GIÁO HỘI HIỆN THẾ

 

Ý Chỉ của Đức Thánh Cha cho Tháng 10/2003

 

Ý Chung: “Xin cho giới trẻ biết theo Chúa Kitô là Ðường, là Sự Thật và Sự Sống, bằng một lòng nhiệt thành quảng đại và sẵn sàng làm chứng cho Người trong tất cả mọi hoàn cảnh họ sống”.


Ý Truyền Giáo: “Xin cho Giáo Hội được Chúa không ngừng ban cho các Vị Chủ Chăn sâu xa khôn ngoan và dồi dào thánh đức, sẵn sàng bênh vực ánh sáng Phúc Âm cho đến tận cùng trái đất”.

 

___________________________________________

 25/10/2003

Giovanni Paolo II

 

25/10 Thứ Bảy

Thứ Bảy hằng tuần, ngày của Mẹ, Ngày Thánh Mẫu trong tuần, màn điện toán thoidiemmaria.net bao giờ cũng có một bài đặc biệt về Ðức Mẹ. Tuần trước, để kết thúc Năm Mân Côi, thoidiemmaria đã phổ biến một bài về ý nghĩa cốt yếu của chính Kinh Mân Côi cũng như của việc cầu Kinh Mân Côi. Ðó là bài Tâm Điểm của Kinh Mân Côi là Chúa Kitô và Cầu Kinh Mân Côi là Tuyên Xưng Chúa Kitô. Tuần này, để kết thúc Tháng Mân Côi 2003, xin mời quí thân hũu điện toán toàn cầu cùng thoidiemmaria cử hành Mầu Nhiệm Mân Côi Ánh Sáng với Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II.

 

CỬ HÀNH NĂM MẦU NHIỆM MÂN CÔI ÁNH SÁNG với Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II.


Tổng Dẫn:

Dịp mừng ngân khánh Giáo Hoàng của ĐTC Gioan Phaolô II trùng vào Chúa Nhật Truyền Giáo hằng năm của Giáo Hội, 19/10/2003. Thật vậy, ĐTC đương kim của chúng ta được bầu làm giáo hoàng vào ngày 16/10/1978 và đăng quang vào Chúa Nhật 22/10/1978. Ngài thực sự là một vị giáo hoàng truyền giáo, với Thông Điệp Redemptoris Missio của Ngài ban hành ngày 7/12/1990, dịp kỷ niệm 25 năm Sắc Lệnh Truyền Giáo cho Muôn Dân của Công Đồng Chung Vaticanô II. Trong bức thông điệp về truyền giáo này của mình, ĐTC đã nhận định, thứ nhất là việc truyền giáo cho muôn dân vẫn còn ở giai đoạn khởi đầu cho dù đã trải qua 2 ngàn năm Kitô giáo; và thứ hai Thiên Chúa đang mở ra trước Giáo Hội một chân trời truyền giáo hết sức thuận lợi trong ngàn năm thứ ba; bởi đó, Ngài kêu gọi Giáo Hội cần phải canh tân lại việc dấn thân truyền giáo của mình, đồng thời Ngài cũng kêu gọi các dân tộc hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô. Chính bản thân Ngài cũng đã nỗ lực truyền giáo bằng 102 chuyến tông du của Ngài.

Nếu truyền giáo là chiếu giãi ánh sáng Tin Mừng Sự Sống thì để mừng ngân khánh Giáo Hoàng của Ngài cũng như để mừng vị tân chân phước Têrêsa Calcutta sáng lập dòng Thừa Sai Bác Ái, vị mà ngay đầu sứ vụ của mình đã được Chúa Giêsu kêu gọi: “Hãy đến, hãy trở thành ánh sáng của Cha. Hãy mang Cha tới hang hầm tối tăm của thành phần nghèo khổ”, còn gì bằng việc cử hành Mầu Nhiệm Mân Côi Ánh Sáng, những mầu nhiệm cũng đã được ĐTC cử hành tại Đền Thánh Mẫu Mân Côi Pompeii Ý Quốc vào chính ngày Lễ Mẹ Mân Côi 7/10/2003.

Trong Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria, ĐTC Gioan Phaolô II đã hướng dẫn cách cùng Mẹ Maria chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô bằng việc cầu Kinh Mân Côi. Để cử hành việc cùng Mẹ Maria say sưa chiêm ngưỡng dung nhan chí tôn chí ái của Chúa Kitô, theo Ngài, trước mỗi một chục kinh, nên đọc một đoạn phúc âm thích hợp, sau đó thinh lặng một chút để suy tư. Bởi thế Phần Cử Hành Mầu Nhiệm Mân Côi Ánh Sáng được diễn tiến thứ tự như sau: 1) cộng đoàn ngồi nghe chia sẻ về ý nghĩa của từng Mầu Nhiệm Mân Côi Ánh Sáng liên quan đến các khía cạnh của Ngày Chúa Nhật Truyền Giáo, Mừng Ngân Khánh Giáo Hoàng, Tân Chân Phước Têrêsa Calcutta và Bế Mạc Năm Mân Côi; 2) cộng đoàn đứng để nghe Lời Chúa qua bài đọc Phúc Âm, sau đó thinh lặng chiêm niệm Mầu Nhiệm được loan báo, rồi ngồi đọc 10 Kinh Kính Mừng, và để kết mỗi chục kinh hay mỗi mầu nhiệm, cộng đoàn đứng lên đọc Kinh Sáng Danh và dâng lời nguyện cộng đồng hợp với mỗi mầu nhiệm lên Chúa thay vì lời nguyện Fatima “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội…”.

Mầu Nhiệm Ánh Sáng Thứ 1

Dẫn Nhập: Năm Mầu Nhiệm Mân Côi Ánh Sáng được mở đầu với Mầu Nhiệm Chúa Kitô chịu phép rửa ở Sông Được Đăng, một mầu nhiệm liên quan đến nguyên tội là thứ tội đã trở thành căn nguyên của hết mọi sự dữ trên trần gian, là mầm mống của tất cả mọi chia rẽ và tranh chấp, như đã xẩy ra nơi vụ sát nhân đầu tiên gây ra bởi Cain, khiến cho loài người không bao giờ được bình an chân thực và lâu bền. Thậm chí càng văn minh nhân bản, càng chủ trương nhân quyền, con người ngày nay càng sát hại lẫn nhau, càng khủng bố tấn công và tấn công khủng bố. Kinh Mân Côi có quyền lực mang lại hòa bình cho thế giới được chăng? Sau đây là những ưu tư của ĐTC Gioan Phaolô II trong sứ điệp Ngài gửi cho Hội Ngộ Quốc Tế Cầu Nguyện Cho Hòa Bình lần thứ 17, ở Aachen, Đức Quốc ngày 7-9/2003, đoạn 2-3, và đường lối giải quyết của Ngài bằng Kinh Mân Côi như Ngài đề cập đến trong Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria đoạn 40.

ĐTC Gioan Phaolô II về Kinh Mân Côi với hòa bình thế giới

“Tất cả chúng ta đều chứng kiến thấy tình trạng phát triển của những đam mê qui ngã thuộc biên giới riêng của mình, thuộc nhóm chủng tộc và quốc gia của mình. Đôi khi thậm chí ngay cả tôn giáo cũng bị bạo lực nữa. Mấy ngày nữa đây chúng ta sẽ nhắc lại cuộc tấn công thảm khốc vào tòa nhà tháp đôi ở Nữu Ước. Bất hạnh thay, nhiều niềm hy vọng về hòa bình đã sụp đổ xuống cùng với những tòa nhà tháp đôi này. Các cuộc chiến tranh và xung đột tiếp tục lan tràn và đầu độc đời sống nhiều dân tộc, nhất là các xứ sở nghèo khổ ở Phi Châu, Á Châu và Mỹ Châu Latinh.

“Tôi đang nghĩ đến hàng chục cuộc chiến tranh đang diễn ra cũng như đến thứ chiến tranh lan rộng gây ra bởi nạn khủng bố. Những cuộc xung đột này cho tới khi nào mới chấm dứt? Cho tới bao giờ dân chúng cuối cùng mới thấy được một thế giới giải hòa? Chúng ta sẽ không làm cho tiến trình hòa bình được dễ dàng thuận lợi bằng việc dửng dưng tội lỗi để cho tình trạng bất công xẩy ra và phát triển trên trái đất của chúng ta. Những xứ sở nghèo thường trở thành những nơi bạo loạn, những lò nung đúc bạo lực. Chúng ta không muốn chiến tranh làm chủ chi phối sinh hoạt của thế giới và đời sống của các dân tộc. Chúng ta không muốn chấp nhận nghèo khổ như là một đồng bạn canh cánh bên mình của tất cả mọi quốc gia trong việc hiện hữu. Bởi thế chúng ta mới đặt vấn đề: Vậy chúng ta phải làm gì đây? Nhất là thành phần tín hữu phải làm những gì? Làm sao có thể tin được là có hòa bình trong thời điểm đầy chiến tranh này?”

(Sứ điệp gửi cho Hội Ngộ Quốc Tế Cầu Nguyện Cho Hòa Bình lần thứ 17, ở Aachen, Đức Quốc ngày 7-9/2003, đoạn 2-3)

“Những thử thách trầm trọng mà thế giới đang phải đương đầu vào lúc mở màn cho một tân Thiên Kỷ đây đã khiến cho chúng ta nghĩ rằng chỉ có trời cao nhúng tay vào can thiệp, một can thiệp có thể hướng dẫn lòng trí của những ai sống trong những tình trạng xung khắc cũng như những ai đang nắm vận mệnh các quốc gia, mới có thể mang lại hy vọng cho một tương lai sáng sủa hơn.

“Kinh Mân Côi tự bản chất của mình là một kinh nguyện cầu cho hòa bình, vì kinh này bao gồm việc chiêm ngắm Chúa Kitô, Vua Hòa Bình, Đấng là ‘hòa bình của chúng ta’ (Eph 2:14). Ai liên kết mình với mầu nhiệm của Chúa Kitô – một liên kết thực sự là mục đích của Kinh Mân Côi – thì biết được bí quyết hòa bình và biến bí quyết này thành dự án hoạt động cho cuộc sống của mình. Ngoài ra, vì tính cách suy niệm của kinh này, ở chỗ âm thầm liên tục đọc các Kinh Kính Mừng, Kinh Mân Côi làm cho những ai lần hạt cảm thấy an bình, giúp cho họ lãnh nhận và cảm nghiệm được tận đáy lòng mình, và truyền bá ra chung quanh họ, một thứ hòa bình chân chính, ân huệ đặc biệt của Chúa Kitô Phục Sinh (x Jn 14:27; 20:21).

“Kinh Mân Côi là một kinh nguyện cầu cho hòa bình còn là vì những hoa trái bác ái được trổ sinh từ kinh nguyện này. Khi được dùng để cầu nguyện theo đúng đường lối suy niệm, Kinh Mân Côi dẫn con người lần hạt đến chỗ gặp gỡ Chúa Kitô nơi các mầu nhiệm của Người, do đó, cũng không thể nào không chú ý tới dung nhan của Người nơi các kẻ khác, nhất là nơi thành phần khốn khổ nhất. Làm sao con người có thể chiêm ngưỡng mầu nhiệm về Con Trẻ Bêlem nơi các mầu nhiệm vui mừng mà lại không cảm thấy ước muốn tiếp nhận, bênh vực và cổ võ sự sống, cũng như không chia sẻ gánh nặng của các em nhỏ đang chịu khổ đau trên khắp thế giới được chứ? Làm sao một con người có thể theo chân Chúa Kitô Cứu Chuộc nơi những mầu nhiệm ánh sáng mà lại không dứt khoát làm chứng cho các “Phúc Đức” của Người trong đời sống của mình được chứ? Và làm sao một người có thể ngắm nhìn Chúa Kitô vác cây Thập Giá và Chúa Kitô Tử Giá mà lại không cảm thấy cần phải tác hành như một ‘Simêon thành Cyrênê’, đối với anh chị em của mình là những người đang bị đè nặng bởi sầu thương hay đang bị nghiền nát bởi những nỗi thất vọng được chứ? Sau hết, làm sao con người có thể hướng nhìn lên vinh quang của Chúa Kitô Phục Sinh, hay của Nữ Vương Thiên Đình Maria, mà lại không khao khát làm cho thế giới này trở nên đẹp đẽ hơn, công chính hơn, am hợp khít khao hơn với dự án của Thiên Chúa được chứ?

“Tóm lại, khi chúng ta gắn mắt nhìn lên Chúa Kitô, Kinh Mân Côi biến chúng ta thành những con người đi xây dựng hòa bình cho thế giới. Tự bản chất của mình, đóng vai trò như là một tiếng vang liên tục kêu xin hợp với lời kêu gọi của Chúa Kitô ‘hãy cầu nguyện không ngừng’ (Lk 18:1), Kinh Mân Côi khiến cho chúng ta hy vọng là, thậm chí kể cả ngày hôm nay đi nữa, chúng ta có thể chiến thắng trận chiến ‘khó khăn’ để tạo lập hòa bình này. Chẳng những không làm cho chúng ta lẩn tránh khỏi những rắc rối trục trặc của thế giới, Kinh Mân Côi còn bắt chúng ta phải nhìn những trục trặc rắc rối này bằng con mắt đầy trách nhiệm và dấn thân, và chiếm lấy cho chúng ta sức mạnh để chúng ta có thể đương đầu với những trục trặc rắc rối này bằng một lòng tin tưởng vào ơn trợ giúp của Thiên Chúa, cũng như bằng một ý hướng mãnh liệt muốn làm chứng ở mọi nơi mọi lúc cho một ‘tình yêu liên kết mọi sự lại với nhau trong hòa hợp’ (Col 3:14)”.

(Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria đoạn 40)

Lời nguyện cầu cho hòa bình thế giới:

Xướng: Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, Đấng đã ban bình an cho các tông đồ sau khi sống lại từ trong kẻ chết, một thứ bình an thế gian không thể nào ban cho được. Xin Chúa thương đến một thế giới đang bị tan nát bởi xung khắc và bạo loạn khắp nơi, để loài người biết toàn cầu hóa tình đoàn kết yêu thương theo chiều hướng văn hóa sự sống. Nhờ Mẹ Maria chuyển cầu, chúng con hợp ý đồng thanh nguyện xin Chúa

Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con.


Mầu Nhiệm Ánh Sáng Thứ 2
 

Dẫn Nhập: Mầu Nhiệm Mân Côi Ánh Sáng được tiếp theo với Mầu Nhiệm Chúa Kitô bắt đầu tỏ mình ra ở tiệc cưới Cana qua trung gian Mẹ Maria. Thực tế cho thấy, con người càng văn minh vật chất càng băng hoại về luân lý, nhất là những gì liên quan đến đời sống hôn nhân gia đình, với thảm nạn ly dị, phá thai, tạo sinh ngoại nhiên, hôn nhân đồng tính v.v. Ở tiệc cưới Cana ngày xưa Mẹ Maria đã âm thầm tự động nhúng tay vào việc cứu vãn tình thế cho đôi tân hôn thế nào, Mẹ chắc chắn cũng sẽ làm điều ấy nơi mỗi gia đình biết mời Mẹ đến tham dự vào đời sống hôn nhân gia đình của họ. Có gia đình nào hằng ngày cầu Kinh Mân Côi với nhau mà lại bị đổ vỡ hay chăng? Sau đây là câu trả lời của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ở đoạn 41 về cha mẹ và 42 về con cái trong Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria của Ngài:

ĐTC Gioan Phaolô II về Kinh Mân Côi và Đời Sống Hôn Nhân Gia Đình

“Là một kinh nguyện cầu cho hòa bình, Kinh Mân Côi còn là và bao giờ cũng là một kinh nguyện của gia đình và cho gia đình. Có một thời kinh nguyện này được các gia đình Kitô giáo đặc biệt mến chuộng, và kinh này chắc chắn đã làm cho họ gắn bó với nhau hơn. Vấn đề quan trọng là đừng làm mất đi cái gia sản quí báu ấy. Chúng ta cần phải trở lại với việc gia đình cầu nguyện và cầu nguyện cho gia đình, bằng cách tiếp tục đọc Kinh Mân Côi.

“Trong Tông Thư Vào Lúc Mở Màn Cho Một Tân Thiên Niên Kỷ Novo Millennio Ineunte, Tôi đã khuyến khích tín hữu giáo dân hãy việc cử hành Phụng Vụ Giờ Kinh trong sinh hoạt thường xuyên của các cộng đồng giáo xứ cũng như của các nhóm Kitô hữu (Cf. No. 34: AAS 93 [2001], 290).

“Giờ đây Tôi cũng muốn làm điều này với Kinh Mân Côi nữa. Hai đường lối cử hành Phụng Vụ Giờ Kinh và lần hạt Mân Côi này, trong việc chiêm niệm của Kitô Giáo, không hề loại trừ nhau; cả hai bổ túc lẫn cho nhau. Bởi thế, Tôi xin những ai dấn thân hoạt động mục vụ về gia đình hãy kết lòng khích lệ việc lần hạt Mân Côi.

“Gia đình cùng nhau cầu nguyện là gia đình cùng nhau chung sống. Kinh Mân Côi Thánh, theo truyền thống lâu đời của mình, đã cho thấy công hiệu đặc biệt của mình như là một kinh nguyện làm cho gia đình chung sống với nhau. Những phần tử của mỗi gia đình, khi hướng mắt nhìn lên Chúa Giêsu, cũng lấy lại được khả năng nhìn vào mắt của nhau, khả năng nói chuyện với nhau, khả năng chứng tỏ tình đoàn kết gắn bó với nhau, khả năng tha thứ cho nhau, và khả năng nhìn thấy giao ước yêu thương của họ được canh tân trong Thần Linh Chúa.

“Các gia đình đương thời hiện nay đang phải đối diện với nhiều vấn đề, nhất là trong những xã hội phát triển về kinh tế, gây ra bởi tình trạng họ càng ngày càng cảm thấy khó nói chuyện trao đổi với nhau hơn. Các gia đình ít khi tổ chức việc qui tụ các phần tử gia đình của mình lại với nhau, và khi họ thực hiện những cơ hội hiếm hoi này thường lại là việc họ ngồi coi truyền hình. Vấn đề quay về với việc lần hạt Mân Côi gia đình nghĩa là việc làm cho đời sống thường nhật tràn đầy những hình ảnh khác hẳn, những hình ảnh về mầu nhiệm cứu độ, tức hình ảnh về Đấng Cứu Chuộc, hình ảnh về Người Mẹ Rất Thánh của Người. Gia đình đọc Kinh Mân Côi chung với nhau làm phát sinh một cái gì đó giống như bầu khí của ngôi nhà Nazarét, ở chỗ, các phần tử của gia đình lấy Chúa Giêsu làm tâm điểm của mình, biết cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, biết đặt các nhu cầu và dự định của mình vào bàn tay của Người, biết tím kiếm từ nơi Người niềm hy vọng và sức mạnh để tiến bước”.

"Việc trao phó cho kinh nguyện này vấn đề tăng trưởng và phát triển của con cái cũng là một điều tốt đẹp và hữu ích. Kinh Mân Côi đã không theo bước cuộc đời của Chúa Kitô, từ khi Người được thụ thai cho đến khi Người tử nạn, rồi cho đến khi Người Phục Sinh và vinh hiển hay sao? Những người làm cha làm mẹ đang cảm thấy khó khăn hơn bao giờ hết, trong việc theo dõi cuộc đời của con cái mình, vào thời gian chúng tăng trưởng cho tới tầm mức thành nhân. Trong một xã hội tân tiến về kỹ thuật, về các phương tiện truyền thông đại chúng, và về vấn đề toàn cầu hóa, thì mọi sự đều trở nên vội vã gấp rút, và khoảng cách về văn hóa giữa các thế hệ càng ngày càng mở rộng hơn. Những sứ điệp hết sức khác lạ, cùng với những cảm nghiệm khôn lường nhất, đang nhanh chóng xâm nhập vào cuộc sống của trẻ em cũng như của các em vị thành nhân, làm cho cha mẹ hết sức lo âu về những nguy hiểm con cái của họ đang phải đối diện. Có những lúc cha mẹ cảm thấy hết sức thất vọng về việc con cái họ không thể cưỡng lại được trước những dụ dỗ của một thứ văn hóa nghiện hút, trước sức thu hút của một trào lưu buông thả hưởng lạc, trước khuynh hướng bạo động, và trước những hình thức đa điện của hoang mang và chán chường.

"Cầu Kinh Mân Côi cho trẻ em, thậm chí cầu Kinh Mân Côi với trẻ em, dạy cho các em ngay từ những năm đầu tiên của cuộc đời các em việc “ngừng lại để cầu nguyện” hằng ngày với gia đình, thực ra không phải là cách giải quyết cho hết mọi vấn đề, song cũng là một hỗ trợ thiêng liêng không được phép coi thường. Người ta có thể phản đối là Kinh Mân Côi dường như khó có thể hợp thị hiếu với trẻ em và giới trẻ ngày nay. Thế nhưng, có lẽ điều chống đối này cố ý nói đến phương pháp nghèo nàn trong việc cầu Kinh Mân Côi. Vả lại, miễn là không phạm gì đến câu trúc căn bản của Kinh Mân Côi, cũng không cấm trẻ em và giới trẻ cầu Kinh Mân Côi, trong gia đình hay trong nhóm hội, với những phương trợ có tính cách biểu hiệu hay thực tế thích đáng để chúng có thể hiểu biết và cảm nhận. Tại sao lại không thử đi nhỉ? Với ơn Chúa giúp thì phương pháp mục vụ cho giới trẻ có tính cách tích cực, hăng say và sáng tạo – như được thực hiện vào những Ngày Giới Trẻ Thế Giới! – vẫn có thể đạt được những thành quả hết sức lạ lùng. Nếu khéo thực hiện Kinh Mân Côi, Tôi bảo đảm là giới trẻ một lần nữa sẽ làm cho người lớn bỡ ngỡ lạ lùng, ở cách thức chúng yêu chuộng kinh nguyện này và sốt sắng đọc kinh ấy hợp với lứa tuổi của chúng".

 

Lời nguyện cầu cho đời sống hôn nhân gia đình:

Xướng: Lạy Chúa Giêsu là Đấng đã tỏ mình ra qua trung gian Mẹ Maria cho các môn đệ tiên khởi thấy vinh hiển của Chúa nơi khung cảnh của đời sống hôn nhân là tiệc cưới Cana. Xin Chúa thương đến cơ cấu hôn nhân gia đình đang bị phá sản kinh hoàng ngày nay, để cơ cấu này có thể thực sự phản ảnh mầu nhiệm cao cả giữa Chúa và Giáo Hội. Nhờ Mẹ Maria chuyển cầu, chúng con hợp ý đồng thanh nguyện xin Chúa

Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con.


Mầu Nhiệm Ánh Sáng Thứ 3
 

Dẫn Nhập: Trong Năm Mầu Nhiệm Ánh Sáng, Mầu Nhiệm thứ ba là mầu nhiệm hợp với chủ đề Truyền Giáo nhất, vì mầu nhiệm này là Mầu Nhiệm Chúa Kitô đi loan báo Nước Trời và kêu gọi loài người ăn năn thống hối. Chúa Kitô chẳng những là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa đã đến giữa dân Do Thái, mà còn là Vị Thừa Sai của Thiên Chúa đến với nhân loại để làm cho nhân loại nhận biết Thiên Chúa mà được sự sống đời đời. Giáo Hội đã được Chúa Kitô khi còn tại thế chẳng những sai đến với con chiên lạc nhà Yến Duyên mà còn được Người sau khi phục sinh và sắp về cùng Cha sai đến với tất cả mọi tạo vật để làm chứng cho Người đến tận cùng trái đất nữa. Trong sứ điệp cho Ngày Truyền Giáo thứ 77, ĐTC GPII đã liên kết Kinh Mân Côi với việc truyền giáo, ở chỗ, nhờ Kinh Mân Côi chúng ta chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô để từ đó có thể chiếu tỏa dung nhan của Người ra bằng đời sống chứng nhân tông đồ của mình.

ĐTC Gioan Phaolô II về Kinh Mân Côi và Sứ Vụ Truyền Giáo

“Tôi muốn Năm Mân Côi trở thành một cơ hội thuận lợi cho các tín hữu ở tất cả mọi lục địa trong việc đi sâu vào ý nghĩa của ơn gọi Kitô Giáo của mình. Tại học đường của Vị Trinh Nữ Diễm Phúc và noi theo bắt chước gương của Người, hết mọi cộng đồng sẽ có khả năng hơn nữa trong việc làm cho hoạt động ‘chiêm niệm’ và ‘truyền giáo’ hòa hợp với nhau. Nếu Ngày Chúa Nhật Thế Giới Truyền Giáo, được xẩy ra vào đúng lúc kết thúc năm Thánh Mẫu đặc biệt này, được sửa soạn kỹ lưỡng, nó sẽ là một động lực mạnh mẽ hơn nữa cho việc dấn thân này của cộng đồng giáo hội. Tin tưởng chạy đến với Mẹ Maria, bằng việc hằng ngày đọc kinh Mân Côi và suy niệm các mầu nhiệm đời sống của Chúa Kitô, là chú trọng đến sự kiện sứ mệnh của Giáo Hội phải được bảo dưỡng trước hết bằng việc cầu nguyện. Thái độ ‘lắng nghe’, một thái độ được nhắc nhở bởi việc cầu Kinh Mân Côi, mang tín hữu lại gần với Mẹ Maria, Vị ‘đã giữ tất cả mọi điều ấy mà suy niệm trong lòng’ (Lk 2:19). Việc thường xuyên suy niệm Lời Chúa khiến chúng ta sống ‘trong cuộc hiệp thông sống động với Chúa Giêsu, có thể nói, nhờ trái tim Mẹ của Người’ (số 2).

“Đức thánh thiện và việc truyền giáo là những khía cạnh không thể tách rời nhau nơi ơn gọi của hết mọi người đã lãnh nhận phép rửa. Việc dấn thân trở nên thánh thiện hơn là việc chặt chẽ gắn liền với việc dấn thân truyền bá sứ điệp cứu độ. Trong Thông Điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Chuộc Redemptoris Missio, Tôi đã nhắc nhở rằng: ‘Hết mọi phần tử tín hữu được kêu gọi nên thánh và truyền giáo’ (số 90). Trong việc chiêm ngưỡng các mầu nhiệm của Kinh Mân Côi, người tín hữu được thúc đẩy theo Chúa Kitô và chia sẻ đời sống của Người, nhờ đó, họ có thể nói với Thánh Phaolô rằng: ‘Không phải là tôi sống, song là Chúa Kitô sống trong tôi’ (Gal 2:20). Nếu tất cả mọi mầu nhiệm của Kinh Mân Côi tạo nên một học đường quan trọng cho sự thánh thiện và việc truyền bá phúc âm hóa, thì các mầu nhiệm ánh sáng giúp vào việc mang lại những khía cạnh đặc biệt liên quan đến ‘tác dụng phụ’ của Phúc Âm” (số 4).

“Không có một lúc nào Giáo Hội lại có nhiều cơ hội để loan báo Chúa Giêsu bằng lúc này, nhờ việc phát triển của phương tiện truyền thông xã hội. Vì lý do này, Giáo Hội ngày nay được kêu gọi để làm cho Dung Nhan Hôn Phu của Giáo Hội chiếu tỏa nơi sự thánh thiện rạng ngời hơn nữa của Giáo Hội. Nơi việc làm không dễ dàng này, Giáo Hội biết rằng Giáo Hội được Mẹ Maria nâng đỡ. Giáo Hội ‘học’ trở thành một ‘trinh nữ’ nơi Mẹ Maria, hoàn toàn hiến thân cho Vị Hôn Phu của mình là Chúa Giêsu Kitô, cũng như trở thành một ‘người mẹ’ của nhiều con cái được Giáo Hội sinh vào sự sống trường sinh. Dưới cái nhìn canh chừng của Mẹ mình, cộng đồng giáo hội nở hoa như một gia đình hồi sinh nhờ Thần Linh được tuôn đổ xuống tràn đầy, và khi chấp nhận những thách đố của việc tân truyền bá phúc âm hóa, chiêm ngưỡng dung nhan nhân hậu của Chúa Giêsu nơi những người anh chị em, nhất là thành phần nghèo nàn và thiếu thốn, nơi những ai còn xa đức tin và Phúc Âm. Nhất là Giáo Hội không sợ hô lên cho thế giới nghe thấy rằng Chúa Kitô ‘là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống’ (Jn 14:6). Giáo Hội cần phải sửa soạn cho có những nhà truyền bá phúc âm hóa có khả năng và thánh thiện. Lòng nhiệt thành của các vị tông đồ không được suy yếu đi, nhất là đối với vấn đề truyền giáo ‘ad gentes’ cho muôn dân. Kinh Mân Côi, nếu được hoàn toàn nhận thức và cảm nhận, sẽ là một khí cụ bình thường song linh thiêng và có tính cách giáo dục tốt đẹp trong việc hình thành Dân Chúa để hoạt động trong lãnh vực tông vụ rộng lớn” (đoạn 5).

Lời nguyện cầu cho các vị thừa sai:

Xướng: Lạy Chúa Giêsu là Đấng đã sai môn đệ đi khắp thế gian rao giảng tin mừng cho tất cả mọi tạo vật. Xin Chúa hãy biến đổi con người các vị thừa sai, để các vị thừa sai của Giáo Hội nói chung và các vị thừa sai bác ái của Mẹ Têrêsa nói riêng, được thực sự là chứng nhân sống động của Chúa cho tới tận cùng trái đất. Nhờ Mẹ Maria chuyển cầu, chúng con hợp ý đồng thanh nguyện xin Chúa.

Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con.


Mầu Nhiệm Ánh Sáng Thứ 4
 

Dẫn Nhập: Tột đỉnh của Năm Mầu Nhiệm Ánh Sáng là ở mầu nhiệm thứ tư, Mầu Nhiệm Chúa Kitô biến hình sáng láng trên núi Tabo, một mầu nhiệm tiên báo cho Mầu Nhiệm Phục Sinh, Mầu Nhiệm Chúa Kitô chẳng những chiến thắng tội lỗi và sự chết mà còn ban sự sống cho Giáo Hội qua Thánh Thần Người thông ban cho các tông đồ sau khi Người từ trong kẻ chết sống lại. Dung nhan hiển linh của Chúa Kitô trong biến cố biến hình này chính là dung nhan của một Chúa Kitô Phục Sinh, một dung nhan tràn đầy ánh sáng, tràn đầy hy vọng, tràn đầy sự sống. Chính ĐTC GPII là người đầu tiên, qua Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria, đã định nghĩa việc cầu Kinh Mân Côi là cùng với Mẹ Maria chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô. Vị giáo hoàng như một tia sáng vọt lên từ Balan 25 trước đây đã cảm nhận về Kinh Mân Côi thế nào, Ngài đã diễn đạt và bày tỏ hết sức rõ ràng trong Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria của Ngài, ở ngay đoạn số 1 mở đầu, đoạn 3, đoạn 15 đoạn 43.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II và Kinh Mân Côi

“Kinh Mân Côi của Trinh Nữ Maria, một kinh đã từ từ hình thành trong thiên kỷ thứ hai theo sự hướng dẫn của Thần Linh Thiên Chúa, là một kinh được vô vàn Vị Thánh mến chuộc cũng như được Huấn Quyền khuyến khích. Tuy đơn giản nhưng sâu xa, kinh nguyện này, vào đầu thiên kỷ thứ ba đây, vẫn là một kinh nguyện có một tầm vóc quan trọng trong việc mang lại một mùa gặt thánh đức. Kinh nguyện này dễ dàng hòa trộn với cuộc hành trình thiêng liêng của đời sống Kitô hữu, một cuộc hành trình mà, sau hai ngàn năm, vẫn không mất đi vẻ tươi mới của thuở ban đầu, và cảm thấy được Thần Linh Thiên Chúa lôi kéo đến chỗ ‘thả lưới ở chỗ nước sâu’ (duc in altum!) để một lần nữa loan báo, thậm chí la lên, trước thế giới rằng Chúa Giêsu Kitô là Chúa và là Đấng Cứu Thế, là ‘đường, là sự thật và là sự sống’ (Jn 14:6), là ‘mục đích của lịch sử loài người và là điểm qui tụ cho những ước muốn của lịch sử và nền văn minh’ (Pastoral Constitution on the Church in the Modern World Gaudium et Spes, 45).

“Mặc dù rõ ràng là mang đặc tính Thánh Mẫu, Kinh Mân Côi tự bản chất là một kinh nguyện có tâm điểm là Chúa Kitô. Nơi những yếu tố bình dị của mình, Kinh Mân Côi chất chứa tất cả những gì sâu xa của toàn thể sứ điệp Phúc Âm, có thể nói được rằng Kinh Mân Côi là một tổng hợp Phúc Âm (Pope Paul VI, Apostolic Exhortation Marialis Cultus [2 February 1974], 42: AAS 66 [1974], 153). Kinh này còn là tiếng vọng của lời Mẹ Maria cầu nguyện, đó là Ca Vịnh Ngợi Khen bất hủ của Mẹ về công cuộc của Việc Nhập Thể cứu chuộc được bắt đầu trong cung lòng trinh nguyên của Mẹ. Với Kinh Mân Côi, dân Kitô Giáo ngồi học ở ngôi trường Maria và được dẫn đến chỗ chiêm ngưỡng vẻ đẹp trên dung nhan của Chúa Kitô cũng như đến chỗ cảm thấy được những vực thẳm sâu của tình Người yêu thương. Nhờ Kinh Mân Côi tín hữu lãnh nhận được muôn vàn ân sủng, như thể từ chính bàn tay của Người Mẹ Chúa Cứu Chuộc ban cho"
(đoạn 1).

"Kinh Mân Côi, với tất cả ý nghĩa của mình, nằm ngay tâm điểm của đời sống Kitô hữu; kinh này cống hiến một cơ hội quen thuộc nhưng lại đầy linh thiêng và giáo huấn cho việc chiêm ngưỡng của mỗi người, cho việc đào luyện Dân Chúa cũng như cho việc tân truyền bá Phúc Âm Hóa" (đoạn 3).

“Linh đạo Kitô Giáo nổi bật ở việc thành phần môn đệ quyết tâm nên giống càng ngày càng trọn vẹn hơn Vị Tôn Sư của mình (x Rm 8:29; Phil 3:10,12). Việc Chúa Thánh Linh được tuôn đổ xuống khi lãnh nhận Phép Rửa đã ghép tín hữu như cành nho với cây nho là Chúa Kitô (x Jn 15:5), và làm cho họ trở thành một chi thể của Thân Mình mầu nhiệm Chúa Kitô (x 1Cor 12:12; Rm 12:5). Tuy nhiên, mối hiệp nhất nguyên khởi này đòi phải mỗi ngày một đồng hóa hơn, một cuộc đồng hóa càng ngày càng uốn nắn các tác hành của người môn đệ cho hợp với ‘tinh thần’ của Chúa Kitô hơn. ‘Anh em hãy đối xử với nhau theo tinh thần này của Chúa Giêsu Kitô’ (Phil 2:5). Theo lời của Thánh Tông Đồ thì chúng ta được kêu gọi ‘để mặc lấy Chúa Giêsu Kitô’ (x Rm 13:14; Gal 3:27).

“Trong cuộc hành trình thiêng liêng của Kinh Mân Côi bằng việc liên lỉ cùng với Mẹ Maria chiêm ngưỡng dung nhan của Chúa Kitô, lý tưởng cần phải nên giống Người được thể hiện bằng việc liên kết có thể được diễn tả bằng tình thân hữu. Nhờ đó chúng ta có thể dễ dàng đi vào cuộc sống của Chúa Kitô và thực sự được chia sẻ với những cảm thức sâu xa nhất của Người. Về vấn đề này, Chân Phước Bartolo Longo đã viết: ‘Giống hệt như hai người bạn trong mối giao hữu với nhau thường có khuynh hướng bắt chước những thói quen như nhau thế nào, thì chúng ta cũng vậy, với thân phận thấp hèn của mình, cũng có thể trở nên giống Chúa Giêsu và Đức Trinh Nữ, và có thể học được nơi những mô phạm tối thượng này một đời sống khiêm hạ, khó nghèo, ẩn thân, nhẫn nại và trọn lành, bằng việc đối thoại thân tình với các vị, bằng việc suy niệm về các mầu nhiệm Mân Côi, cũng như bằng việc sống cùng một sự sống nơi Thánh Thể’ (I Quindici Sabati del Santissimo Rosario, 27th ed., Pompei, 1916, 27).

“Trong tiến trình nên giống Chúa Kitô bằng Kinh Mân Côi ấy, chúng ta phó mình một cách đặc biệt cho việc chăm sóc từ mẫu của Đức Trinh Nữ. Mẹ, Đấng vừa là Mẹ của Chúa Kitô vừa là chi thể của Giáo Hội, ‘một chi thể nổi bật và chuyên nhất’ (Second Vatican Ecumenical Council, Dogmatic Constitution on the Church Lumen Gentium, 53), đồng thời cũng là ‘Mẹ của Giáo Hội’. Bởi thế, Mẹ tiếp tục sinh hạ con cái cho Thân Mình mầu nhiệm của Con Mẹ. Người làm điều này bằng việc chuyển cầu của Mẹ, xin ban xuống trên họ tràn đầy Thần Linh vô tận. Mẹ Maria là hình ảnh tuyệt hảo cho vai trò thân mẫu của Giáo Hội.

“Kinh Mân Côi đưa chúng ta một cách kỳ diệu về ở bên cạnh Mẹ Maria khi Mẹ bận coi sóc việc phát triển về nhân bản của Chúa Kitô ở nhà Nazarét. Nhờ đó Mẹ có thể huấn luyện chúng ta và khuôn đúc chúng ta bằng cùng một việc chăm sóc ấy, cho đến khi Chúa Kitô ‘được hình thành trọn vẹn’ nơi chúng ta (x Gal 4:19). Vai trò này của Mẹ Maria, một vai trò hoàn toàn gắn liền với vai trò của Chúa Kitô và thực sự đóng vai phụ cho vai trò của Chúa Kitô, ‘không thể nào lại làm lu mờ hay suy giảm đi vai trò trung gian chuyên nhất của Chúa Kitô, trái lại, còn cho thấy quyền lực của vai trò ấy’ (Ibid., 60). Đây là một nguyên tắc sáng tỏ được Công Đồng Chung Vatican II bày tỏ, một nguyên tắc Tôi đã cảm nhận hết sức mãnh liệt trong đời sống của Tôi và đã đặt nền tảng cho khẩu hiệu làm giáo phẩm của Tôi: Totus Tuus Tất cả của con là của Mẹ (Cf. First Radio Address Urbi et Orbi [17 October 1978]: AAS 70 [1978], 927).

“Thực sự thì khẩu hiệu này đã được khơi hứng từ giáo huấn của Thánh Louis Marie Grignion Montfort, vị đã cắt nghĩa vai trò của Mẹ Maria trong tiến trình nên giống Chúa Kitô bằng những lời lẽ sau đây: ‘Việc chúng ta hoàn toàn nên trọn lành là ở chỗ nên giống như, hiệp nhất với và thánh hiến cho Chúa Kitô. Bởi thế, việc tôn sùng tuyệt hảo nhất phải là việc tôn sùng làm cho chúng ta nên giống như, hiệp nhất với và thánh hiến cho Chúa Giêsu Kitô một cách hoàn hảo nhất. Vậy, nếu Mẹ Maria là một trong những tạo sinh giống như Chúa Giêsu Kitô nhất thì trong tất cả mọi việc tôn sùng làm cho linh hồn thánh hiến cho và nên giống như Chúa Kitô đó là việc tôn sùng Mẹ Maria, Mẹ Thánh của Người, và linh hồn càng tận hiến cho Mẹ lại càng được thánh hiến cho Chúa Giêsu Kitô’ (Treatise on True Devotion to the Blessed Virgin Mary). Chưa bao giờ thấy cuộc sống của Chúa Giêsu và cuộc đời của Mẹ Maria tỏ ra liên kết với nhau sâu xa như ở nơi Kinh Mân Côi. Mẹ Maria chỉ sống trong Chúa Kitô và cho Chúa Kitô mà thôi!” (đoạn 15)

"Tôi hướng về tất cả anh chị em thuộc mọi cảnh đời, hướng về anh chị em gia đình Kitô hữu, hướng về anh chị em bệnh nhân và lão thành, cũng như hướng về anh chị em giới trẻ: anh chị em hãy tin tưởng trở về với Kinh Mân Côi. Hãy tái nhận thức Kinh Mân Côi theo ý nghĩa của Thánh Kinh, hòa hợp với Phụng Vụ và liên quan tới đời sống thường nhật của anh chị em" (đoạn 43)

Lời nguyện cầu cho Đức Thánh Cha:

Xướng: Lạy Chúa Giêsu là Đấng tiếp tục ở cùng Giáo Hội cho tới tận thế qua vị đại diện của Chúa trên trần gian là các vị giáo hoàng. Chúng con cảm tạ Chúa vì đã ban cho chúng con một vị giáo hoàng thời đại hiện nay. Xin Chúa tiếp tục tỏ mình ra qua Ngài, để Ngài luôn là hiện thân sống động của Chúa, một hiện thân làm cho Giáo Hội “rạng ngời chân lý” chiếu tỏa “Phúc Âm Sự Sống” cho toàn thể gia đình nhân loại. Nhờ Mẹ Maria chuyển cầu, chúng con hợp ý đồng thanh nguyện xin Chúa.

Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con.

 

Mầu Nhiệm Ánh Sáng Thứ 5
 

Dẫn Nhập: Năm Mầu Nhiệm Mân Côi Ánh Sáng được kết thúc ở Mầu Nhiệm Chúa Giêsu thiết lập Bí Tích Thánh Thể, một Mầu Nhiệm Chúa Giêsu tỏ ra muốn ở lại với Giáo Hội cho đến tận thế, để Giáo Hội chẳng những được sống mà còn được sống viên mãn. Lịch sử Giáo Hội đã cho thấy Thánh Thể là Cây Nho đã thông ban nhựa sống thần linh của mình cho các chi thể Giáo Hội và đã làm cho các chi thể gắn liền với Thân Nho Thánh Thể này thực sự trổ sinh muôn vàn hoa trái. Điển hình nhất là trường hợp Vị tân chân phước Têrêsa Calcutta. Trong truyện kể về Mẹ ít thấy chỗ nào đề cập đến việc Mẹ lần hạt Mân Côi, ngoại trừ có một số hình ảnh chụp cho thấy Mẹ đang cầm cỗ tràng hạt. Thế nhưng, nếu việc cầu Kinh Mân Côi là chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô thì Mẹ Têrêsa đã thực sự chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô qua việc chầu Thánh Thể hằng ngày, cũng như qua việc phục vụ thành phần anh chị em nghèo khổ nhất được Chúa Kitô đồng hóa với. Thế nhưng, làm sao Mẹ Têrêsa thực sự thấy được dung nhan Chúa Kitô, hay Mẹ Têrêsa đã chiêm ngưỡng dung nhan Người như thế nào và tới độ nào? Sau đây là những gì được vị linh mục cáo thỉnh viên Brian Kolodiejchuk, M.C., của Mẹ ghi nhận, căn cứ vào các hồ sơ phong chân phước cho Mẹ, cũng là những gì đã được chính ÐTC Gioan Phaolô tuyên nhận trong bài giảng phong chân phước cho Mẹ ngày 19/10/2003.

ĐTC Gioan Phaolô II về một tân Chân Phước Têrêsa Calcutta nội tâm và thần tượng bác ái

“Khi Mẹ Têrêsa nhận thức được cái đổi thay xẩy ra trong linh hồn mình, Mẹ đã nói cho cha linh hướng Van Exem biết. Mẹ cũng tỏ cho ĐTGM Périer biết nữa: ‘Con đang khát mong bằng một thứ khát mong đớn đau được thuộc trọn về Chúa, được sống thánh thiện như Chúa Giêsu có thể sống chính sự sống của Người trọn vẹn nơi con. Con càng muốn Người thì lại càng bị ơ hờ lãnh đạm. Con muốn yêu mến Người như Người chưa từng được yêu mến, nhưng lại xẩy ra một cái gì đó phân rẽ, một cái gì đó trống rỗng kinh khủng, một cảm giác thiếu vắng Thiên Chúa’.

“Thật vậy, Mẹ Têrêsa lại tỏ cho ĐTGM này biết rằng Mẹ cảm thấy tối tăm chẳng những không giảm mà còn ‘dầy đặc hơn nữa’, khó có thể chịu đựng nổi. Mẹ suy nghĩ về tình trạng tương phản nơi linh hồn của mình, đó là tình trạng dường như hụt hẫng đức tin, đức cậy, đức mến và chính Thiên Chúa. Ngoài ra, Mẹ cũng chịu đựng một nỗi khát mong Thiên Chúa một cách da diết và day dứt. Mẹ đã cho biết điều này qua một bức thư như sau: ‘Có rất nhiều điều tương phản trong tâm hồn con, đó là một nỗi khát mong Thiên Chúa, một nỗi khát mong sâu xa đến nỗi đớn đau, một nỗi đau đớn liên tục, song lại là nỗi khát mong bị Chúa dửng dưng, ruồng rẫy, trống rỗng, chẳng còn tin tưởng, yêu thương và sốt sắng. Các linh hồn không còn hấp dẫn nữa. Thiên đàng chẳng còn nghĩa lý gì; đối với con nó chỉ là một nơi hư cấu. Ý nghĩ về thiên đàng chẳng còn thú vị gì với con nữa, song nỗi khát mong Thiên Chúa vẫn còn đó. Xin cầu nguyện cho con để con bất chấp mọi sự xẩy ra vẫn tươi cười với Ngài. Vì con thuộc về một mình Ngài nên Ngài có toàn quyền nơi con. Con hoàn toàn sung sướng trở thành không còn là gì nữa, thậm chí ngay trước nhan Thiên Chúa’.

“Kinh nghiệm tối tăm tiếp tục diễn tiến. Mẹ Têrêsa viết tiếp: ‘Nếu cha biết những gì con đang trải qua…. Thế nhưng con không phiền trách gì cả. Ngài có quyền làm tất cả mọi sự. Xin cầu nguyện để con cứ tươi cười với Ngài’. Có những lúc nỗi sầu đau của Mẹ Têrêsa đối với Thiên Chúa kinh khủng đến nỗi Mẹ đã so sánh những khổ đau của Mẹ với khổ đau của những linh hồn trong hỏa ngục: ‘Người ta nói rằng người ở trong hỏa ngục chịu khổ đau đời đời vì tình trạng mất Thiên Chúa; họ có thể trải qua được tất cả mọi đau khổ ấy nếu họ có một chút hy vọng chiếm hữu được Thiên Chúa. Trong linh hồn con con cảm thấy chính cái đớn đau kinh hoàng của cái mất mát đó, của tình trạng bị Thiên Chúa bỏ rơi, của tình trạng Thiên Chúa không còn là Thiên Chúa, của tình trạng Thiên Chúa không thực sự hiện hữu’. Trong khi những cảm giác kinh hoàng này xẩy ra thì Mẹ Têrêsa tiếp tục phó thác cho Chúa: ‘Tối tăm thật dầy đặc, đớn đau thật nhức nhối, nhưng con chấp nhận hết mọi sự Ngài trao cho con và con dâng lên Ngài bất cứ những gì Ngài muốn có’”.

ÐTC đã đề cập đến đời sống nội tâm của Mẹ Têrêsa như sau: “'Con Người đến để hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người' (Mk 10:45). Mẹ Têrêsa đã thông phần cuộc khổ nạn của Đấng Chịu Đóng Đanh, một cách đặc biệt trong những năm dài sống trong 'tăm tối nội tâm'. Cuộc thử thách này có những lúc rất gắt gao mà Mẹ đã chấp nhận như ‘tặng ân và đặc ân' chuyên biệt. Trong những giờ phút tối tăm nhất, Mẹ đã thiết tha nguyện cầu hơn nữa trước Thánh Thể. Cuộc thử thách dữ dội này đã khiến Mẹ nhận thấy mình hơn bao giờ hết giống hệt như thành phần Mẹ phục vụ hằng ngày, bằng cảm nghiệm đớn đau và có những lúc bị loại trừ. Mẹ thích lập đi lập lại rằng tình trạng bần cùng nhất là tình trạng bị bỏ rơi, tình trạng không được ai chú ý chăm sóc cho anh chị em. 'Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ân sủng của Chúa, chúng con hy vọng nơi Chúa!'. Như tác giả Thánh Vịnh, biết bao nhiều lần, trong những giây phút lẻ loi cô quạnh nội tâm, Mẹ Têrêsa cũng đã lập lại cùng Chúa của Mẹ rằng: 'Lạy Chúa Trời con, con trông cậy nơi Chúa, con cậy trông nơi Ngài!'". (bài giảng phong chân phước đoạn 5 và 6)

Trong cuộc chung thẩm, Vị Thẩm Phán Tối Cao Giêsu chỉ cần xem quả biết cây (x Mt 7:15-20), chỉ cần phán xét đức ái là biết đức tin của con người (x Mt 25:34-37): cả hai thành phần chiên và dê đều trả lời không thấy Chúa, nhưng thành phần chiên dù không thấy vẫn làm việc bác ái. Đó là hình ảnh một con chiên Têrêsa Calcutta, dù không thấy Chúa, tức nội tâm của con chiên này bị tối tăm cả nửa đời người (1947-1997), tức suốt thời gian phục vụ người nghèo, không thấy Chúa đâu, nhưng vẫn hăng say làm việc bác ái, vẫn lấy đức tin nhìn nhận Người nơi “những người anh em hèn mọn nhất” của Người tại thành phố Calcutta là một trong những nơi bần cùng nhất trên thế giới. Cũng trong bài giảng phong chân phước cho Mẹ Têrêsa Calcutta ngày 19/10/2003, ĐTC cũng đã nhận định về khía cạnh sống bác ái theo đức tin này của Mẹ như sau:

“’Khi các ngươi làm cho một trong thành phần hèn mọn nhất trong anh em Ta là các ngươi làm cho chính Ta’ (Mt 25:40). Sứ điệp Phúc Âm này, một sứ điệp rất quan trọng để hiểu được việc Mẹ Têrêsa phục vụ người nghèo, là nền tảng cho niềm xác tín đầy tin tưởng của Mẹ đến nỗi khi đụng chạm đến những thân xác tan nát của người nghèo là Mẹ sờ chạm tới thân mình của Chúa Kitô. Chính Chúa Giêsu, ẩn mình dưới bộ mặt buồn thảm của thành phần nghèo nhất trong các người nghèo là mục tiêu cho việc phục vụ của Mẹ nhắm đến. Mẹ Têrêsa đã làm sáng tỏ ý nghĩa sâu xa nhất của việc phục vụ, một tác động yêu thương, một hành động làm cho người đói, kẻ khát, người lạ, kẻ trần trụi, người bệnh, kẻ tù phạm (x Mt 25:34-36) là làm cho chính Chúa Giêsu. Vì nhìn nhận thấy Người như thế, Mẹ đã thi hành bằng cả tấm lòng mộ mến của Mẹ đối với Người, bộc lộ cho thấy tính cách âu yếm nơi tình yêu phu thể của Mẹ. Như thế, bằng việc hoàn toàn hy hiến bản thân mình cho Thiên Chúa cũng như cho tha nhân, Mẹ Têrêsa đạt được mức độ thành toàn cao cả nhất và đã sống những tính chất quí giá nhất về nữ tính của Mẹ. Mẹ muốn là dấu chứng cho ‘tình yêu của Thiên Chúa, sự hiện diện của Thiên Chúa, lòng cảm thương của Thiên Chúa’, nhờ đó nhắc nhở tất cả mọi người giá trị và phẩm vị của mỗi một người con Chúa ‘được dựng nên để yêu thương và được yêu thương’. Bởi vậy Mẹ Têrêsa đã ‘mang các linh hồn về cho Thiên Chúa và đưa Thiên Chúa đến cho các linh hồn’, cũng như đã làm giãn cơn khát của Chúa Kitô, nhất là con khát đối với những người khẩn thiết nhất, những người có nhãn quan về Thiên Chúa đã bị lu mờ bởi khổ đau và đớn đau” (đoạn 4).

ÐTC đã nhận định trong cùng bài giảng về một chân phước Têrêsa Calcutta vừa nội tâm vừa sống bác ái và kêu gọi bắt chước noi theo gương Mẹ như sau:

"Không phải ý nghĩa hay sao việc tuyên phong chân phước cho Mẹ đang được thực hiện vào chính ngày Giáo Hội cử hành Ngày Thế Giới Truyền Giáo? Bằng chứng từ phúc âm của cuộc sống mình, Mẹ Têrêsa nhắc nhở cho tất cả mọi người sứ vụ truyền bá phúc âm của Giáo Hội được thể hiện qua đức bác ái, một đức bác ái được bồi dưỡng bằng nguyện cầu và lắng nghe Lời Chúa. Biểu hiệu cho đường lối truyền giáo này là bức ảnh họa vị tân chân phước, một tay nắm tay của một thơ nhi và một tay cầm cỗ tràng hạt. Chiêm niệm và hoạt động, truyền bá phúc âm hóa và cổ võ nhân bản: Mẹ Têrêsa loan báo Phúc Âm bằng đời sống Mẹ hoàn toàn dấn thân cho người nghèo, nhưng đồng thời cũng sâu xa cầu nguyện" (đoạn 2).
 

"Chúng ta hãy ca ngợi người phụ nữ nhỏ bé phải lòng Thiên Chúa này, vị sứ giả khiêm hạ của Phúc Âm đây, và là một vị ân nhân không ngừng của nhân loại. Chúng ta tôn kính nơi Mẹ một con người nổi bật nhất trong thời đại của chúng ta. Chúng ta hãy chấp nhận sứ điệp của con người này và hãy noi theo gương của con người ấy" (đoạn 6).


Lời nguyện cầu cho Kitô hữu biết Sống Thánh Chứng Nhân:

Xướng: Lạy Chúa Giêsu là Con Mẹ Maria, vị đã ban cho Chúa một hình hài con người trần thế và đã liên lỉ lấy đức tin chiêm ngưỡng dung nhan Chúa. Xin cho Kitô hữu chúng con biết chiêm ngưỡng dung nhan Chúa chẳng những trong Bí Tích Thánh Thể, qua việc cầu Kinh Mân Côi và đời sống nội tâm của mình, mà còn nơi thành phần anh chị em bần cùng khốn khổ của chúng con nữa. Nhờ Mẹ Maria chuyển cầu, chúng con hợp ý đồng thanh nguyện xin Chúa.

Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con.


Tổng kết:

Trong Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria, đoạn 11, nếu ĐTC Gioan Phaolô II đã nói “những điều Mẹ tưởng niệm trong lòng về Chúa Kitô có thể được coi như ‘kinh mân côi’ Mẹ không ngừng lần suốt cuộc sống trần gian của Mẹ”, thì việc chúng ta vừa cùng với Mẹ chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô qua Mầu Nhiệm Mân Côi sẽ sinh hoa kết trái thiêng liêng khi chúng ta tiếp tục cùng với Mẹ tưởng nhớ đến Người bằng tiếng ‘xin vâng’ liên lỉ như Mẹ, từ giây phút truyền tin cho tới khi đứng dưới chân thập giá. Năm Mầu Nhiệm Mân Côi Ánh Sáng cần phải được kết thúc bằng lời nguyện của Á Thánh Bartolo Longo, lời nguyện nổi tiếng đã được chính ĐTC Gioan Phaolô II trích dẫn để chấm dứt Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria, cũng như để chấm dứt bài giảng của Ngài sau khi cùng với 10 ngàn người cử hành 5 Mầu Nhiệm Mân Côi Ánh Sáng tại Đền Thánh Mẫu Mân Côi Pompeii Ý Quốc hôm Lễ Mẹ Mân Côi 7/10/2003:

“Ôi Kinh Mân Côi Hồng Phúc của Mẹ Maria, sợi giây xích êm ái dịu dàng thắt cột chúng tôi với Thiên Chúa, là sợi giây liên kết chúng tôi với các thiên thần, ngọn tháp cứu giúp chống lại những cuộc tấn công của Hỏa Ngục, là bờ bến an toàn trong cuộc đắm tầu chung của chúng tôi, chúng tôi sẽ không bao giờ loại bỏ Kinh Mân Côi Hồng Phúc này. Kinh Mân Côi Hồng Phúc sẽ là niềm ủi an của chúng tôi trong giờ lâm tử: chiếc hôn cuối đời của chúng tôi khi sự sống tàn tạ là chiếc hôn của Kinh Mân Côi Hồng Phúc. Và lời cuối cùng thốt ra từ môi miệng của chúng con sẽ là tên gọi ngọt ngào của Mẹ, Ôi Vị Nữ Vương Mân Côi ở Pompeii, Ôi Mẹ chí ái, Ôi Nơi Ẩn Náu của Các Tội Nhân, Ôi Đấng An Ủi Uy Quyền của Thành Phần Khổ Đau. Chớ gì Kinh Mân Côi Hồng Phúc được khắp nơi chúc tụng, hôm nay và mãi mãi, dưới đất cũng như trên trời”.

(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, biên soạn gợi ý cho phần Cử Hành Mầu Nhiệm Mân Côi Ánh Sáng trong Lễ Bế Mạc Năm Mân Côi Mừng Ngân Khánh Giáo Hoàng do Chương Trình Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống tổ chức tại Trung Tâm Công Giáo vào Chúa Nhật Truyền Giáo 19/10/2003)
 


Mù Lòa Sáng Suốt

Trò Chơi Phúc Âm Chúa Nhật XXX Thường Niên Năm B


Phúc Âm

Khi ấy, Chúa Giêsu ra khỏi thành Giêricô cùng với các môn đệ và một đám đông, thì con ông Timê tên là Bartimê, một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường. Khi anh ta nghe biết đó là Chúa Giêsu Nagiarét, liền kêu lên rằng: “Hỡi ông Giêsu con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Và nhiều người mắng anh bảo im đi, nhưng anh càng kêu to hơn: “Hỡi con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Chúa Giêsu dừng lại và truyền gọi anh đến. Người ta gọi người mù và bảo anh: “Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh”. Anh ta liệng áo choàng, đứng dậy, đến cùng Chúa Giêsu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo rằng: “Anh muốn Ta làm gì cho anh?” Người mù thưa: “Lạy thầy, xin cho tôi được thấy”. Chúa Giêsu đáp: “Được, đức tin của anh đã chữa anh”. Tức thì anh ta thấy được và đi theo Người.

Hướng Dẫn

Trước hết, chắc chắn một điều là người mù ăn xin bên vệ đường này chưa bao giờ được chứng kiến thấy các phép lạ nhân vật mang danh Giêsu Nazarét làm, thậm chí chưa bao giờ được hân hạnh đi theo nghe lời giảng dạy đầy thần lực của nhân vật đại tôn sư tuyệt thế ấy.

Thế mà con người ăn xin này lại tin vào nhân vật ấy, không phải bằng một đức tin tầm thường, mà là một đức tin mãnh liệt. Đức tin “không thấy mà tin” (Jn 20:29) của con người mù lòa ngồi ăn xin bên vệ đường này mãnh liệt ở chỗ, trước hết, anh ta chỉ nghe đồn về nhân vật Giêsu Nazarét mà đã hết lòng tin tưởng vào Người rồi. Do đó, Thánh Ký Marcô đã ghi lại rằng: “Khi nghe thấy Đức Giêsu Nazarét (rời Giêricô đi ngang qua hay gần chỗ của mình), anh ta bắt đầu kêu lên: ‘Hỡi Giêsu, Con Vua Đavít, xin thương xót đến tôi’”.

Sau nữa, đức tin của con người mù ăn xin bên vệ đường này còn tỏ ra mạnh mẽ ở chỗ, sau khi nghe biết nhân vật Giêsu Nazarét, hay “Giêsu, Con Vua Đavít”, đối tượng của lòng tin của anh lên tiếng gọi anh, như người ta cho anh biết, anh đã tin chắc rằng mình đã trúng tủ, và sắp đến giờ được cứu chữa rồi. Đó là lý do, Thánh Ký Marcô đã ghi lại cử chỉ tin tưởng chắc ăn như bắp này của anh như sau: “Anh ta quẳng ngay chiếc áo quàng đi, nhẩy bổ lên mà đến cùng Chúa Giêsu”.

Nhưng vấn đề ở đây là làm sao người mù này có thể biết chỗ Chúa Giêsu đứng ở đâu trong đám đông để nhẩy đến ngay chỗ Người đứng, vì bấy giờ anh ta chưa được Người chữa cho. Có thể là anh ta khao khát mong đợi Đấng cứu độ anh ta xuất hiện từ lâu, nay gần đến thời điểm có một không ai này trong cuộc đời mình, anh ta đã trở thành thính tai đến nỗi đã nghe thấy được cả tiếng Người nói giữa một đám đông ồn ào chăng? Đó là lý do hôm nay chúng ta cùng nhau sinh hoạt trò chơi Phúc Âm Mù Lòa Sáng Suốt.

Sinh Hoạt

1. Mỗi nhóm chọn ra 1 người đóng vai người mù (bị bịt mắt) ngồi bên vệ đường, khoác một chiếc áo choàng.

2. Người quản trò sẽ sắp xếp chỗ ngồi thành vòng tròn cho những người mù này sau khi đã bịt mắt họ lại để họ không nhìn thấy vị trí chỗ của họ.

3. Sau đó người quản trò dẫn một người nào đó đóng vai Chúa Giêsu đi một vòng trước mắt hay sau lưng các người mù. Người đi đến chỗ của người mù nào thì người mù chỗ ấy kêu lên: “Hỡi Đức Giêsu, Con Vua Đavít, xin thương xót tôi”.

4. Thế rồi đột nhiên, người đóng vai Chúa Giêsu chỉ vào ai, thì người quản trò lấy tay đập vào vai người ấy loan báo: “Người gọi đến kìa”.

5. Nghe thấy lời đó xong thì người đóng vai người mù liền quăng chiếc áo choàng của mình đi rồi nhẩy bổ đến trước mặt Chúa Giêsu.

6. Trò chơi được tính điểm ở chỗ người mù của nhóm nào nhẩy đến gần chỗ Chúa Giêsu nhất, nhưng phải làm sao càng ở trước mặt người nữa càng hay, và ném chiếc áo choàng vào đúng một người nào đó hơn là bị rơi xuống đất.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, gợi ý



24/10 Thứ Sáu

Thánh Giuse LÊ ĐĂNG THỊ, Cai đội (1825 - 1860)


Cùng Bạn Về Trời

Đúng ngày bị hành quyết, cai đội Giuse Lê đăng Thị thức dậy rất sớm. Ông đánh thức một tù nhân bị xử tử cùng ngày, rồi đưa anh vào một góc nhà giam. Sau nhiều ngày tận tâm hướng dẫn người bạn dự tòng này, hôm nay (24.10) ông nghiêm trang đổ nước rửa tội cho anh “NHÂN DANH CHA, và CON và THÁNH THẦN”. Thế là ông có một người bạn đồng hành với mình vào quê hương vĩnh phúc trên trời.

Giuse Lê đăng Thị sinh năm 1825 tại xứ Kẻ Văn, làng Văn Quỵ, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình binh nghiệp. Thân phụ anh giữ chức cai đội. Lớn lên, anh cũng theo nghề của cha, xin nhập ngũ và phục vụ trong quân đội nhà vua. Một thời gian sau, anh được thăng Chưởng vệ trông coi lính Hà Tĩnh, rồi được dời vào Nghệ An. Tại đây, anh lập gia đình và sống hạnh phúc với vợ con.

Bão Tố và Niềm Tin

Vua Tự Đức sau một thời gian bách hại đạo gắt gao, đã phát hiện ra lệnh của mình chưa được thi hành đồng loạt, vì ngay trong hàng ngũ lãnh đạo, cũng có người theo đạo Công giáo. Ngày 15.12.1859, nhà vua ra thêm một chiếu chỉ bắt tất cả các quan có đạo đó. “Những quan nào có đạo (theo tà đạo), dù thành thật bỏ đạo cũng phải truất chức. Cần phải điều tra cẩn thận để tìm thêm những viên chức triều đình theo đạo. Những ai không tố giác, hoặc chứa chấp trong nhà mình, cũng bị trừng phạt như chúng...”. Nhà vua còn bắt tất cả các quan quân phải bước qua thánh giá trước khi ra trận đánh giặc Tây. “Ai không bỏ đạo sẽ bị giải ngũ, bị khắc chữ tả đạo vào má và phát lưu”.

Theo lời khuyên của quan trấn thủ, ông cai đội Lê đăng Thị làm đơn xin xuất ngũ lấy cớ bệnh tật. Đơn xin được chấp thuận, ông trở về quê cũ để vợ con ở lại Nghệ An. Tháng 1.1860, chiếu chỉ vua Tự Đức trên đây được áp dụng triệt để trên toàn quốc, ông cai Thị vì có kẻ tố giác, nên bị bắt ngày 29.1, cùng với một số bạn đồng ngũ khác, và bị giải về Quảng Trị. Ông vui vẻ nhận mình là cai đội và là Kitô hữu.

Cuối tháng hai, ông phải ra tòa cùng với ba mươi mốt quân nhân khác. Trong số đó có ba người bỏ đạo. Tất cả đều bị cách chức, một được tha về vì già yếu, còn lại mười người bị thích tự, lưu đầy chung thân, mười bảy người bị án tử hình giam hậu.

Riêng ông cai Lê đăng Thị nhận án xử giảo, nhưng hẹn đến cuối tháng mười mới thi hành. Từ đó ông được đưa về giam ở khám đường Huế. Trong một lá thơ gởi về cho vợ, ông viết: “Anh nghĩ rằng chúng ta không còn gặp nhau nữa, dầu chuyện gì xảy ra, chúng ta vẫn sẽ yêu thương nhau. Anh luôn nhớ đến em và các con mỗi ngày”.

Xứng Danh Huynh Trưởng

Suốt thời gian trong tù, vì là người có cấp bậc cao nhất, ông cai Thị khích lệ các anh hùng đức tin cùng bị giam, bằng lời nói và nhất là bằng mẫu gương trung thành, can đảm. Cũng do chức vụ ấy, ông bị mang một gông rất nặng và đánh đập tra tấn nhiều hơn mọi người. Dù còn trẻ trung sung sức, nhưng trước những cực hình dã man, ông đã ngã bệnh. Khi đó, ông chia sẻ với các bạn tù nỗi lo lắng lớn nhất của mình. Ông nói:

“Tôi không rõ Chúa có cho tôi sống đến ngày tử đạo không. Tôi sợ bệnh tật làm tôi chết sớm hơn. Than ôi chắc vì tội tôi, nên Chúa từ chối cho tôi ơn trọng ấy”.

Một linh mục đã đến thăm và giải tội cho ông. Hôm sau một thầy giảng cũng lẻn vào trao Mình Thánh Chúa cho ông. Ngày 24.10.1860, ông cai bị dẫn đi hành hình. Viên quan đề nghị ông lần cuối cùng xuất giáo, và hứa sẽ xin vua ân xá, nhưng ông cai Thị quyết liệt từ chối. Bản án của ông được ghi như sau:

“Lê đăng Thị, chưởng vệ theo tà đạo, không chịu bỏ đạo, thì y không thể tha thứ được. Y bị kết án xử giảo cuối mùa thu”.

Vạn Phúc

Tại pháp trường An Hòa (Huế), ông cai kính cẩn quỳ trên chiếu cầu nguyện. Một linh mục đứng lẩn trong đám dâm chúng ra dấu và giải tội lần cuối cho ông. Sau đó, ông kêu lớn tiếng: “Vạn phúc, vạn phúc, tôi sắp được tử đạo”. Lý hình quấn một sợi giây vào cổ ông cai đội, rồi chia ra hai bên kéo thật mạnh cho tới khi chứng nhân Chúa Kitô tắt thở. Các tín hữu Phủ Cam tổ chức lễ an táng đông đão tại xứ mình. Hiện nay hài cốt vị tử đạo còn được lưu giữ tại nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế Huế.

Đức Giáo Hoàng Piô X suy tôn ông Giuse Lê đăng Thị lên hàng Chân Phước ngày 2.5.1909.

 

Giáo Hội Anh Giáo đang bị khủng hoảng trầm trọng về vấn đề Đồng Tính Luyến Ái

ĐTGM giáo chủ Anh Giáo viếng thăm Tòa Thánh Vatican

Vị TGM tân giáo chủ này đã đến viếng thăm Tòa Thánh Vatican 3 ngày liền từ tối 2/10, và sẽ gặp ĐTC vào ngày Thứ Bảy 4/10. Ngài đã được ĐHY chủ tịch Hội Đồng Cổ Võ Hiệp Nhất Kitô Giáo là Walter Kasper và các viên chức tòa thánh khác tiếp đón tại phi trường. Phái đoàn của ngài sẽ ngụ ở Venerable English College, một phái đoàn 13 người, trong đó có vợ của ngài, những vị hợp tác thân cận nhất, những vị đặc trách Văn Phòng Hiệp Thông Anh Giáo và các vị đại diện Giáo Hội Anh Giáo ở Âu Châu. ĐTGM Cormac Murphy O’Connor TGP Westminster, thuộc Giáo Hội Công Giáo, đến Rôma sau một ngày, để cùng tham dự với phái đoàn Anh Giáo này.

Lịch trình của cuộc viếng thăm đặc biệt này đã diễn tiến như sau. Thứ Sáu 3/10, ĐTGM giáo chủ sẽ nói chuyện với ĐHY Kasper chủ tịch và các viên chức thuộc Hội Đồng Cổ Võ Hiệp Nhất Kitô Giáo, cũng như với ĐTGM Michael Fitzgerald chủ tịch Hội Đồng Đối Thoại Liên Tôn. ĐHY Kasper khoản đãi bữa tối tại Nhà Lưu Trú Thánh Matta ở Vatican. Sáng Thứ Bảy 4/10, ĐTGM giáo chủ cầu nguyện trong Đền Thờ Thánh Phêrô. 11 giờ ngài đến tiếp kiến Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Sau đó ngài đã thăm hầm mộ dưới lòng Đền Thờ Thánh Phêrô trước khi trở về English College dùng bữa trưa. Chiếu Thứ Bảy có một cuộc họo báo ở đây, kinh tối ở Santa Maria Sopra Minerva và lễ nghi tấn phong vị tân giám đốc của Trung Tâm Anh Giáo ở Rôma. Sau đó là tiệc mừng vị TGM giáo chủ do bà Kathryn Colvin, lãnh sự Hiệp Vương Quốc tại Tòa Thánh khoản đãi. Chúa Nhật 5/10, ĐTGM giáo chủ chủ tế Thánh Thể ở Thánh Đường Chư Thánh Anh Giáo, sau đó là bữa trưa và ngài đã rời Rôma lúc 5 giờ 20 trở về Luân Đôn.

Đây là cuộc viếng thăm Đức Giáo Hoàng Rôma đầu tiên của vị TGM giáo chủ này từ khi ngài được Nữ Hoàng Elizabeth bổ nhiệm làm TGM Canterbury thứ 104 hôm 23/7/2002, một chức vụ đã được chính thức tiếp nhận ngày 2/12/2002. Ngài đăng quang tại nhà thờ chính tòa Canterbury vào Tháng 2/2003. ĐHY Kasper đã hiện diện trong buổi lễ đăng quang này và đã đọc lời chúc mừng tốt đẹp nhất của ĐTC. Được biết là Trung Tâm Anh Giáo ở Rôma được khánh thành năm 1966 và từ đó vị giám đốc của trung tâm này mang trách nhiệm đại diện cho ĐTGM Canterbury và các chức sắc thuộc Giáo Hội Anh Giáo với Tòa Thánh Rôma. Theo bản thông báo của Tòa Thánh Vatican thì trung tâm này “qua nhiều năm đã là một dụng cụ đáng giá và hữu hiệu trong việc phát triển và bảo trì những mối giây thân thiết giữa Tòa Thánh và các chức sắc thuộc Giáo Hội Anh Giáo”.

Việc đối thoại về thần học giữa Anh Giáo và Công Giáo đã diễn tiến qua hai cơ cấu: ARCIC (Anglican-Roman Catholic International Commission) được thành lập năm 1970, và IARCCUM (International Roman Catholic Commission for Unity and Mission). ARCIC tập trung hoạt động của mình vào những đề tài thần học cần tranh luận giữa Công giáo và Anh giáo, và đã phổ biến những văn kiện về Thánh Thể, thừa tác vụ, thẩm quyền, ơn cứu độ, Giáo Hội, và các vấn đề về luân lý. Những văn kiện này được trao cho cả hai bên để xem xét và bàn luận. Văn kiện mới nhất là văn kiện năm 1999 về “Tặng Ân Quyền Bính”. Văn kiện tới đây của cơ cấu này chú trọng đến vai trò của Đức Maria trong đời sống và giáo huấn của Giáo Hội. Bản thông báo của Tòa Thánh về cuộc viếng thăm của ĐTGM giáo chủ Anh giáo cho biết: “Theo phận vụ của mình, Ủy Ban này đã cứu xét đến các tín điều Mông Triệu và Vô Nhiễm Tội của Đức Maria theo ánh sáng Thánh Kinh cũng như theo truyền thống cổ kính của chung Anh giáo và Công giáo”. ĐHY Kasper chủ tịch hội đồng cổ võ hiệp nhất Kitô giáo, vào cuối cuộc gặp gỡ ĐTGM giáo chủ Anh Giáo 3/10 đã cho biết văn kiện này đã được soạn thảo xong

IARCCUM được thành lập trong một cuộc họp ở Canada vào Tháng 5/2000 và được lãnh đạo bởi ĐHY Edward Cassidy, vị bấy giờ là chủ tịch Hội Đồng Cổ Võ Hiệp Nhất Kitô Giáo, sau đó tới ĐTGM Canterbury thời bấy giờ. Có 13 vị chức sắc thuộc các giáo tỉnh Anh Giáo và 13 vị chủ tịch hội đồng Giám Mục ở Hiệp Chủng Quốc tham dự cuộc họp này cùng với các vị đại diện Giáo Hội Công Giáo. Nhiệm vụ của cơ cấu mới này là bảo trì và nâng đỡ những mục đích của cơ cấu ARCIC. Cơ cấu mới này cũng tìm những giải pháp có thể chuyển mức độ hiệp thông thiêng liêng có được trở nên những thành đạt hữu hình và cụ thể.

ĐTC chia sẻ với Vị giáo chủ Anh Giáo

Sau đây là bài chia sẻ của Đức Thánh Cha nói với ĐTGM giáo chủ Anh Giáo và phái đoàn chủ trì các giáo hội Anh giáo địa phương ngày Thứ Bảy 4/10/2003:

Thật là sung sướng được tiếp đón ngài nơi đây vào dịp ngài lần đầu tiên viếng thăm Tòa Thánh Rôma với tư cách là TGM Canterbury. Ngài tiếp tục một truyền thống được bắt đầu trước Công Đồng Chung Vaticanô II, mộỉt truyền thống được bắt đầu với cuộc viếng thăm của ĐTGM Geoffrey Fisher, và ngài là vị TGM Canterbiry thứ tư Tôi hân hạnh được tiếp đón trong Giáo Triều của Tôi. Tôi cũng nhớ lại hình ảnh sống động lần Tôi viếng thăm Canterbury năm 1982, và cảm nghiệm xúc động khi cầu nguyện nơi mộ Thánh Thomas Becket với ĐTGM Robert Runcie.

Bốn thế kỷ sau cuộc chia rẽ đáng buồn giữa chúng ta, một thời gian không có bao nhiêu hay chẳng có liên lạc gì giữa các vị tiền nhiệm của chúng ta, đã mở đường cho một thể thức gặp gỡ tràn đầy hồng ân giữa Giám Mục Rôma, Vị Thừa Kế Thánh Phêrô và ĐTGM Canterbury. Những cuộc gặp gỡ hội ngộ này đã đi đến chỗ canh tân những mối liên hệ giữa Tòa Thánh Canterbury, và Tòa Thánh Rôma là nơi Đức Grêgôriô Cả bắt đầu sai Thánh Augustinô, Vị TGM đầu tiên ở Canterbury, đến với các Vương Quốc của sắc dân Anglo-Saxon vào hậu bán thế kỷ thứ sáu. Vào thời điểm của chúng ta đây, những cuộc gặp gỡ này cũng thể hiện việc chúng ta ngưỡng vọng tới mối hiệp thông trọn vẹn được Chúa Thánh Thần mong muốn cho chúng ta và yêu cầu chúng ta thực hiện.

Khi cảm tạ về mức tiến bộ đã đạt dược, chúng ta cũng cần phải nhìn nhận là những khó khăn mới mẻ và trầm trọng đã xuất hiện trên con đường tiến đến mối hiệp nhất. Những khó khăn này không phải tất cả có bản chất thuần về kỷ luật; có một số liên quan đến những vần đề chính yếu thuộc đức tin và luân lý. Trước tình trạng ấy, chúng ta phải tái xác nhận trách nhiệm của chúng ta trong việc chú ý và chân thành lắng nghe tiếng Chúa Kitô nói với chúng ta qua Phúc Âm cũng như qua Truyền Thống Tông Đồ của Giáo Hội. Đương đầu với chiều hướng tục hóa càng ngày càng tăng tiến của thế giới ngày nay, Giáo Hội cần phải bảo đảm là kho tàng đức tin được loan báo một cách trọn vẹn và được bảo trì cho khỏi những giải thích lầm lạc và xuyên tạc.

Khi cuộc đối thoại về thần học của chúng ta được bắt đầu, những vị tiền nhiệm của chúng ta là Đức Giáo Hoàng Phaolô VI và ĐTGM Michael Ramsey không thể biết được con đường xác đáng hay cuộc kéo dài con đường tiến đến mối hiệp thông này, song các vị biết rằng nó đòi phải nhẫn nại và kiên trì, và nó chỉ xẩy ra như một tặng ân của Chúa Thánh Thần mà thôi. Cuộc đối thoại các vị đã khởi xướng đã được “xây dựng trên Phúc Âm cũng như trên các truyền thống cổ kính chung”; nó đã được phối hợp với việc nuôi dưỡng một sự hợp tác “dẫn đến chỗ hiểu biết hơn và bác ái sâu xa hơn”; và niềm hy vọng đã được thể hiện theo mức tiến bộ đối với mối hiệp nhất sẽ “làm củng cố nền hòa bình thế giới, nền hòa bình mà chỉ Người mới có thể ban Đấng hiến ‘một thứ hòa bình vượt trên mọi kiến thức’ (Tuyên Ngôn Chung, 1996).

Chúng ta cần phải kiên trì trong việc xây dựng công việc đã đạt được bởi ARCIC, cũng như các việc thực hiện của Ủy Ban mới được thiết lập IARCCUM. Thế giới cần chứng từ hiệp nhất của chúng ta, một chứng từ phát xuất từ tình chúng ta cùng nhau yêu mến và tuân phục Chúa Kitô và Phúc Âm của Người. Chính lòng trung thành với Chúa Kitô đã thúc bách chúng ta tiếp tục tìm kiếm mồi hiệp nhất hữu hình một cách trọn vẹn cũng như tìm những đường lối thích hợp trong việc cùng nhau để làm chứng và truyền giáo bao nhiêu có thể.

Tôi cảm động khi thấy ngài muốn thực hiện cuộc thăm viếng Tôi ngay khi mới bắt đầu thừa tác vụ làm TGM Canterbury của ngài. Chúng ta có cùng một niềm ước mong đi sâu vào mối hiệp thông của chúng ta. Tôi cầu xin Chúa Thánh Thần tuôn đổ một lần nữa xuống trên ngài và những người thân yêu của ngài, trên những người cùng đi với ngài đến đây, cũng như trên tất cả mọi phần tử của Giáo Hội Anh Giáo. Chớ gì Thiên Chúa gìn giữ ngài an toàn, chăm sóc ngài luôn mãi, và dẫn dắt ngài trong việc thực thi các thứ trách vụ cao cả của ngài. Trong ngày lễ Thánh Phanxicô Assisi hôm nay, vị tông đồ của hòa bình và hòa giải, chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện để Chúa làm cho chúng ta trở thành khí cụ bình an của Ngài. Đâu có tổn thương chúng ta mang lại tha thứ; đâu có hận thù ghen ghét chúng ta gieo vãi yêu thương; đâu có chán chường thất vọng, chúng ta tìm kiếm mối hiệp nhất phát sinh niềm hy vọng.

Công Nghị Bất Thường để giải quyết vấn đề giáo sĩ Anh giáo công khai sống đồng tính luyến ái

Sau cuộc gặp gỡ với ĐTGM giáo chủ Anh Giáo hôm Thứ Sáu 3/10, ĐHY chủ tịch hội đồng cổ võ hiệp nhất Kitô giáo đã cho Đài Phát Thanh Vatican biết rằng vấn đề truyền chức cho thành phần sống đồng tính luyến ái là một trục trặc trong mối liên hệ giữa Anh giáo và Công giáo. ĐHY nói: “Chúng tôi đã… nói về những xung khắc và căng thẳng xuất hiện mấy tháng gần đây trong Giáo Hội Anh Giáo sau việc truyền chức cho các vị linh mục sống đồng tính luyến ái. Tôi đã bày tỏ mối quan tâm của tôi về vấn đề này vì nó chẳng những là vấn đề nội bộ của Giáo Hội Anh Giáo mà còn là vấn đề liên quan đến mối liên hệ của chúng ta nữa. Chúng ta đã rõ ràng chủ trương về vấn đề này trong cuốn Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo; chúng ta cũng có cả một truyền thống, một gia sản chung về vấn đề này. Chúng ta hy vọng họ sẽ không loại bỏ truyền thống chung này. Tôi đã bày tỏ lòng ao ước của tôi, ý muốn của tôi là sẽ tìm thấy một giải pháp được Giáo Hội Anh Giáo chấp nhận và là một giải pháp không gây tác dụng đến những mối liên hệ với Giáo Hội của chúng ta”. Giáo Hội Anh Giáo (thường được gọi là The Anglican Comminion) hiện diện ở 160 quốc gia, với 70 triệu tín hữu, thuộc 38 giáo hội tự lập.

Thứ Tư 15/10/2003, 38 vị lãnh đạo 38 giáo hội tự trị Anh Giáo, theo hiệu triệu của ĐTGM giáo chủ ở Canterbury, đã đến tham dự cuộc họp đặc biệt ở Lambeth Palace, để bàn đến cách thức để làm sao thống nhất giáo hội của các vị lại đối với một vấn đề đã gây ra phân rẽ giữa thành phần thủ cựu và thành phần cấp tiến, và cũng là vấn đề đưa đến ly giáo giữa giáo hội ở Phi Châu và Hoa Kỳ.

Cuộc họp thượng đỉnh này xẩy ra sau cuộc viếng thăm Tòa Thánh vatican của ĐTGM giáo chủ và sau khi giáo hội Episcopal Hoa Kỳ chọn linh mục Gene Robinson công khai sống đồng tính luyến ái làm giám mục ở New Hampshire trước đây trong năm nay. Cuộc họp thượng đỉnh này cũng xẩy ra sau vụ cho phép thực hiện lễ nghi chúc lành cho thành phần đồng tính luyến ái ở giáo phận Tân Westminster Canada, và vụ ứng danh Canon Jeffrey John sống đồng tính luyến ái vào chức vụ Giám Mục ở Reading Hiệp Vương Quốc. Vị ứng danh này đã thôi không chấp nhận vị thế mới của mình sau cuộc vận động chống đối trong nội bộ Anh giáo ở Anh quốc cũng như trên khắp thế giới.

Sau 7 tiếng bàn luận, cuộc họp đã tiến đến chỗ bỏ phiếu quyết định vào ngày hôm sau, 16/10/2003. Có 5 vấn đề được thượng hội Anh giáo bất thường này bàn đến, trong đó có vấn đề yêu cầu giáo hội Anh giáo ở Hoa Kỳ hãy vãn hồi tình thế của mình hay không còn hiệp thông với Anh giáo nữa. Một vấn đề khác nữa là việc thành lập “một pháp quyền song song” cho thành phần thủ cựu với một giáo tỉnh riêng biệt và một vị tổng giám mục vượt ra ngoài ranh giới quốc gia. Một hệ thống tương tự như thế này đã được thiết lập vào năm 1993 cho các giáo xứ và hàng giáo sĩ chống lại vấn đề phụ nữ làm linh mục.

TGM Anh giáo Ái Nhĩ Lan là Robinson và vị chủ tịch Giáo Hội Bao Gồm là Giles Fraser đều theo chiều hướng cởi mở. TGM Robinson tin rằng Thiên Chúa đang “làm một điều mới liên quan đến việc bao gồm đối với thành phần đồng tính nam hay nữ trên thế giới cũng như trong giáo hội”. Vị chủ tịch Fraser nói: “Giáo hội hiện đại đang gặp nguy khốn vì đánh mất đi đường lối cởi mở và bao gồm của mình”.

Tuy nhiên, các vị thủ cựu phản đối chiều hướng cởi mở nhưng phản Thánh Kinh này. ĐTGM Peter Akinola ở Nigeria nói: “Tôi không chấp nhận vấn đề các vị nói rằng Thánh Kinh có ý nói thế này ở Nigeria và nói thế kia ở Hoa Kỳ. Chỉ có một Thiên Chúa, một Thánh Kinh, và một đức tin mà thôi”. Nam bán cầu là nơi đang tăng số tín hữu Anh giáo đáng kể. Hơn một nửa thế giới Anh giáo sống ở Phi Châu mà đại đa số là thủ cựu.

ĐTGM Williams, được coi là cấp tiến, vừa được bổ nhiệm năm trước đây, đã cho biết về vấn đề này Giáo Hội Anh Giáo đang đối diện với một tương lai “hỗn loạn”.

Và hôm Thứ Năm, 16/10, các vị lãnh đạo các giáo hội Anh Giáo độc lập trên thế giới đã nhất trí yêu cầu Giáo Hội Episcopal Hoa Kỳ đừng tấn phong một con người công khai sống đồng tính luyến ái làm giám mục kẻo làm phân tán Giáo Hội Anh Giáo nói chung. Trong bản văn đúc kết, các vị lãnh đạo nhận định rằng nếu Rev. Gene Robinson đực tấn phong làm giám mục New Hampshire thì “tương lai của chính mối hiệp thông sẽ gặp nguy khốn. Việc này sẽ xé nát tấm vải hiệp thông của chúng ta”. Các vị lãnh đạo trong phiên họp thượng đỉnh khẩn trương này cũng kêu gọi thiết lập một ủy ban thực hiện một cuộc nghiên cứu cả năm về đường lối giải quyết những bất đồng sâu xa về thần học giữa những giáo hội riêng trong một Giáo Hội Anh Giáo 77 triệu tín đồ phi tập quyền. Các vị đồng thời cũng yêu cầu các giáo hội độc lập đừng có những thái độ phản ứng vội vã hấp tấp. Thành phần bảo thủ thuộc giáo hội Anh Giáo ở Hoa Kỳ, theo chiều hướng Giáo Hội Anh Giáo thuộc thế giới thứ ba, nhất là Phi Châu, chống lại quyết định tấn phong giám mục sống đồng tính luyến ái, căn cứ vào Thánh Kinh và truyền thống Kitô giáo.

ĐTGM Canterbury là Rowan Williams, giáo chủ Anh Giáo về danh hơn là thực quyền, (Anh Giáo và Chính Thống Giáo vốn không phục quyền Giáo Hoàng, nên cũng không có một quyền bính tối cao như Giáo Hội Công Giáo, họ họp đấy nhưng mỗi giáo hội tự trị tùy nghi thực hiện quyết định chung), đã triệu họp phiên họp khẩn cấp này, đã phải công nhận là quyết định chung hoàn toàn tùy quyền áp dụng của mỗi giáo hội.

Trong bản văn đúc kết, các vị lãnh đạo Giáo Hội Anh Giáo còn bày tỏ là “với tư cách là một thân thể, chúng tôi hết sức lấy làm tiếc” về những quyết định của giáo hội Anh Giáo ở Hoa Kỳ và Vancouver, vì hai giáo hội này “đã đơn phương thay đổi giáo huấn của Giáo Hội Anh Giáo”. Các vị cũng tái xác nhận quyết định 1998 về tính dục của con người ở Hội Nghị Lambeth, một cuộc đại hội Anh Giáo thế giới, là chỉ có một loại liên hệ tính dục duy nhất xứng hợp đó là cuộc hôn nhân trọn đời giữa một người nam và một người nữ, còn trường hợp chế dục là sự lựa chọn cho “những ai không được kêu gọi lập gia đình”.

Lời phát biểu này được các vị lãnh đạo ở Phi Châu, Á Châu, Mỹ Châu Latinh và Caribbean, một câu phát biểu loại trừ cả việc chúc lành cho những cặp đồng tính hôn nhân lẫn việc truyền chức linh mục cho người công khai sống đồng tính luyến ái. Câu phát biểu này đã bị tín hữu Anh Giáo ở các quốc gia như Hoa Kỳ, Canada, Úc Đại Lợi và Hiệp Vương Quốc loại bỏ.

Phản ứng của đương sự giám mục đồng tính được tuyển

Giáo sĩ V. Gene Robinson, vị giám mục được tuyển chọn cho Giáo Phận New Hampshire, nói với Hãng Thông Tấn Associated Press, là ông đã cầu nguyện nhiều năm mới được trở thành giám mục. Ông cảm thấy rất mạnh mẽ là Thiên Chúa muốn ông đi tới ngày 2/11/2003 được tấn phong này cho bằng được.

“Thiên Chúa và tôi đã trải qua vấn đề này khá lâu cho đến nay, và tôi thật sự là ngạc nhiên khi thấy Thiên Chúa muốn tôi giờ đây ngừng lại ở đây”.

Vị giáo sĩ Anh giáo này dù nhận thức được việc ông được tấn phong sẽ gây ra một cuộc khủng hoảng cho Giáo Hội, nhưng vẫn cho rằng sự thiện có thể phát xuất tứ đó.

“Nếu thực sự đây là việc của Chúa… thì nó là một cuộc khủng hoảng cần giáo hội phải là mình nhất, đừng sợ bị mất chính mình cho điều xác đáng. Đôi khi có những sự đáng quí vị liều cả mạng sống mình. Chính Chúa Giêsu đã nói nếu các con muốn cứu mạng sống mình các con sẽ đánh mất nó”.

Vị giáo sĩ Anh giáo này cho biết ông nhận được một bức thư từ các vị lãnh đạo Giáo Hội Anh Giáo ở West Indies, Nam Mỹ và Nigeria xin ông đừng tiếp tục việc được tấn phong. Ba vị này mạnh mẽ chỉ trích Giáo Hội Episcopal Hoa Kỳ về quyết định của họ hồi Tháng 8/2003 vừa rồi về việc xác nhận một người làm cha của hai đứa con song lại vẫn công khai sống đồng tính luyến ái với một người nam khác từ năm 1989 tới nay. Ông nói dù vị giáo chủ Anh Giáo thế giới hiện nay là ĐTGM Rowan Williams có khuyên can ông đi nữa, cũng không thuyết phục được ông. Ông còn cho biết dù ông có từ bỏ chức gám mục sắp tới đi nữa cũng không chấm dứt vấn đề đồng tính luyến ái này đâu. Ông biết có một số khá các vị giám mục đồng tính luyến ái ở cả Hoa Kỳ lẫn hải ngoại, mà ông là người đầu tiên được nói đến thôi.

Thành phần Anh Giáo bảo thủ ở Hoa Kỳ đã có dự tính tiến đến chỗ tách lìa khỏi Giáo Hội Episcopal trong việc chọn một vị giám mục đồng tính luyến ái như vậy. Hội Đồng Anh Giáo Hoa Kỳ là đại diện cho thành phần truyền thống tính gửi đại diện tới tham dự cuộc tấn phong này để thực hiện một cuộc phản đối chính thức. Cuộc lễ tấn phong này sẽ có mặt của người bạn đồng tính của ông, hai đứa con gái của ông, người vợ ly dị của ông và cha mẹ của ông. Về vấn đề được tấn phong giám mục của mình, ông nhận thấy có lợi cho thành phần đồng lính luyến ái như sau:

“Tôi nghĩ việc được tuyển chọn của tôi là một trong những dấu hiệu cho thấy rằng những người đồng tính luyến ái nam nữ đang được trở thành tâm điểm của nhiều sự. Tôi cho rằng việc tôi được tuyển chọn này là dấu hiệu tôi mang thành phần đồng tính nam nữ vào ngay tâm điểm của giáo hội. Nó không phải là một cái gì về tôi. Nó không phải là một cái gì cần phải hổ ngươi”.

Chúng ta hãy nhớ rằng, vào hậu bán thập niên 1990, Giáo Hội Anh Giáo đã xẩy ra một cuộc khủng hoảng nội bộ cũng liên quan đến hàng giáo sĩ cũng như đến phái tính. Ðó là vấn đề Giáo Hội này truyền chức linh mục cho nữ giới rồi sau đó truyền chức giám mục cho họ nữa, một biến cố đã làm cho Giáo Hội này mất trên 100 giáo sĩ và 1 giám mục trở lại Giáo Hội Công Giáo. Biến cố khủng hoảng lần này chẳng những sẽ làm phân tán Giáo Hội Anh Giáo mà còn có thể đẩy một số trở về với Giáo Hội Công Giáo như lần trước nữa cũng không biết chừng...
 

23/10 Thứ Năm

Các buổi triều kiến trong ngày

Sáng nay, tại Sảnh Đừơng Đức Phaolô VI, ĐTC đã tiếp các vị tân hồng y cùng gia đình của các vị. Sau khi chào mọi người, ĐTC đã nói với họ: “Để lập lại lời chào huynh đệ của Tôi gửi đến quí huynh và lòng thiết tha đối với sứ vụ quí huynh đã lãnh nhận trong việc phục vụ Giáo Hội, Tôi xin ký thác quí huynh và thừa tác vụ của quí huyng cho việc bảo trợ thiên đình của Đức Trinh Nữ”.

Hôm nay ĐTC cũng tiếp phái đoàn giám mục Anh Quốc và Wales trong dịp các vị kết thúc cuộc viếng thăm Tòa Thánh ngũ niên của các vị. Vấn đề chính yếu Ngài chia sẻ với các vị là nhu cầu khẩn trương trong việc truyền bá phúc âm hóa văn hóa trước trào lưu tục hóa của xã hội ngày nay. (Xin xem bài chia sẻ mục vụ này của ĐTC sau).

 

Thánh Phaolô TỐNG VIẾT BƯỜNG, Quan thị vệ, (1773 - 1833)


Hiến Lễ Trong Đêm

Thánh Phaolô Tống viết Bường, trường hợp đặc biệt bị xử trảm về đêm. Ngài là viên quan thị vệ có nhiều công trạng với vua Minh Mạng, nên vua muốn cuộc hành hình phải diễn ra thật âm thầm, ít người biết đến. Năm giờ chiều, “tử tội” mới được báo tin giờ xử, nhưng chính lúc ấy, ông đội Bường lại coi là một cơ may “có một không hai” cho mình. Trên đường ra pháp trường và buổi chiều cuối tháng mười “chưa cười đã tối” đó, ông tìm cách đi chậm lại, và nói với đám lý hình (trước vốn thuộc quyền ông): “Các chú đi chi mà nhanh rứa, tôi biết đường mà, không sợ lạc mô”. Và thực ra, trời thì tối, cầu thì hẹp, lại đúng lúc nước sông dâng lên, nên đường rất khó đi. Đàng khác, ông Bường chủ ý tìm hướng đến nền cũ của nhà thờ Thợ Đúc, xin được chết tại đây. Quan đồng ý ban cho ông như lời ước nguyện. Chính nơi đây, đã từng bao năm tháng, dưới ánh sáng lung linh của những ngọn nến, các tín hữu tụ họp dâng lên hiến lễ tối cao là Đức Giêsu, thì lúc này dưới ánh sáng của những ngọn đuốc bừng cháy, ông đội cũng dâng lên Chúa chính mạng sống mình. Cho đến ngày nay, ông vẫn sống mãi trong tâm thức của mọi tín hữu Thợ Đúc, cũng như Giáo hội Việt Nam.

Giã Từ Quan Trường vì Đức Tin

Phaolô Tống viết Bường sinh khoảng năm 1773 tại Phủ Cam, Phú Xuân (Huế), trong một dòng tộc Công giáo lâu đời, cũng là dòng tộc có nhiều quan lớn, dưới triều vua Lê chúa Nguyễn. Thân sinh là ông Nicolas Tống viết Giảng và bà Maria Lương. Vì tổ tiên đều làm quan, nên đến khi trưởng thành, anh được chọn làm lính thị vệ. Với đời sống liêm khiết và đức độ, sau một thời gian, ông được thăng chức đội, và được nhà Nguyễn tuyển vào làm thị vệ hoàng cung. Vua Minh Mạng rất hài lòng về việc phục vụ cần mẫn và nhiệt tâm của ông. Ông có hai đời vợ, sinh hạ được tất cả mười hai người con.

Vào năm 1831, giặc Đá Vách ở Quảng Nam nổi lên quấy phá, quan quân phải đi đánh dẹp. Ông đội Bường được vua cử đi thanh sát mặt trận. Ông mau mắn chu toàn phận sự, và trở về tâu trình thành quả đã đạt được. Nhưng có lẽ trong thời gian đó, có người ghen ghét tố cáo ông theo đạo Công giáo nên vua hạch hỏi ông: “Khi xong công tác, khanh có viếng chùa Non Nước không?”. Ông bình tĩnh trả lời: “Muôn tâu, vì hoàng thượng không truyền nên thần không đi. Hơn nữa, chùa Non Nước đâu có giặc để đánh”. Vua hỏi tiếp: “Lệ thường, dẹp giặc xong rồi thì phải vô chùa lễ bái, tại sao khanh không đi”. Ông không ngần ngại trả lời: “Vị hạ thần theo đạo Công giáo”.

Thế là ông đội Bường đã phải trả giá cho lời tuyên xưng niềm tin của mình. Vua Minh Mạng thịnh nộ trách mắng thậm tệ và dọa đem đi chém đầu. Một số quan chức có cảm tình với ông đội, đứng ra can gián, nhà vua vẫn chưa nguôi giận, cho lệnh đánh ông tám mươi roi, tước hết chức quyền, và giáng xuống làm lính trơn. Dù vậy, ông Bường vẫn vui vẻ tiếp tục phục vụ nhà vua.

Vẹn Chữ Trung Với Chúa

Hơn một năm sau, khoảng cuối tháng 12.1832, khi chuẩn bị ra chiếu chỉ cấm đạo toàn quốc vua Minh Mạng đòi kê khai những người Công giáo trong hàng ngũ thị vệ. Lúc đó các quan mới phát hiện ra nhiều thị vệ nghe lời “quyến rũ” của ông đội Bường vừa gia nhập đạo. Thế là ông Bường và mười một binh sĩ khác có tên trong danh sách được trình lên. Năm người sợ quá bỏ đạo, còn bảy người vua hạ lệnh tống giam vào một ngục tối tăm hôi hám tại trấn phủ. Mỗi người phải đeo gông nặng gần bảy ký, chân thì bị xiềng sắt xiết chặt.

Thời gian đầu, cứ độ mười ngày một lần, ông Bường lại bị đem ra tra khảo về niềm tin. Lần nào quan cũng hỏi: “Có bỏ đạo không?”. Và lần nào ông cũng trả lời: “Lâu nay tôi chỉ thờ một Thiên Chúa dựng nên vạn vật, lẽ nào bây giờ tôi lại bỏ Chúa tôi?”. Hậu quả mỗi lần thưa như vậy là hai mươi đòn rách da xé thịt, nhưng người chiến sĩ của Chúa không than trách một lời. Với chí khí một người lính kiên cường, ông tỏ ra sẵn sàng chịu những hình khổ cay nghiệt hơn nữa. Có lần ông nói với bạn hữu đến thăm rằng: “Kiếm cho tôi cái gì nặng hơn chứ gông xiếng tôi còn nhẹ. Người ta còn đánh đập tôi ít quá, tôi tưởng được chịu đòn nhiều hơn nữa kia”.

Bốn lần quân lính khiêng qua thập giá, ông đều mạnh mẽ chống cự đến cùng. Lần kia, quan bắt lính kéo chân ông chạm vào thập giá, ông phản đối: “Việc này do quan làm, chứ tôi không bao giờ làm như thế”. Quan tức giận truyền đánh tàn nhẫn hơn mọi lần khác.

Đàn áp không được, các quan quay qua dụ dỗ. Quan Hình Bộ Thượng Thơ Võ xuân Cần tha thiết khuyên ông chiều theo ý vua “bỏ đạo lúc này thôi rồi sau sẽ hay, muốn làm gì thì làm”. Nhưng ông trả lời: “Quan lớn có lòng thương thì tôi cũng xin quan lớn một điều là cho tôi được vẹn chữ trung với Chúa Trời”.

Trong nhà giam, ông thường khuyên các bạn bị bắt hãy kiên tâm bền chí, trông cậy và cầu nguyện Đức Mẹ luôn, để được vững lòng chịu khó đến cùng, vác thập giá theo Chúa Giêsu. Càng bị đau khổ, đời sống thiêng liêng của ông càng gia tăng. Mỗi ngày ông siêng năng cầu nguyện, suy gẫm và đọc kinh Mân Côi. Mỗi tháng nhờ các linh mục cải trang vào thăm, ông đều xưng tội và đón nhận Mình Thánh Chúa. Hai linh mục An và Vững thay nhau vào khích lệ ông. Thừa sai Jaccard Phan cũng gởi thư an ủi động viên ông. Một lần, ông sáng tác được một bài thơ gởi cha An, biểu lộ lòng trung kiên sắt đá, coi mọi khổ đau là “niềm vui trong Chúa”.

Đường Về Trời

Thấy không thể lay chuyển đức tin của người môn đệ Chúa Kitô, quan thượng thơ bộ hình liền xin nhà vua tuyên án. Vua trả lời: “Cần gì bản án, cứ việc tra tấn không ngừng, nếu nó không chịu đạp lên thập tự, thì cứ việc đánh cho chết, rồi vất ra ngoài thành là xong”.

Lần thứ hai các quan tâu lại, vua Minh Mạng mới chấp thuận châu phê bản án trảm quyết, treo đầu ba ngày để làm gương cho kẻ khác. Tuy nhiên vua vẫn chưa cho thi hành ngay, có ý chờ “người tôi trung” của mình xin ân xá. Các quan nói ý vua cho đội Bường, nhưng ông quyết liệt từ chối.

Thế là ngày 23.10.1833, lúc năm giờ chiều quân lính báo tin cho ông đội biết giờ hành xử đã đến. Ông bình thản giã từ sáu người bạn cùng bị bắt (cả sáu người này về sau cũng bị tử hình), ông nói:

“Xin anh em thêm lời cầu nguyện, để tôi lãnh nhận Thánh ý Chúa. Đừng lo cho tôi, anh em hãy luôn đi theo đường lối của Chúa”.

Trên đường ra pháp trường, lấy cớ bị trói và mang gông nặng, ông đội kéo dài thời gian di chuyển, để được chém trên nền nhà thờ Thợ Đúc. Dọc đường, ông gặp mặt con gái, đã về nhà chồng ở họ Thợ Đúc, tuy không nói với nhau lời nào, nhưng trong ánh mắt hai cha con, dạt dào biết bao tình cảm xúc động.

Dưới ánh sáng bừng bừng của những ngọn đuốc ông đội được tháo gông, cởi trói và tự do trong ít phút, ông tiến vài bước, bình tĩnh đứng nhìn lần cuối cùng những mái nhà thân thương của giáo xứ vây quanh nền nhà thờ hoang tàn. Rồi bước lên chiếc chiếu do một bạn cũ tên Thục ở Phủ Cam đưa cho lính trải. Ông quỳ xuống cầu nguyện giây lát, và ra lệnh cho lính thi hành án xử. Quân lính trói tay ông lại và vung gươm chém rơi đầu người chiến sĩ đức tin kiên cường. Thủ cấp ông bị bêu ba ngày ở nhà thờ Thợ Đúc, còn thi hài vị tử đạo được an táng ở họ Phủ Cam.

Ngày 27.5.1900, ông đội Phaolô Tống viết Bường được Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn lên bậc Chân Phước.

Hiếu Trung, OP
 

Tác Dụng của Kinh Tối

Bài Giáo Lý 88 về việc cầu nguyện bằng Thánh Vịnh được ÐTC chia sẻ ngày Thứ Tư 8/10/2003, thay cho hôm qua, Thứ Tư 22/10, không có buổi triều kến chung để tiếp tục loạt bài Thánh Vịnh này.

1. Vì “mỗi ngày của cuộc chúng ta hành trình trên mặt đất này bao giờ cũng là một tặng ân mới” của tình yêu Thiên Chúa (Preface of Sundays, VI), mà Giáo Hội luôn cảm thấy nhu cầu cần phải thánh hiến những ngày giờ của đời sống con người vào ciệc chúc tụng thần linh. Bởi vậy rạng đông và hoàng hôn là là những giây phút đạo đức tiêu biểu đối với tất cả mọi người, những giây phút được coi là linh thánh theo truyền thống thánh kinh liên quan đến lễ dâng toàn thiêu ban sáng và ban tối (x Ex 29:38-39) cũng như lễ tiến hương (x Ex 30:6-8), là những giây phút, đối với Kitô hữu từ những thế kỷ ban đầu, tiêu biểu cho hai thời điểm đặc biệt để cầu nguyện.

Việc mặt trời lên và xuống là những giây phút đặc biệt của một ngày sống. Chúng có một tính chất không thể lầm được đó là: vẻ đẹp hân hoan của rạng đông và ánh quang chiếu sáng của hoàng hôn làm thành nhịp sống của vũ trụ chi phối một cách sâu xa đời sống của con người. Ngoài ra, mầu nhiệm cứu độ, một mầu nhiệm được thể hiện trong giòng lịch sử, có những giây phút liên kết với những giai đoạn khác nhau của thời gian. Bởi thế, cùng với việc cử hành Kinh Sáng ở đầu ngày, việc cử hành Kinh Tối đã trở thành thông dụng trong Giáo Hội vào buổi tối. Cả hai giờ kinh phụng vụ này có một nội dung gợi lên cho thấy hai khía cạnh chính yếu của mầu nhiệm vượt qua: “Chúa chết trên thập giá vào buổi tối, sống lại vào buổi sáng… Vào buổi tối tôi thuật lại nỗi khổ đau Người chịu đựng nơi sự chết; vào buổi sáng tôi loan báo sự sống phát xuất từ Người” (St. Augustine, "Esposizioni sui Salmi" [Commentaries on the Psalms], XXVI, Rome, 1971, page 109).

Chính vì liên kết với giây phút tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô mà hai giờ kinh sáng và kinh tối tạo nên, “theo truyền thống đáng kính của toàn thể Giáo Hội, một cơ bản lưỡng diện của Phụng Vụ Giờ Kinh hằng ngày” (constitution "Sacrosanctum Concilium," No. 98).

2.     Vào những thời xưa kia, lúc hoàng hôn buông rơi, việc thắp sáng ngọn đèn dầu là việc mang lại cho các gia đình một cảm nhận hân hoan và hiệp thông. Cộng đồng Kitô hữu cũng thắp lên một cây đèn dầu khi đêm xuống, và nhắc lại tặng ân ánh sáng thiêng liêng bằng tinh thần tạ ơn. Đó là điều được gọi là “lucernario”, tức là việc thắp sáng lên một ngọn đèn về hình thức, với ngọn lửa của nó là biểu hiệu cho Chúa Kitô, “một vầng dương không bao giờ lặn”.

Khi màn đêm buông xuống, Kitô hữu thực sự biết rằng Thiên Chúa chiếu soi ngay cả trong đêm tối ánh quang của việc Ngài hiện diện cũng như ánh sáng của các lời Ngài giáo huấn. Về khía cạnh này, cũng nên nhớ lại bài thánh ca rất xa xưa về ánh sáng: ‘Fôs hilarón” trong phụng vụ Byzantine Armenia và Ethiopian: “Ôi Chúa Giêsu Kitô, ánh sáng hoan lạc của vinh quang linh thánh của Chúa Cha hằng hữu, thiên đình, thánh hảo, phúc đức! Xin hãy xuất hiện khi chiều xuống để khi thấy ánh sáng về đêm, chúng con hát lên những bài thánh ca dâng lên Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Linh. Thật là xứng hợp trong việc hòa tiếng hát ca ngợi Chúa trong mọi lúc, Ôi Con Thiên Chúa, Đấng ban sự sống cho chúng con: vì thế mà vũ trụ loan truyền vinh quang của Chúa”. Tây phương cũng sáng tác nhiều bản thánh ca chúc tụng Chúa Kitô ánh sáng.

Cảm hứng từ biểu hiệu của ánh sáng, kinh nguyện ban tối đã trở thành một hiến tế chúc tụng chiều hôm cùng với sự nhìn nhận các tặng ân tạo dựng cũng như cứu chuộc. Thánh Cyprianô viết: “Mặt trời xuống, ngày tận cùng, cần phải cầu nguyện lại. Thật vậy, như Chúa Kitô là mặt trời đích thực, vào lúc mặt trời lặn và ngày hết trên trần gian này, chúng ta cầu nguyện để xin cho ánh sáng lại chiếu soi trên chúng ta và chúng ta kêu xin Chúa Kitô đến dẫn chúng ta tới ân sủng của ánh sáng trường sinh” ("De oratione dominica," 35: PL 4,560).

3.     Đêm tối là thời gian hay nhất để suy niệm về ngày sống trước nhan Thiên Chúa trong nguyện cầu. Nó cũng là giây phút ‘dâng lời tạ ơn về những gì chúng ta đã được ban cho hay những gì chúng ta đã hoàn thành một cách ngay thẳng’. (St. Basil, "Regulae fusius tractatae," Resp. 37,3: PG 3, 1015). Nó cũng là thời gian để xin thứ tha tội lỗi chúng ta đã vấp phạm, nài xin Chúa Kitô vì tình thương thần linh chiếu soi lòng trí chúng ta một lần nữa.

Tuy nhiên, đêm về cũng gợi lên cho thấy ‘mầu nhiệm về đêm” (mysterium noctis). Bóng tối bao phủ như là một cơ hội của những khuynh hướng thường tình, nhất là của nỗi yếu đuối, chiều theo những cuộc tấn công của ma quỉ. Ngoài ra, khi đêm vềm việc cầu nguyện làm cho chúng ta tham dự vào mầu nhiệm vượt qua, một mầu nhiệm “đêm chiếu sáng như ban ngày” (Exsultet). Bởi vậy, cầu nguyện làm cho hy vọng nở hoa trong việc chuyển từ một ngày tạm thời sang “những ngày vĩnh tại” (dies perennis), từ ánh sáng le lói của một cây đèn dầu tới “lux perpetua” ánh sáng ngàn thu, từ đêm canh thức mong hừng hông tới việc gặp gỡ Đức Vua Vinh Hiển Muôn Đời.

4.     Đôi với người xưa, thậm chí đối với cả chúng ta đây, việc tiếp nối đêm ngày điều hành sự sống, gợỉi lên việc suy niệm về những vấn đề quan trọng của đời sống. Tình trạng tiến bộ tân tiến đã đổi thay một phần nào mối liên hệ giữa sự sống con người và thời gian hoàn vũ. Thế nhưng, nhịp sống căng đầy những hoạt động của con người vẫn không hoàn toàn đưa con người của ngày hôm nay thoát khỏi những nhịp chuyển vận của vầng dương.

Bởi vậy mà hai cứ điểm của việc nguyện cầu hằng ngày vẫn còn nguyên giá trị của mình, liên kết với hiện tượng bất biến và những biểu hiệu trước mắt. Với những thứ nguy hiểm của mình như thế, đêm tối đã trở thành một biểu hiệu cho tất cả mọi thứ sự dữ là những gì Chúa Kitô đã đến giải cứu chúng ta. Ban sáng và ban tối là những thời điểm tuyệt hảo để dâng lời nguyện cầu, chung với người khác hay âm thầm một mình. Liên kết với những giây phút quan trọng của ngày sống và hoạt động, các Giờ Kinh Sáng và Kinh Tối là những cách thức hữu hiệu để dẫn dắt đường lối thường nhật của chúng ta hướng về Chúa Kitô là ‘ánh sáng thế gian’” (John 8:12).

Anh Chị Em thân mến,

Sáng và tối bao giờ cũng là những lúc tuyệt vời để cầu nguyện hướng về Chúa, chung với nhau cũng như riêng một mình. Việc cầu nguyện chiều tối đặc biệt nhắc cho chúng ta rằng cho dù tối tăm của đêm đen đã được sự hiện diện và tình yêu Thiên Chúa chiếu sáng. Việc chúng ta cầu nguyện cuối ngày làm cho chúng ta tràn đầy mong đợi và hy vọng hướng về một ngày hứa hẹn không bao giờ cùng, vì Chúa Kitô la ụ ánh sáng thế gian.

(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, tài liệu từ Vatican Press Office được Zenit phổ biến ngày 8/10/2003)

 

22/10 Thứ Tư

ĐTC đồng tế với các vị tân hồng y để kỷ niệm ngày đăng quang bắt đầu giáo triều 25 năm trước

Hôm nay, 22/10/2003, là ngày kỷ niệm đúng 25 năm ĐTC Gioan Phaolô II đăng quang sau 6 ngày được bầu làm giáo hoàng, ĐTC đã cử hành Thánh Lễ đồng tế với 30 trong 31 tân hồng y được Ngài phong tước hôm qua. Trong Thánh Lễ, ĐTC đã ban cho mỗi vị tân hồng y một chiếc nhẫn để làm biểu hiệu cho phẩm tước, cho mối quan tâm mục vụ và niềm hiệp thông bền vững với Tòa Thánh Phêrô. Trong bài giảng được ĐTGM Leonardi Sandri đọc thay, ĐTC nói:

“Hiệp nhất và cởi mở, hiệp thông và truyền giáo: đó là hơi thở sống động của Giáo Hội. Đó là một khía cạnh song phương của thừa tác vụ Phêrô: phục vụ cho hiệp nhất và phục vụ truyền giáo. Vị Giám Mục Rôma hân hoan chia sẻ việc phục vụ này với chư vị thừa kế các Tông Đồ được liên kết với Ngài trong giáo phẩm đoàn. Theo truyền thống cổ kính, về việc phục vụ ấy, Vị Thừa Kế Thánh Phêrô được hỗ trợ một cách đặc biệt bởi sự hợp tác của các vị hồng y. Qua hồng y đoàn, một Giáo Hội là một Dân Chúa duy nhất được bắt nguồn nơi đa quốc được phản ánh tính cách đại đồng của Giáo Hội…..

“Chiếc nhẫn Tôi mới trao cho quí huynh, quí huynh thân mến, là biểu hiệu cho mối liên kết tái lập đã gắn liền quí huynh với Giáo Hội cũng như với Giáo Hoàng là thủ lãnh hữu hình của Giáo Hội….

“Phấn khởi biết bao trước sự nâng đỡ của lời cầu nguyện đồng tâm nhất trí của dân Kitô giáo dâng lên! Chính Tôi đã cảm nghiệm được niềm an ủi bởi lời nguyện cầu này. Quí huynh rất thân mến, đó là sức mạnh của chúng ta. Và đó là một trong những lý do tại sao Tôi đã muốn hiến dâng 25 năm giáo triều của mình cho Kinh Mân Côi Thánh: để đề cao tính cách chủ yếu của việc cầu nguyện, nhất là việc cầu nguyện chiêm niệm, liên kết với Mẹ Maria, Mẹ Giáo Hội…..

ĐTC đã kết thúc bài giảng bằng lời kêu gọi tất cả mọi vị hồng y hãy gắn bó với “Chúa Kitô, tảng đá sống động… Chúng ta hãy bắt đầu với Người, từ Người, để loan truyền cho tất cả mọi người những kỳ diệu của tình Người yêu thương. Đừng lo sợ và hoài nghi, vì Người đã bảo đảm với chúng ta rằng: ‘Các con hãy tin tưởng nơi Thày, Thày đã chiến thắng thế gian!’”

Sau Thánh Lễ, ĐTC đã tới Sảnh Đường Đức Phaolô VI để gặp một số người đang chờ gặp Ngài. Ngài đã ban phép lành Tòa Thánh cho họ và cùng họ hát bài “Salve Regina” Lạy Nữ Vương.

Về hồng y đoàn, kể từ hôm qua, gồm có 195 vị, kể cả vị còn giữ kín tên tuổi. Trong 195 vị này có 135 vị hợp lệ về tuổi tác cho cuộc mật nghị giáo hoàng tới đây: 66 vị ở Âu Châu, 14 vị ở Bắc Mỹ, 24 vị ở Nam Mỹ, 13 vi ở Phi Châu, 13 vị ở A Ù Châu và 5 vị ở Đại Dương Châu. ĐTC đương kim đã phong tước cho 175 trong số 195 vị hồng y này.

Nhân dịp kỷ niệm đăng quang của ĐTC đương kim, chúng ta hãy cùng nhau đọc lại bài giảng trong Thánh Lễ mừng ngân khánh giáo hoàng của Ngài Thứ Năm 16/10/2003 vừa qua, xem Ngài hào hứng tham dự vào việc tổ chức mừng Ngài ra sao, và đọc qua một tín liệu về việc Ngài đã được tiên đoán làm giáo hoàng.
 

Bài giảng mừng ngân khánh giáo hoàng:

“Nhờ Chúa Kitô, với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô”


1.     “Misericordias Domini in aeternum cantabo – Lạy Chúa, tôi sẽ muôn đời ca ngợi tình yêu bền vững của Chúa” (Ps 88:1). 25 năm trước đây Tôi đã cảm nghiệm được tình thương thần linh một cách đặc biệt. Trong cuộc mật nghị hồng y bầu giáo hoàng ấy, giữa Hồng Y Đoàn, Chúa Kitô cũng đã nói với Tôi, như Ngài đã nói cùng Thánh Phêrô trên bở Hồ Gennesaret: “Con hãy chăn chiên của Thày” (Jn 21:16).

Tôi cảm thấy trong linh hồn Tôi âm vang của câu hỏi được Người đặt ra cho Thánh Phêrô: “Con có yêu mến Thày hơn những người này hay chăng?” (x Jn 21:15-16). “Nói theo loài người thì làm sao Tôi lại không rùng mình chứ? Làm sao một trách nhiệm to tát như thế lại không dè xuống trên mình Tôi chứ? Tôi đã phải tin tưởng vào tình thương thần linh để khi được hỏi ‘ngài có chấp nhận hay chăng?’, Tôi mới có thể tin tưởng đáp rằng: ‘Tuân phục đức tin, trước Đức Kitô là Chúa của mình, phó mình cho Mẹ của Chúa Kitô và Mẹ Giáo Hội, ý thức được những khó khăn to tát, Tôi xin chấp nhận’”

Hôm nay đây, anh chị em thân mến, Tôi hoan hỉ chia sẻ với anh chị em cảm nghiệm đã kéo dài cả một phần tư thế kỷ. Hằng ngày đã xẩy ra cùng một cuộc đối thoại trao đổi giữa Chúa Giêsu và Thánh Phêrô trong tâm khảm của Tôi. Tâm linh của Tôi nhìn lên ánh mắt từ ái của Chúa Kitô phục sinh. Thiên Chúa, dù biết được nỗi mỏng dòn yếu đuối loài người của Tôi, đã thúc giục Tôi đáp lại bằng đức tin như Thánh Phêrô: ‘Lạy Chúa, Chúa biết tất cả mọi sự, Chúa biết rằng con yêu mến Chúa’. Bởi đó Ngài kêu gọi Tôi hãy lãnh nhận trách nhiệm Ngài đã trao phó cho Tôi.

2.     ‘Vị mục tử nhân lành hiến mạng sống mình cho chiên’ (Jn 10:11). Khi Chúa Giêsu tuyên bố những lời này thì các tông đồ không hiểu được rằng Người đang nói về chính bản thân Người. Ngay cả người tông đồ ưu tú Gioan cũng không biết. Ngài đã hiểu được lời này trên đồi Canvê, dưới chân thập giá, khi thấy Người hiến sự sống mình một cách lặng lẽ cho ‘chiên của Thày’.

Khi đến lúc ngài và các tông đồ khác phải sống cùng một sứ vụ này, các vị mới nhớ lại những lời Người phán. Các vị đã nhận ra rằng, chỉ vì Người đã bảo đảm với các vị rằng chính Người sẽ hoạt động qua các vị mà các vị mới có thể hoàn thành sứ vụ của các vị mà thôi.

Vị đặc biệt ý thức được điều này là Thánh Phêrô, ‘chứng nhân cho những khổ đau của Chúa Kitô’ (1Pt 5:1), người đã kêu gọi các vị trưởng lão của Giáo Hội ‘Hãy chăn đàn chiên của Chúa theo trách nhiệm của mình’ (1Pt 5:2).

Qua các thế kỷ, những người thừa kế cho các vị tông đồ, được Thánh Linh dẫn dắt, đã tiếp tục qui tụ đàn chiên của Chúa Kitô lại và dẫn chúng về Nước Trời, ý thức được rằng họ chỉ có thể lãnh nhận một trọng trách như thế là ‘nhờ Chúa Kitô, với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô’.

Tôi đã ý thức được chính điều ấy khi Chúa gọi Tôi thi hành sứ vụ Thánh Phêrô nơi thành đô Rôma yêu dấu này để phục vụ toàn thế giới. Từ khi bắt đầu giáo triều của mình, tư tưởng của Tôi, việc Tôi cầu nguyện và hoạt động đều được tác động bởi một ước muốn duy nhất, đó là làm chứng rằng Chúa Kitô, Vị Mục Tử Nhân Lành, đang hiện diện và hoạt động trong Giáo Hội. Ngài đang liên lỉ tìm kiếm từng con chiên lạc, dẫn nó về đàn chiên, băng bó các vết tích cho nó; chăm lo cho các con chiên yếu đuối và bệnh nạn, cunõng như bảo vệ các con khỏe mạnh. Đó là lý do tại sao, ngay từ ngày đầu tiên, Tôi đã không ngừng lập lại lời khuyến dụ: ‘Đừng sợ tiếp đón Chúa Kitô và chấp nhận quyền bính của Người!’ Hôm nay đây, Tôi xin khẳng khái lập lại là: ‘Hãy mở ra, mở hơn nữa, mở rộng cửa cho Chúa Kitô!’ Hãy để cho Người hướng dẫn anh chị em! Hãy tin tưởng vào tình yêu của Người!

3.     Bắt đầu giáo triều của mình, Tôi đã kêu gọi: ‘Hãy giúp đỡ vị Giáo Hoàng này cũng như giúp cho tất cả những ai muốn phục vụ Chúa Kitô, phục vụ con người và phục vụ toàn thể nhân loại!’. Trong khi cùng với anh chị em dâng lời tạ ơn Chúa về 25 năm này, một giai đoạn đầy những xót thương của Ngài, Tôi đặc biệt cảm thấy cần phải bày tỏ lòng biết ơn của Tôi đối với anh chị em ở Rôma cũng như trên toàn thế giới, những người đã đáp ứng và tiếp tục đáp ứng bằng những cách khác nhau lời Tôi kêu gọi giúp đỡ. Chỉ có một mình Thiên Chúa biết được bao hy sinh, nguyện cầu và chịu đựng được dâng lên Ngài để hỗ trợ Tôi trong việc Tôi phục vụ Giáo Hội. Biết bao nhiêu là thiện chí và quan tâm, bao nhiêu là dấu hiệu hiệp thông vây bọc Tôi hằng ngày. Chớ gì Thiên Chúa lòng lành trả công bội hậu cho tất cả mọi người! Tôi xin anh chị em yêu dấu đừng ngưng lại việc làm yêu thương cao cả này đối với Vị Thừa Kế Thánh Phêrô. Một lần nữa Tôi xin anh chị em: Hãy giúp đỡ vị Giáo Hoàng này cũng như giúp cho tất cả những ai muốn phục vụ Chúa Kitô, phục vụ con người và phục vụ toàn thể nhân loại!

4.     Lạy Chúa Giêsu Kitô là Mục Tử duy nhất của Giáo Hội,
con xin dâng lên Chúa những hoa trái của 25 năm con thi hành
thừa tác phục vụ dân Chúa đã được Chúa trao phó cho con.
Xin hãy thứ tha những sự dữ đã vấp phạm và hãy tăng thêm các sự thiện hảo:
hết mọi sự đều là việc làm của Chúa và vinh quang chỉ thuộc về một mình Chúa.
Đầy lòng tin tưởng vào tình thương của Chúa,
Con lại xin dâng lên Chúa, hôm nay đây một lần nữa, những người qua những tháng năm trước đây
Chúa đã ủy thác cho việc chăm sóc mục vụ của con.
Xin Chúa hãy gìn giữ họ trong yêu thương, qui tụ họ lại về chuồng chiêncủa Chúa,
Chúa hãy vác trên vai Chúa con chiên yếu đuối,
Băng bó cho con bị thương tích, chăm sóc cho con khỏe mạnh.
Chúa là mục tử của họ nhờ đó hô không bị phân tán.
Xin Chúa hãy bảo vệ Giáo Hội yêu dấu ở Rôma,
Và các Giáo Hội trên khắp thế giới.
Xin hãy làm thấm nhiễm ánh sáng và quyền năng của Thần Linh Chúa
Vào tất cả những ai Chúa đã đặt làm thủ lãnh đàn chiên của Chúa:
Để họ mau mắn thi hành sứ vụ của một nhà lãnh đạo, bậc thày và thánh hóa nhân,
Trong khi đợi chờ ngày Chúa đến trong vinh quang.
Nhờ bàn tay của Mẹ Maria, Người Mẹ Yêu Dấu, con xin tái hiến dâng cho Chúa
bản thân con, hiện tại và tương lai:
Chớ gì hết mọi sự được nên trọn theo ý Chúa.
Hỡi Vị Mục Tử Tối Cao, xin hãy ở với chúng con,
để chúng con an bình tiến bước với Chúa về nhà Cha. Amen.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến ngày 20/10/2003

Ðức Giáo Hoàng xem pháo bông mừng ngân khánh

Theo tin của VIS (Vatican Information Service) phổ biến ngày 19/10/2003, sau 8 giờ tối một chút của Chúa Nhật 19/10, ĐTC Gioan Phaolô II đã làm cho nhiều người tụ họp ở Công Trường Thánh Phêrô bỡ ngỡ khi thấy Ngài xuất hiện ở cửa sổ phòng Ngài để xem pháo bông của Thành Phố Rôma thực hiện để mừng ngày ngân khánh giáo hoàng của Ngài. Cuộc bắn pháo bông này được phụ họa bởi nhạc điệu của bài “Missa pro Pace” được nhạc sĩ người Balan là Kilar Wojciech, sáng tác riêng cho ĐTC, một sáng tác được ca đoàn và ban đại hòa tấu National Philharmonic ở Warsaw trình diễn tại Vatican trước sự hiện diện của chính ĐTC hôm 7/12/2001.

Vào lúc kết thúc cuộc bắn pháo bông này, ĐTC đã nói với dân chúng rằng Ngài “hết sức thích thú xem pháo bông”. Ngài cám ơn thị trưởng thành Rôma về việc làm ấy cũng như cám ơn “thành Rôma yêu dấu về cảm tình đã bộc lộ cho Tôi thấy ngay cả qua hình thức này. Bởi thế Tôi chúc lành cho tất cả mọi người công dân Rôma. Chớ gì Chúa Kitô chúc lành cho tất cả mọi anh chị em!”.

Dân chúng tiếp tục vỗ tay và vẫy khăn, làm cho ĐTC trước khi rời chỗ coi pháo bông gần nửa tiếng đồng hồ “cầu chúc cho hết mọi người một buổi tối đẹp đẽ. Chúc anh chị em ngủ ngon”.

Người đã tiên đoán ĐHY Woijtyla làm giáo hoàng

Một trong những người bạn của ĐTC đã tiên đoán Ngài sẽ làm giáo hoàng là linh mục Mieczyslaw Malinski. Thật vậy, trong Thánh Lễ được cử hành tại Đại Học Balan ở Rôma ngày 25/8/1978, ngay trước cuộc mật nghị bầu giáo hoàng lần thứ nhất ngày 26/8/1978. Vì ĐTC Phaolô VI qua đời ngày 6/8/1978 chưa có vị giáo hoàng nào thay thế ngài. Trong lời nguyện giáo dân, vị linh mục này đã xướng lên như sau: “Chúng ta hãy cầu xin để ĐHY Karol Wojtyla được bầu làm giáo hoàng”.

Hết mọi người thamdự thánh lễ bật ngửa ra. Sau giây phút lưỡng lự, cha Stanislaw Dxiwisz, bấy giờ là thư ký của ĐTGM Krakow, và Stanislaw Rylko, hiện là chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Giáo Dân, đã đáp bằng một giọng ái ngại: “Xin Chúa nhậm lời chúng con”. ĐHY Woityla chủ tế không thưa gì cả.

Vị linh mục tiên đoán này là bạn của ĐHY Wojtyla từ năm 1940 khi cả hai là phần tử nhóm “tràng kinh mân côi sống” của người thợ may Jan Tyranowski. Bấy giờ cả hai đã học ở chủng viện chui thời Nazi chiếm đóng Balan. Ngày nay, vị linh mục tiên đoán này đã 80 tuổi, thua vị giáo hoàng đương kim bạn của mình 3 tuổi, là cha sở Nhà Thờ Thánh Phanxicô Salêsiô ở Krakow, chuyên chú vào việc nghiên cứu học hỏi và ký sự. Vị linh mục này đã kể lại như sau.

Hôm ấy, khi được đi theo ĐHY Wojtyla đến dự một phiên họp ở Vatican, vị linh mục này đã nói với ĐHY rằng: “ĐHY sẽ làm giáo hoàng. Ai cũng biết rằng có ba vị ứng viên nổi tiếng người Ý là Sebastiano Baggio, Paolo Bertoli và Giovanni Benelli không thể nào được tuyển bầu làm giáo hoàng”.

ĐTGM Krakow đáp: “ĐHY Stephan Wyszynski đã bảo tôi rằng Đức Giáo Hoàng là người Rôma, bởi thế sẽ là một người Ý”.

Cha Malinski cự lại: “Tôi đã luôn nghĩ đến vị Giáo Hoàng đầu tiên là một người Do Thái”.

ĐTGM Wojtyla chiều ý mà rằng: “Đúng thế, cứ cho rằng ngài sẽ là một người ngoại quốc đi. Có thể là một người Mỹ, Pháp hay Đức”.

Vị linh mục vẫn chưa chịu: “Ngài không thể nào xuất thân từ một đại cường. Ngài phải xuất thân từ một quốc gia nhỏ bé, thậm chí một quốc gia chầu rìa”.

ĐHY Wojtyla liền đề nghị dứt khoát là “ĐHY Franz Kưnig người Áo chẳng hạn”.

Thế nhưng, câu chuyện không dễ chấm dứt ở đó, vị linh mục tiếp tục bày tỏ ý nghĩ của mình: “Ngài phải xuất thân từ một xứ sở nhỏ bé nhưng mạnh về Công giáo. Balan là xứ sở duy nhất không bị khủng hoảng sau Công Đồng Chung Vaticanô II mà thôi”.

Bấy giờ ĐHY Wojtyla không đỡ đòn nữa, vì chính ngài, theo tiểu sử của ngài cho thấy, đã phát động việc học hỏi và áp dụng giáo huấn Công Đồng Chung ở xứ sở Ngài nói chung và ở TGP Krakow của Ngài nói riêng.

Cha Malinski liền nói tiếp như nói với một người thứ ba nào đó: “Vả lại, ĐTGM Krakow không phải là người phong kiến, mà là một vị mục tử và trí thức, đã từng nổi tiếng trong Công Đồng Vaticanô II rồi ở cả các Cuộc Thượng Hội Giám Mục. ĐHY sẽ là vị giáo hoàng tới đây!”

Khi ĐHY Wojtyla bước ra khỏi cuộc mật nghị bầu giáo hoàng lần thứ nhất năm 1978, và vị trúng cử là ĐTC Gioan Phaolô I, ĐHY đã nói với cha Malinski rằng: “Sướng nhé. Người đã trêu ngươi tôi: ‘Ngài còn nói gì được nữa đây? Ngài còn lập luận gì nữa hay chăng?’”

Thế nhưng, cuộc mật nghị hồng y lần thứ hai năm 1978, vào tháng 10, sau cái chết bất ngờ của vị giáo hoàng 33 ngày với tên giáo hoàng kép đầu tiên, lần mật nghị, theo sử gia Weigel viết cuốn “Chứng Nhân Hy Vọng” cho biết, vị tân giáo hoàng đã tỏ ra hầu như bất bình thường trước biến cố bầu lần thứ hai này, cha Malinski không chịu đi Rôma nữa. Ngài đã vùi đầu vào sách vở của mình ở Munster, Đức quốc, nơi ngài đã nghe thấy lời cầu bất bình thường của mình đã được nhậm lời. Amen.
 

21/10 Thứ Ba

ÐTC Phong Tước cho tân 31 hồng y

Đúng như chương trình ấn định, chương trình mới được cập nhật hóa trong dịp mừng ngân khánh giáo hoàng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, ĐTC đã phong tước hồng y thêm cho 31 vị thuộc 23 quốc gia nữa dịp mật nghị hồng y thứ chín trong giáo triều của Ngài ngày 21/10/2003, sau ngày Ngài đắccử Giáo Hoàng 5 ngày và trước ngày Ngài đăng quang giáo hoàng 1 ngày.

Mở đầu lễ nghi, ĐTC đọc câu công thức chính thức phong tước các tân hồng y của Giáo Hội Công Giáo Rôma. Rồi sau đó Đức tân hồng y Jean-Louis Tauran, nguyên bộ trưởng ngoại giao của Tòa Thánh, đại diện các vị tân hồng y cám ơn ĐTC. Tiếp theo là phụng vụ Lời Chúa và bài giảng của ĐTC do ĐTGM Leonardi Sandri đọc. Sau đây là một số tư tưởng tiêu biểu chính của Ngài trong bài giảng:

“Hồng Y Đoàn được tăng thêm số để phản ánh tính cách đa diện của chủng tộc và văn hóa làm nên đặc tính của dân Kitô giáo, cũng như để đề cao một lần nữa tính cách hiệp nhất của hết mọi phần thuộc đoàn chiên Chúa Kitô với Ngai Tòa Giám Mục Rôma”.

“Trong việc thi hành thừa tác vụ của mình, Người Thừa Kế Vị Đánh Cá Xứ Galilêa tin tưởng vào việc trung thành cộng tác của quí huynh; Ngài xin quí huynh hãy hỗ trợ Ngài bằng lời nguyện cầu, và Ngài kêu cầu Thánh Linh để mối hiệp thông nơi những người được Chúa ‘tuyển chọn làm những vị đại diện cho Con của Ngài và làm mục tử’ không bao giờ bị rạn nứt”

“Mầu mũ đỏ đậm nơi y phục hồng y nói lên cho thấy mầu máu và gợi lên tính cách anh hùng của các vị tử đạo. Nó là biểu hiệu cho tình yêu đối với Chúa Giêsu cũng như đối với Giáo Hội của Người, một tình yêu vô giới hạn: một tình yêu cho đến hiến mạng sống mình ‘usque ad sanguinis effusionem’”.

“Vì lý do đó, tặng ân quí huynh đang lãnh nhận đây là một tặng ân cao cả, cũng như trách nhiệm bởi đó mà ra…. Việc rao giảng bằng lời nói và gương lành được áp dụng cho hết mọi vị mục tử, đặc biệt áp dụng cho quí huynh, hỡi quí phần tử Hồng Y Đoàn thân mến và khả kính”.

“Lý lẽ của việc phục vụ hiển nhiên là ngược lại với lý lẽ của thế gian: ở chỗ chết cho bản thân kình để trở thành những người tôi tớ khiêm hạ vô tư phục vụ anh chị em mình, loại trừ khuynh hướng chiếm đạt về chức nghiệp hay lợi lộc tư riêng”.

“Chỉ khi nào quí huynh trở thành những người tôi tớ, quí huynh mới hoàn thành sứ vụ của mình và mới giúp cho Vị Thừa Kế Thánh Phêrô trở thành ‘tôi tớ của mọi tôi tớ Thiên Chúa’, như vị tiên nhiệm Grêgôriô Cả của Tôi đã gọi chính mình”.

Cuối bài giảng, ĐTC mời các vị tân hồng y tuyên xưng đức tin và thề hứa trung thành cùng tuân phục Đức Thánh Cha cũng như các vị kế vị Ngài. Sau đó, từng vị hồng y, theo thứ tự được phong tước, tiến tới với Ngài để được Ngài đặt mũ lên đầu và trao Sắc Lập hồng y cùng với danh xưng xủa nhà thờ ở Rôma, như dấu hiệu nói lên việc tham dự vào mối quan tâm mục vụ của Giáo Hoàng nơi thành Rôma. Sau khi tỏ dấu hiệu chào bình an với ĐTC, các vị tân hồng y đã trao cho nhau cử chỉ chào chúc bình an. Tiếp theo là lời cầu nguyện cho ĐTC, cho Giáo Hội, các tân hồng y và hòa bình thế giới. ĐTC ban phép lành tòa thánh và xướng kinh “chúng con trông cậy” sub tuum praesidium kết thúc buổi lễ phong tước 31 tân hồng y.

Nhân dịp này, dòp ÐTC Gioan Phaolô II phong tước hồng y cho thêm 31 vị nữa.chúng ta hãy duyệt qua nội dung của Tông Huấn hậu thượng hội Giám Mục Thế Giới lần thứ X, cũng như những lời ÐTC chia sẻ với các vị giám mục Phi Luật Tân về Cộng Ðồng Môn Ðệ Chúa Kitô

 

Tông Huấn Các Vị Mục Tử của Đàn Chiên “Pastores Gregis” Hậu Thượng Hội Giám Mục Thế Giới Lần X

ĐTC chính thức ban hành văn kiện

Vào chính ngày kỷ niệm mừng ngân khánh giáo hoàng của mình, Thứ Năm 16/10/2003, trước sự hiện diện của Hồng Y Đoàn và các phần tử của Giáo Triều Rôma, tại Sảnh Đường Phaolô VI, lúc 11 giờ sáng, ĐTC Gioan Phaolô II đã ký bức tông huấn này.

Khi ĐTC tiến vào Sảnh Đường thì Ca Đoàn Sistine hát bài “Này con là Đá”. Sau lời giới thiệu của ĐHY Schotte, tổng thư ký của thượng hội giám mục, ĐTC đã ký vào bức tông huấn này, và Ca Đoàn Sistine đã hát bài Người Mẹ Ẩn Dật của Chúa Cứu Thế “Alma Redemptoris Mater”, sau đó ĐTC đã ngỏ lời với cộng đoàn hiện diện bấy giờ.

ĐTC đã xác nhận là nơi văn kiện này, “các giáo phụ nhấn mạnh đến tầm quan trọng lớn lao của việc hàng giáo phẩm phục vụ đời sống của Dân Chúa. Các vị nhất mạnh đến bản chất đoàn tính của hàng giáo phẩm. Các vị cũng nhấn mạnh là các vai trò giảng dạy, thánh hóa và quản trị cần phải được thi hành trong mối hiệp thông phẩm trật và trong niềm hiệp nhất huynh đệ với Đầu cũng như với các phần tử khác của giáo phẩm đoàn”.

Đề cập đến những tính chất của thừa tác vụ giám mục, ĐTC đã nhấn mạnh rằng “tình yêu thương hết mọi người và sự chú trọng đến mỗi một người, tình thương và việc tìm kiếm chiên lạc…. Ngoài ra, (vị giám mục)được kêu gọi làm một người cha, một thày dạy, bạn hữu và anh em với hết mọi người theo gương Chúa Kitô. Trung thành theo con đường này, vị giám mục mới đạt được sự thánh thiện, một sự thánh thiện phải được phát triển không phải với thừa tác vụ mà là nhờ thừa tác vụ.

“Về vấn đề trở thành người loan báo Lời thần linh, làm thày dạy và làm tiến sĩ đức tin, vị giám mục có nhiệm vụ giảng dạy đức tin Kitô giáo một cách minh tường theo tông truyền, lập đi lập lại điều này một cách chân chính…. Là người hướng đạo cho dân Kitô giáo… vị giám mục phải lo cổ võ việc tất cả mọi tín hữu tham dự vào vấn đề xây dựng Giáo Hội… Ngài sẽ là một vị ngôn sứ của công lý và hòa bình, là tay bênh vực các thứ quyền lợi của thành phần vô dụng cũng như của những ai bị tẩy chay. Ngài sẽ loan báo cho tất cả mọi người Phúc Âm sự sống, sự thật và yêu thương. Ngài sẽ cảm thương nhìn đến đông đảo thành phần nghèo khổ đang sống trên mặt đất này… Nhắc nhở ý muốn của Chúa Kitô ‘cho tất cả được hiệp nhất nên một’, ngài sẽ bảo trì con đường đại kết…. Và sẽ trở thành người phát động vấn đề đối thoại liên tôn”.

ĐTC cũng nêu lên nhận định của mình là “vai trò chúng ta được kêu gọi thực hiện là vai trò khó khăn và nghiêm trọng. Chúng ta tìm thấy sức mạnh ở đâu để thực hiện vai trò này theo ý muốn của Chúa Kitô đây? Chắc chắn là chỉ ở nơi một mình Người mà thôi. Làm mục tử chăn dắt đàn chiên của mình là một việc đặc biệt khó khăn và gay go. Tuy nhiên, chúng ta phải hy vọng trong thất vọng ‘contra spem in spem’. Chúa Kitô bước đi với chúng ta và bảo trì chúng ta bằng ân sủng của Người”.

Ca đoàn kết thúc bài diễn từ của ĐTC bằng bài Ca Ngợi Chúa “Cantate Domino”, ĐTC trao một bản tông huấn cho các vị hiện diện, cho các vị tổng liên hệ và cho 5 vị phẩm trật đại diện cho 5 châu lục. Kết thúc là hát Kinh Lạy Cha và lãnh phép lành tòa thánh của ĐTC.

Nội dung của bức Tông Huấn

Bức Tông Huấn hậu thượng hội giám mục thế giới về chủ đề “Giám Mục, Người Tôi Tớ Phục Vụ Phúc Âm của Chúa Giêsu Kitô Cho Niềm Hy Vọng của Thế Giới”, một cuộc thượng hội đã diễn tiến tại Vatican vào thời đoạn 30/9 tới 28/10/2001. Bản văn kiện 196 trang này có 7 chương, không kể phần nhập đề và kết luận.

Phần nhập đề có bốn mục: Hội Nghị Giám Mục Lần Thứ 10; một niềm hy vọng nơi Chúa Kitô; Hy Vọng, khi những hy vọng bị đụng mạnh; Những người tôi tớ của Phúc Âm cho niềm hy vọng của thế giới.

Chương nhất với tựa đề “Mầu nhiệm và thừa tác vụ của Giám Mục”, được chia làm năm đoạn: “… và Người đã chọn ra 12 vị tông đồ” (Lk 6:13); Nền tảng Ba Ngôi nơi thừa tác của hàng giáo phẩm; bản chất đoàn tính của thừa tác vụ giám mục; tính chất truyền giáo và bản chất hiệp nhất của thừa tác vụ giám mục; và “Người đã kêu gọi đến với Người những ai Người muốn” (Mk 3:13-14).

Chương hai với tựa đề “Đời sống thiêng liêng của Giám Mục” được chia làm 15 đoạn: “Và Người đã chỉ định 12 vị để họ ở với Nguời” (Mk 3:14); ơn gọi nên thánh trong Giáo Hội vào thời đại chúng ta; hành trình thiêng liêng của vị Giám Mục; Maria, Mẹ Niềm Hy Vọng và là sư phụ dạy sống đời thiêng liêng; ký thác bản thân mình cho Lời Chúa; kín múc dưỡng chất nơi Thánh Thể; việc cầu nguyện và phụng vụ giờ kinh; Đường lối sống những lời khuyên Phúc Âm và các mối Phúc Đức; nhân đức tuân phục; tinh thần và đời sống khó nghèo nơi các vị Giám Mục; sống thanh tịnh để phục vụ một Giáo Hội phản ảnh sự tinh tuyền của Chúa Kitô; bênh biện cho một thứ linh đạo hiệp thông và truyền giáo; một cuộc hành trình được đảm trách nơi cuộc sống hằng ngày; việc huấn luyện Giám Mục thường xuyên; và Gương mẫu các vị giám mục thánh đức.

Chương ba về các vị giám mục là “Thày Dạy Đức Tin và Người Loan Tin Mừng Lời Chúa”, gồm có 6 đoạn: “Hãy đi lhắp thế gian rao giảng Phúc Âm” (Mk 16:15); Chúa Kitô ở ngay tâm điểm của Phúc Âm và của nhân loại; Giám Mục, người nghe và canh giữ Lời Chúa; việc phục vụ Lời Chúa một cách chính đáng và có uy tín; thừa tác vụ giáo phẩm đối với vấn đề hội nhập văn hóa của Phúc Âm; việc giảng dạy bằng lời nói và bằng gương mẫu.

Chương bốn về “Thừa Tác Viên Ân Sủng cho Vị Linh Mục Thượng Phẩm”, được chia làm 10 đoạn: “Được thánh hóa trong Chúa Giêsu Kitô, được kêu gọi làm một vị thánh” (1Cor 1:2); nguồn mạch và là tột đỉnh sinh hoạt nơi mỗi một Giáo Hội riêng; tính cách quan trọng của Vương Cung Thánh Đường; Vị Giám Mục, dàn xếp viên về phụng vụ như một khoa sư phạm về đức tin; trọng tâm của Ngày của Chúa và của phụng niên; Vị Giám Mục là thừa tác viên cử hành Thánh Thể; trách nhiệm của Giám Mục đối với việc gia nhập Kitô giáo; Trách nhiệm của Giám Mục về qui luật thống hối; việc chú trọng đến lòng sùng kính phổ thông; phát động nên thánh cho tất cả mọi tín hữu.

Chương năm về “Việc quản trị về mục vụ của Giám Mục”, được chia thành 13 đoạn, thứ tự như sau: “Thày đã làm gương cho các con” (Jn 13:15); quyền bính của Giám Mục để giúp vào việc mục vụ; Kiểu quản trị mục vụ và mối hiệp thông giáo phận; những yếu tố của Giáo Hội riêng; việc thăm viếng mục vụ; Giám Mục với hàng giáo sĩ; việc huấn luyện các tuyển sinh làm linh mục; Giám mục với các phó tế vĩnh viễn; mối quan tâm của Giám mục với những con người tận hiến; tín hữu giáo dân được Giám Mục chăm sóc mục vụ; mối quan tâm của Giám Mục đối với đời sống gia đình; giới trẻ, vấn đề ưu tiên mục vụ cho tương lai; vấn đề cổ võ ơn kêu gọi.

Chương sáu về “Về mối hiệp thông của các Giáo Hội”, được chia ra thành 11 đoạn như sau: “Mối lo âu đối với tất cả mọi Giáo Hội” (2Cor 11:28); Giám Mục Giáo Phận liên hệ với Thẩm Quyền Tối Cao của Giáo Hội; Những cuộc viếng thăm Tòa Thánh ngũ niên; Thượng Hội Giám Mục; Mối hiệp thông giữa các vị Giám Mục và các Giáo Hội ở cấp địa phương; Các Giáo Hội Công Giáo Tây Phương; Các Giáo Hội thuộc Thượng Phụ và Công Nghị của các Giáo Hội này; Cơ cấu Tòa TGM và các Giáo Tỉnh; Hội Đồng Giám Mục; mối hiệp nhất của Giáo Hội và vấn đề đối thoại đại kết; Tinh Thần Truyền Giáo nơi thừa tác vụ của giáo phẩm.

Chương bảy về “Vị Giám Mục trước những thách đố hiện nay”, được chia làm 7 đoạn như sau: “Hãy vui lên, Thày đã chiến thắng thế gian” (Jn 16:33); Giám Mục là người cổ võ công lý và hòa bình; việc đối thoại liên tôn, nhất là vì nền hòa bình thế giới; sinh hoạt dân sự, xã hội và kinh tế; vấn đề tôn trọng môi trường và việc bảo vệ thiên nhiên tạo vật; thừa tác vụ của Giám Mục trong lãnh vực sức khỏe; việc chăm sóc mục vụ của Giám Mục đối với những người di dân.

Bức Tông Huấn với Biến Cố 911

Trong bức Tông Huấn mới nhất này, ĐTC Gioan Phaolô II đã nhắc lại biến cố 911, vì biến cố này xẩy ra ngay trước biến cố thượng hội giám mục thế giới 16 ngày. Qua biến cố 911, ĐTC chứng tỏ cho thấy tất cả mọi niềm hy vọng của con người vào những gì không phải là Thiên Chúa đều bất khả hiện thực. Ngài viết:

“Các vị Nghị Phụ Thượng Hội đã cảm thấy thấm thía trước biến cố kinh hoàng ngày 11/9/2001, một biến cố gây ra cho vô số nạn nhân vô tội phải chịu một số phận thê thảm, và làm xuất hiện trên thế giới của những tình hình bất an và lo sợ mới mẻ trầm trọng, cho cả văn minh nhân loại lẫn cuộc sống chung thuận hòa giữa các dân nước. Một thứ ám ảnh lo âu về chiến tranh và chết chóc hiện lên, một thứ ám ảnh lo âu mà, cộng thêm với những tình hình xung khắc hiện tại, lại càng hiển nhiên cho thấy nhu cầu cần phải nài xin Vua Bình An cho lòng trí con người một lần nữa biết hướng về việc hòa giải, đoàn kết và hòa bình. Cùng với lời cầu nguyện của mình, thượng hội giám mục này lên án tất cả mọi hình thức bạo lực và cho thấy căn nguyên tận cùng của những hình thức này là do tội lỗi của con người.

“Nhận thức được cái thất bại của những gì con người hy vọng dựa vào vật chất, vào những gì nhất thời cũng như vào các ý hệ thị trường, những gì cho rằng mọi sự được đo lường bằng hiệu lực, bằng những mối liên hệ giữa quyền lực với thế lực thị trường, các Nghị Phụ đã tái xác nhận niềm xác tín của mình là chỉ có ánh sáng của Đấng Phục Sinh và sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần mới giúp cho con người đặt những niềm mong đợi của mình trên niềm hy vọng không làm thất vọng mà thôi.

“Chúng ta không được để cho mình bị đe dọa bởi những thứ chủ nghĩa chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa hằng sống, và là những thứ chủ nghĩa cố gắng, không nhiều thì ít, công khai làm suy yếu, nhạo báng hay chế diễu niềm hy vọng Kitô giáo. ‘Chúa Kitô thực sự đã phục sinh!’ Nơi nhân tính vinh hiển của Người, Người đã mở ra một viễn ảnh sự sống trường sinh cho tất cả những ai chấp nhận ơn hoán cải.

“Niềm hy vọng vào Chúa Giêsu Vị Mục Tử Nhân Lành sẽ làm cho lòng của ngài (giám mục) đầy cảm thương, thúc đẩy ngài xích lại gần với nỗi đau đớn của hết mọi con người nam nữ khổ đau, và băng bó hàn dịt nhưnõg thương tích của họ, tin tưởng rằng ngài sẽ tìm thấy hết mọi con chiên lạc”.


Cộng Đồng Môn Đệ Chúa Kitô

Bài chia sẻ của ĐTC với các vị Giám Mục Phi Luật Tân đợt thứ hai thăm tòa thánh

ĐTC đã gặp gỡ các vị giám mục Phi Luật Tân đợt 2 sang thăm tòa thánh ngũ niên, những vị thuộc các giáo tỉnh Caceres, Capiz, Cebu, Jaro và Palo, và đã tiếp tục chia sẻ về một trong ba điểm chính được Giáo Hội ở Phi Luật Tân đề ra và thực hiện. Với đợt một, ĐTC đã nói về vấn đề Giáo Hội của người nghèo, lần này, với đợt thứ hai, Ngài đã nói đến vấn đề phát triển để trở thành một cộng đồng môn đệ Chúa Kitô. Sau đây là bài chia sẻ của Ngài.

1. ….

Như Tôi đã đề cập đến với nhóm các Vị Giám Mục Phi Luật Tân đợt nhất, các biến cố quan trọng của giáo hội là Đại Công Hội Lần hai năm 1991 và Cuộc Tham Luận Mục Vụ Toàn Quốc gần đây hơn về vấn đề Canh Tân Giáo Hội đã có những tác dụng tích cực bền bỉ nơi đời sống của những người Công Giáo Phi Luật Tân. Đại Công Hội đã nhấn mạnh đến nhu cầu thực hiện ba việc mục vụ căn bản, đó là trở thành một Giáo Hội cho người nghèo, phát triển thành một cộng đoàn các môn đệ của Chúa, và dấn thân vào việc làm mới lại vấn đề truyền bá phúc âm hóa toàn diện. Thật vậy, cái thách đố của việc thực hiện trọn vẹn dự án tam diện này tiếp tục thổi một luồng sự sống mới vào Giáo Hội Phi Luật Tân và xã hội Phi Luật Tân nói chung. Vì đã khai triển đề tài Giáo Hội của người nghèo với nhóm Giám Mục đợt nhất, giờ đây Tôi chú trọng đến ưu tiên thứ hai, đó là vấn đề trở thành thực sự một cộng đoàn môn đệ Chúa.

2.     Cuộc Tham Luận Mục Vụ Toàn Quốc đã diễn tả Giáo Hội ở Phi Luật Tân là “cộng đồng của thành phần các môn đệ mạnh mẽ tin vào Chúa Giêsu và là thành phần vui sống trong thuận thảo và đoàn kết với nhau, với tạo vật và với Thiên Chúa” (Vision-Mission Statement of the Church in the Philippines). Điều này nhắc chúng ta nhớ đến giáo huấn của Chúa Giêsu trong Phúc Âm Thánh Gioan khi Người cắt nghĩa rằng là môn đệ của Chúa không phải là một quyết định bất bình thường mà là một đáp ứng nghiêm cẩn, ưu ái trước một lời mời gọi tư riêng: “Không phải các con đã chọn Thày song Thày đã chọn các con và sai các con đi sinh hoa kết trái, cho hoa trái của các con tồn tại. Thày truyền cho các điều này là các con hãy mến thương nhau” (Jn 15:16,17). Cách thức các môn đệ bày tỏ tình yêu của mình là một trong nhiều đề tài được quí huynh và Anh Em Giám Mục của quí huynh tìm cách nói lên, minh nhiên dạy rằng để trở nên một người môn đệ đích thực của Chúa Kitô cần phải được “huấn luyện toàn bộ đức tin”.Thật vậy, chỉ nhờ có tính cách làm môn đệ chân chính này, một tính cách dựa trên căn bản tình đoàn kết yêu thương, mà người Phi Luật Tân mới có thể bắt đầu giải quyết được tình trạng phân rẽ đáng lo ngại giữa đức tin và đời sống là tình trạng lan tràn rất nhiều xã hội tân tiến ngày nay.

3.     Trong Tông Huấn Hậu Thượng Hội Giám Mục Á Châu “Giáo Hội Tại Á Châu”, Tôi đã đề cập đến cái hãnh diện người Á Châu có được nơi các giá trị tôn giáo và văn hóa của một thứ yêu chuộng sự thinh lặng, chiêm niệm, giản dị và ôn hòa, chỉ cần liệt kê một ít vậy thôi. “Tất cả những điều này cho thấy một thứ minh thức thiêng liêng sâu xa và một thứ khôn ngoan về luân thường nơi tâm hồn người Á Châu” (đoạn 6). Cái “minh thức thiêng liêng” này được chứng tỏ hiển nhiên nơi những cảm thức tôn giáo sâu xa của dân chúng Phi Luật Tân và là một mảnh đất phì nhiêu bồi dưỡng cho môi trường thuận lợi giúp cho mọi Kitô hữu đóng vai trò làm môn đệ Chúa đích thực hơn. Bức Thư Mục Vụ của quí huynh về linh đạo trình bày là chính việc dấn thân lấy Chúa Kitô làm trọng tâm cho thấy dân chúng của quí huynh như là những kẻ lữ hành trên con đường về quê hương chân thật. Việc thường xuyên tham dự Lễ Chúa Nhật, việc chủ động tham gia các sinh hoạt giáo xứ và các ngày lễ, những việc tôn sùng Thánh Mẫu đáng khâm phục và rất nhiều đền thánh có tầm mức quốc gia nơi xứ sở của quí huynh chỉ là một ít tỉ dụ về gia sản Kitô giáo phong phú làm nên một phần toàn vẹn của đời sống và văn hóa. Ngoài những khía cạnh tích cực này, vẫn còn có một số xung khắc giữa Kitô hữu cũng như nơi xã hội Phi Luật Tân nói chung. Những điều phi lý này chỉ có thể được chỉnh lại bằng việc quí huynh hoàn toàn cởi mở trước tinh thần của Chúa Kitô, đi vào lòng đời và biến đổi nó thành một thứ văn hóa của công lý và hòa bình (cf. "Apostolicam Actuositatem," 4).

4.     Trong việc hoàn thành những mục đích caoi quí ấy quí huynh cần phải dấn thân trong việc sửa soạn cho thành phần tín hữu giáo dân được trở thành những người môn đệ đích thực trước thế giới. Chính những Vị Mục Tử của các Giáo Hội địa phương phải làm sao cho giáo dân có những chương trình dự bị về tu đức cũng như về giáo lý để sửa soạn cho họ thi hành sứ vụ này. Tôi lấy làm phấn khởi khi thấy Giáo Hội ở Phi Luật Tân đã nỗ lực tìm nhiều cách để hoàn thành trách nhiệm ấy. Đây là một điều hiển nhiên, chẳng những nơi những cơ hội về giáo dục được rất nhiều Giáo Phận cung ứng, mà còn nơi những tổ chức giáo dân khác nhau cũng như nơi các cộng đồng và phong trào đức tin nhỏ bé đang phát triển ở xứ sở của quí huynh. Mặc dù mới nhìn thì những nhóm này có vẻ rất khác nhau, nhưng “chúng tất cả cùng hướng về một qui điểm bao gồm hết mọi sự và sâu xa theo chiều kích mục đích chung của chúng” (Tông Huấn Người Tín Hữu Giáo dân "Christifideles Laici," 29). Đặc biệt là trường hợp những nhóm như thế biết chủ động dấn thân tham gia vào sinh hoạt giáo xứ và bảo tồn mối liên hệ hiệp thông cởi mở thiết tha với nhau, với các vị linh mục giáo xứ cũng như với các vị Giám Mục của họ. Như Chúa Kitô đã dạy: “Căn cứ vào điều này mà tất cả mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ của Thày, đó là các con yêu thương nhau” (Jn 13:34).

5.     Một trong những đóng góp chính Giáo Hội có thể thực hiện trong vấn đề bảo đảm cho một cuộc sửa soạn vững chắc của thành phần giáo dân đó là làm sao bảo đảm được rằng các chủng viện cũng như các tu viện đang huấn luyện các vị linh mục tương lai biết hiến mình làm môn đệ của Lời Chúa và Bí Tích. Nó là một tiến trình phức tạp được bắt đầu bằng việc tuyển chọn các ứng viên. Về khía cạnh này, Tôi đề nghị là quí huynh và các vị linh mục của quí huynh phải chủ động tìm kiếm những con người trẻ tốt lành, đạo hạnh và thăng bằng cho thiên chức linh mục, và thách đố họ đừng lo sợ “thả lưới ở chỗ nước sâu” để đánh được một mẻ giá trị khôn lường (cf. "Novo Millennio Ineunte," 1).

Một khi đã tuyển chọn ứng viên làm linh mục, tiến trình sửa soạn cho họ trở thành một vị linh mục tốt lành và thánh đức bắt đầu. Điều này đòi phải có “một cuộc huấn luyện về thiêng liêng cũng như về giáo huấn về tín lý cho những sinh viên trong chủng viện hòa hợp với nhau” ("Codex Iuris Canonici," c. 244), và phải được trông coi bởi những huấn luyện viên tinh tường. Chúng ta có thể nói đến ở đây về các mẫu huấn luyện khác nhau: huấn luyện về nhân bản để giúp các ứng viên sống và đi sâu vào các nhân đức linh mục, nhất là những nhân đức giản dị, thanh sạch, khôn ngoan, nhẫn nại và vâng lời; huấn luyện về tri thức nhấn mạnh đến việc học hỏi sâu xa kỹ lưỡng về triết lý và thần học, bao giờ cũng trung thành với các giáo huấn của Huấn Quyền; huấn luyện về mục vụ để giúp cho các ứng viên áp dụng các nguyên tắc thần học vào các trường hợp mục vụ; và huấn luyện về tu đức nhấn mạnh đến nhu cầu thiết yếu trong việc thường xuyên cử hành các bí tích, nhất là bí tích thống hối, cũng như thực hành việc cầu nguyện chung riêng và năng bàn hỏi với vị linh hướng (cf. "Pastores Dabo Vobis," 43-59, "Codex Iuris Canonici," c. 246 ). Bất cứ khoa học huấn luyện linh mục nào cung cấp những yếu tố ấy mới thực sự làm phát sinh ra những thừa tác viên vui lòng “chiến đấu để trung thành với Chúa cũng như để kiên quyết phục vụ đoàn chiên của mình” ("Pastores Dabo Vobis," 82).

6.     Hội Đồng Mục Vụ Toàn Quốc đã bàn dài dòng đến nhu cầu nâng đỡ và hỗ trợ các vị linh mục thi hành thừa tác vụ của các vị, và đã quyết tâm “tìm kiếm những đường lối mới mẻ cho việc tiếp tục huấn luyện” hàng giáo sĩ (Proceedings and Addresses of the NPCCR, January 2001, p. 59). Vấn đề này tương tự như việc canh tân liên lỉ về “tinh thần và tâm trí” được Thánh Phaolô viết đến trong Thư gửi giáo đoàn Êphêsô (x. 4:23-24). Trong trường hợp huấn luyện các chủng sinh, huấn luyện linh mục đòi phải có một đường lối “hòa hợp” bao giờ cũng cổ võ những nhân đức linh mục là bác ái, cầu nguyện, thanh tịnh và trung thành cử hành phụng vụ, những thực hành bị văn hóa tân tiến cùng với ngành truyền thông đại chúng của nó coi thường, thậm chí loại bỏ.

Giáo sĩ ngày nay phải cẩn thận trong việc chấp nhận quan điểm trần tục coi vai trò linh mục như là một thứ “nghề nghiệp” và là phương kế sinh nhai. Trái lại, giáo sĩ phải thấy vai trò linh mục như là một ơn gọi phục vụ yêu thương vô vị kỷ, hết sức tha thiết với “tặng ân độc thân quí hóa” cũng như tất cả những gì thuộc về tặng ân này. Đến đây Tôi muốn nhấn mạnh là vấn đề độc thân được coi là một phần toàn diện thuộc đời sống ngoại tại và nội tại của vị linh mục, chứ không phải chỉ là một lý tưởng lâu đời cần phải được tôn trọng” (cf. "Presbyterorum Ordinis," 16). Đáng buồn thay, lối sống của một số giáo sĩ đã trở thành một thứ phản chứng đối với tinh thần của những lời khuyên Phúc Âm là những gì phải làm nên linh đạo của hết mọi vị linh mục. Hành vi cử chỉ gương mù gương xấu của một số ít này đã làm suy yếu đi uy tín của nhiều người. Tôi muốn quí huynh hiểu rằng Tôi biết đến cách thức tế nhị quí huynh đã nỗ lực nói lên vấn đề này, và Tôi xin quí huynh đừng thất vọng. Tính cách làm môn đệ đích thực đòi phải yêu thương, thương cảm và có những lúc nghiêm ngặt để phục vụ công ích. Luôn luôn phải chính trực song bao giờ cũng phải xót thương.

7. … (nguyện cầu và chúc lành)

Ðaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch ừ tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến ngày 9/10/2003

 

20/10 Thứ Hai

Lễ Phong Chân Phước cho Mẹ Têrêsa Calcutta

Trước 300 ngàn người tham dự thánh lễ tại quảng trường Thánh Phêrô sáng Chúa Nhật Truyền Giáo 19/10/2003 hôm nay, trong đó có 450 nữ tu Dòng Chư Thừa Sai Bác Ái của Mẹ Têrêsa và 3000 ngàn người nghèo được các nữ tu này mang về Rôma từ khắp nơi trên thế giới để tham dự thánh lễ dài 3 tiếng đồng hồ, ĐTC Gioan Phaolô II đã chia sẻ bằng một giọng chậm rãi run run trong bài giảng của Ngài như sau:

“Anh chị em thân mến, ngay cả cho đến ngày hôm nay Thiên Chúa vẫn tác tạo nên những mẫu gương mới về thánh đức. Một số gương mẫu mới về thánh đức này tự bản chất cho thấy tính cách sâu xa của chúng, như mẫu gương của Mẹ Têrêsa Calcutta, vị chúng ta hôm nay cho thêm tên tuổi vào hàng ngũ các vị chân phước. Nơi Mẹ, chúng ta thấy được sự khẩn trương hiến mình vào việc phục vụ, nhất là phục vụ thành phần nghèo khổ nhất và bị quên lãng nhất, thành phần thấp hèn nhất trong các người thấp hèn”. (xin xem tàn bài giảng trong tuần này)

Những dân cư ở Kolkata (trước kia là Calcutta) theo dõi thánh lễ này qua màn ảnh truyền hình vĩ đại và cử hành hai Thánh Lễ ở nơi vị tân chân phước đã sống, đã hoạt động và được an táng. Tại Vatican, dân chúng đứng xếp hàng dài để tới xem các thánh tích của Vị Tân Chân Phước.

Nữ Tu Bề Trên Tổng Quyền kế thừa Mẹ Têrêsa của tu hội Chư Thừa Sai Bác Ái này đã nói: “Có một ngọn lửa bừng lên ở khắp nơi, đó là sự chú trọng tới Mẹ Têrêsa, muốn biết về sứ điệp của Mẹ, muốn biết hơn về Mẹ”. ĐTGM Henry D’Souza TGM Kolkata cho biết: “Nhiều người sẽ đến gần Thiên Chúa hơn. Nhiều người sẽ muốn hiến cuộc đời của mình cho kẻ nghèo và phục vụ người khác”.

Sứ Điệp của Tòa Thánh Vatican gửi Tín Đồ Ấn Giáo dịp Lễ Ánh Sáng 2003

Các Bạn Ấn Giáo thân mến,

1.- Năm nay, một lần nữa, tôi hân hoan gửi đến quí bạn lời chào hỏi và chia sẻ với quí bạn một sứ điệp ngắn vào dịp lễ Ánh Sáng, lễ quí bạn cử hành theo truyền thống tôn giáo đáng kính của quí bạn. Tôi biết rằng trong số nhiều lễ của Ấn giáo được quí bạn cử hành trong năm thì riêng lễ này có một vị thế đặc biệt đối với quí bạn cũng như với gia đình của quí bạn. Lễ Ánh Sáng là thời gian để gia đình tụ họp lại với nhau, và để cử hành một cách ý vị các thứ lễ nghi được qui định theo truyền thống cổ kính. Tôi xin gửi đến từng người trong quí bạn cùng toàn thể gia đình quí bạn những lời cầu chúc tốt đẹp nhất của tôi.

2.- Các ngày lễ về tôn giáo mời gọi chúng ta chẳng những canh tân mà còn củng cố niềm tin tưởng của chúng ta vào Thiên Chúa là Sự Thiện Tối Cao của hết mọi người nữa, cũng như để làm tái sinh động các mối liên hệ của chúng ta với nhau, thế nhưng, những ngày lễ ấy cũng mời gọi chúng ta hãy tái nhận thức, nghiêm cẩn tái xác nhận và can đảm bênh vực phẩm vị riêng của chúng ta và của hết mọi con người được Thiên Chúa dựng nên. Tôi không thể nào quên được sự kiện là vào dịp lễ Ánh Sáng, một số tín đồ Ấn giáo cố gắng hết sức để mang lại hòa giải nơi các gia đình và giữa hàng xóm láng giềng, bạn bè thân hữu và những người quen biết với nhau. Tại sao người Công giáo và Ấn giáo không phát triển những nỗ lực này để mang lại sự hòa giải rộng hơn nữa cũng như một nền hòa bình lâu bền hơn nữa nơi phố thị và thôn làng của chúng ta, thậm chí nơi toàn thể xứ sở và thế giới của chúng ta?

3. Lòng mến yêu Thiên Chúa và tình yêu thương tha nhân là cốt lõi của đức tin Kitô giáo. Là một nhà lãnh đạo tôn giáo, tôi sẽ làm mất đi uy tín nếu tôi để cho sự thật nền tảng này bị lu mờ đi. Các truyền thống Ấn giáo khác nhau của quí bạn đã hùng hồn nói đến chẳng những tình yêu Thiên Chúa và tình yêu của chúng ta đối với Ngài mà còn đến cả tình yêu nhân loại cần phải có đối với nhau nữa hay sao? Phẩm vị nơi mọi người bởi Thiên Chúa là Đấng Hóa Công của tất cả mọi sự mà có, và việc cổ võ, bảo vệ và bênh vực phẩm giá này làm nên toàn vẹn đời sống của hết mọi tín hữu. Dịp lễ Ánh Sáng cống hiến cho chúng ta đầy những suy tư ở chỗ truyền thống Ấn giáo cho chúng ta biết ánh sáng thắng vượt bóng tối ra sao, sự thiện chiến thắng sự dữ thế nào, và hận thù phải nhường bước cho yêu thương tha thứ ra sao.

4. Kitô giáo và Ấn giáo tín đồ chúng ta có thể làm gì để cổ võ và bảo vệ phẩm vị của hết mọi con người đây? Việc xúc phạm đến chỉ một con người duy nhất mà thôi, khi được thực hiện nhân danh tôn giáo, thì chẳng phải là tất cả truyền thống đạo giáo đã bị lạm dụng hay sao? Lề luật Ấn giáo hay đức tin Kitô giáo đều không hề dạy tín đồ của mình thù hằn oán ghét, khinh bỉ hay bất kính kẻ khác. Hận thù và bất kính nơi các tín đồ ton giáo chỉ mang lại tình trạng mất uy tín về tôn giáo cũng như vai trò của tôn giáo nơi xã hội. Trái lại, chúng ta càng dấn thân mình để cổ võ phẩm vị của hết mọi người thì truyền thống tôn giáo của chúng ta mới càng trở nên khả tín trước mắt của người khác.

5. Những đề nghị của quí bạn về cách thức để đạt thành điều này sẽ là những gì đáng đón nhận nhất. Những đề nghị ấy có thể được trực tiếp gửi cho Hội Đồng Tòa Thánh về Đối Thoại Liên Tôn, văn phòng của Đức Giáo Hoàng về những mối liên hệ với con người khác truyền thống tôn giáo, hay gửi cho các vị lãnh đạo và phần tử của Giáo Hội Công Giáo ở miền của quí bạn. Chúng ta hãy đến với nhau và cùng chia sẻ các mối quan tâm chung, cố gắng chuyên chú lắng nghe nhau. Chúng ta hãy chân tình nói chuyện, nhận biết trách nhiệm riêng của chúng taliên quan đến những việc chọn lựa cần phải có để giải quyết những vấn đề hiện đại trên thế giới ngày nay.

6. Quí bạn Ấn giáo thân mến, chớ gì quí bạn, gia đình quí bạn, bạn bè và ngay cả những kẻ xa lạ ở giữa quí bạn cảm được niềm vui, an bình, vững tâm và ánh sáng trong dịp lễ Ánh Sáng, một lễ được biểu hiệu bằng vô số những ngọn lửa, Deepavali.

Tổng Giám Mục Michael L. Fitzgerald, chủ tịch.
 

{Ðaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến ngày 14/10/2003}

 

Hòa Bình Trung Đông: Palestine vuốt râu hùm Mỹ Quốc

Hôm Thứ Tư 15/10/2003, một trái lựu đạn đã nổ dưới đoàn xe chở những nhà ngoại giao Hoa Kỳ ở Gaza, làm thiệt mạng 3 người. Tổng Thống Bush đã trách cứ các viên chức Palestine, cho rằng họ “phải tác hành lâu rồi để chống lại hết mọi hình thức khủng bố”. Ông cũng yêu cầu trao quyền hành kiểm soát các lực lượng an ninh cho thủ tướng Palestine và qui trách cho Tổng Thống Arafat trong việc tiếp tục gây trở ngại cho giải pháp hòa bình Trung Đông của Khối Tứ Tượng (Mỹ, Nga, LHQ và Khối Hiệp Nhất Âu Châu).

Đây là lần tấn công Hoa Kỳ lần thứ hai tại Trung Đông. Lần trước vào Tháng 6/2003, không gây thiệt hại gì. Lần này, đoàn xe chở các viên chức Lãnh Sự Hoa Kỳ đến Gaza để phỏng vấn các sinh viên Palestine xin học bổng Fulbright ở Hoa Kỳ. Đoàn xe này chở ít là 12 người. Bốn nạn nhân Hoa Kỳ lần này được Tòa Lãnh Sự Hoa Kỳ thuê từ cơ quan Dyncorp, một hãng cung cấp nhân viên an ninh cho Hoa Kỳ ở Do Thái, Iraq, A Phú Hãn và các nơi khác thuộỉc miền Trung Đông, trong đó có hai bị chết tại hiện trường, một trên đường tới bệnh viện và 1 được điều trị tại bệnh viện.

Một nhóm sáu nhân viên FBI đã được sai đến từ Hoa Thịnh Đốn để điều tra hiện trường xẩy ra tội ác. Sau cuộc tấn công mấy tiếng đồng hồ, Tòa Lãnh Sự Hoa Kỳ đã phổ biến lời kêu gọi công dân Hoa Kỳ hãy rời bỏ Gaza, nơi có hằng trăm công dân Mỹ hiện ở đó. Theo một viên chức cao cấp Hoa Kỳ thì đoàn xe vừa tiến vào Gaza, qua trạm kiểm soát Erez và đi theo con đường vốn đi của ngoại giao đoàn Hoa Kỳ. Theo Bộ Nội Vụ Hoa Kỳ thì một trái bom ở bên đường đã được gài nổ ngay sau khi những chiếc xe cảnh sát Palestine trong đoàn xe này vượt qua, làm đụng vào chiếc xe của Mỹ.

Không ai (như nhóm Hamas và Thánh Chiến Quân Hồi Giáo) đã dám hiên ngang nhận mình gây ra cuộc tấn công du kích kiểu cộng sản này, như đã tỏ ra ngay sau khi xẩy ra những cuộc khủng bố tấn công người Do Thái trước đây. Trái lại, một số nhóm chiến đấu quân còn lên tiếng phê trách cuộc tấn công này, cho rằng đó là hành động phản lại cuộc chiếm đóng của Do Thái. Thủ Tướng Palestine Ahmed Qorei mạnh mẽ lên án cuộc tấn công này và hứa sẽ điều tra nội vụ.

Vị cố vấn cao cấp Dore Gold của Thủ Tướng Do Thái cho biết rằng những người Do Thái “hiểu rõ được thù sầu thương gây ra bởi cuộc khủng bố kinh hoàng khiếp đảm này. Những cuộc tấn công này rõ ràng được thôi thúc bởi những cảm thức chống Tây Phương, chống Mỹ Quốc là những gì vốn liên kết các lực lượng ở Trung Đông này lại với nhau”. Ông này còn nhấn mạnh là “cuộc tấn công này sẽ không bao giờ xẩy ra” nếu Thẩm Quyền Palestine triệt hạ các nhóm khủng bố.

Trong khi đó, đêm Thứ Tư 15/10, phe Do Thái đã chuyển 40 chiếc xe tăng cùng với các chiếc xe được võ bị đến một vùng lận cận Gaza là thành phố Rajah, để, theo phe Palestine, tiếp tục hành động của họ tuần vừa qua. Đúng thế, Thứ Sáu tuần trước, 9/10, lực lượng Do Thái bắt đầu cuộc xâm chiếm và đã tìm thấy 3 đường hầm được phe Palestine sử dụng để buôn lậu võ khí từ Ai Cập.
Thủ Tướng Do Thái Sharon cho tờ Jerusalem Post biết rằng việc Do Thái dự tính loại trừ vị lãnh đạo Palestine là Arafat đã loan truyền nơi Do Thái từ nhiều năm nay không phải là vấn đề mới mẻ và nghiêm trọng.

Phản ứng về những lời lẽ của thủ tướng Do Thái trong cuộc phỏng vấn này, được tờ báo hàng đầu của Do Thái trên đây phổ biến hôm Thứ Sáu 17/10, thương lượng gia Palestine Saeb Erakat đã cho CNN biết rằng: “Mối đe dọa về Arafat vẫn còn đó. Đây không phải là một thứ thoái lui nơi chủ trương của phe Do Thái trong việc lưu đầy hay sát hại Arafat. Chính quyền Do Thái đã quyết định thì chưa từng bị hủy bỏ. Vấn đề quan trọng trong lời phát biểu của Thủ Tướng Sharon ở đây đó là ông ta nhấn mạnh đến việc tiếp tục tăng thêm việc định cư cũng như việc xây cất một bức tường vốn là kẻ thù đệ nhất của tiến trình hòa bình”.

Tuy nhiên, cũng trong cuộc phỏng vấn này, Thủ Tướng Sharon vẫn công nhận là cuộc giải tỏa chính trị sẽ không có hy vọng gì “bao lâu Arafat còn đó. Khi ông ta không còn nữa thì mới có cơ hội. Việc đồng ý của những người Palestine sẽ không tự động xẩy ra. Nó đòi Palestione phải có một vị thủ tướng rất mạnh tay. Cho đến nay, vấn đề canh tân vẫn chưa được áp dụng thi hành. Bất cứ một vị thủ tướng nào của Palestine hiện nay cũng bị Arafat trói tay không làm gì được cả”.

Hậu Chiến Iraq: Giải pháp tái thiết được HĐBAnhất trí chấp thuận song vẫn còn ấm ức

Hôm Thứ Ba 14/10, Nga, Pháp và Đức đã đề nghị những tu chính cho bản giải pháp dự thảo của Hoa Kỳ về vấn đề tái thiết Iraq Hậu Chiến, với đề nghị làm sáng tỏ những vấn đề khi nào và cách nào thực hiện. Cũng vào cùng ngày này, ông TTK/LHQ Kofi Annan ở Liên Hiệp Quốc đã tường trình cho tin tức biết rằng “hiển nhiên bản giải pháp hiện nay không nói lên vấn đề thay đổi chính yếu nơi ý nghĩ của lực lượng liên minh. Tuy nhiên, tôi dầu sao cũng cám ơn họ vì đã chú ý tới một số vấn đề quan tâm của tôi, và dĩ nhiên là tôi sẽ áp dụng bất cứ giải pháp nào hội đồng này chấp thuận, luôn ý thức được những giới hạn tất cả chúng ta đều biết đến”.

Vị lãnh sự Nga ở LHQ là Sergey Lavrov đã yêu cầu hoãn việc bỏ phiếu lại cho tới ngày Thứ Năm, để cho các vị lãnh đạo phe phản chiến trước đây là Nga-Pháp-Đức bàn luận về bản thảo của Hoa Kỳ xem có nên ủng hộ nó hay chăng: “Chúng ta phải đợi cho đến khi ba vị tổng thống bàn luận về bản thảo cuối cùng đang có trong tay, và vì tôi còn có những quan tâm nên tôi không thể bỏ phiếu tối hôm nay (Thứ Tư) cho đến khi tôi nghe được từ tổng thống của tôi”. Theo vị lãnh sự này thì Nga, Pháp và Đức đã nộp bản tu chính chung song “không có một điều tu chính nào được để ý tới cả”, bởi thế ba vị lãnh đạo này cần bàn đến bản dự thảo giải pháp cuối cùng hơn nữa.

Sau khi đã tham vấn với 15 quốc gia hội viên, vị lãnh sự ở Liên Hiệp Quốc của Hoa Kỳ là John Negroponte đã đưa ra ngày giờ bỏ phiếu là 10 giờ sáng Thứ Năm: “Chúng ta không thể mong thấy được hết mọi chi tiết mà chỉ cần nghĩ đây là một dự án tốt, nó đáng được các phần tử của hội đồng này mạnh mẽ ủng hộ mà chúng ta hướng đến cuộc bỏ phiếu vào ngày mai lúc 10 giờ sáng. Nếu không phạm gì đến những nguyên tắc căn bản của bản giải pháp dự thảo, tôi nghĩ rằng chúng tôi đã thực hiện một nỗ lực thực sự và những nước đồng bảo trợ cho bản giải pháp dự thảo này đã chú ý tới những lời phê bình chúng tôi nghe thấy từ các đại biểu khác. Bởi thế cho thấy chúng tôi đang lắng nghe, chúng tôi hiểu tầm quan trọng của việc chuẩn nhận một giải pháp cần phải được hội đồng này lên tiếng đồng thuận mạnh mẽ bao nhiêu có thể”.

Tuy có những bất đồng giữa Hoa Kỳ và phe tam quốc phản chiến về những chi tiết được phe này nêu lên, những chi tiết không được Hoa Kỳ đáp ứng ổn thỏa, HĐBALHQ hôm Thứ Năm, 16/10/2003, sau khi Thủ Tướng Đức Gerhard Schoroeder loan báo 3 nước phản chiến sẽ ủng hộ bản dự thảo, đã đồng loạt bỏ phiếu 15-0 chấp thuận bản giải pháp dự thảo của Hoa Kỳ.

Ba nước phản chiến nói rằng còn cần phải làm hơn nữa cho bản giải pháp này, song họ có dự định sẽ phổ biến một bản văn sau này về những điều ấy. Thủ Tướng Đức tuyên bố trước cuộc bỏ phiếu là Đức và Pháp sẽ không gửi quân đến Iraq. Bản giải pháp sở dĩ vừa được 15 quốc gia hội viên của HĐBA/LHQ nhất loạt chấp thuận là vì đã thay đổi một số những chi tiết quan trọng liên quan đến vai trò của Liên Hiệp Quốc cũng như đến việc trao quyền lại cho Iraq. Ở chỗ: “kêu gọi Hội Đồng Quản Trị Iraq cho Hội Đồng Bảo An xem xét… về thời hạn và chương trình phác thảo bản hiến pháp mới cho Iraq cũng như về việc tổ chức những cuộc tuyển cử dân chủ theo bản hiến pháp này” hạn chót là ngày 15/12/2003.

Syria không đồng ý với bản giải pháp của Hoa Kỳ cho lắm, song sau khi đã tham kiến phe phản chiến đã tiến tới chỗ bỏ phiếu thuận, và Pakistan cũng thế, tuy bỏ phiếu thuận song tuyên bố sẽ không gửi quân tới Iraq. Nhật Bản cho biết sẽ đóng góp 1 tỉ rưỡi cho việc viện trợ tức thời. Tuy cuộc bỏ phiếu này đã hoàn toàn chấp thuận bản giải pháp của Hoa Kỳ về việc tái thiết Iraq, nhưng phe phản chiến vẫn ấm ức về những đề nghị tu chính của họ không được chú trọng. Ngoài ra, bản giải pháp này chỉ công nhận vai trò của Liên Hiệp Quốc nhưng không xác định ra sao. Thế nhưng, sở dĩ họ bỏ phiếu là vì, theo vị chủ bút của CNN ở Âu Châu, Robin Oakley, “tình đoàn kết thế giới, vì Liên Hiệp Quốc. Họ không hài lòng vì bản giải pháp mới không đáp ứng tất cả những gì họ yêu cầu, tất cả họ nói rằng hành động của họ này là một bước tiến theo đúng hướng, và để chứng tỏ thiện chí của mình họ đã đồng ý bỏ phiếu cho những vấn đề ấy”.
 

19/10 Chúa Nhật XXIX Thường Niên Năm B, Chúa Nhật Truyền Giáo

 

Cùng Mẹ Maria Chiêm Ngưỡng Dung Nhan Chúa Kitô
Bằng Kinh Mân Côi Để Truyền Bá Phúc Âm Hóa

 

Sứ Điệp của ĐTC Gioan Phaolô II cho Ngày Thế Giới Truyền Giáo 77, 19/10/2003, kết thúc Năm Mân Côi
 


Ngày 21/2/2003, Văn Phòng Báo Chí của Tòa Thánh đã phổ biến sứ điệp cho Ngày Thế Giới Truyến Giáo lần thứ 77 này, một ngày sẽ được cử hành vào ngày 19/10/2003. Ngày Chúa Nhật 19/10/2003 này cũng trùng với ba biến cố khác: biến cố thứ nhất là việc phong chân phước cho Mẹ Têresa Calcutta, vị sáng lập Dòng Thừa Sai Bác Ái; biến cố thứ hai là việc mừng Ngân Khánh 25 Năm Giáo Hoàng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, vị được bầu làm giáo hoàng ngày 16/10 và đăng quang ngày 22/10/1978; và biến cố thứ ba là kết thúc Năm Mân Côi (10/2002-2003). Sau đây là nguyên văn sứ điệp của ĐTC, một sứ điệp truyền giáo liên quan đến Kinh Mân Côi.

Anh Chị Em thân mến,

1. Từ ban đầu, Tôi đã muốn đặt giáo triều của Tôi dưới sự che chở của Mẹ Maria. Ngoài ra, Tôi thường xin toàn thể cộng đồng tín hữu hãy sống lại cảm nghiệm của Căn Thượng Lầu Tiệc Ly, nơi các môn đệ “đã chuyên tâm cầu nguyện, cùng với … Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu” (Acts 1:14). Trong Thông Điệp đầu tiên của mình là “Đấng Cứu Chuộc Nhân Loại” Redemptor Hominis, Tôi đã viết rằng, chỉ khi nào chúng ta ở trong bầu khí sốt sắng nguyện cầu chúng ta mới có thể “lãnh nhận Thánh Linh xuống trên chúng ta, nhờ đó, chúng ta mới có thể trở thành những chứng nhân của Chúa Kitô ‘cho đến tận cùng trái đất’, như những vị đã xuất thân từ Căn Thượng Lầu Tiệc Ly ở Giêrusalem vào ngày Lễ Ngũ Tuần” (số 22).

Giáo Hội càng nhận thức hơn về việc Giáo Hội là “mẹ” như Đức Maria. Như Tôi đã đề cập đến trong Sắc Chỉ “Mầu Nhiệm Nhập Thể” Incarnationis Mysterium, vào dịp Mừng Đại Năm Thánh 2000, Giáo Hội là “chiếc nôi được Mẹ Maria đặt Chúa Giêsu nằm trong ấy để cho tất cả mọi dân nước tôn thờ và chiêm ngắm” (số 11). Giáo Hội có ý định tiếp tục con đường linh đạo và truyền giáo này, với cuộc đồng hành của Vị Trinh Nữ Diễm Phúc, Minh Tinh của Việc Tân Truyền Bá Phúc Âm Hóa, bình minh rạng ngời và là vị hướng đạo rành đường dẫn lối cho chúng ta đi” (x Tông Thư Mở Màn Cho Một Ngàn Năm Mới Novo Millennium Ineunte, số 58).

Mẹ Maria và Sứ Vụ của Giáo Hội trong Năm Mân Côi

2. Tháng 10 năm trước, thời điểm bước vào năm thứ 25 của giáo triều của mình, Tôi đã cộng bố một Năm đặc biệt như để tiếp nối thiêng liêng cho Năm Thánh, một năm được dùng để tái khám phá kinh nguyện Mân Côi rất thân thương với truyền thống Kitô Giáo. Đó là một năm cần phải được sống dưới ánh mắt của Vị mà, theo dự án nhiệm mầu của Thiên Chúa, bằng tiếng “xin vâng” của mình, đã làm cho việc cứu độ loài người được thực hiện, cũng là Vị ở Thiên Đàng tiếp tục bảo vệ những ai hướng về Mẹ, nhất là trong những lúc khốn khó trong cuộc sống.


Tôi muốn Năm Mân Côi trở thành một cơ hội thuận lợi cho các tín hữu ở tất cả mọi lục địa trong việc đi sâu vào ý nghĩa của ơn gọi Kitô Giáo của mình. Tại học đường của Vị Trinh Nữ Diễm Phúc và noi theo bắt chước gương của Người, hết mọi cộng đồng sẽ có khả năng hơn nữa trong việc làm cho hoạt động “chiêm niệm” và “truyền giáo” hòa hợp với nhau.

Nếu Ngày Chúa Nhật Thế Giới Truyền Giáo, được xẩy ra vào đúng lúc kết thúc năm Thánh Mẫu đặc biệt này, được sửa soạn kỹ lưỡng, nó sẽ là một động lực mạnh mẽ hơn nữa cho việc dấn thân này của cộng đồng giáo hội. Tin tưởng chạy đến với Mẹ Maria, bằng việc hằng ngày đọc kinh Mân Côi và suy niệm các mầu nhiệm đời sống của Chúa Kitô, là chú trọng đến sự kiện sứ mệnh của Giáo Hội phải được bảo dưỡng trước hết bằng việc cầu nguyện. Thái độ “lắng nghe”, một thái độ được nhắc nhở bởi việc cầu Kinh Mân Côi, mang tín hữu lại gần với Mẹ Maria, Vị “đã giữ tất cả mọi điều ấy mà suy niệm trong lòng” (Lk 2:19). Việc thường xuyên suy niệm Lời Chúa khiến chúng ta sống “trong cuộc hiệp thông sống động với Chúa Giêsu, có thể nói, nhờ trái tim Mẹ của Người” (Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria Rosarium Virginis Mariae, số 2).

Một Giáo Hội càng chiêm niệm ở chỗ nhìn ngắm dung nhan Chúa Kitô hơn

3. “Cum Maria comtemplemur Christi vultum!” Những lời này thường gợi lên trong lòng chúng ta việc cùng Mẹ Maria chiêm ngưỡng “dung nhan” Chúa Kitô. Khi chúng ta nói về “dung nhan” của Chúa Kitô, chúng ta muốn nói đến hình ảnh nhân loại của Người chiếu tỏa vinh quang Người Con duy nhất của Chúa Cha (x Jn 1:14). “Vinh quang của Thần Tính phát tỏa từ dung nhan của Chúa Kitô” (Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria Rosarium Virginis Mariae, số 21). Việc chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô dẫn chúng ta đến mối thân tình nội tại sâu xa hơn nữa với mầu nhiệm của Người. Việc chiêm ngưỡng Chúa Giêsu bằng đôi mắt đức tin thúc đẩy con người đi sâu vào mầu nhiệm của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Giêsu nói: “Ai thấy Thày là thấy Cha” (Jn 14:9). Với Kinh Mân Côi, chúng ta tiến triển trong cuộc hành trình mầu nhiệm này “trong niềm hiệp nhất với và ở tại học đường của Mẹ Rất Thánh của Người” (Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria Rosarium Virginis Mariae, số 3). Thật vậy, Mẹ Maria biến mình làm thày dạy và làm hướng đạo của chúng ta. Theo tác động của Thánh Linh, Mẹ giúp chúng ta chiếm được “cái cứng cát vững vàng” giúp tín hữu có thể truyền đạt cảm nghiệm của mình về Chúa Giêsu cũng như niềm hy vọng chi phối họ (x Thông Điệp Sứ Vụ của Đấng Cứu Chuộc Redemptoris Missio, số 24) cho những người khác.

Chúng ta hãy luôn nhìn lên Mẹ Maria, một mô phạm khôn sánh. Tất cả mọi lời Phúc Aâm đều âm vang một cách phi thường nơi tâm hồn của Mẹ. Mẹ Maria là “ký ức” chiêm niệm của Giáo Hội, một Giáo Hội mong muốn được hiệp nhất sâu xa với Vị Hôn Phu của mình, để gây thêm ảnh hưởng nơi xã hội của chúng ta. Làm sao chúng ta có thể phản ứng trước những vấn đề to tát lớn lao, trước cảnh khổ đau vô tội, trước những thứ bất công gây ra bởi việc khinh khi ngạo mạn đây? Tại học đường dễ dạy của Mẹ Maria, Mẹ của chúng ta, các tín hữu biết nhìn ra, nơi cái bề ngoài “thinh lặng của Thiên Chúa”, Lời Chúa là Đấng âm vang trong thinh lặng cho phần rỗi của chúng ta.

Một Giáo Hội thánh hảo hơn ở chỗ bắt chước và yêu mến dung nhan của Chúa Kitô


4. Nhờ phép rửa, tất cả mọi tín hữu được kêu gọi nên thánh. Trong Hiến Chế Tín Lý “Ánh Sáng Muôn Dân” Lumen Gentium, Công Đồng Chung Vaticanô II đã nhấn mạnh là ơn gọi phổ quát nên thánh là ở chỗ tất cả mọi người được kêu gọi sống đức ái trọn hảo.

Đức thánh thiện và việc truyền giáo là những khía cạnh không thể tách rời nhau nơi ơn gọi của hết mọi người đã lãnh nhận phép rửa. Việc dấn thân trở nên thánh thiện hơn là việc chặt chẽ gắn liền với việc dấn thân truyền bá sứ điệp cứu độ. Trong Thông Điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Chuộc Redemptoris Missio, Tôi đã nhắc nhở rằng: “Hết mọi phần tử tín hữu được kêu gọi nên thánh và truyền giáo” (số 90). Trong việc chiêm ngưỡng các mầu nhiệm của Kinh Mân Côi, người tín hữu được thúc đẩy theo Chúa Kitô và chia sẻ đời sống của Người, nhờ đó, họ có thể nói với Thánh Phaolô rằng: “Không phải là tôi sống, song là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gal 2:20).

Nếu tất cả mọi mầu nhiệm của Kinh Mân Côi tạo nên một học đường quan trọng cho sự thánh thiện và việc truyền bá phúc âm hóa, thì các mầu nhiệm ánh sáng giúp vào việc mang lại những khía cạnh đặc biệt liên quan đến “tác dụng phụ” của Phúc Âm. Việc Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Dược Đăng nhắc nhở là thành phần được rửa tội được tuyển chọn để trở nên “những người con nơi Người Con” (Eph 1:5; x Gaudium et Spes, số 22). Ở tiệc cưới Cana, Mẹ Maria kêu gọi những người phục dịch hãy ngoan ngoãn nghe Lời Chúa: “Các anh hãy làm theo những gì Ngài bảo” (Jn 2:5). Việc loan báo Nước Trời và lời kêu gọi cải thiện đời sống là một mệnh lệnh rõ ràng buộc hết mọi người phải theo đuổi con đường thánh thiện. Nơi việc Chúa Giêsu Biến Hình, con người lãnh nhận phép rửa cảm thấy niềm vui đang đợi chờ họ. Khi suy nkệm về việc thiết lập Bí Tích Thánh Thể, họ thường trở về với Căn Thượng Lầu Tiệc Ly, nơi Vị Thày thần linh để lại cho các môn đệ kho tàng quí báu nhất của Người là chính bản thân Người nơi Bí Tích trên bàn thờ.

Ở một nghĩa nào đó thì những lời Vị Trinh Nữ Diễm Phúc nói ở tiệc cưới Cana đã làm nên bối cảnh cho tất cả mọi mầu nhiệm ánh sáng. Thật vậy, việc loan báo Nước Trời đã đến, lời kêu gọi cải thiện và xót thương, Việc Biến Hình trên Núi Tabo và việc thiết lập Thánh Thể đều đặc biệt vang vọng nơi con tim của Mẹ Maria. Mẹ Maria gắn chặt mắt của Mẹ vào Chúa Kitô, gìn giữ hết mọi lời của Người và tỏ cho chúng ta thấy cách làm môn đệ đích thực của Con Mẹ.

Một Giáo Hội truyền giáo hơn ở chỗ loan báo Dung Nhan Chúa Kitô

5. Không có một lúc nào Giáo Hội lại có nhiều cơ hội để loan báo Chúa Giêsu bằng lúc này, nhờ việc phát triển của phương tiện truyền thông xã hội. Vì lý do này, Giáo Hội ngày nay được kêu gọi để làm cho Dung Nhan Hôn Phu của Giáo Hội chiếu tỏa nơi sự thánh thiện rạng ngời hơn nữa của Giáo Hội. Nơi việc làm không dễ dàng này, Giáo Hội biết rằng Giáo Hội được Mẹ Maria nâng đỡ. Giáo Hội “học” trở thành một “trinh nữ” nơi Mẹ Maria, hoàn toàn hiến thân cho Vị Hôn Phu của mình là Chúa Giêsu Kitô, cũng như trở thành một “người mẹ” của nhiều con cái được Giáo Hội sinh vào sự sống trường sinh.

Dưới cái nhìn canh chừng của Mẹ mình, cộng đồng giáo hội nở hoa như một gia đình hồi sinh nhờ Thần Linh được tuôn đổ xuống tràn đầy, và khi chấp nhận những thách đố của việc tân truyền bá phúc âm hóa, chiêm ngưỡng dung nhan nhân hậu của Chúa Giêsu nơi những người anh chị em, nhất là thành phần nghèo nàn và thiếu thốn, nơi những ai còn xa đức tin và Phúc Aâm. Nhất là Giáo Hội không sợ hô lên cho thế giới nghe thấy rằng Chúa Kitô “là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Jn 14:6). Giáo Hội cần phải sửa soạn cho có những nhà truyền bá phúc âm hóa có khả năng và thánh thiện. Lòng nhiệt tah2nh của các vị tông đồ không được suy yếu đi, nhất là đối với vấn đề truyền giáo “ad gentes” cho muôn dân. Kinh Mân Côi, nếu được hoàn toàn nhận thức và cảm nhận, sẽ là một khí cụ bình thường song linh thiêng và có tính cách giáo dục tốt đẹp trong việc hình thành Dân Chúa để hoạt động trong lãnh vực tông vụ rộng lớn.

Một Sứ Mệnh Thực Sự

6. Vấn đề làm sinh động việc truyền giáo cần phải được tiếp tục là một nhiệm vụ nghiêm trọng và liên tục của hết mọi người đã lãnh nhận phép rửa cũng như của hết mọi cộng đồng giáo hội. Dĩ nhiên, Các Hội Truyền Giáo của Tòa Thánh giữ một vai trò chuyên biệt và đặc biệt, nên Tôi xin cám ơn họ về việc dấn thân thi hành vai trò này.

Tôi xin đề nghị với tất cả mọi anh chị em là anh chị em hãy tăng thêm việc cầu kinh Mân Côi, riêng tư cũng như cộng đồng, để xin Chúa ban cho những ơn Giáo Hội và nhân loại đặc biệt cần đến. Tôi mời hết mọi người hãy làm điều này, trẻ em, người lớn, người trẻ và người già, gia đình, giáo xứ và các cộng đồng tu trì.

Trong số nhiều ý chỉ của Tôi, Tôi không quên ý chỉ hòa bình. Chiến tranh và bất công bắt nguồn từ cõi lòng “bị chia cắt”. “Bất cứ ai muốn thấu nhập mầu nhiệm Chúa Kitô – đây là mục tiêu rõ ràng của Kinh Mân Côi – đều biết được cái bí mật của hòa bình và biến nó thành dự phóng cgo đời sống của họ” (Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria Rosarium Virginis Mariae, số 40). Nếu Kinh Mân Côi làm cho đời sống chúng ta thăng tiến nhanh chóng thì kinh này cũng có thể trở thành một dụng cụ thuận lợi cho việc xây dựng hòa bình trong tâm hồn con người, trong gia đình cũng như nơi các dân nước. Cùng với Mẹ Maria, chúng ta có thể chiếm được hết mọi sự nơi Chúa Giêsu Con Mẹ. Được Mẹ Maria nâng đỡ, chúng ta sẽ không ngần ngại quảng đại dấn thân loan báo Tin Mừng cho đến tận cùng trái đất.

Với những cảm thức này, Tôi thân ái ban phép lành cho tất cả anh chị em.

Tại Vatican ngày 12/1/2003, Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa.

Gioan Phaolô II

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu của Tòa Thánh do Zenit phổ biến ngày 21/2/2003.


Thống Kê về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội


Thứ Sáu 21/2/2003, ĐHY Trưởng Thánh Bộ Truyền Bá Phúc Âm Hóa Cho Các Dân Nước Crescezio Sepe, trong buổi ra mắt sứ điệp của ĐTC Gioan Phaolô II cho Ngày Thế Giới Truyền Giáo năm 2003, đã cho biết thêm những con số thống kê liên quan đến hoạt động truyền giáo của Giáo Hội như sau:
- Có 42 ngàn trường học; 1.600 nhà thương; 6 ngàn bệnh xá, 780 trại cùi, 12 ngàn hoạt động bác ái xã hội;
- 85 ngàn vị linh mục truyền giáo trong đó có 53 ngàn linh mục giáo phận (27 ngàn hoạt động ở Phi Châu, 44 ngàn ở Á Châu, 6 ngàn ở Mỹ Châu, 5 ngàn ở Đại Dương Châu, và 3 ngàn ở Âu Châu);
- 1.075 giáo phận trực thuộc Thánh Bộ này, gần 39% các giáo phận trên thế giới;
- 28 ngàn nam tu truyền giáo, 450 ngàn nữ tu và 1.65 triệu giáo lý viên;
- Năm 1900 ở Phi Châu có 2 triệu người được rửa tội, nay có tới 110 triệu, hay 15% dân số;
- Ở Đại Dương Châu có 7 triệu người Công Giáo trong 26 triệu dân số, tức 26%.

 

NHỮNG GIẤC MƠ

Nếu bạn có cơ hội và hoàn cảnh để được thăng tiến hoặc nắm giữ những chức vụ cao hơn, danh giá hơn, và quyền uy hơn bạn có vội vàng chộp lấy và nắm bắt lấy nó không? Nếu bạn không thiết tha, không ham muốn, hoặc cũng chẳng nắm bắt khi thời cơ đến, thì một là bạn đã là một thánh nhân, hai là người có tâm lý bệnh hoạn.

Tâm lý chung con người là thích được nổi nang, được danh giá, được biết tới, và nhất là được nắm giữ những vai trò lớn, quyền uy hơn trong cuộc sống. Trong những cuộc bầu cử, những lần tranh dành ngôi thứ tâm lý quyền lực đã hiện ra một cách r ràng nhất. Do đó, nếu trong tâm tư bạn, trong ước muốn bạn có bị thôi thúc hoặc thèm khát với những giấc mơ ấy, thì đó chỉ là những ước muốn của con người sống bằng tâm lý bình thường. Bạn không làm gì sai trái khi mơ trở thành người có nhiều quyền hành hơn, hoặc khi thời cơ đến, bạn nắm bắt lấy cơ hội để hoàn tất giấc mơ ấy.

Giacôbê và Gioan hôm nay cũng đã làm điều này và sống với tâm lý này. Và tất cả 12 Tông Đồ cũng đã biểu lộ ước muốn và giấc mơ quyền lực của mình. Máccô đã ghi lại cảnh 2 anh em Giacôbê và Gioan đã không bỏ qua cơ hội thực hiện giấc mơ của các ông bằng cách lợi dụng sự gần gũi và thân mật với Chúa đễ xin cho được ngồi hai bên tả hữu Ngài: “Những người con của Giêbêđê là Giacôbê và Gioan đã đến và thưa với Ngài: “Lậy Thầy, chúng tôi muốn xin Thầy cho chúng tôi một điều”. Ngài hỏi họ: “Điều gì?” Họ liền thưa: “Xin cho chúng tôi một người ngồi bên hữu và một người ngồi bên tả trong vinh quang của Thầy” (Mc 10:35-37). Ở một trình thuật khác, Mátthêu đã ghi lại là chính mẹ của Giacôbê và Gioan đã đến và xin với Chúa điều này cho hai con của bà (x Mt 20:20-21). Nhưng các Tông Đồ đã phản ứng ngay. Thánh Ký ghi lại: “Mười người khác nghe vậy đã tỏ ra bực tức với Giacôbê và Gioan” (Mc 10:41).

Nếu đọc lướt qua Phúc Aâm, ta chỉ thấy đó là hành động bình thường của các Tông Đồ, vì ở một vài nơi khác trong Thánh Kinh cũng đã ghi nhận có sự tranh dành ngôi thức, địa vị giữa các ông. Sợ rằng sự cạnh tranh và ghen tức ngấm ngầm ấy sẽ chia rẽ và làm lạc hướng ơn gọi của các Tông Đồ, nên Chúa Giêsu đã phải ra tay can thiệp và hướng dẫn lại cái nhìn của các ông: “Việc ngồi bên hữu hay bên tả của Ta thì không thuộc quyền Ta ban. Nó đã được dành sẵn cho những người được chỉ định” (Mc 10: 40). Nói theo ảnh hưởng của văn hóa Việt Nam, thì “bắt phong trần phải phong trần. Cho thanh cao mới được phần thanh cao”. Bằng một lăng kính thần học, chúng ta có thể nói đây là một lối sống và thái độ hết sức tin tưởng và phó thác. Một mặt con người luôn sẵn sàng đón nhận mọi trọng trách mà Thượng Đế trao ban để làm đẹp cho đời và sống đẹp kiếp người; mặt khác, con người hoàn toàn để mặc quyền Thượng Đế an bài và định liệu. Không chộp giật, không tranh dành, không ghen tỵ, nhưng khi được ban tặng thì không kiêu căng, tự đắc tưởng chừng như đó là do tài năng, sức lực và khôn ngoan của riêng mình.

Đến đây thì ta lại càng thấy r ràng hơn chủ ý của Chúa Giêsu khi để hai anh em Giacôbê và Gioan đến gần và xin Ngài chỗ đứng của họ. Ngài đã cho phép biến cố ấy xẩy ra để luôn tiện dậy cho các Tông Đồ cũng như mọi người chúng ta bài học về lòng ham ước, về tinh thần phục vụ mà chính Ngài đã trở thành một mô phạm: “Các con biết rằng những người được coi là lãnh tụ các nước, thì sai khiến dân chúng như ông chủ, và những người làm lớn thì lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con không như thế. Trái lại, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ mọi người. Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ” (Mc 10: 42-45). Cốt li của trích đoạn Phúc Aâm Máccô vừa trình thuật là ở câu: “Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ” (Mc 10:45). Theo đó, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh đến tinh thần phục vụ. Chính tinh thần phục vụ mới là tinh thần thủ lãnh của Phúc Aâm. Lãnh đạo theo nghĩa này không gì khác hơn là phục vụ. Vì khi hạ mình phục vụ, người ta sẽ không dám tự nhận mình có quyền, hoặc không dám tự kiêu về những quyền bính đang có trong tay; trái lại, biết nhìn nhận Đấng ở trên cao. Chính Ngài đã ban tặng cho con người những quyền năng ấy, và tùy vào mỗi chức vụ, tất cả để làm đẹp cho đời và làm đẹp cho chính cuộc đời mỗi người.

Tóm lại, Thiên Chúa không cấm con người nuôi những giấc mơ. Những giấc mơ thành công, thành nhân, hoặc những giấc mơ phục vụ Thiên Chúa cũng như anh chị em mình. Những giấc mơ ấy tự nó không phải là xấu, cần phải xua đuổi hoặc tránh né. Con người, ai mà chẳng có những giấc mơ, những hoài bão. Nhưng Chúa chỉ muốn ta để ý một điều, đó là chủ ý của những giấc mơ này. Trong những ngày đầu của sáng tạo, khi con người còn đang ngỡ ngàng trong vườn Diệu Quang, chưa biết phải đối diện với thực tế như thế nào, thì đã lộ diện những giấc mơ. Tiếc một điều là Evà đã mơ được bằng Thiên Chúa. Mơ được tự biết lành, biết dữ. Mơ vượt khỏi vị trí mà Thiên Chúa đã an bài. Cũng kể từ đó, những giấc mơ của con người luôn pha lẫn ý tưởng tự cao và tự đại. Anh em Giacôbê và Gioan tuy không mơ được bằng Chúa Giêsu, nhưng cũng đã mơ một người ngồi bên hữu và một người ngồi bên tả Ngài trong vinh quang nước Ngài. Giấc mơ này cũng là một giấc mơ táo bạo, và quá lớn lao.

Và như Chúa Giêsu đã tự mình trở thành mô phạm cho tất cả mọi người trong đường hướng phục vụ. Vinh dự là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế của Ngài cũng không ngoài việc phục vụ: “Con Người đến không phải được phục vụ nhưng để phục vụ, và để hiến mạng sống mình làm giá chuộc nhiều người” (Mc 10: 45). Do đó, vì phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc nhiều người mà Giêsu mới trở thành cao cả, chứ không phải vì Ngài cao cả do được nhiều người hầu hạ, phục dịch. Noi gương Ngài, chúng ta cũng phải lồng vào trong những mơ ước của mình tinh thần dấn thân và phục vụ. Ý thức r ràng về thân phận và thế đứng của mình, để như Giacôbê và Gioan dù có dám uống chung chén đắng với Chúa Giêsu, tắm máu trong cuộc tử nạn của Ngài, chúng ta vẫn để Ngài tự do đặt ta vào những chỗ mà Cha trên trời đã dọn sẵn: “Chén Thầy uống các con cũng sẽ được uống. Pháp rửa Thầy chịu, các con cũng sẽ được chịu. Nhưng việc ngồi bên hữu và bên tả Thầy không do Thầy ban. Vì nó được dọn sẵn cho những người được chỉ định” (Mc 10:39-40).
 

Trần Mỹ Duyệt


Ngông cuồng liều lĩnh…!

Đọc bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, hình như ai cũng đều thông cảm với phản ứng tự nhiên của các vị tông đồ về thái độ có vẻ vừa ham danh vừa ngông cuồng liều lĩnh của hai anh em Gioan và Giacôbê, khi cặp anh em tông đồ này công khai xin Chúa Giêsu cho một người ngồi bên phải và một người ngồi bên trái của Người khi Người được vinh quang. Như thế, qua mối cảm thông này, độc giả đọc bài Phúc Âm đây còn cho thấy họ cũng có cùng ý nghĩ như các tông đồ, nghĩa là họ cũng cho rằng hai anh em tông đồ này ham danh và ngông cuồng liều lĩnh. Tuy nhiên, thực tế có đúng như vậy hay chăng, hay các tông đồ bấy giờ và chúng ta hiện nay đã hiểu lầm cặp anh em tông đồ vốn được Chúa Giêsu dẫn theo cùng với tông đồ Phêrô đến một số nơi đặc biệt, điển hình nhất là cuộc biến hình trên núi cao của Người (x Mk 9:2), hay trường hợp Người hồi sinh đứa con gái của ông Giairô (x Mk 5:37)?

Nếu để ý kỹ chúng ta thấy Chúa Giêsu chỉ lên tiếng dạy các tông đồ làm đầu là phục vụ sau khi 10 vị tông đồ cảm thấy ghen tức với hai anh em tông đồ Gioan và Giacôbê mà thôi. Chứ trước đó, Người không hề nói gì, mà còn tỏ ra vui vẻ (dù nghiêm nghị) đối đáp với lời yêu cầu có vẻ điên cuồng của anh em họ. Hình như Người đã thấy được lòng thành của cặp anh em này trong việc họ muốn cương quyết theo Người cho đến cùng, dù có phải uống chén đắng đau thương với Người, vì khi được vinh dự chịu đau khổ với Người là hưởng vinh quang với Người rồi vậy. Lịch sử đã cho thấy, quả thực, sau đó, hai anh em tông đồ này, một người đã được ngồi bên hữu của Chúa Kitô, đó là tông đồ Gioan, người tông đồ duy nhất đã cùng với Mẹ Maria đứng bên thập giá của Người để chứng kiến và cảm thông (uống) với cảnh vô cùng đau thương của Thày mình, và một người bên tả, đó là tông đồ Giacôbê, vị đã là giám mục đầu tiên ở Giêrusalem cũng là vị tông đồ tử đạo (x. Acts 12:2) trước hết trong các tông đồ, vị tông đồ bởi thế là vị đầu tiên được Chúa Kitô cho uống chén tử nạn với Người và như Người.

Sau đây chúng ta hãy đọc lại chương 9: “Tham lam Liều Lĩnh như Trẻ Nhỏ” của người viết trong cuốn “Trở Nên Như Trẻ Nhỏ” (Cao-Bùi 1994, trang 133-148)

Trong câu chuyện xin được ngồi hai bên Chúa Giêsu trong vương quốc của Người (xem Mathêu 20:20-28), không biết ai là người đã nghĩ đến tư tưởng nay đầu tiên.

Một là chính từ ba mẹ của hai anh em Giacôbê và Gioan, vì bà đã lên tiếng xin điều hết sức quan trọng này một cách trịnh trọng và thẳng thắn. Trịnh trọng ở chỗ, thứ nhất, bà đến xin Chúa "cùng với hai con của bà" (Mathêu 20:20), thứ hai, bà "phục lạy Người mà xin" (Mathêu 20:20), thứ ba, chỉ sau khi Chúa Giêsu lên tiếng hỏi "Bà muốn điều gì đây?" (Mathêu 20:21), bà mới dám nói (xem Mathêu 20-21). Thẳng thắn ở chỗ, sau khi đã làm đủ các lễ nghi tương xứng theo như bà nghĩ, và sau khi được Chúa Giêsu ban phép, bà đã không úp mở gì cả:

“Xin hứa với tôi là hai đứa con của tôi đây, một đứa sẽ được ngồi bên phải và một đứa sẽ được ngồi bên trái của Thày trong vương quốc của Thày" (Mathêu 20:21).

Phần Chúa Giêsu, có ít nhất hai điều chắc chắn ở đây là, thứ nhất, trước khi ba mẹ của hai anh em Giacôbê va Gioan mở miệng xin Người điều này, thì Chúa Giêsu đã biết bà muốn gì rồi; thứ hai, Người cũng thừa biết trước phản ứng "bất mãn khó chịu của mười người kia đối với hai anh em này" (Mathêu 20:24). Thế mà Người vẫn gợi ý để cho bà ấy phát biểu ra trước mặt tất cả các tông đồ.

Hành sử như thế, có thể Chúa Giêsu muốn lợi dụng dịp này để dạy cho các thánh tông đồ biết về tinh thần va đường lối làm đầu là làm tôi như gương sống động của Người. Bởi thế, sau khi thấy phản ứng của mười tông đồ đối với hai anh em Giacôbê và Gioan, phản ứng có tính cách người lớn, tỏ ra tranh giành, ghen tương đố kị theo kiểu trần tục, Chúa Giêsu mới "gọi họ lại mà nói:

“Cac con biết những kẻ cầm quyền trong dân ngoại thì làm chúa cai trị nhau, tỏ ra ta đây. Nhưng các con không được như vậy. Ai trong cac con muốn làm lớn thì phải phục vụ những người còn lại. Ai muốn lãnh đạo trong các con thì phải phục vụ nhu cầu của tất cả mọi người. Đó là cách thức mà Con Người đã đến không phải để được người khác phục dịch, nhưng là để phục vụ, để hiến mình làm giá chuộc cho nhiều người" (Mathêu 20:25-28).

Ngoài ra, Chúa Giêsu cố ý lên tiếng hỏi trước để cho ba mẹ của hai anh em Giacôbê và Gioan dễ dàng mở lời xin một điều ngoại lệ như thế, chứng tỏ điều yêu cầu có vẻ tham quyền cố vị phàm tục này của ba chẳng những không làm phật lòng Người là Đấng "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" (Mathêu 11:29), mà còn làm cho Người có vẻ hài lòng nữa là đàng khác, bằng không, Người đã không mất giờ mặc cả với hai người con của bà làm gì!

Phần Giacôbê và Gioan, cũng có thể một trong hai người đã nghĩ đến điều yêu cầu này, song không dám trực tiếp xin cùng Thày mình, nên đã khôn khéo xúi mẹ mình đứng mũi chịu sào. Có thể kinh nghiệm sống với Thày đã gợi lên cho Giacôbê và Gioan chính điều yêu cầu này cũng như cho hai anh em cách chiếm được điều mình muốn xin với Thày.

Về chính điều yêu cầu được ngồi hai bên Chúa Giêsu trong vương quốc của Người có thể đã nẩy sinh từ kinh nghiệm nhiều lần hai anh em là bộ ba, (cùng với tông đồ trưởng Phêrô), dẫn đi sát với Người hơn các vị tông đồ khác nói riêng và các môn đệ của Người nói chung. Chẳng hạn như lần đến hồi sinh cho bé gái (xem Marcô 5:37) và lần được chứng kiến Chúa biến hình trên núi cao (xem Mathêu 17:1).

Theo tự nhiên, có thể vì thấy rằng hai anh em mình được Chúa Giêsu thương đặc biệt như thế, qua một số lần được Người ưu đãi cách riêng, (chưa kể còn một lần sau này cả hai còn được vao vườn cầu nguyện với Người trước khi Người nộp mình), mà cả hai đã nghĩ mình có giá, cần được Chúa Giêsu xác nhận vị thế của mình chăng?

Về cách thức nhờ đến bà mẹ để xin Chúa Giêsu điều yêu cầu của mình, chứ không dám đứng ra xin lấy, kinh nghiệm cũng dạy cho hai anh em Giacôbê và Gioan biết phán đoán của hai đấng cho dù tốt lành mấy cũng chưa chắc đã hợp với với ý của Thày Chí Thanh. Chẳng hạn lần hai vị bị Người "quở trách" (Luca 9:55) vì các vị tỏ ra mình là người lớn, bực tức khi thấy Thày Chí Thánh của mình bị dân Samaria không chịu tiếp rước, đã trở nên nóng nảy đến nỗi: "Thưa Thày, Thày có muốn chúng con gọi lửa trời xuống hủy diệt họ đi không?" (Luca 9:54).

Phải chăng vì bản chất trực tính nóng nẩy sốt sắng này của hai anh em Giacôbê và Gioan mà Chúa Giêsu, qua Phúc Âm thánh Marcô đã viết, "Người đặt cho hai anh em này cái tên là "những đứa con của sấm sét'" (Marcô 3:17).

Thật ra, Phúc Âm thánh Marcô lại tiết lộ cho chúng ta biết rằng chính hai anh em Giacôbê và Gioan trực tiếp đứng ra xin Thày điều này, chứ không phải là bà mẹ của hai vị. Cách thức của "những đứa con của sấm sét" này tuy thẳng thắn nhưng không tế nhị như của bà mẹ. Hai anh em đã chẳng những không tế nhị về chính lời lẽ yêu cầu mà còn về cả cách thức yêu cầu, khi bất kể Chúa Giêsu có cho phép hay không hai vị cũng cứ "như con trẻ" nhắm mắt nhào vô: "Thưa Thày, chúng con muốn Thày ban cho chúng con điều chúng con xin?" (Marcô 10:35)

Kết quả chúng ta thấy xem ra Chúa Giêsu đã chịu thua hai anh em "như trẻ nhỏ" này. Với những lý do có thể suy diễn sau đây.

Lý do thứ nhất, là vì Chúa Giêsu biết được hai anh em Giacôbê và Gioan hết lòng yêu mến Người. Bởi đó, ngay sau lần cuối cùng Người tiết lộ cho các tông đồ biết về cuộc tử nạn của Người, thì chỉ có hai anh em Giacôbê và Gioan đã có phản ứng qua lời yêu cầu của họ.

Lời yêu cầu này chứng tỏ hai vị đã hiểu và thông cảm được với Chúa Giêsu hơn ai hết. Chẳng lẽ hai vị ngớ ngẩn đến nỗi r ràng nghe thấy Chúa Giêsu nói về thân phận vô cùng bất hạnh và đen tối của Người như thế mà còn xin ngồi hai bên tả hữu của Người?

Chính vì thế mà khi Chúa Giêsu vừa hạch lại hai vị, (làm như Người muốn các vị tông đồ khác đang tức bực với hai vị biết r hơn chủ ý của hai vị), vừa tỏ ra thách thức hai vị: "Các con có biết được điều các con xin không. Các con có uống được chén mà Ta sẽ uống hay chịu được phép rửa trong cùng một cuộc khổ đau như Ta không?" (Marcô 10:38), "Họ thưa Người: 'Vâng, được'" (Marcô 10:39).

Lý do thứ hai Chúa Giêsu tỏ ra chịu thua hai anh em Giacôbê và Gioan là ở chỗ nay, ở chỗ, cả hai nhất định theo Người cho đến cùng, dù hai vị biết Người đi đâu và con đường Người đi như thế nào, chứ không phải như tông đồ Tôma cho đến giây phút Thày trò gần biệt ly mà còn đặt vấn đề: "Thưa Thày, chúng con không biết Thày sẽ đi đâu thì làm sao chúng con biết được đường lối" (Gioan 14:5).

Cuối cùng, Chúa Giêsu đã tỏ ra như chịu thua trước lòng trung kiên theo Người bất chấp mọi sự của hai anh em Giacôbê và Gioan, bằng câu nói hứa hẹn là "Thày ở đâu các con cũng sẽ được ở đó với Thày" (Gioan 14:3), bao gồm ở cả trong đau thương cũng như vinh hiển, như thế này: "Các con sẽ uống chén Ta uống' các con sẽ thông phần phép rửa Ta chịu. Nhưng về việc ngồi bên hữu hay bên tả của Ta, thì không phải do Ta, mà là cho những ai đã được chỉ định trước" (Marcô 10:39-40).

Thực tế cho thấy, trong bữa tiệc ly, Gioan chẳng những được ngồi bên cạnh Chúa Giêsu mà còn được dịp ngả đầu vào ngực Người để nghe tâm sự thầm kín của Người (xem Gioan 13:23). Nhất là trên đỉnh núi sọ, dưới chân thập giá Chúa Giêsu, chỉ một mình Gioan đứng để nhận lời trăn trối cuối cùng của Người: "Này là Mẹ con" (Gioan 19:27), và cũng để "từ giờ ấy, vị môn đệ nhận Người làm mẹ của mình" (Gioan 19:27).

Theo Thày cho đến khi đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu như Mẹ Maria, thánh Gioan đã chúng tỏ lòng ngài yêu mến Chúa Giêsu là dường nào. Cũng chính vì tình yêu mãnh liệt này của ngài, (có thể vì thế mà sau này ở bờ biển Tibêria, ngài không cần phải trả lời với Thày ba lần như thánh Phêrô là "Thày biết con yêu Thày" - Gioan 21:15-17), mà phải nói là ngài đã cùng với Mẹ Maria chịu tử nạn với Chúa Giêsu.

(Phải chăng thánh Gioan bấy giờ đã "cùng chịu một phép rửa với Thày", chịu đóng đanh với Thày, mà ngài đã là vị tử đạo đầu tiên, tử đạo bằng lửa, tử đạo trong tinh thần, thay vì tử đạo bằng máu, tử đạo ở ngoài thân xác như các tông đồ khác sau này. Thật ra, theo hạnh tích của ngài, có lần ngài đã bị bắt bỏ vào vạc dầu sôi, nhưng ngài đã được thiên thần cứu sống, rồi cuối cùng ngài đã chết già tại gò Patmô).

Thánh Gioan, bởi thế, đã không phải là "người môn đệ được Chúa Giêsu yêu" (Gioan 20:2'21:7,20) hay sao, tức người môn đệ được gần Chúa Giêsu nhất, thương Chúa Giêsu nhất và hiểu Chúa Giêsu nhất. Do đó, không lạ gì, với mối thâm tình với Chúa Giêsu như thế, ngài la môn đệ đầu tiên, (sau thanh nữ Mađalena là người được Chúa dùng để đem Tin Mừng Phục Sinh cho chính các môn đệ), tin rằng Chúa Giêsu đã sống lại (xem Gioan 20:8), và cũng là người môn đệ đầu tiên nhận ra Thày mình trên biển hồ Tibêria (xem Gioan 21:7).

Bằng chứng hiển nhiên hơn nữa về mối thân tình sâu nhiệm Thày trò này là cuốn Khải Huyền, nhất là cuốn Phúc Âm của "người môn đệ được Chúa Giêsu yêu". Cuốn Phúc Âm như "phượng hoàng bay bổng" (Khải Huyền 4:7) này, (so với bộ Phúc Âm Nhất Lãm đặt trọng tâm ở nhân tính của Chúa Kitô), là nguồn tài liệu Thanh Kinh duy nhất mạc khải trọn vẹn Thiên Tính của Chúa Kitô:

"Lời ở nơi Thiên Chúa ngay từ ban đầu"(Gioan 1:1),
"nhờ Người mà mọi sự được thành nên" (Gioan 1:3),
"trong Người chúng được sự sống, sự sống soi sáng cho con người" (Gioan 1:4).
"Ánh Sáng chiếu trong tăm tối (Gioan 1:5),
"Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta... đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14).

Tóm lại, qua câu chuyện hai anh em Giacôbê và Gioan xin ngồi bên phải và bên trái Chúa Giêsu, "Trở nên như trẻ nhỏ" là trở nên đồng lao cộng khổ với Chúa Giêsu, bằng cách chấp nhận tất cả mọi đau khổ mà kiên trung theo Người cho đến cùng. Chúng ta hãy nghe Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu Chúa Giêsu

“Linh hồn phải chịu hủy diệt dưới những đòn vọt của Cha. Bấy giờ Cha mới đưa nó vào con đường thánh thiện và Cha kết hợp mọi năng lực của nó vào quyền năng của Cha”. (Một trong những lời khai mở của Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu Chúa Giêsu trước tháng 8/1965).

“Những ai hiến thân cho tình yêu thì nhận chịu những đòi hỏi của tình yêu. Họ ôm lấy thánh giá Cha với lòng sùng mộ. Âu yếm chấp nhận sự đau khổ, hỡi con, ấy là con đường vương giả mau chóng dẫn đến đỉnh trọn lành. Chịu đau khổ là con giống Cha. Con đang đau khổ đó, hỡi con nhỏ đáng thương của Cha. Nhưng Cha, Cha còn đau khổ hơn con. Con chỉ còn sống cho tình yêu. Những gì không phải là tình yêu thì chỉ là đau khổ cho con”. (21/6/1966)

“Tất cả những gì làm nên giá trị một vị thánh, đó là tuân theo thánh ý của Cha. Đó là tình yêu đem ra đón nhận thánh gia. Đó còn là khát vọng đón nhận thánh giá. Muốn tìm bình an cho linh hồn phải vào trường học "tình yêu", chứ không phải ở hưởng thụ tình yêu đâu con... Cha không thể miễn cho con vì yêu Cha mà khỏi chịu đau khổ. (19/4/1973)

“Người mạnh thì có thánh giá nặng, người yếu lại có thánh giá nhẹ hơn. Nhưng nếu được đón nhận với tình yêu, thì thánh giá nào cũng có giá trị như nhau để cứu rỗi các linh hồn. Ơn cứu chuộc đã được thực hiện bằng thánh giá. Thế giới sẽ được cứu rỗi bằng thánh giá. Cha dìu dắt các linh hồn đã được tuyển chọn, qua những con đường bí nhiệm mà tất cả đều gặp nhau ở chóp đỉnh. Nhiều linh hồn ẩn dật mà tạo được những kỳ công ân sủng và khoan hậu cho tha nhân”.(31/5/1967)

“Hỡi con nhỏ, con hãy hiểu cho kỹ tình yêu của Cha thì điên dại, Thiên Chúa là sức sống của hồn con vì tình yêu được đổ đầy tràn trong nó. Tình yêu hoạt động không ngừng: kích thích hồn nhỏ, làm nó khổ đau, nâng nó lên, xoa dịu nó, làm nó vui cười cũng như sa lệ... Con đừng sợ chi, Cha là sức mạnh của con, và cũng là sự yếu đuối của con. Là sức mạnh để chiến thắng, là sự yếu đuối để yêu thương” (28/10/1974)

Chúa Nhật tuần này, 19/10/2003, cũng là Ngày Chúa Nhật Truyền Giáo của Giáo Hội, bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này dù không phải là bài Phúc Âm về việc truyền giáo, nhưng vì chính Lời Chúa tự bản chất là truyền thông, là Tin Mừng Sự Sống mà ở bất cứ câu nào hay đoạn nào của Phúc Âm chúng ta vẫn có thể áp dụng vào việc truyền giáo hoặc có tính cách truyền giáo. Chẳng hạn bài Phúc Âm Chúa Nhật 29 Thường Niên Năm B tuần này có tính cách hay ý nghĩa truyền giáo ở chỗ ai gieo trong đau thương sẽ gặt trong vui sướng, tức là muốn được ngồi bên tả bên hữu Thày là Đấng đến để phục vụ, để hiến mạng sống mình, thì thành phần môn đệ chứng nhân đích thực của Người cũng phải cùng Người uống cạn chén khổ nạn, và cũng chỉ có ai dám uống chén khổ nạn với Người mới được.
 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

(Giáo Hội Hiện Thế các tuần trước)