấn luyện thích hợp. Mỗi giáo xứ có tối thiểu 2 giáo lý viên”.

 

Về Mẹ Têrêsa Calcutta, ĐTGM nói:

 

“Để hiểu được tinh thần của Mẹ Têrêsa, chúng ta phải hiểu được tình yêu của Mẹ đối với Chúa Giêsu Thánh Thể. Linh đạo của Mẹ chỉ là linh đạo Thánh Thể. Thánh Thể là khởi điểm cho hết mọi người Công giáo, vì Thánh Thể là nguồn mạch vui mừng và an bình. Thánh Thể đã dạy cho Mẹ Têrêsa cũng như dạy cho tất cả mọi người chúng ta làm thế nào để hy hiến bản thân mình cho kẻ khác, làm thế nào để trở nên con cái của Thiên Chúa. Mẹ Têrêsa đã có thể phục vụ thành phần nghèo khổ là nhờ Thánh Thể, và lòng can đảm của Mẹ để nói với hết mọi người, Aán giáo, Hồi giáo, vô thần, từ Thánh Thể mà ra. Đó là gia sản lớn lao Mẹ Têrêsa đã để lại cho chúng ta! Uũy ban tổ chức (ngày phong chân phước cho Mẹ) đang làm việc. Các việc cử hành ở Calcutta đây sẽ tiếp tục sau lễ phong chân phước và kết thúc vào ngày 9/11/2003 với một Thánh lễ trước sự hiện diện của các vị thẩm quyền tôn giáo lẫn dân sự khắp Aán Độ. Ngày nay Mẹ Têrêsa là một bà mẹ hoàn vũ; Mẹ thuộc về toàn thể Giáo Hội, toàn thể thế giới. Đó là công cuộc của Thiên Chúa, Đấng đang cứu độ thế giới. Cấn chúng ta phải làm sao nhận ra việc can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử nhân loại”.

 


“Chúng ta phải sẵn sàng chịu bách hại”


Mẹ Bề Trên Dòng Nữ Thừa Sai Bác Ái là Dì Nirmala, vị kế thừa Mẹ Têrêsa Calcutta, có cha mẹ là những người Ấn Giáo rất sùng đạo và thuộc giai cấp cao nhất, giai cấp Brahmans. Được giáo dục theo truyền thống theo các giá trị của xã hội Ấn Giáo, nhưng Dì đã khám phá ra Chúa Kitô và Phúc Âm của Người một cách bất ngờ. Sau đây là câu chuyện Dì trao đổi với vị linh mục thừa sai Felix Lazcano:


Vấn: Dì Nirmala là ai?


Đáp: Dì Nirmala là một người con của Thiên Chúa.


Vấn: Làm sao Dì lại nhận biết Chúa Giêsu Kitô?


Đáp: Tôi không muốn trở lại Kitô Giáo. Tôi không biết gì về Kitô Giáo, và tôi rất sung sướng là một người Ấn Giáo. Tuy nhiên, trong thành phố của tôi lại không có một học viện nào cho nữ giới cả, nên tôi đã ghi danh học ở Đại Học Nữ Giới Patna là một học viện Công Giáo. Sau mấy ngày ở đó, có một người con gái Ấn Giáo, một người sinh viên Hoa Kỳ đã quì xuống bắt đầu cầu nguyện khi nghe thấy chuông kêu. Tôi vẫn đứng và nhìn cô ta thì có một cái gì đó xẩy ra, đó là một biến chuyển nhè nhẹ ở trong linh hồn tôi và tôi cảm thấy Chúa Giêsu sống động đã đến với tôi. Từ đó trở đi, tôi bắt đầu đặt nhiều vấn đề về Chúa Giêsu, để rồi sau 6 năm rưỡi, tôi đã tới Calcutta, gặp Mẹ Têrêsa và đã được rửa tội.


Vấn: Dì cảm thấy ra sao về việc kế vị Mẹ Têrêsa?


Đáp: Đó là một điều ngoài dự tưởng và bất xứng; là ơn của Chúa Giêsu. Tôi thấp hèn trong chức vụ này. Đó là một tặng ân, nên tôi xin chấp nhận.


Vấn: Thế nhưng công việc làm bề trên tổng quyền của Dì đâu phải là một chuyện dễ dàng gì?


Đáp: Phải, nếu tôi cậy mình; bằng nếu tôi dựa vào Thiên Chúa, cũng như được Chị Em nâng đỡ thì tôi có thể thực hiện công việc này mỗi ngày.


Vấn: Sau khi Mẹ Têrêsa qua đời thì hội dòng của Dì phải đối diện với những thách đố nào?


Đáp: Cũng như thế thôi, cũng chỉ là việc sống hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa. Đây là cuộc đối chọi hằng ngày của chúng tôi.


Vấn: Những đặc tính nổi bật nhất trong linh đạo của Dì là chi?


Đáp: Đó là làm giãn cơn khát khao tất cả chúng ta của Chúa Giêsu trên thập giá và yêu thương thành phần bần cùng nhất. Yêu thương và phục vụ. Các Nữ Tu Thừa Sai Bác Ái tuyên lời khấn thứ bốn thêm vào các lời khấn truyền thống khó nghèo, khiết tịnh và tuân phục, đó là lời khấn tự nguyện hết lòng phục vụ người bần cùng nhất.


Vấn: Phải chăng những cuộc bách hại và những cơn khốn khó thường xẩy ra cho Kitô hữu ở Ấn Độ?


Đáp: Nếu chúng ta là Kitô hữu, chúng ta phải sẵn sàng chịu bách hại. Đó là vấn đề sống đúng với những gì chúng ta là. Người đã hiến sự sống mình vì chúng ta, và nếu chúng ta không tự nguyện hiến sự sống mình thì chúng ta đang làm gì trên thế gian này đây?

 

 

Sứ Điệp gửi Tín Đồ Ấn Giáo nhân dịp lễ Ánh Sáng


Vào ngày 6/11/1999, ngày Lễ Ánh Sáng của Ấn Giáo, ĐTC đã ban hành Tông Huấn Giáo Hội Tại Á Châu ở Tân Đề Ly Ấn Độ. Năm nay, như thói quen đối với các tôn giáo khác, Hội Đồng Tòa Thánh Về Việc Đối Thoại Liên Tôn cũng đã gửi cho các tín đồ Ấn Giáo một sứ điệp nhân dịp Lễ Ánh Sáng, một lễ chính của tôn giáo này, như Lễ Phật Đản của Phật Giáo vậy, một lễ mà Tín Đồ Ấn Giáo tin rằng vào ngày lễ ấy quyền năng thần linh chế ngự bóng tối tăm trên thế giới. Bức thư này được ký gửi bởi ĐHY Francis Arinze trước ngày ngài được bổ nhiệm làm Thánh Bộ Trưởng Thánh Bộ Phụng Vụ và Bí Tích
1/10/2002.


Quí Hữu Ấn Giáo thân mến,


1. Một lần nữa lại tới thời điểm quí hữu thắp lên những cây đèn nhỏ bé, treo lồng đèn mầu mè trên nhà của mình, dâng lời nguyện cầu lên Thượng Đế, viếng thăm bạn bè và cận nhân, họp gia đình cử hành niềm vui trong ngày Lễ Ánh Sáng này. Tôi muốn gửi đến tất cả mọi tín đồ Ấn giáo trong dịp phúc hạnh này lời chào thân ái của tôi. Chớ gì niềm vui bề ngoài này sẽ thể hiện khắp thế giới Ấn Giáo một bộc lộ của một cảm quan đạo đức chân thực, hoa trái của những niềm tin tưởng và xác tín đạo nghĩa chân thực.


2. Tôi đã có thói quen kêu gọi các quí hữu thuộc các truyền thống tôn giáo khác nhau, vào dịp lễ đặc biệt của họ, cùng suy tư về những khía cạnh khác nhau của cuộc sống chúng ta, trong xã hội cũng như trong thế giới nói chung. Năm nay, vào dịp Lễ Ánh Sáng, tôi xin được hỏi là những cuộc lễ về tôn giáo, trước hết, lại không phải là những thể hiện của lòng con người muốn chế ngự tối tăm bằng ánh sáng, sự dữ bằng sự lành, giả tạo bằng chân thực và sự chết bằng sự sống hay sao? Mầu nhiệm về sự sống, từ giây phút được thụ thai trở đi, qua các giai đoạn sau khi được sinh ra thành một con trẻ, đều được cử hành bằng những lời cầu nguyện cùng những tác động lễ nghi theo truyền thống Ấn Giáo. Người Kitô Giáo chúng tôi công nhận sự sống con người có một giá trị đặc biệt, vì Thánh Kinh dạy chúng tôi rằng mỗi một con người được dựng nên theo hình ảnh và tương tự như Thiên Chúa. Tặng ân này của Thiên Chúa đã được niêm ấn bằng máu của Chúa Kitô đã đổ ra vì yêu thương hết mọi người. Bởi thế mà hết mọi cá nhân đều quí trọng trước nhan Thiên Chúa.


3. Kỹ thuật đã phát triển tột bựa trong thời đại của chúng ta đây. Sự sống chắn hẳn được an toàn hơn, dễ dàng hơn và dài lâu hơn. Thế nhưng, chúng ta đã trả lời như thế nào cho những vấn nạn sau đây: Phải chăng kỹ thuật đã giúp cho sự sống con người khá hơn về phẩm chất? Kỹ thuật có giúp cho chúng ta trân quí sự sống con người hay chăng? Ngược lại, trước sự tiến bộ của kỹ thuật sự sống dường như càng bị đe dọa hơn bao giờ hết. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhận định là “những mối đe dọa tân thời đang nổi lên ở một mức độ báo động rộng lớn, thêm vào những khốn cực vốn có xưa kia về nghèo khổ, đói khát, bệnh hoạn, bạo lực và chiến tranh” (Evangelium Vitae, On the Value and Inviolability of Human Life, 3). Vị Giáo Hoàng này nói tiếp: “cùng với những chân trời mới được khoa học và kỹ thuật tiến bộ mở ra còn có những hình thức mới tấn công phẩm giá con người nữa” (cùng nguồn, đoạn 4). Khoa học ngành truyền giống đã trở nên một dụng cụ trong tay con người. Họ có thể lợi dụng nó hay lạm dụng nó. Có những lúc bị cám dỗ muốn trở thành một kẻ lèo lái sự sống, thậm chí trở thành một tác nhân sự chết, con người cấn phải tái nhận thức vị thế chính thức của mình trong thiên nhiên tạo vật, tức là, vị thế họ được Thiên Chúa dựng nên và chỉ có một mình Thiên Chúa mới là Tạo Hóa duy nhất của tất cả mọi sự hiện hữu mà thôi.


4. Các vị đại diện tôn giáo khác nhau đã tụ họp nhau lại ở Assissi Tháng Giêng vừa rồi để cầu nguyện cho hòa bình thế giới. Tham dự viên Ấn Giáo, trong chứng từ của mình, đã cho biết là cuộc họp này là một dấu hiệu nói lên cho thấy mối hiệp nhất của gia đình nhân loại cùng có Thiên Chúa Làm Cha (Vasudhaiva Kutumbakam). Mặc dù các tham dự viên thuộc về các truyền thống tôn giáo khác nhau, họ cũng bày tỏ một quyết tâm chung trong việc cổ võ từng sự sống và tất cả mọi sự sống. Chúng ta chỉ cần chú ý tới vấn đề quyết tâm thứ hai đã được tuyên đọc là: “Chúng tôi quyết tâm giáo dục con người phải tôn trọng nhau và cảm nhận nhau, để giúp vào việc mang lại một cuộc sống chung an bình và huynh đệ giữa con người và nơi các dân tộc với nhau”. Qua các cộng đồng và cơ cấu hiện có của mình, chúng ta có thể phác họa đường lối của mình trong việc giáo dục con người biết cổ võ việc tôn trọng sự sống. Đến đây tôi xin được đề cập đặc biệt đến giới trẻ, thành phần mà tâm hồn của họ đang bị ảnh hưởng bởi những gương mù gương xấu và đang tận mắt chứng kiến thấy những biến cố thê lương. Việc giáo dục đặc biệt cho giới trẻ về vấn đề tôn trọng sự sống phải là một trong những ưu tiên khẩn trương của chúng ta, để những niềm xác tín vững chắc về luân thường đạo lý cùng với nền văn hóa sự sống chi phối họ. Chúng ta chỉ có thể hy vọng rằng nguyên tắc về việc tôn trọng sự sống sẽ được kính cẩn tuân giữ qua những thái độ và luật lệ trong xã hội, ở chỗ những thẩm định về luân thường và đạo lý chi phối toàn thể xã hội mà thôi.


5. Quí hữu Ấn Giáo thân mến, tôi xin kết luận bằng việc chia sẻ với quí hữu cảm nhận sâu đậm trong tâm trí tôi về hình ảnh những ngọn đèn được thắp sáng lên trong Ngày Cầu Nguyện Cho Hòa Bình Thế Giới ở Assissi Tháng Giêng vừa rồi. Các vị đại diện tôn giáo khác nhau đã cầm đèn sáng trong tay và sau khi cùng nhau quyết tâm, họ đã đặt những cây đèn ấy vào cùng một chỗ, biểu hiệu cho việc qui tụ niềm hy vọng và nỗ lực xây dựng hòa bình. Đức Giáo Hoàng của chúng tôi đã ban phép lành cho quí vị ấy và nói: “Hãy tiến vào tương lai với cây đèn hòa bình giơ cao. Thế giới đang cần ánh sáng!”. Chúc quí hữu Cuộc Lễ Ánh Sáng phúc hạnh.


ĐHY Francis Arinze, chủ tịch.
 

(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ Màn Điện Toán Zenit ngày 29/10/2002)

 

12/8 Thứ Ba

Thánh Giacôbê ĐỖ MAI NĂM, Lm (1781 - 1838)


Như Chuyện Bình Thường

Nghe tin quan tuần phủ đến làng, cha Đỗ mai Năm thắt lưng, xắn quần định trà trộn vào đám dân chúng đi làm cơm cho quan ăn. Nhưng chưa kịp ra khỏi nhà thì quân lính đến. Khi thấy ông cụ trắng trẻo, râu dài, họ chặn lại hỏi: “Ông là ai?”. Cha Năm vui vẻ trả lời: “Tôi là người nhà này”. Ngay lúc ấy hai người tên Tỷ và Xuân được quan thuê đi dọ thám nơi ở của các đạo trưởng, trước đã giả xin làm việc trong nhà ông Lý Mỹ, liền đến chỉ vào cha và kêu lên: “Đúng đạo trưởng ở nhà này đây”. Vẫn cung giọng điềm tĩnh như mọi khi, cha Năm khẳng khái trả lời: “Phải chính tôi đây”.

Thế là cha bị bắt. Bị bắt một cách bình thản như cuộc đời cha vốn bình thản. Hay có thể nói, cha bị bắt một cách vui vẻ, tự nhiên như một công việc vẫn xẩy ra thường ngày trong đời sống của cha vậy.

Bình Dân và Nhân Ái

Giacôbê Đỗ Mai Năm, tên trong sổ là Mai Ngũ, sinh năm 1781, tại làng Đông Biên, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Cậu Ngũ vào nhà Đức Chúa Trời từ nhỏ, sau đó học tiếng Latinh ở chủng viện Vĩnh Trị, khi thành thầy giảng thì ở lại chủng viện luôn. Thầy Năm hiền hòa vui vẻ, nên trẻ em rất mến và thích thầy. Sau đó ít năm, thầy được đi học thêm thần học và thụ phong linh mục năm 32 tuổi. Cha Năm đi giúp các xứ đạo đây đó, sau lại về giúp nhà trường Vĩnh Trị khoảng năm 1830.

Từ khi vua Minh Mạng cấm đạo toàn quốc, chủng viện bị giải tán, cha Năm phải đi ẩn trốn ở nhà các tín hữu. Cha ở nhà ông trùm Tốn ba năm, họ Kẻ Nguồi, lần khác tại nhà ông trùm Đích làng Vĩnh Trị. Trong thời gian ẩn trú như thế, cha Năm đã sống rất hòa mình vui vẻ với mọi người. Cha hay kể chuyện cho trẻ em hoặc cùng với các chủng sinh giúp nhổ cỏ ruộng cho chủ nhà, cha làm các việc nhỏ mọn chẳng phiền hà bao giờ. Đặc biệt cha yêu thương săn sóc những người nghèo. Tất cả những gì nhận được, cha thường dành dụm cho họ.

Có người báo cáo làng Vĩnh Trị chứa chấp đạo trưởng. Quan cho lính đến vây làng, bắt được cha Năm cùng ông trùm Đích, và con rể ông là ông Lý Mỹ. Cha bị tống giam vào ngục Nam Định.

Gan Vàng Da Sắt

Trước mặt quan, khi được khuyên nhủ bỏ đạo cha Năm khẳng khái thưa:

“Tôi là đạo trưởng làm sao dám bỏ đạo hay đạp ảnh tượng tôi thờ được. Tôi vốn khuyên dạy người ta phải giữ đạo vững vàng, thà chết không bỏ đạo, thì tôi phải giữ lời tôi đã khuyên dạy kẻ khác chứ. Nếu đạo trưởng mà không dám chịu chết vì đạo, thì còn ai chịu chết vì đạo nữa”.

Sau nhiều lần khuyên dụ, biết không làm cha đổi ý được, các quan không tra khảo gì thêm nữa, để cha được dễ dàng đi lại, gặp gỡ các bạn tù, nhờ đó cha an ủi, khuyến khích được nhiều người trong tù, ban phát bí tích cho họ. Nhất là động viên ông trùm Đích bị bắt cùng với cha, ông đã luống tuổi và rất sợ hãi khổ hình, cha nói: “Nhờ ơn Chúa giúp sức, thì các khổ hình đau đớn thế nào, chúng ta cũng chịu được”. Cha nhắc đến gương thánh Laurensô bị nung trên giường sắt, mà vẫn vững tin đến cùng. Án xử được châu phê. Ngày 12.8 cha Giacôbê Năm cùng với ông trùm Antôn Đích, ông Micae Lý Mỹ được phúc tử đạo tại pháp trường Bẩy Mẫu, Nam Định. Cha Giacôbê Năm khi đó được 57 tuổi, thi hành tác vụ linh mục được hai mươi lăm năm.

Như Ngọn Đèn Luôn Tỏa Sáng

Suốt cuộc đời, cha Năm luôn sống hiền hòa, bình dị, thoải mái như cái tên Năm bình dị. Cuộc đời thầy giảng Năm đầy vui vẻ, và cuộc đời linh mục Năm hoàn toàn giản đơn. Sự đơn giản thoải mái đó, không do hoàn cảnh may mắn dễ dàng, không do điều kiện bên ngoài, nhưng do chính tâm hồn tràn đầy tình yêu Thiên Chúa của cha. Cuộc đời xuề xòa vui vẻ của cha đã tỏa trên những người xung quanh cha, thứ ánh sáng tuyệt vời của Đức Kitô, Đấng cao cả là thế mà khi đến trần gian đã luôn sống hiền hòa khiêm tốn, vui với trẻ thơ và sống với người cùng khổ.

Trong cái tình huống “dầu sôi lửa bỏng” lúc đó, chắc chắn lễ mừng ngân khánh linh mục của cha nếu có, cũng chỉ thật âm thầm lặng lẽ. Nhưng diễm phúc thay cho cha, vì Thiên Chúa đã đưa người tôi tớ trung tín về nước Trời. Và khỏi phải nói, không một ngân khánh của ai trên trần gian có thể huy hoàng, long trọng để so sánh được với lễ ngân khánh của cha trên thiên quốc.

Thi hài ba vị tử đạo được đưa về an táng tại Vĩnh Trị, dân làng kéo chuông đốt đuốc đón rước cách long trọng. Sau được đưa về nhà chung ở Kẻ Sở.

Đức Thánh Cha Lêo XIII suy tôn Chân Phước cho cha Giacôbê Đỗ Mai Năm ngày 27.5.1900.

 

Thánh Antôn NGUYỄN ĐÍCH, Trùm họ (1769 - 1838)


Gia Trưởng Một Gia Đình Tử Đạo

Thánh Antôn Nguyễn Đích, một mẫu gương sáng ngời cho những người gia trưởng, đặc biệt trong việc giáo dục hướng dẫn đức tin cho con cái. Không kể Thánh Lý Mỹ, người con rể chí hiếu, đã cùng tử đạo một ngày. Gia đình ông trùm Đích đã cống hiến hai vị tử đạo khác (hai vị này không có trong số 117): ông Lý Thi, con thứ hai, bị xử giảo năm 1858 thời vua Tự Đức, và ông phó Nhâm, người con thứ tư, cương quyết không bước qua thập giá, bị đầy lên Cao Bằng và qua đời tại đó. Thánh nhân đã giáo dục con cái không chỉ bằng lời nói, mà bằng chính mẫu gương chứng tá đức tin sống động của mình.

Lý Lịch Thân Phụ Tôi

Muốn biết rõ lý lịch của Thánh Antôn Nguyễn Đích, không gì bằng nghe chính lời con gái ngài là cô Maria Mến (Miều), góa phụ của Thánh Micae Nguyễn huy Mỹ, cung khai trước tòa điều tra phong chân phước:

“Bố tôi tên là Nguyễn Đích, quê ở Chi Long, huyện Nam Xương, tỉnh Nam Định. Ông bà nội tôi vốn có lòng đạo đức, thấy xa nhà thờ có linh mục, thì lấy làm tiếc, nên dọn đến làng Kẻ Vĩnh (Vĩnh Trị), rồi bố tôi lập gia đình ở đó.

Hồi ấy bố tôi tên là Khiêm, khi sinh con đầu lòng đặt tên là Hiếu, người ta gọi bố tôi là Hiếu, đến khi sinh người con thứ hai đặt tên là Đích, bố tôi lại mang tên là Đích và giữ tên đó mãi.

Gia đình chúng tôi làm nghề nông, rất cần cù, nhưng không vì thế mà sao lãng việc đạo đức, trái lại, vẫn siêng năng xưng tội, rước lễ. Bố tôi luôn quan tâm đến đời sống đạo đức của mười người con và của những gia nhân giúp việc. Mỗi ngày, ông chỉ định một hay hai người coi nhà, còn những người khác đi lễ. Tôi thấy bố tôi làm tròn các nghĩa vụ trong đạo. Ngài rất chăm sóc việc giáo dục con cái, mời thầy đồ đến nhà dạy chữ Nho cho con trai, từ chối gả con cái cho những thanh niên gia đình giàu có mà không giữ đạo sốt sắng...”

Bốn vị tử đạo trong gia đình, thật là kết quả hết sức lớn lao của nền giáo dục đạo đức đó.

Một Lòng Vì Giáo Hội

Đặc biệt quan tâm đến tương lai của Giáo Hội, ông trùm Đích rất yêu quý các giáo sĩ và chủng sinh, quảng đại tiếp đón và giúp đỡ về vật chất. Thời gian chủng viện Kẻ Vĩnh bị nạn dịch tả, nhiều chủng sinh ly trần, các bề trên quyết định phân tán các chú. Ông trùm Đích tình nguyện nhận một số, vừa nuôi dưỡng, vừa săn sóc chữa bệnh cho đến khi hoàn toàn bình phục, không xá kể lao nhọc tốn phí.

Đức bác ái của ông còn tỏ ra qua lòng thương người nghèo, và việc thường xuyên thăm viếng an ủi những người mắc bệnh phong cùi. Chính thế giá và nhân đức của ông, mà người ta gọi ông là “trùm”, mặc dù thực tế ông không giữ nhiệm vụ ấy.

Gặp thời cấm đạo ngặt nghèo, ông cho trú ẩn tại nhà và nuôi dưỡng trong hai năm một lớp của chủng viện. Đức cha Havard Du, giám mục địa phận, cũng đã trú ẩn tại nhà ông trong thời kỳ cấm đạo triều vua Minh Mạng.

Vị Gia Trưởng Đáng Kính

Quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh dùng mọi phương thế, từ thuyết phục đến tra tấn, để bắt ông trùm Đích bỏ đạo: “Ông đã cao niên, các con đã trưởng thành, các cháu chắt đông đảo, có nhà cửa phong lưu, ông hãy quá khóa để vui hưởng tuổi già với đàn con cháu có hơn không?”. Ông Đích trả lời với giọng vững vàng: “Thưa quan, con cháu chi cũng mặc, tôi đã lo liệu cho chúng. Tôi có bổn phận tôn thờ Thiên Chúa, quan tha hoặc kết tội thì tùy, chứ đừng ép tôi bỏ đạo”.

Quan truyền khiêng ông qua thánh giá, nhưng ông co hai chân lên, tức giận quan truyền đánh đòn ông. Vì phải mang gông xiềng, bị tra tấn, lại thấy mình già nua yếu đuối, có lúc ông tưởng không chịu nổi gian truân thử thách đến cùng. Nhưng may mắn ông vẫn kiên trung tới ngày tử đạo, nhờ ơn Chúa giúp, nhờ lời khuyên nhủ của cha Năm, nhờ sự khích lệ của các bạn tù, nhất là nhờ tấm lòng hy sinh cao cả của người con chí hiếu, Micae Lý Mỹ. Ông Lý Mỹ sau khi lãnh phần mình xong, ba lần chịu đòn thay cho nhạc phụ, ông trùm Đích chỉ phải chịu đòn một lần. Ngoài ra, ông trùm Đích được mang gông nhẹ hơn.

Ít phải chịu cực hình thân thể, ông gia tăng công nghiệp bề trong bằng việc bác ái và đạo đức. Thực phẩm, tiền bạc do gia đình tiếp tế, ông chia sẻ cho các bạn tù ngoại giáo. Ông chuyên chú đọc kinh cầu nguyện, xưng tội rước lễ sốt sắng ngay trong nhà giam.

Thấy không thể khuyến dụ ông trùm Đích bỏ đạo, quan làm sớ tâu về kinh. Đây là nội dung tờ sớ luận tội:

“Tên Đích tin theo và thực hành tà đạo, dù đã bị cấm. Đã không nộp đạo trưởng Mai Năm cho quan, lại còn chứa chấp, không nghe lời khuyến cáo dạy bảo, nhất là không chịu quá khóa, thật là người cố chấp, bất tuân luật nước. Chúng thần đã nhiều lần truyền buộc y quá khóa trước công đường, nhưng y trả lời: ‘Tôi giữ đạo từ nhỏ, tôi sẵn lòng thà chết chẳng thà bỏ đạo’. Vậy xin luận trảm quyết để làm gương cho kẻ khác”.

Bản án được vua Minh Mạng châu phê chấp thuận. Ngày 12.8.1838, ông trùm Antôn Nguyễn Đích cùng với linh mục Giacôbê Mai Năm và người con rể Micae Nguyễn huy Mỹ bị điệu ra pháp trường Bẩy Mẫu, Nam Định. Sau khi hành quyết linh mục Mai Năm, lý hình chém đầu ông trùm Nguyễn Đích, rồi mới xử tử ông Lý Mỹ.

Thi hài ông Antôn Nguyễn Đích, 69 tuổi thọ, được rước về làng Kẻ Vĩnh ngay trong đêm đó. Dân làng tổ chức lễ quy lăng rất trọng thể, rồi an táng trước nhà ông, nơi ông đã để lại bao gương sáng của một chức sắc và một gia trưởng đáng kính.

Cùng với linh mục Mai Năm và ông Lý Mỹ, ông trùm Antôn Nguyễn Đích, được Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn Chân Phước ngày 27.5.1900.


Thánh Micae NGUYỄN HUY MỸ, Lý trưởng (1804 - 1838)


Người Con Chí Hiếu

“Gông đóng xiềng mang, dạ nguyện kinh
Những say vì đạo hả vì tình
Vai mang bốn diệp tai thêm ấm
Xống xếnh ba vòng cổ lại thanh
Phép nước đành lòng không oán thán
Nghĩa thày để dạ vẫn đinh ninh
Khiến sao nên vậy nào lo nghĩ
Phó mặc Hoàng Thiên sự tử sinh”


Qua những vần thơ của Thánh Micae Mỹ trên đây: Gông, xiềng, đòn đánh là những hình phạt dành cho phạm nhân, làm thân thể con người phải đau đớn, suy giảm sức khỏe thể xác, thì đối với ngài, người tín hữu trung kiên “say vì đạo” Chúa Kitô, gông xiềng đã trở nên hành trang quý báu vô cùng. Chính bản thân ông đã tự nguyện lãnh đòn thay cho nhạc phụ tuổi già sức yếu (ông trùm Antôn Nguyễn Đích) để rồi trở nên người đồng hành làm chứng cho Đức Kitô, cùng lãnh phần thưởng cành lá vạn tuế tử đạo, và cùng được tôn phong lên bậc hiển thánh. Ông Micae Lý Mỹ quả thực là người con chí hiếu, một môn đệ trung kiên, đã thực hiện trọn hảo lời Thầy Chí Thánh: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo” (Mt
16:24).

Tốt Đời Đẹp Đạo

Thân phụ nguyên quán ở Đại Đăng, tỉnh Ninh Bình, đến lập nghiệp và kết hôn tại làng Kẻ Vĩnh, Nam Định. Cậu Micae Nguyễn huy Mỹ sinh năm 1804, mồ côi cha năm lên mười, rồi hai năm sau mồ côi mẹ. Được người tận tâm nuôi dưởng giáo dục, cậu tỏ ra rất thông minh và đạo đức: thông thạo chữ Hán và nghề thuốc, siêng năng đọc kinh sáng tối, tham dự và lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể. Cậu thường tìm nơi thanh vắng yên tĩnh trong vườn để đọc kinh Mân Côi và cầu nguyện.

Năm 20 tuổi, anh Mỹ kết duyên với cô Maria Mến (Miều), con gái ông trùm Antôn Nguyễn Đích. Cuộc sống gia đình đầm ấm hạnh phúc với tám người con đạo hạnh, khiến hết thảy dân làng đều mến phục kính nể. Họ đồng thanh thỉnh ông làm chánh tổng, nhưng ông từ chối. Sau cùng vì vâng lời Đức cha Havard Du, để trợ giúp chủng viện và giúp đỡ giáo dân trong thời cấm đạo, ông nhận chức lý trưởng. Dù đời sống trong gia đình và xã hội nhiều phức tạp, ông luôn sống xứng đáng là một gia trưởng đạo đức gương mẫu. Bà Lý Mỹ kể rằng:

“Gia đình tôi sống trong hòa thuận yêu thương. Ông Micae chuyên chăm đạo đức, dự lễ hằng ngày, nếu vợ con hay người giúp việc bận rộn không đi lễ được, ông buộc phải đọc kinh chung và nghe sách thiêng liêng để suy niệm. Ông xưng tội nhiều lần trong năm, mỗi lần ông kỹ lưỡng xét mình hai ngày trước. Mùa chay, ông giữ chay các ngày thứ tư và thứ sáu. Ông không uống rượu, không đánh bạc hay to tiếng với ai bao giờ”.

Làm lý trưởng, ông Mỹ tỏ ra là người liêm khiết không nhận tiền hay quà hối lộ. Khi phân xử, ông rất công bằng chính trực, không thiên vị bên nào. Với những người vướng mắc tệ đoan xã hội, ông khuyên răn, sửa trị nghiêm minh. Lo cho gia đình thế nào, ông Lý cũng chăm sóc làng xã như vậy: mỗi tối, ông thường đọc kinh chung với phu tuần trước khi thi hành công tác. Ông khuyên nhủ người không đạo, giúp đỡ người nghèo khổ, tạo điều kiện cho họ năng nhận các bí tích, tu thân sửa lỗi, để họ trở thành người giáo hữu tốt lành và người công dân lương thiện. Hàng tổng vẫn lấy làng Kẻ Vĩnh ra làm gương cho các làng khác.

Phép Nước Đành Lòng Không Oán Thán

Như các làng khác ở miền Bắc trong những năm cấm đạo (1833) dưới triều vua Minh Mạng, vì quan quân không ráo riết chấp hành, nên Kẻ Vĩnh được tạm yên trong mấy năm. Nhưng năm 1837, tuần phủ Hưng Yên bị cách chức, quan tổng đốc Nam Định Trịnh Quang Khải bị triệu về kinh quở trách nặng lời, nhà vua trao cho tổng đốc bốn mươi thánh giá, truyền phải triệt để áp dụng chiếu chỉ cấm đạo. Từ đó quan tổng đốc trở thành con người tàn bạo, người ta gọi ông là “hùm xám tỉnh Nam”. Hai địa phận Đàng Ngoài vào cuối triều Minh Mạng phải chịu những cơn bão táp dữ dội. Quan quân từng đội, từng đoàn đi khắp nơi, bao vây từng làng, khám xét từng nhà, chủng viện Kẻ Vĩnh hai lần phải giải tán chủng sinh sang các miền xung quanh.

Một lần, quan quân bao vây làng Kẻ Vĩnh đúng lúc Đức giám mục và một số linh mục đang trú ẩn tại đó. Ông Lý Mỹ can đảm và khôn khéo, đánh lạc hướng dẫn quan quân đi khám xét từng nhà, không bắt được vị nào. Ông thường nói với các giáo hữu: “Việc nhà vua cấm đạo ví như thử thách Thiên Chúa gởi đến ta phải kiên tâm trung thành với đạo”. Khi nghe tin tổng đốc bắt các lính Công giáo phải quá khóa, ông Lý vì ở xa, nên gởi thư khuyên bốn người thuộc làng Kẻ Vĩnh: “Xin anh em giữ vững đức tin, mấy ngày nữa tôi sẽ đến với anh em”.

Ngày 2.7.1838, quan tổng đốc chỉ huy cuộc bao vây làng Kẻ Vĩnh, ông Lý Mỹ thưa với nhạc phụ: “Cha con ta đồng sinh tử với nhau, việc Chúa quan phòng đã đến rồi, xin cha đừng sợ hãi chi”. Nói xong, ông ra đón quan tổng đốc tại đình làng, quan truyền các giáo hữu và linh mục phải ra trình diện, nếu không ông Lý trưởng phải làm tờ cam đoan. Ông viết: “Lý trưởng Nguyễn huy Mỹ làm tờ cam đoan: làng chúng tôi không có đạo trưởng, cùng các đồ quốc cấm, nếu khai gian tôi xin nộp mạng cả gia đình tôi”. Tờ cam đoan chưa ráo mực thì quân lính đã dẫn linh mục Giacôbê Mai Năm đến. Quan ngạc nhiên hỏi phải xử thế nào? Ông thưa: “Thưa quan lớn, quan thương thì chúng tôi xin tạ ơn, bằng không tôi xin nộp đầu chịu tội”. Bấy giờ quan truyền lệnh đánh ông Lý bốn mươi roi, rồi đóng gông giải ra tỉnh cùng với linh mục Mai Năm và ông trùm Nguyễn Đích.

Gông Đóng Xiềng Mang Dạ Nguyện Kinh

Trên đường ra tỉnh Nam Định, một kỳ mục trong làng bàn luận với ông Lý xin nộp tiền chuộc để ông được về, ông Lý từ chối: “Xin cảm ơn lòng tốt của dân làng, nên để tiền đó giúp vợ con tôi và mở tiệc mừng khi đưa thi hài tôi về”. Trong ba người bị bắt, vì biết không thể dùng áp lực lay chuyển đức tin của cha Mai Năm, nên quan không thúc ép nhiều. Với ông trùm Đích đã 70 tuổi già sức yếu, thì quan cũng nương tay. Riêng ông Lý Mỹ, đang tuổi cường tráng, lại nói năng lưu loát, nên quan dùng đủ cách phương thế khuyên dụ ông chối đạo:

“Anh còn trẻ trung, thông minh sắc sảo, dân chúng đều quý, sao anh lại dại khờ không bước qua thập giá?”

“Trước khi tôi sinh ra, đã có dân chúng. Vậy khi đó ai lãnh đạo, nên tôi không vì thế mà làm theo lời quan được”.

“Anh không thương người vợ hiền với đàn con sao?

“Thiên Chúa trao phó người vợ và con cái cho tôi chăm sóc khi tôi có thể, nay Ngài định cho tôi trong tay quan lớn, thì tôi xin vâng ý Ngài, vợ con tôi cũng vui lòng theo ý tôi hơn”.

Ông Lý còn dùng nhiều lý luận sắc bén đối chất với quan:

“Thưa quan lớn, tôi đã suy xét và tin nhận đạo Thiên Chúa là đạo thật, nên tôi không thể chối bỏ. Giả như có ai nói quan lớn đạp đầu Đức Vua đã ban chức trọng cho quan, ắt hẳn quan chẳng dám làm, thì tôi đây lẽ nào cả gan đạp ảnh Chúa tôi thờ kính”.

Quan tổng đốc nổi giận truyền đánh đòn ông Lý nhiều lần, tính tổng cọng trong suốt thời gian bị giam giữ, ông Lý phải chịu đến năm trăm roi, kể cả ba lần chịu đòn thay cho nhạc phụ. Nhìn ông trùm Đích tuổi già sức yếu, ông Lý ngày đêm lo lắng, thiết tha cầu khẩn Thiên Chúa trợ giúp ban ơn cho nhạc phụ vững tin cho đến giờ phút cuối cùng. Ông Lý thường khuyến khích nhạc phụ: “Cha đã tuổi cao sức yếu, chẳng sống được bao lâu nữa, nếu không chết vì đạo, thì cũng chết vì bệnh, nhưng nếu tử đạo, sẽ làm vinh danh Thiên Chúa và được hạnh phúc thiên đàng”. Cha đừng luyến tiếc sống thêm ít ngày, con đây còn khỏe mạnh, đời còn dài, vợ trẻ với đàn con thơ dại thật đáng yêu đáng quý, nhưng con tin Thiên Chúa sẽ lo liệu thật tốt đẹp cho chúng. Hơn nữa, khi cha con ta được lên thiên đàng, sẽ cầu bầu trước nhan Thiên Chúa thì có ích hơn cho cả gia đình dòng tộc. Cha đừng lo về những hình khổ phải chịu, con sẽ chịu đòn thay cho cha hết thảy. Cha hãy can đảm làm chứng và sẵn lòng chết vì yêu mến Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chết vì chúng ta...”.

Quả thực, mỗi lần quan truyền đánh đòn ông trùm Đích, thì ông Lý Mỹ đứng lên thưa: “Cha tôi đã già nua tuổi tác, xin quan lớn tha cho, tôi xin chịu đòn thay”. Quan lớn thấy ông có lòng hiếu kính, nên chấp thuận đề nghị ấy. Ông Lý chịu đòn gấp hai lần nên y phục rách nát, thân mình đầm đìa những máu, tứ chi bầm tím khắp nơi. Ông còn phải mang gông xiềng nặng hơn, bị cùm xiết chặt hơn, khiến càng thêm đau đớn khủng khiếp, nhưng vị chứng nhân Chúa Kitô luôn tỏ ra hân hoan vui mừng, không một lời oán than:

“Vai mang bốn diệp tai thêm ấm,
Xống xếnh ba vành cổ lại thanh”.

Cuộc Giả Từ Rơi Lệ

Người con gái ông Lý, cô Mỹ tuy mới 12 tuổi, cũng lén mẹ ra tỉnh tìm cách qua ba lần cửa có lính gác, vào thưa với cha: “Xin cha can đảm chịu chết vì Chúa”. Cậu Tường mới 9 tuổi, con trai ông Lý Mỹ, không đi xa được, cậu cũng cố nài nỉ dân làng đi thăm chuyển lời đến ông: “Cha đừng lo cho chúng con, cha hãy an tâm vững lòng xưng đạo và chịu chết vì đạo”. Bà Lý bồng con mới sinh được mấy tháng ra thăm chồng, trao con cho chồng ẵm một lúc, bà thấy những cực hình chồng phải chịu, bà không cầm được nước mắt, bà nói trong nghẹn ngào:

“Vợ con ai mà chẳng thương chẳng tiếc, nhưng ông hãy hy sinh vác thánh giá rất nặng vì Chúa, hãy trung thành với Chúa cho đến cùng, đừng lo nghĩ về mẹ con tôi. Thiên Chúa sẽ quan phòng tất cả. Đến thăm ông lần này có lẽ là lần sau hết, cầu xin Chúa cho ông vâng theo Thánh ý Chúa”.

Ông Lý Mỹ lòng đau như cắt. Ông biết rằng sự ra đi của ông sẽ là nỗi thương đau vô cùng cho vợ con, nhưng vững tin vào tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa, ông bình tĩnh an ủi vợ:

“Lời bà khuyên nhủ đốt thêm lửa kính mến Chúa trong lòng tôi, bà đem con về săn sóc chúng thay tôi, sớm tối cầu nguyện nhiều cho tôi vững lòng xưng đạo Chúa trước mặt thiên hạ, hẹn ngày sau gặp bà và các con chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu nơi quê thật là nước thiên đàng”.

Nhờ lời khích lệ của vợ con, ông Lý như được tăng sức mạnh, nên càng vững lòng tin hơn, sẵn sàng hy sinh tính mạng vì đạo Chúa. Có lần một vài phu tuần làng Kẻ Vĩnh vì mộ mến ông, khuyên ông quá khóa để trở về coi sóc dân làng như trước, ông liền mắng họ: “Ai bảo các anh đến thăm tôi và nói những lời sai trái như vậy, bây giờ tôi về thì các anh sẽ khóc, nhưng khi đưa thi hài tôi về làng, thì các anh sẽ ăn mừng”.

Say Vì Đạo Hả Vì Tình

Suốt một tháng trời, quan vừa hành hạ vừa khuyến dụ ông Lý Mỹ bước qua thánh giá không thành công, dù phải những trận đòn tan xương nát thịt, dù gông cùm, xiềng xích nặng nề đau buốt thịt xương, vị chứng nhân Chúa Kitô vẫn một lòng kiên trung với đức tin. Quan làm án tâu về kinh:

“Nguyễn huy Mỹ, 34 tuổi, làm Lý trưởng làng Kẻ Vĩnh, can tội theo đạo Giatô triều đình nghiêm cấm, cùng với Nguyễn Đích là nhạc phụ, chứa chấp đạo trưởng Mai Năm trong nhà. Đã khuyên dụ nhiều lần chối đạo nhưng chúng không chịu quá khóa, nên luận phải xử trảm ba người đó để làm gương cho dân chúng”.

Ngày 12.8.1838, được tin vua Minh Mạng đã châu phê y như án nghị, cả ba tông đồ Chúa vui mừng hớn hở chuẩn bị tâm hồn lãnh nhận bí tích giải tội và rước Mình Thánh Chúa các sốt sắng. Các ông hân hoan bước đến nơi xử vừa đi vừa hát kinh tạ ơn Chúa. Dọc đường ông Cả Tú là anh thúc bá với ông Lý Mỹ động viên: “Anh Lý hãy vững tâm nhé”. Ông Lý Mỹ đáp: “Anh Cả yên chí, đừng lo, tôi không sợ đâu”. Đến pháp trường Bẩy Mẫu, ba vị chứng nhân quỳ cầu nguyện một lúc. Ông Lý Mỹ xin xử cha Giacôbê Mai Năm và ông Antôn Nguyễn Đích trước, quan chấp thuận. Ông Lý bị chém sau cùng. Thi hài của ba vị tử đạo được rước về làng Kẻ Vĩnh ngay trong đêm đó. Dân chúng vui mừng đốt đèn đuốc đón rước cách trọng thể, đúng như lời tiên báo của ông Lý Mỹ.

Ông Micae Lý Mỹ lãnh phúc tử đạo, chiến thắng tất cả những thử thách cực hình nhờ tình yêu tuyệt đối vào Chúa Giêsu Kitô và với tinh thần đạo đức say mê giáo lý tin mừng của Ngài. Tình yêu và tinh thần được vun trồng ngày từ thời niên thiếu, phát triển theo thời gian đến tuổi trưởng thành, và cho đến giờ phút quyết liệt nhất của cuộc đời, bằng một tình yêu tột đỉnh, ông Lý Mỹ xứng đáng lãnh nhận phần thưởng trọng hậu Thiên Chúa trao ban: Khải hoàn thiên quốc với cành lá tử đạo. Ông Micae Lý Mỹ thực là người con chí hiếu của người cha dưới thế cũng như Cha trên trời.

Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn Micae Nguyễn huy Mỹ lên hàng Chân Phước ngày 27.5.1900.

 

11/8 Thứ Hai

 

KITÔ GIÁO: “MỤC TIÊU CHỐNG ĐỐI” (Lk 2:34)

 

Chúa Nhật 13/7/2003, tại Cam Bốt, hơn 100 Phật tử đã bất ngờ xông vào cướp phá một nhà thờ Kitô giáo khi đang hành lễ Chúa Nhật. Cơ quan Trợ Giúp Giáo Hội bị Thiếu Thốn (CAN: Aid to the Church in Need) hôm Thứ Năm 26/6/2003 đã phổ biến bản tường trình thứ năm về tình hình tự do tôn giáo trên thế giới. Theo bản tường trình này, Bản Tường Trình về Tự Do Tôn Giáo trên Thế Giới 2003 dầy 455 trang thì nguyên trong năm 2002 có 938 Kitô hữu bị sát hại vì đức tin, 629 người bị thương và 100.345 bị giam nhốt cũng vì đức tin. Theo bản tường trình này thì những nơi ngặt nghèo với quyền tự do tôn giáo nhất là ở Nigeria, Sudan, China và Cuba. Nghĩa là ở thế giới Hồi giáo và Cộng sản. Có cái lạ ở đây là dù hữu thần như Hồi giáo, hay vô thần như Cộng sản, thì Kitô giáo cũng trở thành mục tiêu bách hại cho cả hai. Hiện tượng vô thần Cộng sản chống hữu thần Kitô giáo thì không có gì lạ, vì bóng tối không đội trời chung với ánh sáng thế nào, lửa kỵ nước ra sao, vô thần cũng không thể nào chấp nhận và sống chung với hữu thần như thế. Đằng này hữu thần Hồi giáo chống hữu thần Kitô giáo mới lạ. Chưa hết, chẳng những Kitô giáo bị Hồi giáo chống mà còn bị cả Ấn Độ giáo chống đối nữa.

 

Trước hết, chúng ta cần phải phân biệt hết sức rõ ràng, một phân biệt tối cần cho việc đối thoại liên tôn, đó là vấn đề không phải Hồi giáo hay Ấn giáo bách hại Kitô giáo, mà là một số phần tử cực thủ quá khích của các tôn giáo này đã tỏ ra thái độ cấm cản hay tìm cách bách hại Kitô hữu thôi.

 

Mục Tiêu Chống Đối nơi Thế Giới Hồi Giáo

 

Riêng về tình trạng Hồi giáo với Kitô giáo, linh mục Maurice Borrmans, một vị thừa sai ở thế giới Ả Rập 20 năm, làm giáo sư Viện Giáo Hoàng Nghiên Cứu về Ả Rập và đã từng chủ động trong việc đối thoại liên tôn với những người Hồi Giáo, vẫn còn là tham vấn viên cho Hội Đồng Tòa Thánh Về Đối Thoại Liên Tôn, hiện đang dạy luật Hồi Giáo và linh đạo Hồi Giáo tại Viện Tòa Thánh Nghiên Cứu Về Ả Rập, và là giám đốc của tờ Điểm Báo Islamochristiana, một tờ báo bao gồm những bài viết của thành phần học giả Hồi Giáo và Kitô Giáo, vị linh mục đã chia sẻ nhận định về vấn đề khó khăn trong việc đối thoại với Hồi Giáo, và cái gì đã ngăn chặn việc đối thoại giữa Kitô giáo và Hồi giáo.

 

Vấn     Cha thẩm định thế nào về tình hình đối thoại hiện nay giữa Kitô Giáo và Hồi Giáo? Có những khó khăn nào trong vấn đề này hay chăng?

 

Đáp     Từ năm 1964, tức là từ khi có sắc lệnh “Nostra Aetate” của Công Đồng Chung Vaticanô II thì cuộc đối thoại giữa Hồi Giáo và Kitô Giáo đã có những thành quả tích cực. Cái khó khăn trước nhất chúng ta phải đối diện hiện nay phát xuất từ một cuộc xa lìa khỏi những qui chuẩn được ấn định về văn hóa, chính trị và tôn giáo. Chúng ta đang chứng kiến thấy khắp nơi cái được Mohammed Arkoun gọi là “chính trị qua mặt tôn giáo”. Mối liên hệ phức tạp giữa tôn giáo và quốc gia ảnh hưởng sâu xa đến việc đối thoại liên văn hóa và liên tôn giáo.

 

Vấn     Nói cách khác, phải chăng hết mọi cuộc đối thoại theo chiều kích tôn giáo đều chất chứa chính trị?

 

Đáp     Thật vậy, nếu ai nghiên cứu kỹ lịch sử Hồi Giáo, họ sẽ nhận thấy rằng luôn luôn khó có thể phân biệt được giữa những người nắm quyền chính trị với những vị lãnh đạo tôn giáo, một tổng hợp quyền bính không lẫn lộn. Tuy nhiên, nơi nhiều người Hồi Giáo thì lý tưởng này vẫn còn hiện diện ở một quốc gia Hồi Giáo thực hiện việc cổ võ, truyền đạt, dẫn giải và tổ chức Hồi Giáo. Điển hình là giai đoạn Medina, thời tiên tri Mohammed trở thành một con người chính trị và là vị thủ lãnh quân sự. Khi thời đại mới mở ra, thì người ta cho rằng Hồi Giáo chỉ là một biến cố tôn giáo, nhưng Hồi Giáo liền cho thấy mình còn là một biến cố chính trị nữa. Chúng ta đừng quên rằng nơi cả thế giới Kitô giáo cũng cần phải có thời gian để chấp nhận một thứ tân thời thách đố những hình thức truyền thống của việc thể hiện đức tin, việc tôn thờ, nền luân lý và đời sống, cũng như để nhận ra cơ hội thanh tẩy đức tin cá nhân và cơ hội truyền giáo của các tổ chức tu trì. Về phía Hồi Giáo, sự việc dường như phức tạp hơn, như cái tân tiến đến với họ “từ bên ngoài”, nhất là từ Kitô Giáo Tây Phương. Như Giáo Hội Công Giáo đã có thể theo Công Đồng Chung Vaticanô II định nghĩa truyền bá phúc âm hóa (evangelization) là gì theo Giáo Hội hiểu, thì ngày nay những người Hồi Giáo cũng đang tự hỏi họ phải hiểu thế nào về ý nghĩa Hồi Giáo Hóa (Islamization).

 

Vấn     Những người Hồi Giáo nghĩ gì về việc Kitô Giáo dấn thân trong việc đối thoại liên tôn?

 

Đáp     Cả hai bên đều hơi hồ nghi nhau một cách nào đó. Những tờ nguyệt san của người Hồi Giáo tỏ ra không có thiện cảm với những việc truyền giáo của người Kitô hữu, và những in ấn phổ biến của người Kitô hữu lại quan tâm về sự tiến bộ của việc “da’wa” (Hồi Giáo truyền giáo) nơi tất cả mọi xứ sở cũng như việc thiết dựng các đền đài ở Âu Châu. Vấn đề chính yếu đó là chúng ta không được quên rằng nhiều người Hồi Giáo luận chống Kitô hữu về một trong những hình thức của việc cùng nhau đến với “dân của Sách Thánh”, cũng như không được quên rằng lời kêu gọi đối thoại, ngay cả hoạt động nhân đạo của Kitô hữu, đối với nhiều người Hồi giáo lại bị họ cho như là một thứ mưu mẹo để làm cho việc truyền giáo tiến bộ.

 

Vấn     Ngoài ra còn những trở ngại nào khác đối với việc đối thoại này chăng?

 

Đáp     Kitô hữu có những cơ cấu đòi phải có trách nhiệm chung. Những người Hồi Giáo thực sự không có những thực thể đại diện. Họ thường tự mình dấn thân cho việc đối thoại thôi. Ngoài ra, Kitô hữu vẫn thực hiện một nỗ lực đáng kể, được người Hồi Giáo công nhận, trong việc hiểu biết tư tưởng của người Hồi Giáo qua sách vở và truyền thông. Những nguồn liệu Hồi Giáo, như Sách Kinh Koran và Sunna, và những loại văn chương cổ điển về tư tưởng đạo giáo của họ đã được dịch sang những ngôn ngữ chính của Âu Châu. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng cần phải ghi nhận ở đây là những bản văn chính yếu của tư tưởng Kitô giáo thực sự không được chuyển dịch sang tiếng Ả Rập, và những sách của các nhà tư tưởng người Hồi Giáo nói về Chúa Giêsu Kitô đã được viết ở Ai Cập từ giữa năm 1945 tới 1954, tức là trong giai đoạn vẫn còn dân chủ. Từ đó đến nay, những khó khăn về việc phát triển kinh tế cũng như về việc bày tỏ dân chủ, cùng với cuộc xung khắc giữa Do Thái và Palestine, đã làm cho cuộc đối thoại trở nên cẩn trọng và suy giảm hơn nữa.

 

Vấn     Trong một tình trạng như vậy thì còn chỗ nào cho việc đối thoại hay chăng?

 

Đáp     Để đáp ứng những sáng kiến về việc đối thoại của Kitô hữu chúng ta, cũng như đồng thời để bắt đầu đối thoại đó là vấn đề tỏ ra tôn kính quyền bính của người Hồi Giáo ở Cairô, Tunis hay Beirut. Trong vòng 30 năm qua, chúng ta đã chứng kiến thấy tăng thêm những cuộc nói chuyện và hội nghị liên tôn, nhưng hầu hết bao giờ cũng được chấm dứt với những ý hướng tốt lành. Biết bao nhiêu lần đã từng bàn đến vấn đề điều chỉnh lại các sách giáo khoa để thay đổi cách nhìn về tôn giáo khác! Về phía chúng ta có một sự thay đổi nho nhỏ, còn về phía người Hồi Giáo thì không.

 

Vấn     Cha có nghĩ là tình hình này lại còn tệ hơn nữa sau ngày 11/9 hay chăng?

 

Đáp     Chắn chắn là như thế rồi, Cuộc Chiến Vùng Vịnh đã làm chậm lại nỗ lực đối thoại. Các nhà trí thức cởi mở nhất đã bị tố cáo trong nước của họ là quá thân thiện với một thứ Tây Phương được gọi là “Kitô hữu”. Từ ngày 11/9, chúng ta có thể nói đến vấn đề bị khựng lại, mặc dù thế giới Ả Rập nhìn nhận rằng Tòa Thánh không ủng hộ những thái độ của Bắc Mỹ Châu. Còn về vấn đề chiến tranh và hòa bình thì phải công nhận rằng những nhà tư tưởng người Hồi Giáo bất đồng với nhau. Việc họ đọc Sách Kinh Koran thật sự khác nhau, từ những người đề cao giá trị của hòa bình và công lý đến những người bộc lộ cho thấy những khuynh hướng đối chọi và chủ quan. Vả lại, đây không phải cũng là trường hợp đã xẩy ra ở một số sách Cựu Ước hay sao?

 

Vấn     Theo ý nghĩa của Cha thì Hồi Giáo sẽ gây ra thách đố mới nào nữa?

 

Đáp     Ngày nay, hơn bao giờ hết, Hồi Giáo đã được suy nghĩ sâu xa, đã được hành đạo, được tổ chức và được truyền đạt bằng nhiều hình thức khác nhau. Không kể vấn đề cắt nghĩa và thực hành khác nhau, những người Hồi Giáo có một niềm xác tín sâu xa rằng họ thuộc về một cộng đồng tốt lành nhất được Thiên Chúa tạo dựng nên trên mặt đất này. Vấn đề truyền thông và thông tin tân thời, việc hiện hữu của một hệ thống phong phú về văn hóa, những cơ cấu tổ chức về tôn giáo và nhân đạo, cũng như việc tham dự hành hương đến Mecca càng ngày càng đông, là những gì đang làm vững mạnh niềm hy vọng của họ là cuối cùng họ sẽ đạt đến tình trạng hiệp nhất nên một với nhau. Hồi Giáo hiện đại đang cố gắng để chứng tỏ là họ có thể trở nên đường lối thứ ba để cân bằng giữa những cái thái quá giữa xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, dung hòa một cách tốt đẹp nhất giữa các quyền lợi của Thiên Chúa với các quyền lợi con người được hưởng. Đó là thách đố Hồi Giáo đặt ra trước thế giới, nhất là cho Kitô hữu.

 

Vấn     Có bao giờ Cha cảm thấy mình bị bi quan chăng?

 

Đáp     Trong vấn đề đối thoại, quí vị không chọn đứng về phía bên kia. Vấn đề là phải chấp nhận thế thôi. Cuộc đối thoại Hồi Giáo Kitô Giáo có phận sự phải thử những gì bất khả cũng như phải chấp nhận những gì cẩn trọng. Chính vì phía bên kia trở nên khó khăn hơn mà chúng ta cần phải thực hiện những sáng kiến mới, chẳng hạn có một ủy ban liên tôn làm cho người Hồi Giáo và Kitô Giáo hợp lại thành những hiệp hội bác ái; vì trong ba năm vừa rồi, Đại Học Đường ở Cairô (Al-Azhar) đã thiết lập một văn phòng đối thoại với các tôn giáo độc thần, tức là, đối với một đại học quan trọng bậc nhất Hồi Giáo này thì thế giới Công Giáo là một tôn giáo độc thần: Đây là một vấn đề không còn tranh luận gì nữa. Thêm vào đó, chuyến đi của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến thăm các nước Ả Rập đã gây được ảnh hưởng trên quần chúng Hồi Giáo. Ở Cairo vào tháng Hai năm 2002, truyền hình quốc gia đã phổ biến Thánh Lễ từ đầu đến cuối. Ở Đamascô cũng xẩy ra như vậy vào tháng Năm năm 2001.

 

Vấn     Làm sao người ta có thể đối thoại với những gì được Hồi Giáo tin tưởng?

 

Đáp     Massignon thường nói rằng để hiểu được người khác quí vị phải là khách của họ. Bởi thế vấn đề quan trọng ở đây là học hỏi, nghiên cứu, lắng nghe. Ngày nay, hơn bao giờ hết, chúng ta cần những con người sẵn sàng tìm hiểu những gì Hồi Giáo tin tưởng. Trong xã hội được toàn cầu của chúng ta, chúng ta không còn dạy một thứ giáo lý không để ý gì đến cảm nghiệm tôn giáo của người khác nữa. Bởi thế, vấn đề đối thoại đòi phải can đảm dấn thân để gặp gỡ người khác, cho dù người ta có yêu sách đi nữa. Có những người Hồi Giáo tìm cách làm bạn với những người Kitô hữu, vị họ trực giác thấy một thực tại lờ mờ là thành phần môn đệ của Đức Giêsu có thể nói chuyện khi họ đặt những câu hỏi quan trọng về mầu nhiệm Thiên Chúa, về việc phát triển con người, và về ý nghĩa của sự chết. Phải chăng đây không phải là cái trục chính cho bất cứ một cuộc đối thoại thực sự nào giữa những người tín hữu chân thành hay sao?

 

 

Mục Tiêu Chống Đối nơi Thế Giới Ấn Giáo

 

Về tình trạng Kitô giáo chẳng những gặp trục trặc với Hồi giáo mà còn gặp rắc rối cả với Ấn giáo nữa, đúng hơn với một số phần tử cực thủ quá khích của các đạo này. Thật ra, các tín đồ cực thủ quá khích của Ấn giáo chỉ tỏ ra thái độ và hành động chống đối Kitô hữu một cách ra mặt và kịch liệt kể từ sau cái chết của Mẹ Têrêsa Calcutta. Vì họ thấy càng ngày tín đồ Ấn giáo của họ bị giảm xuống, mất đi bởi một số trở lại với Kitô giáo, nhất là với Giáo Hội Công Giáo của Mẹ Têrêsa, một vị thánh sống không hề có chủ trương truyền giáo bằng lời rao giảng cho bằng chứng nhân đức ái phục vụ. Để cảm thấy được tình hình căng thẳng và đường lối thắng vượt ra sao, chúng ta hãy lắng nghe chính lời ĐTC nhận định và huấn dụ các vị giám mục Ấn Độ dịp các vị viếng thăm Tòa Thánh ngũ niên qua ba đợt trong Tháng 5 và 6 vừa rồi. Ngoài ra, chúng ta cũng nghe nhận định của chính vị TGM Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Ấn Độ cho biết về tình hình này.

 

Trước hết, vào ngày 23/5, với đợt giám mục đầu tiên, ĐTC đã nhận định và chia sẻ về vấn đề văn hóa và bác ái như sau:

 

“Qua nhiều thế kỷ, những người Công giáo ở Ấn Độ đã thi hành công việc truyền bá phúc âm hóa thiết yếu, nhất là ở những lãnh vực giáo dục và dịch vụ xã hội, hoàn toàn miễn phí cho cả Kitô hữu lẫn không phải là Kitô hữu… Thật là bất công hết sức khi một người muốn trở thành Kitô hữu lại cần phải có phép của chính quyền địa phương, có những người bị mất quyền được xã hội trợ giúp và được gia đình nâng đỡ. Có những người còn bị kìm kẹp hay bị trục xuất ra khỏi làng mạc của họ. Tiếc thay một số phong trào cực bảo thủ đang tạo nên lộn xộn nơi một số người Công Giáo, thậm chí trực tiếp gây khó khăn cho nỗ lực truyền bá phúc âm hóa. Tôi hy vọng rằng, là những vị thủ lãnh đức tin, Quí Huynh sẽ không thất đảm trước những thứ bất công ấy, trái lại, tiếp tục dấn thân vào xã hội bằng một đường lối có thể ngăn chặn những chiều hướng báo động này…

 

“Những chướng ngại về vấn đề trở lại không phải bao giờ cũng phát xuất từ bên ngoài mà có thể xẩy ra từ bên trong cộng đồng của Quí Huynh nữa. Điều này có thể xẩy ra khi những người thuộc các tôn giáo khác thấy được những bất đồng, gương mù và chia rẽ nơi các cơ cấu tổ chức của Công Giáo chúng ta. Vì lý do này, vấn đề quan trọng là linh mục, tu sĩ và giáo dân tất cả phải cùng nhau làm việc, nhất là phải cộng tác với vị Giám Mục là dấu hiệu và là nguồn mạch hiệp nhất của mình.

 

“Ấn Độ may mắn có được một nhắc nhở trực tiếp về ơn gọi của Giáo Hội trong việc yêu thương thành phần hèn kém nhất là chứng từ và mẫu gương của Mẹ Têrêsa Calcutta là vị sắp sửa được phong chân phước. Quí Huynh cũng được kêu gọi để trở thành những mẫu gương nổi bật về tính chất đơn sơ, khiêm hạ và bác ái với những ai được tráo phó cho Quí Huynh chăm sóc… Quí Huynh sẽ sử dụng mẫu gương của Mẹ Têrêsa như một kiểu mẫu cho những hoạt động bác ái nơi cộng đồng của Qúi Huynh...

 

Sau nữa, vào Thứ Ba 3/6/2003, với các vị đợt hai, ĐTC đã nhận định về tình trạng khó khăn trong việc  truyền giáo như sau.

 

“Khi mở đầu cho buổi gặp gỡ này, Tôi đã nói về Thánh Phanxicô Xavier, vị đã hết sức truyền bá Kitô Giáo ở Ấn Độ. Ngài có một khả năng làm thừa tác vụ một cách thành công nơi một môi trường không phải là Kitô giáo. Tôi cầu nguyện để Giáo Hội ở Ấn Độ, khi bắt chước gương của ngài, sẽ loan truyền Phúc Âm của Chúa Giêsu Kitô một cách tôn trọng nhưng can đảm. Đây không phải là một công việc dễ làm, nhất là nơi những miền dân chúng cảm thấy bị thù ghét, bị kỳ thị, thậm chí bị tấn công vì niềm tin tôn giáo của mình hay vì liên hệ bộ tộc của mình. Những vấn đề khó khăn này lại càng trở nên trầm trọng hơn nữa bởi hoạt động tăng phát của một ít nhóm Ấn giáo cực bảo thủ, thành phần đang gây nên nỗi nghi ngờ về Giáo Hội cũng như về các tôn giáo khác. Tiếc thay, ở một số vùng, chính quyền Tiểu Bang lại bị lấn át trước áp lực của những thành phần cực đoan này và đã ban nhưnõng khoản luật bất công chống trở lại đạo, cấm không được thực thi quyền tự do tôn giáo, hay những ai thuộc các giai cấp muốn trơ ũ lại Kitô giáo không được Tiểu Bang giúp đỡ nữa.

 

Bất chấp những khó khăn và khổ đau trầm trọng gây ra bởi tình trạng này, Giáo Hội ở Ấn Độ không bao giờ được bỏ qua công việc chính yếu truyền bá phúc âm hóa của mình. Tôi hy vọng rằng Qúi Huynh, hỡi Quí Huynh Giám Mục thân mến, cùng với tín hữu, sẽ tiếp tục liên hệ với các vị lãnh đạo thuộc niềm tin khác bằng một cuộc đối thoại liên tôn đưa đến chỗ hiểu biết nhau hơn và cộng tác với nhau hơn. Cũng thế, Quí Huynh cũng phải bảo trì việc đối thoại chính yếu với các vị thẩm quyền địa phương và quốc gia, để bảo đảm là Ấn Độ tiếp tục việc cổ võ và bảo vệ các thứ quyền lợi căn bản của tất cả mọi người công dân. Yếu tố nguyên vẹn của một nền dân chủ “thực sự phục vụ thiện ích của cá nhân cũng như của các dân tộc đó là tôn trọng quyền tự do tôn giáo, vì đây là một thứ quyền chạm đến quyền tự do riêng tư và chủ lực nhất của con người” (cf. Bài Diễn Từ với tân lãnh sự Ấn Độ, 13/12/2002).

 

Sau hết, với các vị giám mục đợt ba ngày Thứ Năm 26/6/2003, Đức Thánh Cha lại tiếp tục nói với các vị về vấn đề những trở ngại trong việc thực hiện truyền bá phúc âm hóa và đối thoại liên tôn tại Ấn Độ:

 

Sau khi nhắc lại trách vụ của tất cả mọi người đã lãnh nhận phép rửa về việc truyền bá phúc âm hóa, việc “rao giảng Phúc Âm cho tất cả mọi tạo vật”, ĐTC nói: “Nhưng lại bất hạnh thay thậm chí ngay cả ngày hôm nay đây ở nhiều nơi tại Ấn Độ đã xẩy ra những chướng ngại không đáng làm ngăn trở việc rao giảng Phúc Âm này. Các người công dân của nền dân chủ hiện đại không thể nào lại phải chịu đựng khổ đau vì niềm tin tưởng của mình. Người ta cũng không thể nào lại cảm thấy mình bị bắt buộc phải che giấu tín ngưỡng của mình để hoan hưởng những thứ nhân quyền căn bản, như đực học hành và có công ăn việc làm”.

 

Về vấn đề đối thoại liên tôn, Đức Thánh Cha nhắc lại là Giáo Hội luôn tôn trọng những nền văn hóa khác nhau cũng như con người thuộc các tôn giáo khác. Ngài nói: “Việc đối thoại liên tôn chẳng những làm tăng thêm sự hiểu biết nhau và tôn trọng nhau, mà còn giúp vào việc phát triển xã hội hợp với các quyền lợi và phẩm giá của tất cả mọi người nữa”. Nhận định là Giáo Hội cũng đang cố gắng “đối thoại” qua các cơ quan của mình, như học đường, bệnh viện và các trạm phát thuốc, Ngài nói: “Tiếc thay, có một số những nỗ lực chân thực nhất của Giáo Hội hướng về việc đối thoại liên tôn ở cấp căn bản nhất đôi khi cũng bị ngăn trở bởi tình trạng không cộng tác của chính quyền cũng như bởi tình trạng gây phiền nhiễu của một số nhóm cực thủ. Ấn Độ đã có những truyền thống lâu dài về việc tôn trọng những khác biệt về tôn giáo”.

 

Đức Thánh Cha cho các vị giám mục biết rằng Ngài “biết hết sức rõ ràng về những thử thách” các vị phải đương đầu ấy. Ngài chia sẻ với các vị: “Thật là đáng buồn khi thấy công việc của Giáo Hội thường phải nhượng bước bởi trào lưu bộ tộc ở một số phần đất ở Ấn Độ. Có những lúc trào lưu bộ tộc này mạnh mẽ đến nỗi có một cố nhóm thậm chí đã không chịu chấp nhận các vị giám mục và linh mục không thuộc về tộc của họ, bởi đó đã làm cho hoạt động xứng hợp của Giáo Hội vị khập khễnh, và làm cho bản chất chính yếu của Giáo Hội là hiệp thông bị lu mờ. Không bao giờ được sử dụng những cái khác biệt về bộ tộc và sắc tộc như lý do để loại bỏ một con người mang lời Chúa”.

 

ĐTGM Telesphore Toppo ở Ranchi ở tiểu bang phía đông Jharkland, chủ tịch hội đồng giám mục theo lễ nghi Latinh, trong dịp viếng thăm Tòa Thánh ngũ niên 3/7/2003 đã cho biết nhận định của mình về Giáo Hội Tại Ấn Độ như sau. Sau khi một số tiểu bang trong liên bang Ấn Độ ban hành đạo luật cấm trở lại, vấn đề đã được đem ra tranh luận nơi giới trí thức, truyền thông và bênh vực nhân quyền. Theo vị TGM này thì “một số coi chúng tôi là những người ngoại quốc, song chúng tôi là những người Ấn Độ và chúng tôi thực thi các thứ quyền lợi được Hiến Pháp Ấn Độ cho phép, một hiến pháp bảo đảm quyền tự do lương tâm và tôn giáo”. ĐTGM giải thích “Những tín đồ Ấn giáo cực bảo thủ có một viễn ảnh về Ấn Độ, theo ý hệ của Hindutva thì Ấn Độ cần phải có duy nhất một nền văn hóa, ngôn ngữ và tôn giáo, đó là lý do tại sao họ đã giết Mahatma Ghandi”. ĐTGM cho biết thêm là từ đầu thế kỷ 20, các tay cực bảo thủ “đã tổ chức hoạt động trong thế kỷ vừa qua làm lan tràn hận thù đối với tín đồ Hồi giáo và Kitô giáo. Thế nhưng, đằng sau cái cuồng tín về tôn giáo này có những vấn đề về chính trị, xã hội và kinh tế”.

 

Ở Ấn Độ có 100 triệu người Dalits và 70 triệu người thuộc bộ tộc Adivasi. Qua nhiều thế kỷ, những nhóm người này đã bị đán áp và loại trừ ra khỏi xã hội. “Điều này làm cho họ hết sức hướng về Phúc Âm”, vị TGM nhận định, “Môt số tay cực bảo thủ sợ rằng những người Dalits và Adivasi sẽ trở thành Kitô hữu, và họ thấy điều này như mối đe dọa có thể lật ngược hệ thống giai cấp và thay đổi yếu tố về tôn giáo của xứ sở này, một xứ sở hiện nay có 80% tín đồ Ấn giáo, 12.5% Hồi giáo và 2.6% Kitô giáo. Để ngăn ngừa điều ấy, các nhóm cực bảo thủ muốn biến Ấn Độ thành một xứ sở Ấn giáo và họ muốn chứng tỏ họ là nhưnõng kẻ bênh vực và bảo toàn cho những người Dalits và các bộ tộc, sau khi đã loại trừ những người này hằng bao nhiêu thế kỷ. Ngày nay, nhờ việc tyruyền bá phúc âm hóa, tình trạng phát triển và cổ võ nhân bản do Kitô hữu thực hiện, các bộ tộc hiện nay đã biết đọc và ý thức được cũng như đòi hỏi các thứ quyền lợi của mình”.

 

ĐTGM còn nhận định thêm là vấn đề này “chính phủ cần phải quan tâm tới song hầu như chẳng để ý gì. Trào lưu cuồng tín không có tương lai đâu. Nó sẽ tan biến vì nó cố gắng ngăn chặn sự tiến bộ và việc phát triển nhân bản của dân chúng. Những nhóm cực bảo thủ có chương trình hoạt động của họ, nhưng chúng tôi cư ù tiếp tục con đường đối thoại của mình, để mọi người có thể thấy rằng chúng tôi là Kitô hữu và chúng tôi muốn gì”. Trong một môi trường đa văn hóa và đa tôn giáo, ĐTGM nói, “việc đối thoại là vấn đề ưu tiên của chúng tôi. Những mối liên hệ về đại kết với nhiều hệ phái không phải Công giáo cũng thế, vì trong vấn đề về chính trị, xã hội hay kinh tế, mọi người đều thấy rằng Kitô hưũu là một cơ cấu duy nhất”.

 

Trong số 30 triệu Kitô hữu ở Ấn Độ có 16 triệu Công giáo theo 3 lễ nghi, Latinh, Syro-Malabar và Syro-Malankara. ĐTGM cho biết “Đây là một thách đố đối với chúng tôi. Ba cộng đồng này phải làm chứng về mối hiệp nhất, qua linh đạo hiệp thông vốn đã hiện hữu song cần phải được đào sâu và thực hiện. Việc truyền bá phúc âm hóa và việc làm chứng nhân sát cánh bên nhau. Đức Giáo Hoàng đã nhắc nhở chúng tôi về điều này trong dịp chúng tôi gặp Ngài qua cuộc viếng thăm ‘ngũ niên’, một cảm nghiệm hiệp thông với Giáo Hội hoàn vũ làm kiên cường đức tin của chúng tôi. Tôi lạc quan về tương lai của những người Kitô hưũu ở Ấn Độ, như Mẹ Têrêsa đã lạc quan, như Đức Thánh Cha hôm nay lạc quan. Ấn Độ là một quốc gia lớn, với một tinh thần dung nhượng theo truyền thống mà hầu hết dân chúng vẫn còn thực hiện”.

 

(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, vết và dịch theo tín liệu của Màn Điện Toán Zenit)

 

10/8 Chúa Nhật XIX Thường Niên

 

Một Chúa Kitô đến trong xác thịt

 

 

Trong bài Phúc Âm tuần trước, Thánh Ký Gioan cho chúng ta thấy Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho chúng ta biết ý nghĩa siêu nhiên thực sự của bánh ăn cũng như của việc ăn bánh: Bánh Sự Sống đây chính là bản thân Người, và việc ăn bánh đây, trên hết và trước hết, là tin vào Người. Tuần này, tiếp tục cùng đoạn 6 của Phúc Âm Thánh Gioan, Chúa Giêsu đã mạc khải hơn nữa về Bánh Sự Sống: “Bánh Tôi sẽ ban chính là thịt của Tôi cho thế gian được sự sống”, một lời minh định làm thính giả hết sức thắc mắc và đầy kinh hoàng, thậm chí trong cả thành phần môn đệ của Người, như bài Phúc Aâm hai tuần nữa cho thấy. Thật vậy, tất cả những điều Người mạc khải ở bài Phúc Aâm Chúa Nhật tuần trước và tuần này cũng như tuần sau đều là một mầu nhiệm, mầu nhiệm thần linh vượt tầm mức hiểu biết tự nhiên của con người, một mầu nhiệm chỉ có đức tin mới thấu triệt, một mầu nhiệm chỉ có chính Đấng mạc khải mới làm cho con người chấp nhận dù không hiểu. Đó là lý do Chúa Giêsu đã khẳng định “không ai đến được với Tôi nếu Cha Tôi không cho phép”.

 

Đúng thế, một đàng con người trần gian hữu hình và hữu hạn không thể nào thấu triệt được Thiên Chúa, đúng như Ngài là, nếu chính Ngài không tỏ mình Ngài ra cho họ biết. Thế nhưng, chính lúc Ngài tỏ tất cả bản thân của Ngài ra qua Con Người Giêsu Nazarét thì nhân loại, qua dân Do Thái, cũng không thể nào hiểu nổi: Làm sao Thiên Chúa có thể trở thành một con người? Thiên Chúa thực sự cần phải hóa thành nhục thể vô cùng thấp hèn hay sao? Con Người Lịch Sử Giêsu Nazarét quả thực là Thiên Chúa hay sao? Đó là lý do trong bài Phúc Aâm Chúa Nhật tuần này dân chúng đã đặt vấn đề về nguồn gốc của Đấng công khai tuyên nhận: “Tôi là bánh từ trời xuống”, ở chỗ, trước mắt họ Đấng ấy chỉ là một con người như họ, đã từng sống với họ, một con người có cha mẹ anh chị em họ hàng họ đều quen biết, thế mà họ lại nghe Người phán Người từ trời mà xuống.

 

Nếu trước thời điểm và biến cố  Lời Nhập Thể con người tự bản chất hướng về tín ngưỡng có khuynh hướng đa thần và tôn thờ ngẫu tượng thế nào, thì sau khi “ánh sáng thật chiếu soi hết mọi người đến trong thế gian” (Jn 1:9), con người càng ngày càng bớt mê tín dị đoan, càng bớt đa thần như vậy. Tuy nhiên, sau khi “Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14), một hiện tượng tôn giáo khác đã xuất hiện, trực tiếp liên quan đến Kitô giáo và thuộc nội bộ Kitô giáo, đó là, con người càng văn minh khoa học lại càng trở thành vô thần, lại càng trở nên thành phần phản kitô, anti-christ, tức là thành phần không chấp nhận Chúa Kitô đến trong xác thịt (x 2Jn 7; 1Jn 4:2), hay không chấp nhận Con Người Giêsu là Đức Kitô. Hiện tượng này hiện nay đã quá hiển nhiên ở thế giới Tây Phương, thế giới Kitô giáo, một thế giới đã từng truyền bá đức tin, truyền bá hạt giống Kitô giáo khắp nơi trên thế giới, nhất là vào thời kỳ tân thế giới cuối thế kỷ 16, lại là một thế giới đang phủ nhận căn tính Kitô giáo của mình, đang sống như không hề có Thiên Chúa. Họ chẳng những hạ bệ Thiên Chúa xuống, bằng cách dẹp bỏ lề luật tự nhiên và luân lý của Ngài, như việc hợp thức hóa vấn đề ly dị và phá thai, mà còn thay thế Ngài bằng các thứ ngẫu tượng hiện đại là chủ nghĩa duy nhân bản và duy thực dụng, chủ nghĩa chỉ biết pro choice theo quyền làm người vô lối của mình, chỉ biết cá nhân và hưởng thụ, như việc cho phép hôn nhân đồng tính phái và việc thực hiện các phương pháp tạo sinh ngoại nhiên (cấy thai, cloning v.v.).

 

Tất cả những khoản luật này hay các khoản tương tự đã không nói lên khuynh hướng con người chỉ công nhận một “Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt.16:16), chứ không chấp nhận một “Con Người” khổ nạn và tử nạn rồi mới phục sinh (xem Mtù. 20:18-19; 16:21). Tức con người thiên về khoa học thực nghiệm và kỹ thuật tiện ích ngày nay chỉ giải quyết mọi sự, bao gồm cả lãnh vực lương tâm và luân lý, căn cứ vào những cái lợi thực tế mà thôi, hễ có lợi là tốt, mà tốt thì cần phải làm và được phép làm, có quyền làm, dù có phản trái với lương tâm hay nguyên tắc luân lý phổ quát đi nữa. Chân lý của con người ngày nay là phán đoán chủ quan của họ, và sự thiện của họ là lợi lộc hiện sinh của họ. Nghĩa là con người thuộc “triều đại của Satan” ngày nay muốn thay thế Thiên Chúa trong việc “biết lành biết dữ” (Gen.3:5), tức muốn tự mình định đoạt tất cả mọi sự theo ý riêng của mình, cái gì họ nghĩ lành là lành, như ly dị, phá thai, hôn nhân đồng tính, tạo sinh ngoại nhiên v.v., nên có quyền làm; và cái gì họ cho dữ là dữ, như thai nhi tàn tật, bệnh nhân bất trị v.v., nên cần phải giết đi!

 

Thế nhưng, với lý luận sắc bén và thực tế như thế, nhất là lối lý luận này lại được chính quyền hợp thức hóa, được nhiều người theo như thế, làm sao Kitô hữu chúng ta có thể nhận ra những sai lầm của “triều đại Satan”, tức có thể nhận diện và điểm mặt thành phần phản kitô này, một thành phần mà Thánh Kinh Tân Ước đã nhận định “chúng từ hàng ngũ của chúng ta mà ra” (1Jn.2:19). Chính vì thành phần này, cũng Thánh Kinh Tân Ước nhận định, là thành phần “gian xảo” (2Jn.7), mà Chúa Giêsu đã cảnh giác các môn đệ trong những ngày cuối thời, “lừa đảo nhiều người” (Mt.24:5,11), thậm chí lừa đảo “cả thành phần được chọn” (Mt.24:24). Ngay thánh Phêrô, sống ở kề bên và sống ngay trước một “Đức Kitô” (Mt.16:16) thực sự, như ngài được ơn Chúa tuyên xưng (xem Mt.16:17), mà còn trở thành “Satan” (Mt.16:23), tức còn khuynh hướng phản kitô, chưa hoàn toàn công nhận Đức Giêsu Kitô đến trong xác thể, huống chi chúng ta đã sống xa Người cả gần 2000 năm, chưa hề được “nghe bằng tai, thấy bằng mắt, sờ bằng tay” (1Jn.1:1), như các tông đồ là chứng nhân tiên khởi của Kitô giáo chúng ta.

 

Bởi thế, căn cứ vào lời Chúa Giêsu trách cứ thánh Phêrô trong việc thánh nhân “không phán đoán theo Thiên Chúa mà chỉ theo loài người” (Mt.16:23), tức chỉ theo phán đoán tự nhiên của mình hướng về những gì tốt lành chủ quan, chứ “không chấp nhận” (Jn.1:12) mạc khải của Thiên Chúa, một mạc khải được trọn vẹn thể hiện nơi “Lời đã hóa thành nhục thể” (Jn.1:14) là Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thịt, chúng ta có thể kết luận để lột trần bộ mặt phản kitô nơi chính bản thân mình cũng như trong việc giao tiếp xã hội. Sau đây là 4 dấu hiệu cho thấy đâu là thành phần kitô giả hay tinh thần kitô giả, thành phần không chấp nhận Chúa Kitô đến trong xác thịt, được thể hiện hay bộc lộ qua những dấu hiệu, thứ nhất, tỏ ra không tôn phục con người đại diện Người trên trần gian; thứ hai, tỏ ra không tôn kính bí tích Thánh Thể; thứ ba, tỏ ra không tôn sùng Mẹ Maria là Vị đã thụ thai và hạ sinh Người; thứ bốn, tỏ ra không tôn trọng thành phần anh em hèn mọn của Người trong xã hội loài người, hay ghê tởm thánh giá đau khổ Chúa gửi đến cho.

    

Dấu hiệu thứ nhất: những ai không tuân phục quyền bính Giáo Hội và Đức Thánh Cha nói riêng, đều là phản kitô, vì Giáo Hội là thân thể của Chúa Kitô và vị đại diện của Người trên trần gian là đầu của thân thể này, không tuân phục Giáo Hội và Đức Thánh Cha là không công nhận Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thể.

 

Dấu hiệu thứ hai có thể nhận diện thành phần phản kitô là họ không tin hay coi thường Bí Tích Thánh Thể, một thực tại thần linh mà Đức Giêsu Kitô còn đang hiện diện bằng cả thần tính cũng như nhân tính của Người nói chung và Mình Máu Thánh Người nói riêng; không tin hay tôn sùng Thánh Thể là dấu chứng tỏ phản kitô, thành phần không công nhận Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thịt.

 

Dấu hiệu thứ ba cũng không kém phần vững chắc để nhận ra thành phần phản kitô là họ không nhận biết Mẹ Maria, thậm chí còn chỉ trích và chống đối việc tôn sùng Mẹ, vì như thế là họ tỏ ra cũng không công nhận Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thịt, tức đã được sinh ra bởi Mẹ Maria.

     

Dấu hiệu thứ bốn để nhận ra thành phần phản kitô là lòng thù hằn thánh giá của họ, ở chỗ không phải họ chỉ sợ hãi và tránh né thánh giá theo tính tự nhiên như mọi con người bình thường, mà còn dùng thủ đoạn bất chính để tiêu diệt thánh giá nữa, bằng cách không được như ý là ly dị, là phá thai, là giết người nhân đạo v.v.; mà thánh giá là đường lối duy nhất Lời nhập thể đã dùng để cứu rỗi nhân loại, do đó, “trở thành những kẻ thù của thánh giá Đức Kitô” (Phil.3:18) như thế tức là không công nhận Đức Giêsu Kitô đã đến trong xác thịt.

 

Nếu “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24) thực sự làm người nơi “Lời đã hóa thành nhục thể” (Jn 1:14), và Lời Nhập Thể thực sự là Bánh Sự Sống từ trời xuống, là Mạc Khải Thần Linh, thì quả thực, đúng như Người đã khẳng định: “Bánh Tôi sẽ ban chính là thịt Tôi cho thế gian được sống”. Vì qua xác thịt của Người, một Thánh Thể Vượt Qua, thế gian đã được cứu độ, một Giáo Hội đã được hạ sinh, một nhân loại sẽ được canh tân “trong Thần Linh và chân lý” (Jn 4:24).

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

 

 



 

 


 



(Giáo Hội Hiện Thế các tuần trước)