GIÁO HỘI HIỆN THẾ

 

 

Ý Chỉ của Đức Thánh Cha cho Tháng 9/2003

 

Ý Chung: “Xin cho các xứ sở đang chịu cảnh chiến tranh, khủng bố và bạo loạn được tìm thấy đường lối hòa giải, hòa hợp và hòa bình”.


Ý Truyền Giáo: “Xin cho các cộng đồng Kitô hữu ở Trung Á đang sống giữa thành phần thuộc các truyền thống tôn giáo khác biết dấn thân truyền bá tin mừng Nước Trời bằng chứng từ tích cực đức tin của họ”.

 

 

___________________________________________

 21-27/9/2003

Giovanni Paolo II

 

27/9 Thứ Bảy

Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria

Phân Phối Thời Gian

38.     Có thể đọc đầy đủ Kinh Mân Côi hết mọi ngày, và có những người thực hiện điều này một cách hết sức đáng khen. Nhờ đó, việc đọc Kinh Mân Côi làm cho ngày sống của nhiều người tràn đầy bầu khí nguyện cầu chiêm niệm, hay nó gắn liền với bệnh nhân và với những vị lão thành, những người có rất nhiều thời giờ. Tuy nhiên, theo mẫu mực lần hạt hằng tuần, hiển nhiên là nhiều người sẽ không thể đọc hơn một phần của Kinh Mân Côi, nhất là có thêm bộ mầu nhiệm ánh sáng mysteria lucis. Việc phân phối hằng tuần có công dụng là làm cho các ngày khác nhau trong tuần có một “mầu sắc” thiêng liêng, tương tự như cách Phụng Vụ tô điểm cho những mùa phụng vụ khác nhau trong phụng niên vậy.

Theo cách thức thực hành hiện nay thì Thứ Hai và Thứ Năm được giành cho “các mầu nhiệm vui mừng”, Thứ Ba và Thứ Sáu cho các “mầu nhiệm thương đau”, Thứ Tư, Thứ Bảy và Chúa Nhật cho các “mầu nhiệm vinh hiển”. Vậy thì “các mầu nhiệm ánh sáng” được nhét vô đâu đây? Nếu chúng ta lưu ý là các “mầu nhiệm vinh hiển” được đọc vào cả hai ngày Thứ Bảy và Chúa Nhật liền, mà Ngày Thứ Bảy bao giờ cũng có hương vị đặc biệt Thánh Mẫu, thì lần suy niệm thứ hai trong tuần về các “mầu nhiệm vui mừng”, các mầu nhiệm đặc biệt nói đến sự hiện diện của Mẹ Maria, có thể chuyển vào Ngày Thứ Bảy. Vậy Ngày Thứ Năm được giành cho việc suy niệm các “mầu nhiệm ánh sáng”.

Việc sắp xếp này không có ý giới hạn quyền tự do chính đáng cần có trong việc cầu nguyên tư riêng cũng như cộng đồng, một việc cầu nguyện cần phải lưu ý đến những nhu cầu thiêng liêng và mục vụ, cũng như đến việc diễn tiến những cử hành phụng vụ là những gì cần phải có những thích ứng xứng hợp. Vấn đề thực sự quan trọng ở đây là Kinh Mân Côi bao giờ cũng phải được coi và cảm nghiệm như là một đường lối chiêm niệm. Nơi Kinh Mân Côi, cũng như nơi những gì vốn xẩy ra trong Phụng Vụ, đặt trọng tâm vào ngày Chúa Nhật, ngày Phục Sinh, thì tuần lễ Kitô giáo trở thành một hành trình xuyên qua các mầu nhiệm của cuộc đời Chúa Kitô, và Người đã được tỏ mình ra như là Vị Chúa của thời gian cũng như của lịch sử nơi đời sống những người môn đệ của Người.

Cảm nghiệm người đọc:

 

Như đã nhận định ở đoạn trên, càng đọc Tông Thư, ta càng cảm được lòng sùng mộ và yêu thích Kinh Mân Côi của Đức Thánh Cha. Ngài không những tỏ ra tỷ mỷ và tha thiết với việc lần hạt, mà còn tìm mọi cách để cho những mầu nhiệm Kinh Mân Côi trở thành sống động và liên kết mật thiết với cuộc sống tâm linh và tự nhiên của người tín hữu. Theo đó, Ngài đã cẩn thận xếp đặt và giới thiệu một chương trình lần hạt cho cả tuần lễ. Không phải chỉ để tránh sự nhàm chán, mà như Ngài đã nói, là để cho những mầu nhiệm và những lời cầu nguyện ấy thấm nhập và đi vào từng ngõ ngách của cuộc đời người Kitô hữu.

Thật là cảm động và kính phục, khi ta thấy Đức Thánh Cha ghi rõ từng ngày trong tuần, ngày nào chiêm ngắm và sống với mầu nhiệm nào của Kinh Mân Côi, thí dụ: Thứ Hai, và thứ Năm dành cho “Mầu Nhiệm Vui”, thứ Ba và thứ Sáu “Mầu Nhiệm Thương”, Thứ Tư, thứ Bẩy và Chúa Nhật “Mầu Nhiệm Mừng”.

Nhưng nghĩ lại, Mầu Nhiệm Aùnh Sáng thì thuộc về những ngày nào? Và Ngài đã rất tế nhị và khiêm tốn, chỉ giới thiệu Mầu Nhiệm Aùnh Sáng của mình vào ngày thứ Năm. Điều này dễ hiểu, vì sau khi Ngôi Lời Nhập Thể, hạ sinh, thì Ngài vào đời, trở thành Aùnh Sáng muôn dân, trước khi chịu chết, sống lại, và lên trời. Đức Thánh Cha còn cẩn thận ghi rằng, việc Ngài gợi ý đây còn tùy quyền quyết định của các đấng bản quyền địa phương, và tùy vào thói tục tôn sùng và thực hành phép lần hạt tại mỗi địa phương.

Đến đây, coi như đã kết thúc những gì cần phải trình bày về Kinh Mân Côi, phương thức lần hạt, và từng ý nghĩa của mỗi mầu nhiệm. Khi đọc toàn chương hai, sẽ thấy hiện lên một lòng yêu mến thẳm sâu của Đức Thánh Cha đối với Mẹ Maria, và sự sốt sắng của Ngài đối với Kinh Mân Côi. Điều này trái ngược hẳn với quan niệm của một số người nông cạn và khô khan, hời hợt vẫn cho rằng lòng sùng mộ Đức Trinh Nữ Maria là thiếu nền tảng Thánh Kinh, và việc lần hạt Mân Côi là việc làm của những ông già, bà cả, và con nít.


Kinh Mân Côi Thánh Của Mẹ Maria,
Sợi Giây Xích Êm Ái Thắt Cột Chúng Ta Với Thiên Chúa”


39.     Cho tới đây những gì đã nói rõ ràng cho thấy tính cách phong phú của kinh nguyện truyền thống này, một kinh nguyện có tính cách đơn sơ đối với lòng sùng kính phổ thông, song cũng sâu xa về thần học như là một loại kinh nguyện xứng với những ai cảm thấy cần phải thực hiện việc chiêm niệm cao xa hơn.

Giáo Hội luôn luôn nhận thấy công hiệu đặc biệt của kinh nguyện này, khi ký thác những vấn đề khó khăn nhất cho Kinh Mân Côi, cho việc lần hạt chung, cũng như cho việc liên lỉ làm việc này. Có những lúc chính Kitô Giáo dường như bị đe dọa thì kinh nguyện này đã trở thành phương thế cứu nguy, và Đức Mẹ Mân Côi được công nhận là Vị cầu bầu đã ra tay cứu độ.

Hôm nay đây Tôi cũng xin trao phó cho quyền năng của kinh nguyện này – như Tôi đã đề cập đến từ đầu – căn nguyên của hòa bình thế giới cũng như của đời sống gia đình.


Cảm nghiệm người đọc:

 

Qua những hướng dẫn một cách tỷ mỷ về ý nghĩa gắn liền với mỗi mầu nhiệm, ý nghĩa của từng kinh nguyện trong chuỗi Hạt Mân Côi như Kinh Lậy Cha, Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh, và những lời nguyện tắt liên quan đến việc lần hạt Mân Côi. Giờ đây Đức Thánh Cha mong mỏi mọi người hãy ý thức tầm quan trọng của Kinh Mân Côi qua cái nhìn về tương lai của nhân loại, và đời sống hôn nhân gia đình. Ngài viết: “Hôm nay đây, Tôi cũng xin trao phó cho quyền năng của kinh nguyện này – như tôi đã đề cập đến từ đầu – căn nguyên của hòa bình thế giới cũng như của đời sống gia đình”.

Thiết tưởng không còn gì rõ ràng và mạnh mẽ hơn những lời của Ngài vừa viết. Hẳn khi Ngài đề cập đến những can thiệp của Đức Trinh Nữ Maria đối với đời sống Giáo Hội và nhân loại, Đức Thánh Cha muốn nhấn mạnh đến chiến thắng mà Giáo Hội gặt hái được trong trận chiến đối đầu với người Hồi Giáo quá khích của thời trung cổ, và những cuộc trở lại nhờ vào lời cầu của Kinh Mân Côi đối với các lạc giáo thời Thánh Đaminh.

Ngày nay, hơn bao giờ hết, Giáo Hội, nhân loại và từng cá nhân thực sự phải cần đến sự can thiệp ấy của Mẹ Maria. Chúng ta hãy nghe những gì Đức Thánh Cha viết khi Ngài quảng diễn về hòa bình thế giới, cũng như sự an vui và hạnh phúc của các gia đình nhờ vào việc đọc và suy ngắm Kinh Mân Côi ở những đoạn kế tiếp.

 

Người đọc Trần Mỹ Duyệt

 

Quốc Hội Âu Châu phủ nhận chi tiết liên quan đến các căn gốc “DoThái Kitô giáo” nơi bản Hiến Pháp của Khối Hiệp Nhất Âu Châu

Tại Strasbourg, Pháp Quốc ngày Thứ Tư 24/9/2003, đại hội đồng Quốc Hội Âu Châu, qua cuộc bỏ phiếu 283 thuận và 211 chống, đã phủ nhận bất cứ chi tiết nào liên quan đến các căn gốc “Do Thái Kitô Giáo” của châu lục này nơi bản thảo Hiến Pháp Âu Châu. Cuộc bỏ phiếu này là bước quan trọng trước khi tiến đến cuộc họp liên chính quyền ở Rôma vào tuần tới, một họp sẽ đi đến chỗ quyết định chấp thuận bản thảo hiến pháp quan trọng liên quan đến tương lai của cả một châu lục Kitô giáo nói chung và của các quốc gia hội viên theo văn hóa Kitô giáo thuộc Khối Hiệp Nhất Âu Châu này nói riêng.

Trước thời gian quyết liệt của cuộc bỏ phiếu này, một cuộc bỏ phiếu cho thấy đường hướng có thể chi phối cuộc họp liên chính quyền trong vấn đề chấp thuận bản thảo hiến pháp này vào tuần tới, đã có nhiều cuộc tranh đấu theo chiều hướng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, vị đã lợi dụng tất cả mọi hoàn cảnh, kể cả các cuộc tông du trong một năm qua, nhất là các bài huấn từ truyền tin Chúa Nhật hằng tuần trong thời gian nghỉ hè của Ngài, từ giữa Tháng 7 đến cuối Tháng 8, để nhấn mạnh đến tầm mức quan trọng của căn gốc Kitô giáo nơi từng xứ sở Âu Châu cũng như nơi chung đại lục Âu Châu này.

Trước hết phải kể đến bản dự thảo của EPP (European Popular Party) Đảng Phổ Thông Âu Châu, đã yêu cầu “qui chiếu đặc biệt” đến các căn gốc “Do Thái Kitô giáo” của Âu Châu trong bản thảo hiến pháp, nhưng không có một công thức nào về điều yêu cầu này được phác hoạ. Tiếp đến là bản tu chính của EUN (European Union of Nations) Khối Hiệp Nhất Chư Quốc Âu Châu yêu cầu “việc nhìn nhận một cách rõ ràng cái di sản Kitô giáo đã được ghi dấu nơi lịch sử cũng như nơi căn tính văn hóa của Âu Châu”, nhưng cũng chịu cùng một hậu quả như Đảng EPP. Cho dù Đảng EPP chiếm đa số trong Quốc Hội Âu Châu nó vẫn không chiếm được sự đồng ý chung của đa số. Đảng này được Khối EUN ủng hộ, nhưng ngay trong nội bộ Đảng EPP lại không ủng hộ, thậm chí cả đến thành phần Bảo Thủ của Hiệp Vương Quốc. Thành phần bỏ phiếu chống lại bản thảo thiếu chi tiết liên quan đến các căn gốc Do Thái Kitô Giáo này gồm có Đảng Xã Hội Âu Châu cùng nhiều nhóm thiểu số khác với 30 vị đại biểu độc lập.

Phát ngôn viên của Khối EPP là Katrin Ruhmann lên tiếng thế này: “Chúng tôi đã biết rằng đây là những con số, thế nhưng chúng ta không thể không cảm thấy có trách nhiệm để mạnh mẽ trình bày quan điểm chúng ta hết sức tin tưởng”. Vị chủ tịch của khối này là Hans-Gert Pưttering đã cảm thấy buồn về kết quả của cuộc bỏ phiếu này, nhưng cũng không phủ nhận được rằng trong lời dẫn nhập, bản thảo hiến pháp đã đề cập tới gia sản tôn giáo của châu lục này rồi, cũng như ở Khoản 51 cũng đã nhìn nhận vị trí của các giáo hội và cộng đồng cùng một niềm tin. Phát ngôn viên Ruhrmann nói rằng phán quyết cuối cùng giờ đây ở trong tay các chính phủ của Khối Hiệp Nhất Âu Châu: “Nếu họ muốn, họ vẫn có cơ hội để điều chỉnh bản thảo Hiến Pháp theo chiều hướng mong muốn của chúng ta”.

Hôm Thứ Năm 25/9/2003, vào lúc 6 giờ 30 chiều, ĐTC đã trở về điện Vatican sau hai tháng rưỡi ở nhà nghỉ hè của Ngài tại Castelgandolfo. Cuối tháng Tám, Ngài đã bắt đầu sinh hoạt lại bình thường, nhưng vẫn ở lại nhà nghỉ này của Ngài. Trong lời tạ từ cám ơn các nhân viên an ninh, Ngài đã hứa cầu nguyện cho họ và xin họ cầu nguyện cho Ngài như sau: “Ngoài ra, Tôi xin anh em cầu nguyện cho Tôi cũng như cho việc Tôi phục vụ Giáo Hội hằng ngày. Xin cầu nguyện đặc biệt cho cuộc hành hương của Tôi sắp tới đến Pompeii, để cuộc hành hương này bắt đầu một giai đoạn mới cho việc canh tân sống đạo và thiết tha tôn sùng Thánh Mẫu hơn đối với Giáo Hội”.

Trò Chơi Phúc Âm Chúa Nhật XXVI Thường Niên Năm B: Xa Tránh Dịp Tội

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Gioan thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo chúng ta, và chúng con đã ngăn cấm y”. Nhưng Chúa Giêsu phán: Đừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con. Ai nhân danh Thầy mà cho các con một ly nước vì lẽ các con thuộc về Đấng Kitô, Thầy bảo thật các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu. Nhưng nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn. Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hỏa ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hỏa ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt.

Hướng Dẫn

Bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này Chúa dạy chúng ta hai điều:

Thứ Nhất, không được ghen tị hay kỳ thị với những người không thuộc về phái nhóm của mình, nhất là những người làm được những việc lành như mình, trái lại, phải có tinh thần đoàn kết và chấp nhận nhau để làm việc cho Chúa.

Thứ hai, không được làm gương mù gương xấu cho bất cứ một ai làm thiệt hại đến đức tin của họ, đến đời sống thiêng liêng của họ, nhưng để được như thế, con người cần phải biết chấp nhận thà chịu thiệt mình hơn là hại người, thà chịu thiệt ở đời này hơn là ở đời sau.

Nếu nhân loại là một gia đình, Giáo Hội là Nhiệm Thể Chúa Kitô, mọi người phải coi nhau như anh chị em ruột thịt của nhau, thì bất cứ việc gì xấu con người làm đều tác hại đến xã hội, đến Giáo Hội, cần phải tránh. Đó là lý do Kitô hữu Công giáo cần phải xưng tội để hòa giải chẳng những với Chúa mà còn với nhau nữa.

Vậy hôm nay chúng ta sinh hoạt trò chơi tránh lánh tội lỗi, ở chỗ cố gắng không theo chước cám dỗ và nhất định tuân theo ý Chúa.

Sinh Hoạt

1. Chia thành hai nhóm, mỗi nhóm cử ra ba người, một người đóng vai Lương Tâm nhắc bảo, một người đóng vai Satan cám dỗ, và một người đóng vai linh hồn Kitô hữu.

2. Cứ một người đóng vai linh hồn của nhóm này phải đứng đối diện với hai người đóng vai Lương Tâm và Satan của nhóm kia.

3. Người đóng vai linh hồn phải để ý đến những cử điệu của hai người kia, và phải làm đúng như Lương Tâm bảo thật và làm ngược lại những gì Satan xui bậy.

4. Hai người đóng vai Lương Tâm và Satan phải làm cử điệu tay trước chân sau hay chân trước tay sau cũng được. Và phải làm cử điệu cả tay lẫn chân như thế xen kẽ nhau, người đóng vai Lương Tâm làm trước rồi tới người đóng vai Satan, hay ngược lại.

5. Người đóng vai Lương Tâm làm từng cử động cả tay lẫn chân trước, người đóng vai linh hồn phải lập lại đúng y như vậy. Nếu sai chỗ nào, cử động tay hay cử động chân, thì muốn vào Nước Trời phải chặt chân hay chặt tay.

6. Người đóng vai Satan cũng thế, cũng làm ba cử động cả tay lẫn chân liền, người đóng vai linh hồn phải làm những cử điều ngược lại. Như người đóng vai Satan lấy chân trái đá về phía bên phải thì người đóng vai linh hồn phải dùng chân phải đá về phía bên trái, hay người đóng vai Satan giơ tay cánh tay phải ra phía trước thì mình phải giơ cánh tay trái ra phía sau v.v.

7. Có thể chơi như thế với nhiều nhóm 3 người như thế. Cuối cùng bên nào ít bị què tay cụt chân nhất, nghĩa là làm đúng theo Lương Tâm và ít làm theo Satan nhất là thắng.

 

26/9 Thứ Sáu

TỔNG QUAN
VỀ PHONG TRÀO THIẾU NHI FATIMA

  

BIẾN CỐ FATIMA

 

Chúa Giêsu Kitô là mạc khải của Thiên Chúa, tức Người là tất cả những gì Thiên Chúa muốn tỏ cho loài người biết về chính Ngài cũng như về ý định cứu độ của Ngài (xem Heb 1:2; Jn 14:9). Tuy nhiên, trong giòng thời gian, từ khi Chúa Giêsu Kitô thăng thiên cho tới khi Người lại đến, qua Thần Linh của mình, Người vẫn tiếp tục nhắc nhở (Jn 14:26) Giáo Hội của Người nói riêng và nhân loại nói chung. Và Thần Linh của Người có thể thực hiện việc nhắc nhở cần thiết này bằng nhiều cách thức khác nhau, vì Ngài là gió muốn thổi đâu thì thổi (Jn 3:8). Có thể nói, Biến Cố Thánh Mẫu là một trong những cách Thần Linh muốn dùng để chẳng những nhắc nhở mà còn loan báo những gì sẽ xẩy đến (Jn 16:13) nữa, vì Biến Cố Thánh Mẫu Fatima, như Giáo Hội chính thức công nhận, có một nội dung hoàn toàn lập lại sứ điệp của Phúc Âm. Ngoài ra, Biến Cố Thánh Mẫu Fatima cũng thực sự loan báo những gì sẽ xẩy đến nữa, đó là việc Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới, như Mẹ Maria cho biết ngày 13/7/1917, một việc thiết lập liên quan đến những biến cố xẩy ra sau này. Vẫn biết, tự bản chất, Biến Cố Thánh Mẫu, dù có được Giáo Hội công nhận song cũng không buộc phải tin tưởng như các tín điều mới được cứu rỗi, song không phải vì thế nó mất đi tính cách nhắc nhở của Thần Linh.

 

Thật vậy, Biến Cố Thánh Mẫu Fatima phải nói là tiếng Thần Linh nhắc nhở hết sức rõ ràng và hùng hồn qua những dấu chỉ thời đại (Mt 16:3) là các biến cố lịch sử. Cho dù có không tin Biến Cố Thánh Mẫu Fatima đi nữa, người ta vẫn không thể chối cãi được những sự kiện lịch sử trực tiếp liên quan đến Biến Cố Thánh Mẫu Fatima này. Chẳng hạn ba biến cố điển hình tuần tự xẩy ra sau đây:

 

Thứ nhất là biến cố 13/5/1981, ngày Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã bị ám sát và thoát chết, ngày kỷ niệm Mẹ Maria hiện ra lần đầu tiên tại Fatima năm 1917;

 

Thứ hai là biến cố 25/3/1984, ngày Đức Thánh Cha đã hợp cùng hàng Giáo Phẩm hoàn vũ để hiến dâng thế giới và ngầm dâng cả Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, như lời Mẹ kêu gọi qua chị Lucia ngày 29/6/1929;

 

Thứ ba là biến cố 25/12/1991, ngày lãnh tụ Gorbachev chính thức từ chức, tiêu biểu cho việc Nước Nga tự động giải thể, hoàn toàn từ bỏ chủ nghĩa và chế độ Cộng Sản.

Ba biến cố liên hệ đến cả vai trò của Giáo Hội lẫn vận mệnh chung thế giới này đã xẩy ra hoàn toàn ứng nghiệm lời Mẹ Maria tiên báo tại Fatima ngày 13/7/1917 ở cuối phần Bí Mật Fatima thứ hai:Cuối cùng, Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ thắng. Đức Thánh Cha sẽ hiến dâng Nước Nga cho Mẹ, Nước Nga sẽ trở lại và thế giới sẽ được hưởng một thời gian hòa bình. Những lời này đã được chị Lucia, một trong ba Thiếu Nhi Fatima còn sống sót viết lại từ đầu thập niên 1940, những lời con dân Việt Nam Công Giáo cũng đã từng được nghe từ lâu lắm rồi, trước cả biến cố di cư vào Nam 1954 và biến cố tị nạn hải ngoại 1975.

  

SỨ ĐIỆP FATIMA

 

Nếu Biến Cố Thánh Mẫu Fatima quả thực là một lời nhắc nhở của Thần Linh trong giòng lịch sử vang lên vào đầu thế kỷ 20, thì, qua nội dung và tinh thần của ba Mệnh Lệnh Fatima, lời nhắc nhở đó là Hãy ăn năn hối cải và tin vào Phúc Âm (Mk 1:15), một lời Phúc Âm được nhắc nhở qua lời kêu gọi của Mẹ Maria vào lần hiện ra cuối cùng, 13/10/1917, ngay trước khi Mẹ biến đi để hoàn toàn kết thúc Biến Cố Thánh Mẫu Fatima, đó là: Đừng xúc phạm đến Chúa là Thiên Chúa của chúng ta nữa, vì Người đã bị xúc phạm nhiều lắm rồi. Trong bài giảng ngày 13/5/1982, kỷ niệm đúng một năm sau cuộc bị ám sát, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã sang tận Linh Địa Fatima để tạ ơn Đức Mẹ cứu sống Ngài, Ngài cũng công nhận tính cách nhắc nhở ở Biến Cố Thánh Mẫu Fatima như sau: Sở dĩ Giáo Hội chuẩn nhận Sứ Điệp Fatima là bởi vì, trên hết, sứ điệp này chất chứa một sự thật và là một lời kêu gọi mà nội dung căn bản của nó là sự thật và là lời kêu gọi của chính Phúc Âm.

 

Như thế, trọng tâm của Biến Cố Thánh Mẫu Fatima là Thiên Chúa (Mệnh Lệnh Cải Thiện Đời Sống), chứ không phải Mẹ Maria, vì Mẹ (Mệnh Lệnh Tôn Sùng Mẫu Tâm và Cầu Kinh Mân Côi) chỉ đến để dẫn con người trở về cùng Ngài mà thôi, đúng như vai trò của Mẹ trong Dự An Cứu Độ và Công Cuộc Cứu Độ của Thiên Chúa, một vai trò Mẹ đã thực hiện và tỏ ra ở tiệc cưới Cana, nơi Mẹ đã làm cho Chúa và con người gặp gỡ nhau (xem Jn 2:3-5,7-8), một vai trò Mẹ cũng đã xác định khi nói với chung Ba Thiếu Nhi Fatima và riêng Lucia ngày 13/6/1917: Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ là nơi con nương náu và là đường đưa con đến với Thiên Chúa.

 

Tuy nhiên, để có thể thực hiện sứ vụ của mình trong việc dẫn con người trở về cùng Thiên Chúa, một con người, vào thời ấy, đã bắt đầu trở thành hoang đàng và phung phá gia sản đức tin thần linh cao quí cùng với kho tàng văn hóa nhân bản chân chính của mình trong trận đại lụt văn hóa sự chết, văn hóa của hận thù chém giết (vào tiến bán thế kỷ là hai Cuộc Thế Chiến, các cuộc diệt chủng, vào hậu bán thế kỷ là nạn phá thai, và trong suốt thế kỷ là nạn Cộng Sản khát máu), Mẹ Maria đã thành lập một Lực Lượng Fatima là Ba Thiếu Nhi Fatima Lucia, Phanxicô và Giaxinta. Nếu Sứ Điệp Fatima gồm có ba mệnh lệnh, và Bí Mật Fatima gồm có ba phần, thì Thiếu Nhi Fatima cũng chỉ có ba em, một lực lượng Mẹ Maria đã thành lập ngay từ khi Biến Cố Thánh Mẫu Fatima mở màn ngày 13/5/1917, tức ngay trước khi Mẹ ban bố Sứ Điệp Fatima, tiết lộ Bí Mật Fatima, và tỏ cho các em biết Mẹ là ai và đến để làm gì (vào lần hiện ra cuối cùng 13/10/1917).

 

Thiếu Nhi Fatima Giaxinta nhỏ nhất phụ trách các tội nhân, một vai trò liên quan đến phần Bí Mật Fatima thứ nhất về thị kiến hỏa ngục, cũng là vai trò liên quan đến Mệnh Lệnh Fatima Cải Thiện Đời Sống, ở chỗ, em chuyên lo cứu các tội nhân cho khỏi sa hỏa ngục, bằng việc liên lỉ tìm kiếm hy sinh hay biến mọi sự trở thành hy sinh. Thiếu Nhi Fatima Phanxicô nam duy nhất chuyên chú đến Chúa Giêsu ẩn thân, một vai trò liên quan đến phần Bí Mật Fatima thứ ba về thị kiến Thiên Chúa ban ơn cứu độ cho thành phần thiện tâm bằng máu tử đạo, cũng là vai trò liên quan đến Mệnh Lệnh Fatima Cầu Kinh Mân Côi, ở chỗ, tay em lúc nào cũng cầm tràng hạt và chuyên tâm an ủi Chúa Giêsu Thánh Thể là Đấng đã bị xúc phạm nhiều lắm rồi. Thiếu Nhi Lucia lớn nhất chuyên chú đến Mẹ Maria, một vai trò liên quan đến phần Bí Mật Fatima thứ hai về mạc khải Thiên Chúa muốn thiết lập?, cũng là vai trò liên quan đến Mệnh Lệnh Fatima Tôn Sùng Mẫu Tâm, ở chỗ, thiếu nhi này chuyên lo thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới, đúng như ơn gọi và sứ mệnh của chị được Mẹ Maria tỏ cho chị biết ngày 13/6/1917: Chúa Giêsu muốn dùng con để làm cho Mẹ được nhận biết và yêu mến.

 

 

THIẾU NHI FATIMA

 

Phong Trào Thiếu Nhi Fatima (PTTNF) được mấy thành viên lãnh đạo của Phong Trào Đạo Binh Xanh Việt Nam ở Tổng Giáo Phận Los Angeles thành lập từ năm 1984. Không ngờ, thời điểm vào đời của Phong Trào Thiếu Nhi Fatima này lại trùng ngay vào thời điểm Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II hiến dâng thế giới và ngầm dâng Nước Nga cho Mẹ Maria, một biến cố đã thực sự làm cho Nước Nga trở lại.

 

Mục đích của PTTNF: là để giúp cho giới trẻ nói chung, cách riêng cho giới trẻ Việt Nam: Sống Phúc Am theo Sứ Điệp Fatima và Thực Hành Sứ Điệp Fatima theo gương ba Thiếu Nhi Fatima tiên khởi (Cẩm Nang trang 2, khoản 2a và 2b).

 

Chủ trương của PTTNF: Chú trọng việc huấn luyện đoàn sinh về mặt tinh thần, hơn là về mặt phát triển những khả năng sinh hoạt chuyên môn (Cẩm Nang trang 2-3, số 3a); PTTNF thà như một hạt cải nhỏ bé nhất (xem Mt 13:31), hơn là xum xuê như cây vả mà bị Chúa nguyền rủa vì không sinh hoa kết trái (xem Mk 11:13-14) (Cẩm Nang trang 3, số 3e).

 

Tổ chức của PTTNF (theo hàng ngang) gồm có 4 ngành: Au, Thiếu, Nghĩa và Trưởng:

 

Ngành Au từ 6 đến hết 9 tuổi, tuổi của Giaxinta (6 tuổi khi bắt đầu Biến Cố Fatima năm 1916 và qua đời lúc 10 tuổi), bởi thế cũng là ngành theo gương hy sinh cứu các tội nhân của Giaxinta, nhờ học hỏi cuốn Hồi Ký Lucia là cuốn Giaxinta đóng vai trò nổi nhất.

 

Ngành Thiếu từ 10 đến hết 13, tuổi của Phanxicô (qua đời năm 11 tuổi), bởi thế cũng là ngành theo gương cầu nguyện bằng việc lần hạt Mân Côi của Phanxicô, nhờ học hỏi cuốn Bí Mật Kinh Mân Côi của Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort).

 

Ngành Nghĩa từ 14 đến hết 17, (tuổi của Lucia trước khi đi tu), bởi thế cũng là ngành theo gương tôn sùng Trái Tim Mẹ của Lucia, nhờ học hỏi cuốn Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria cũng của Thánh Long Mộng Phố.

 

Ngành Trưởng từ 18 trở lên (tuổi Lucia dâng mình trong dòng và bắt đầu thực hiện việc thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới), bởi thế cũng là ngành theo gương chị và cùng chị trong việc làm cho Mẹ được nhận biết và yêu mến, nhờ học hỏi cuốn Vinh Quang Mẹ Maria của Thánh Anphongsô.

Tổ Chức của PTTNF (theo hàng dọc) gồm có:

Ba cấp chính là Đoàn (ở mỗi giáo xứ hay cộng đoàn; Đoàn ở mỗi cộng đoàn còn có thể được chia thành Đội và Tổ), Liên Đoàn (gồm các Đoàn trong một giáo phận), và Tổng Liên Đoàn (gồm các Liên Đoàn ở hai quốc gia trở lên, hay quá nhiều Liên Đoàn trong một nước).

Cấp Lãnh Đạo Đoàn gồm có Cha Tuyên Uy (thường là Cha Xứ hay Cha Quản Nhiệm Cộng Đoàn), Vị Phụ Trách (thường là vị Chi Đoàn Trưởng Đạo Binh Xanh địa phương, nếu có), Đoàn Trưởng và Ban Chấp Hành Đoàn (thứ tự gồm Nghĩa Trưởng, Thiếu Trưởng, Au Trưởng, Phụ Tá Nội Vụ và Phụ Tá Điều Hành).

Cấp Lãnh Đạo Liên Đoàn gồm có Cha Tuyên Uy Liên Đoàn, Liên Đoàn Trưởng và Ban Chấp Hành Liên Đoàn (thứ tự gồm có Liên Đoàn Phó Giáo Huấn, Liên Đoàn Phó Điều Hành, Thư Ký và Thủ Qũi).

Cấp Lãnh Đạo Tổng Liên Đoàn cũng tương tự như cấp lãnh đạo liên đoàn. Nhiệm kỳ của mỗi cấp đều kéo dài 3 năm và được tái nhiệm vô hạn định, bao lâu còn được đề cử cũng như bổ nhiệm với một thiện chí muốn dấn thân phục vụ tới cùng.

Vai trò lãnh đạo của Đoàn Trưởng, Liên Đoàn Trưởng và Tổng Liên Đoàn Trưởng vừa do dân cử vừa do trời tuyển (huynh trưởng bầu đề cử nhưng Vị Tuyên Úy sẽ chọn bổ nhiệm một trong ba người nhiều phiếu nhất), một thể thức tuyển chọn khiến vai trò lãnh đạo PTTNF có tính cách vì dân nhưng theo ý Chúa, chứ không phải kiểu dân chủ ý dân là ý trời như chiều hướng duy nhân bản hiện nay.

Sinh Hoạt của PTTNF:

Hằng Tuần tại Đoàn:

Họp nhau cầu nguyện vào tối Thứ Bảy và bàn soạn chương trình sinh hoạt Chúa Nhật (trừ đoàn có Lễ Chúa Nhật vào tối Thứ Bảy);

Sinh hoạt (tối đa một tiếng) trước Lễ Chúa Nhật hằng tuần theo thứ tự sau đây: Tập họp (5 phút); Chào cờ và 10 Điều Tâm Niệm (5 phút); cầu nguyện theo ngành (5 phút); học hỏi theo ngành (15 phút) và vui chơi lành mạnh (30 phút).

 Hằng Tháng chung Liên Đoàn:

Giữ Ngày Thứ Bảy Đầu Tháng (được tổ chức luân phiên tại mỗi Đoàn)

Hằng Năm chung Các Đoàn:

An Tất Niên hay Mừng Tân Niên (thường vào Thứ Bảy Đầu Tháng Hai);

Huynh Trưởng Hồi Tâm vào Thứ Bảy Đầu Tháng trong Mùa Chay (thường Tháng Ba);

Trại Huấn Luyện Fatima vào cuối tuần sau Lễ Phục Sinh (thường trong Tháng Tư);

Trại Hè Fatima vào cuối tuần sau Ngày Lễ Độc Lập Hoa Kỳ (trong Tháng Bảy);

Huynh Trưởng Hội Ngộ (Picnic) vào Thứ Bảy sau Trại Hè Fatima (trong Tháng Bảy);

Ngày Mẹ Mân Côi Thứ Bảy Đầu Tháng 10 (ở Đoàn đoạt giải danh dự Trại Hè Fatima)

Mừng Lễ Quan Thày Cộng Đồng (thường vào Chúa Nhật tuần thứ ba trong Tháng 11);

Khóa Tĩnh Huấn Fatima (bao giờ cũng vào cuối tuần Lễ Tạ Ơn);

Mừng Lễ Quan Thày của Liên Đoàn (8/12);

Tặng Quà Giáng Sinh cho những người anh em hèn mọn nhất (vào Ngày Lễ Quan Thày trong Mùa Vọng).

Ba Năm tại các cấp:

Đoàn: Bầu đề cử tân Đoàn Trưởng, và tân Ban Chấp Hành tuyên thệ vào Ngày Quan Thày của Đoàn.

Liên Đoàn và Tổng Liên Đoàn: Nghị sự về việc thăng tiến Liên Đoàn hay Tổng Liên Đoàn, bầu đề cử tân Liên Đoàn Trưởng hay Tổng Liên Đoàn Trưởng, và tân Ban Chấp Hành Liên Đoàn hay Tổng Liên Đoàn tuyên thệ nhậm chức vào Ngày Quan Thày của Liên Đoàn hay Tổng Liên Đoàn.

 Khẩu Hiệu của PTTNF: Yêu Thương

            Thiếu Nhi Fatima: Yêu Thương, câu hô trước khi tan hàng này chính là khẩu hiệu của Thiếu Nhi Fatima. Đó là ý nghĩa của hai ngón cái và ngón trỏ chụm vào nhau thành vòng tròn (bên cạnh 3 ngón còn lại thẳng đứng), một vòng tròn tượng trưng cho lòng Yêu mến Thiên Chúa và Thương cứu tội nhân. Đó cũng là tinh thần được thể hiện nơi biểu hiệu (logo) của PTTNF, một tinh thần được hiện thân qua hình ảnh ba bông hồng Mân Côi (Yêu Thương), ba bông hồng nằm trên hình cây Thánh Giá hy sinh (Yêu Thương), cả hai nằm giữa hình Trái Tim Mẹ Maria (Yêu Thương),  một hình trái tim ở trước hình tam giác Ba Ngôi (Yêu Thương).

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 Viết Mừng Quan Thày của Liên Đoàn Thiếu Nhi Fatima 8/12/2001,

dịp ra mắt Màn Điện Toán Toàn Cầu ThoiDiemMaria.Net

 

25/9 Thứ Năm

Tòa Thánh sửa soạn mừng ngân khánh Giáo Hoàng Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II

Hôm Thứ Bảy 20/9, Tòa Thánh Vatican đã phổ biến chương trình mừng 25 năm Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II được bầu làm giáo hoàng. Chương trình bao gồm cả một cuộc họp 4 ngày của 164 vị trong hồng y đoàn, Thánh Lễ vào chính ngày kỷ niệm và một cuộc hòa nhạc mừng Ngài.

Vào lúc 5 giờ chiều Thứ Tư 15/10, Hồng Y Đoàn sẽ qui tụ lại Sảnh Đường New Synod để bắt đầu cuộc họp 4 ngày, trong đó, 6 vị hồng y sẽ trình bày về những đề tài có tầm mức quan trọng đối với Giáo Hội. ĐHY Bernardin Gantin, nguyên trưởng hồng y đoàn, với đề tài “Thừa Tác Vụ Thánh Phêrô với Mối Hiệp Thông Giáo Phẩm”; ĐHY Jean-Marie Lustiger với đề tài “Linh Mục, Tu Sĩ và Ơn Thiên Triệu”; ĐHY Alfonso Lopez Trujillo về đề tài gia đình; ĐHY Nasrallah Pierre Sfeir về đề tài đại kết; ĐHY Ivan Dias về việc truyền giáo và ĐHY Angelo Sodano về đề tài “Một Giáo Triều 25 Năm Phục Vụ Hòa Bình”.

Các vị chủ tịch hội đồng giám mục trên thế giới, các vị làm đầu những phân bộ khác nhau ở Tòa Thánh và các vị thượng phụ cũng được mời tham dự cùng với các vị hồng y. ĐTC sẽ không tham dự buổi ra mắt tối áp Thứ Tư 15, nhưng Ngài sẽ tham dự vào sáng chính ngày kỷ niệm 16/10, để ký bức Tông Huấn hậu thượng hội giám mục 2001 về đề tài thừa tác vụ của hàng giáo phẩm. Vào lúc 6 giờ chiều chính ngày kỷ niệm này Ngài sẽ dâng Lễ tại Quảng Trường Thánh Phêrô để long trọng cử hành mừng kỷ niệm 25 năm giáo hoàng của Ngài.

Thứ Sáu 17, Hồng Y Đoàn sẽ tiếp tục gặp gỡ hội họp. Vào lúc 6 giờ chiều một buổi hòa nhạc mừng ĐTC tại Sảnh Đường Đức Phaolô VI, được thực hiện bởi ca đoàn và dàn nhạc Leipzig với Bản Đại Hòa Tấu Thứ Chín của Beethoven và Bản “Ecce Sacerdos Magnus” của Bruckner.

Thứ Bảy 18, ĐTC ngỏ lời cùng Hồng Y Đoàn trong buổi gặp gỡ cuối cùng của các vị. Sau đó, các vị trình lên Ngài một Sứ Điệp. ĐTC mời tất cả tham dự viên được kể đến trên đây cùng Ngài dùng bữa trưa vào lúc 1 giờ. Vào lúc 5 giờ 30 chiều, cũng tại Sảnh Đường Phaolô VI, một buổi canh thức truyền giáo được cử hành, hướng về Ngày Chúa Nhật Truyền Giáo của Giáo Hội hoàn vũ hôm sau.

Chúa Nhật 19/10, vào lúc 10 giờ sáng, ĐTC dâng Thánh Lễ cử hàng Ngày Khánh Nhật Truyền Giáo của Giáo Hội tại Quảng Trường Thánh Phêrô để phong chân phước cho Mẹ Têrêsa Calcutta.

Năm Mân Côi được bắt đầu từ ngày 16/10/2002 cũng sẽ được bế mạc vào Ngày Chúa Nhật Truyền Giáo này. Tuy nhiên, ngày chính thức kết thúc phải được kể đến cuộc hành hương của ĐTC đến Đền Đức Mẹ Mân Côi Pompeii gần Naples Nước Ý. Chương trình hành hương của Ngài sẽ diễn tiến như sau.

Ngày 7/10, vào lúc 9 giờ sáng, trực thăng sẽ đưa Ngài một tiếng đồng hồ đến khu đổ nát của cổ thành gần đó rồi Ngài đi xe đến Công Trường Bartolo Longo (tên của vị chân phước đã được ĐTC đề cập đến trong Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria của Ngài) ở Pompeii là chính địa điểm Đền Thánh Mẫu này. Vào lúc 10 giờ 30 sau đó, ĐTC sẽ lần hạt Mân Côi cầu nguyện cho hòa bình thế giới và giảng thuyết. Ngài sẽ lập lại lời nguyện cầu cùng Đức Mẹ như Ngài vẫn làm vào ngày 8/5 và vào Tháng 10 hằng năm. Cuối cùng, sau khi chào các vị quan khách đạo đời, Ngài sẽ rời đó và lên trực thăng vào lúc 12 giờ 30 trưa để trở về Rôma.

Tòa Thánh Vatican có thể trở thành một quốc gia hội viên của Liên Hiệp Quốc

Từ trước đến nay, với tư cách là Quốc Đô Vatican (Vatican City State), Tòa Thánh Vatican chỉ giữ vai trò của một quan sát viên thường trực ở tổ chức Liên Hiệp Quốc này mà thôi, quyền được mời tham dự các phiên họp và được phát biểu ở các phiên họp này, song hoàn toàn không có quyền bỏ phiếu như các quốc gia hội viên chính thức khác. Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Angelo Sodano, qua bài diễn văn tại trung tâm Banco Popular ở Sondrio Ý Quốc hôm Thứ Sáu 19/9/2003 và được tờ nhật báo Ý Avvenire phổ biến vào ngày hôm sau, đã cho biết thế này: “Theo luật lệ quốc tế, về phương diện lý thuyết, Tòa Thánh không bị ngăn trở gì về vấn đề dần dần trở thành một hội viên thực thụ của các tổ chức Liên Hiệp Quốc. Vấn đề này cũng không phải là điều gì mới lạ đối với Tòa Thánh cả, nếu người ta để ý đến vai trò Tòa Thánh thi hành nơi một số cơ quan chuyên biệt thuộc cơ cấu tổ chức Liên Hiệp Quốc này”.

Từ năm 1978, Tòa Thánh đã thiết lập ngoại giao với 82 quốc gia, tới nay đã lên đến 174 nước trên thế giới. “Thượng quyền của Đức Giáo Hoàng trong lãnh vực quốc tế không phải là do bởi quyền lực trần thế của nó. Luật lệ quốc tế đã ghi nhận là Tòa Thánh ở trong cấp trật quốc tế theo tính cách thiêng liêng riêng của Tòa Thánh”, ĐHY phân định. Ngài cho biết thêm là trong việc thi hành hoạt động “ngoại giao” của Tòa Thánh, các vị đại diện của Tòa Thánh nhắm tới hai mục tiêu: trước nhất là việc bảo toàn và phát động sự thiện ích hợp pháp của Giáo Hội, và sau đó là việc phục vụ tất cả moị dân ộc, bất kể tín ngưỡng. Đó là lý do, ĐHY nói Tòa Thánh “không hành động theo những thứ tính toán về quyền lực kinh tế, mà là căn cứ vào quyền năng của việc thuyết phục cùng với sự nhẫn nại đối thoại. Vì bản tính thiêng liêng của mình mà Tòa Thánh bao giờ cũng nhấn mạnh đến vấn đề căn bản hòa bình. Vì bản tính đại đồng của mình, Tòa Thánh quan tâm đến tất cả mọi tình trạng quan hệ trên thế giới. Và sau cùng, vì bản tính nhân đạo của mình, Tòa Thánh chú trọng tới những biện pháp xứng hợp thuận lợi cho thành phần dân sự”.

Về vấn đề thực tế cụ thể liên quan tới Iraq hiện nay, ĐHY cho biết “Chúng tôi đã yêu cầu nhân dân Iraq và cộng đồng quốc tế dấn thân để cuối cùng tiến đến một kỷ nguyên hòa bình ở Trung Đông”.
 

24/9 Thứ Tư

Hôm nay, văn phòng báo chí Tòa Thánh thông báo là vì ÐTC bị bệnh ruột hôm qua, nên Ngài không thể về Sảnh Ðường Phaolô VI để chủ tọa buổi triều kiến chung Thứ Tư hằng tuần. Ðức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Angelo Sodano đọc bài giáo lý thứ 86, bài giáo lý về Thánh Vịnh 8 thay Ngài, bài Thánh Vịnh cuối cùng cho Kinh Ban Mai nói lên "sự cao cả của Thiên Chúa và Phẩm Giá cao quí của con người". Trước khi đọc bài giáo lý, ÐHY cũng đã kêu gọi cầu nguyện cho ÐTC và cho biết ÐTC theo dõi buổi triều kiến chung này qua truyền hình. Sau đây là bài giáo lý thứ 85 trong loạt bài giáo lý cầu nguyện bằng Thánh Vịnh của ÐTC.

 

Thiên Chúa Ban Cho Một Trái Tim Mới

(Bài 85 Giáo Lý Thánh Vịnh, Thứ Tư 10/9/2003: Ca Vịnh Êzêkiên 36:24-28: Kinh Ban Mai, Thứ Bảy, Tuần Thứ Bốn)

1.     Bài ca vịnh vừa vang lên trong tai và lòng của chúng ta được sáng tác bởi một trong những vị đại tiên tri của dân Do Thái. Đó là tiên tri Êzêkiên, nhân chứng của một trong những giai đoạn khốc liệt nhất dân Do Thái trải qua, đó là việc sụp đổ của vương quốc Giuđa cùng với thủ đô của vương quốc này là Giêrusalem, dẫn tới kinh nghiệm lưu đầy Babylon cay đắng (thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên). Đoạn ca vịnh này, được lấy từ đoạn 36 của Sách Tiên Tri Êzêkiên, đã trở thành một phần cho giờ cầu nguyện ban mai của Kitô giáo.

Mạch văn của trang sách này, một trang sách đã trở thành một bài thánh thi ca của phụng vụ, cố gắng tiến vào ý nghĩa sâu xa của tình trạng thảm khốc dân chúng đã trải qua vào những năm ấy. Tội thờ ngẫu tượng đã làm ô nhiễm mảnh đất đã được Chúa ban cho dân Do Thái làm gia nghiệp. Tội này, hơn bất cứ căn nguyên nào khác, phải chịu trách nhiệm, theo phán quyết cuối cùng, về tình trạng mất mát quê hương và bị phân tán giữa các nước. Thật vậy, Thiên Chúa không dửng dưng trước thiện và ác; Ngài đi vào lịch sử con người một cách mầu nhiệm bằng phán quyết của Ngài, những phán quyết không sớm thì muộn sẽ lột mặt nạ của sự dữ, sẽ bênh vực các nạn nhân, và tỏ ra đường lối công lý.

2.     Tuy nhiên, đối tượng của tác động Thiên Chúa làm không bao giờ chỉ là một tác động hoàn toàn luận phạt có tính cách hủy hoại, là tác động tận diệt tội nhân. Chính tiên tri Êzêkiên đã nói đến những lời thần linh này: “Phải chăng Ta thực sự lấy làm sung sướng về cái chết của kẻ gian ác hay chăng?.... Tại sao Ta lại chẳng hân hoan khi thấy hắn từ bỏ đường lối gian ác của mình để được sống?.... Vì Ta đâu có sung sướng gì nơi cái chết của bất cứ ai chết đi, Chúa là Thiên Chúa phán. Hãy trở về để được sống!” (18:23,32). Theo chiều hướng ấy người ta có thể hiểu được ý nghĩa của bài ca vịnh của chúng ta đây, le lói hy vọng và cứu độ. Sau cuộc thanh tẩy bằng thử thách và đau khổ, hừng đông của một kỷ nguyên mới sắp bừng lên, một hừng đông được tiên tri Giêrêmia đã loan báo khi nói về một thứ “giao ước mới” giữa Chúa và dân Do Thái (x 31:31-34). Chính tiên tri Êzêkiên, ở Đoạn 11 sách của mình, cũng đã công bố những lời lẽ thần linh này: “Ta sẽ ban cho họ một trái tim mới và đặt một thần trí mới nơi họ; Ta sẽ lấy đi trái tim bằng đá khỏi thân thể họ, và thay vào đó một trái tim bằng thịt, để họ sống theo các thứ lề lối của Ta và tuân giữ cùng thi hành cacùc chỉ thị của Ta; để rồi nhờ đó họ sẽ làm dân của Ta và Ta sẽ là Thiên Chúa của họ” (11:19-20).

Trong bài ca vịnh của chúng ta đây (x Ez 36:24-28), vị tiên tri này đã lập lại những lời thần linh này một lần nữa và làm cho những lời ấy nên trọn bằng một minh định tuyệt vời, ở chỗ thứ “thần trí” mới Thiên Chúa ban cho con cái dân của Ngài đây sẽ là Thần Linh của Ngài, Vị Thần Linh của chính Thiên Chúa (x câu 27).

3.     Bởi thế, những gì được loan báokhông phải chỉ là một cuộc thanh tẩy được thể hiện qua dấu hiệu nước rửa sạch lương tâm.Không phải chỉ có khía cạnh, tuy cần, giải cứu khỏi sự dữ và tội lỗi (x câu 25). Điều nổi bật nơi sứ điảp của tiên tri Êzêkiên trước hết ở một khía cạnh khacùc lạ lùng hơn nhiều. Thật vậy, nhân loại cần phải được sinh vào một cuộc sống mới. Biểu hiệu đầu tiên đó là biểu hiệu của “trái tim” mà, theo ngôn ngữ thánh kinh, ám chỉ đến con người nội tâm, đến lương tâm cá thể. “Trái tim bằng đá”, lạnh lùng vô cảm, dấu hiệu lao đầu và sự dữ, sẽ được lấy đi khỏi lồng ngực chúng ta. Thiên Chúa sẽ thay thế nó bằng một “trái tim thật sự”, tức là, bằng nguồn mạch sự sống và tình yêu (x câu 26). Thần trí sống động, một thần trí trong việc tạo thành đã làm cho chúng ta trở thành những tạo vật sống động (x Gen 2:7), sẽ được thay thế trong công cuộc mới của ân sủng bởi Chúa Thánh Thần là Đấng bảo trì chúng ta, tác động chúng ta, hướng dẫn chúng ta tới ánh sáng sự thật và tuôn đổ “vào lòng chúng ta tinh yêu Thiên Chúa” (Rm 5:5).

4.     Bởi vậy ”một tạo vật mới” sẽ xuất hiện, như được Thánh Phaolô (x 2Cor 5:17; Gal 6:15), khi sự chết của “con người cũ”, của “thân xác tội lỗi”, được thực hiện nơi chúng ta, khi “chúng ta không còn là nô lệ cho tội lỗi nữa”, mà là những tạo vật mới, được biến đổi bởi Thần Linh của Chúa Kitô phục sinh: “anh em hãy cởi bỏ con người cũ cùng với các việc làm của nó, và hãy mặc lấy con người mới được canh tân theo hình ảnh của Đấng tạo thành nó” (Col 3:9-10; x Rm 6:6). Tiên tri Êzêkiên đã loan báo một dân mới mà theo Tân Ước sẽ được triệu tập bởi chính Thiên Chúa qua việc làm của Con Ngài. Cộng đồng của “con tim thật sự” cũng như của một thứ “thần trí” thấm nhuần sẽ cảm nghiệm thấy sự hiện diện sống động và hoạt động của chính Thiên Chúa, Đấng sẽ soi động các tín hữu, tác động nơi họ bằng ân sủng hiệu nghiệm của Ngài. “Thánh Gioan viết: “Những ai tuân giữ các giới răn của Người thì ở trong Người và Người ở trong họ, và cách chúng ta biết rằng Người ở trong chúng ta là do Thần Linh được ban cho chúng ta” (1Jn 3:24).

5.     Chúng ta hãy kết thúc bài suy niệm của chúng ta về bài ca vịnh Êzêkiên bằng việc lắng nghe Thánh Cyrilô Giêrusalem, vị trong “Bài Giáo Lý Rửa Tội Thứ Ba”, đã nhận định ở trang ngôn sứ về thành phần lãnh nhận phép rửa Kitô giáo.

Nơi phép rửa, ngài nhắc nhở, tất cả mọi tội lỗi được thứ tha, ngay cả những lỗi phạm trầm trọng nhất. Bởi thế, vị giám mục nói cùng những ai nghe ngài rằng: “Hãy tin tưởng Giêrusalem, Chúa sẽ loại trừ các lỗi lầm của ngươi (Zep 3:14-15). Chúa sẽ tẩy sạch cái dơ bẩn của ngươi…; ‘Ngài sẽ rẩy nước thanh sạch trên ngươi và ngươi được sạch hết mọi nhớp nhúa’ (Ez 36:25). Những vị thiên thần hân hoan hớn hở vây quanh lấy ngươi và mau mắn hát lên rằng ‘Ai đang tiến lên từ nơi hoang địa, nương tựa vào người yêu của mình?’ (Sgs 8:5). Linh hồn, trước kia là một kẻ nô lệ, giờ đây được quyền gọi Chúa là người anh em thừa nhận của mình, vị, khi chấp nhận thành ý của linh hồn, nói với linh hồn rằng: ‘Người yêu ơi, ôi nàng kiều diễm, ôi nàng xinh đẹp!’ (Sgs 4:1). Như thế tiếng kêu của Ngài ám chỉ đến những hoa trái nơi một cuộc xưng tội của lương tâm ngay lành… Chớ gì trời cao giúp cho tất cả anh em nhớ lấy những lời ấy mà sinh hoa kết trái, chuyển dịch chúng thành những việc làm thánh hảo, nhờ đó anh em trở nên vô trách cứ trước Vị Hôn Phu mầu nhiệm và được Chúa Cha thứ tha tội lỗi” (No. 16: "Le catechesi" [The Catecheses], Rome, 1993, pp. 79-80).

Anh Chị Em thân mến,

Bài ca vịnh của tiên tri Êzêkiên chúng ta vừa nghe là một bài ca hy vọng đối với Dân Chúa nơi lưu đầy. Vì tội tôn thờ ngẫu tượng, họ đã bị phân tán, nhưng Thiên Chúa sẽ thanh tẩy họ khỏi tội lỗi và mang họ trở về. Ngài sẽ tác tạo nên một Dân mới từ họ và sẽ ban cho họ một trái tim mới cunụng một thần trí mới Đấng thật sự là Thần Linh của Ngài. Với Thánh Phaolô, chúng ta thấy ở đây lời tiên tri về “tạo vật mới” được kiến tạo nên bởi các tín hữu, thành phần được hướng dẫn bởi Thần Linh của Chúa Kitô phục sinh.

(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, tài liệu từ Vatican Press Office được Zenit phổ biến ngày 10/9/2003)

 

Giải Giới Iraq: Bí Mật lại Bật Mí

Hôm Thứ Tư 17/9/2003, trả lời cho Ban Điều Tra Hutton về vụ tử tử của khoa học gia David Kelly của chính quyền liên quan đến những bản tường trình phát thanh của mình, ông Andrew Gilligan đã thú nhận là đã lầm lẫn nơi cách ông tường trình cho rằng chính phủ Hiệp Vương Quốc đã phóng đại chứng cớ về các thứ vũ khí đại công phá bị cáo giác của Iraq. Tuy nhiên, ông này vẫn nghĩ rằng đã có những mập mờ nơi các viên chức tình báo về hồ sơ liên quan đến các thứ vũ khí ở Iraq được chính phủ Tony Blair phổ biến vào Tháng 9/2002.

Sau đó tới phiên ông Richard Sambrook, vị làm đầu thông tin của đài BBC, đã thú nhận là đã có một số lầm lẫn trong những lời tuyên bố của BBC sau bản tường trình của Gilligan được khai triển theo chiều hướng với văn phòng của Thủ Tướng Blair. Theo ông này thì đài BBC cần phải khảo sát lâu hơn nữa những vấn đề này và bản tường trình phát thanh của Gilligan cần phải được các vị luật sư chấp thuận trước đã.

Trong lần phát thanh ngày 29/5, ông Gilligan đã nói rằng một viên chức cao cấp ẩn danh của Hiệp Vương Quốc đã tố cáo rằng văn phòng của Thủ Tướng Blair đã nhét thêm vào bản hồ sơ chi tiết là Iraq có thể phóng hỏa các thứ vũ khí đại công phá trong vòng 45 phút thôngh báo, một chi tiết mà văn phòng này biết rằng có thể sai không đúng.

Ông Gilligan lần thứ hai hôm Thứ Tư 17/9/2003 rằng ông không có ý gây ra ấn tượng cho rằng chính phủ đã gian dối: “Lời tố giác tôi có ý tạo nên là một điều xoay chuyển. Tôi thực sự hối tiếc những lời ấy… đáng lẽ tôi không được sử dụng chúng”. Ông này còn thú nhận là ông đã sai lầm khi cho rằng nhà khoa học tự tử là “một phần tử của hoạt động tình báo” trong bản tường trình của ông. Tuy nhiên, ông đã nói với Ban Điều Tra rằng bản tường trình của ông hoàn toàn phản ảnh những gì khoa học gia Kelly tin tưởng, đó là có một số nhân viên trong ngành tình báo đã không hài lòng về chi tiết 45 phút vì họ nghĩ rằng nó không hoàn toàn trung thực.

Cho đến nay, Ban Điều Tra Hutton đã tiến đến chỗ những nhân vật chính yếu đã được tra vấn bởi các vị luật sư của chính quyền, đài phát thanh BBC và gia đình khoa học gia Kelly. Ban Điều Tra này sẽ tiếp tục phận sự của mình cho tới ngày 25/9/2003, ngày ông Lord Hutton sửa soạn bản tường trình của ông về kết quả cuộc điều tra.

Đó là những chi tiết về việc giải giới Iraq được bật mí ở Hiệp Vương Quốc. Chưa hết, chính vị trưởng ban thanh tra Liên Hiệp Quốc là ông Hans Blix cũng đã cho biết ý nghĩ của ông về vụ này qua cuộc phỏng vấn từ Thụy Điển với đài phát thanh Úc Đại Lợi ở Sydney, một cuộc phỏng vấn được phổ biến hôm Thứ Tư 17/9/2003, là theo ông nghĩ Iraq đã hủy hoại các thứ vũ khí đại công phá của họ 10 năm trước đây và các cơ quan tình báo đã sai lầm trong việc thẩm định đưa đến chiến tranh của mình: “Thời gian càng qua đi tôi càng nghĩ rằng không thể tìm thấy điều gì cả. Tôi càng tin vào ý nghĩ là Iraq, như họ tuyên bố, đã hủy hoại hầu hết tất cả những gì họ đã có vào mùa thu (bắc cực) năm 1991”.

Thật vậy, vào năm 1991, Cơ Quan Nguyên Tử Lực Quốc Tế của Liên Hiệp Quốc (IAEA: International Atomic Energy Agency) đã tìm thấy cái được gọi là một chương trình chế tạo các thứ vũ khí nguyên tử bí mật ở Iraq. Cơ quan này đã phái mất 7 năm trời để lật tẩy khả năng nguyên tử lực của Iraq cho đến khi các thanh tra viên của cơ quan ấy bị trục xuất vào năm 1998. Ông Blix nói rằng Hoa Kỳ “ban đầu thì nói về chính các thứ vũ khí một cách cụ thể, sau đó họ nói về các chương trình chế tạo các thứ vũ khí… có thể họ sẽ tìm thấy một vài văn kiện đáng kể chăng”.

Tuy nhiên, cho đến nay, sau hơn 5 tháng tìm kiếm, Hoa Kỳ, với lực lượng Nhóm Truy Xét Iraq 1500 chuyên viên, nhiều gấp gần chục lần ban thanh tra viên quốc tế trước khi Iraq bị tấn công, với thời gian dài gần gấp đôi thời gian của ban thanh tra LHQ, mà vẫn không tìm ra các thứ Hoa Kỳ cần phải giải giới. Các viên chức Hoa Kỳ hôm tháng 7 đã cho biết đã khám phá ra những văn kiện cho thấy chương trình chế tạo các thứ vũ khí ấy. Tuy nhiên, đài ABC Hoa Kỳ tường trình hôm Thứ Hai 15/9/2003 rằng bản tường trình đang được biên soạn của Nhóm Truy Xét Iraq này không cung cấp một chứng cớ chắc chắn nào về việc Iraq có những thứ vũ khí ấy khi Hoa Kỳ tấn công Iraq. Trong khi đó chính phủ Bush cứ khăng khăng nói rằng cần phải có giờ để tìm kiếm những thứ vũ khí này (thế mà họ đã không cho ban thanh tra Liên Hiệp Quốc thời gian!), và chứng cớ kín mật rồi sẽ được tỏ lộ.

Sau khi lên tiếng từ Thụy Điển qua cuộc phỏng vấn được phổ biến ở thủ đô Úc Đại Lợi về vấn đề giải giới Iraq hôm trước, ngay hôm sau, Thứ Năm 18/9/2003, ông nguyên trưởng ban thanh tra vũ khí của Liên Hiệp Quốc Hans Blix này còn đi sâu hơn nữa về vấn đề này với đài phát thanh Hiệp Vương Quốc. Những lời tuyên bố cho thấy nhận định của ông về vấn đề then chốt của cuộc chiến Iraq này đã được phổ biến sau mấy tiếng Tổng Thống Bush tuyên bố về việc Tổng Thống Saddam Hussein liên quan đến biến cố 911: “Không chối cãi được là Saddam Hussein có những liên hệ với tổ chức al Qaeda. Chúng ta không có chứng cớ cho thấy Saddam Hussein có dính dáng đến ngày 11/9”. Trước đây, trong hai bài diễn văn kêu gọi tấn công Iraq (7/10/2002 và 28/1/2003), cũng chính vị tổng thống này đã gán ghép nhà độc tài Saddam Hussein có liên hệ với tổ chức khủng bố quốc tế al Qaeda, và với những thứ vũ khí đại công phá trong tay sẽ có thể là mối nguy cơ khủng bố tấn công bất cứ lúc nào, nguy hiểm cho hòa bình Trung Đông nói chung và Hoa Kỳ nói riêng.

Ông Blix đã cho biết chính phủ Bush và Tony Blair đã “giải thích quá đáng” hồ sơ tình báo về các thứ vũ khí của Saddam Hussein. Hai chính phủ này đã cho rằng Iraq nguy hiểm khi căn cứ vào chứng cớ sau này cho thấy thiếu khả tín, bao gồm cả những văn kiện tạo tĩnh liên quan đến việc Iraq mua bán chất uranium để chế tạo các thứ vũ khí nguyên tử: “Vào thời Trung Cổ, lúc người ta tin rằng có những tay phù thủy, người ta đã tin rằng sẽ tìm thấy những tay phù thủy này. Đó là một thứ mạo hiểm”.

Ông cho rằng hồ sơ của chính phủ Blair về các thứ khí giới của Iraq đã “làm cho độc giả tiến đến những kết luận suy rộng hơn một chút” những gì thực tế cho thấy. “Chúng ta thấy rằng các chuyên viên quảng cáo về một chiếc tủ lạnh bằng những từ ngữ chúng ta không hoàn toàn tin nổi, thế nhưng chúng ta mong muốn các chính quyền cần phải trân trọng hơn và tỏ ra có uy tín hơn”. Ông còn thêm đáng lẽ các chuyên viên thanh tra của LHQ về các thứ vũ khí đại công phá ở Iraq cần phải được tiếp tục việc làm của mình, nhưng đã không thể làm gì hơn sau ba tháng cho tới ngày 18/3/2003, trước tối hậu lệnh tấn công Iraq của Tổng Thống Bush trong vòng 48 tiếng. Ông nhận định về thái độ của ông Bush và Tony kêu gọi cho họ có giờ lục soát các thứ vũ khí cấm này, tới nay đã 5 tháng trời, hơn thời gian thanh tra của LHQ 2 tháng, là “Việc nhẫn nại họ đòi hỏi cho chính họ hiện nay không phải là những gì họ đã muốn ban cho chúng tôi”. (Ðúng như thoidiemmaria.net đã nhận định trên đây).

 

23/9 Thứ Ba

Bản Hiệp Ước giữa Tòa Thánh Vatican với Nước George bất thành

Hôm Thứ Bảy 20/9/2003, ĐTGM Jean-Louis Tauran, bộ trưởng Ngoại Giáo của Tòa Thánh đã công bố những lời sau đây:

“Khi từ giã Georgia tôi đã bày tỏ lòng biết ơn của phái đoàn đại biểu của Tòa Thánh đối với việc tiếp đón chúng tôi trong hai ngày này. Tuy nhiên, tôi lấy làm tiếc vì mục tiêu của cuộc chúng tôi viếng thăm,đó là việc ký vào bản hiệp ước song phương giữa Georgia và Tòa Thánh, không thành tựu, vì thẩm quyền Georgia đã đổi ý vào giây phút cuối cùng. Cộng đồng Công giáo nơi xứ sở này mới chính là nơi sẽ phải chịu đựng vì điều hứa quyết bất thành này, một cộng đồng tiếp tục bị tước đoạt hết mọi thứ bảo đảm về pháp lý và là một cộng đồng chúng tôi cảm thấy cảm thông. Ngoài ra, phái đoàn đại biểu của Tòa Thánh cảm thấy hết sức đau nhức bởi tác hành của Giáo Hội Chính Thống Georgia trong việc loan truyền tin tức không trung thực với sự thật, bất kể sự việc chúng tôi nhiều lần muốn cung cấp tín liệu về diễn tiến của những cuộc trao đổi. Những chuyện xẩy ra này chắc chắn sẽ gây tổn thương nặng nề cho Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Vị vào dịp viếng thăm của Ngài tháng 11/1999, đã kêu gọi tất cả mọi công dân của nước này, nhất là Kitô hữu, hãy hợp tác với nhau để xây dựng đất nước cao cả này về phương diện luân lý. Toa Thánh hy vọng rằng Georgia, một quốc gia đã tham gia vào những hội nghị quốc tế quan trọng về nhân quyền, sẽ biết làm cách nào để hàn gắn tình trạng đáng tiếc này”.

Hôm Thứ Năm 18/9/2003,theo tờ nhật báo Ý Avvenire, Đức Thượng Phụ Chính Thống Catholicos Ilia II đã lên TV và đề cập tới “tính cách nguy hiểm của một thứ hiệp ước ổn định quốc gia” và kêu gọi tín hữu hãy tỏ thái độ. Có ít là một vị lãnh đạo Chính Thống cho rằng Tòa Thánh Vatican muốn tăng thêm ảnh hưởng của mình ở Georgia và nhờ bản hiệp ước này để có thể tha hồ xây các nhà thờ, trường sở và chủng viện. Thứ Sáu, hàng trăm sinh viên xuống đường ở bên ngoài tòa nhà Quốc Hội chống lại việc chính quyền “lụy thuộc Vatican”.

Các vị phụ tá chính quyền đã cố gắng giải thích là hiệp ước này không thể nào ảnh hưởng đến những lợi lộc của Giáo Hội Chính Thống. Trái lại, nó chỉ tìm cách bảo đảm cho quyền tự do tôn giáo của 50 ngàn người Công Giáo ở xứ sở có 4.9 triệu dân này. Sau đó ít lâu, vị lãnh đạo nội các là ông Avtandil Dzorbednadze đã nói với phái đoàn đại biểu của Tòa Thánh Vatican rằng chính quyền ông “không còn cảm thấy muốn ký vào bản hiệp ước ấy nữa”. Vào lúc ấy, Tổng Thống Eduard Shevardnadze đang tham dự cuộc họp thượng đỉnh ở Yalta.

Theo Đức Ông Claudio Gugerotti, một vị thương luận của Tòa Thánh, thì bản hiệp ước này nhìn nhận “vai trò đặc biệt” do Giáo Hội Công Giáo thực hiện trong xứ sở này. Một số Chính Thống Giáo đã cho rằng bản hiệp ước này làm cho hai Giáo Hội ngang hàng với nhau.

Hậu Chiến Iraq: giải phóng hay chiếm đóng

Sáng sớm Chúa Nhật 14/9/2003, lại một lính Mỹ bị tử thương ở Fallujah, địa điểm cách thủ đô Baghdad khoảng 43 dặm về phía Tây, miền có nhiều tàn quân của cựu Tổng Thống Saddam Hussein. Cho đến người chết này, con số thương vong của Hoa Kỳ là 294 mạng, 155 mạng kể từ sau khi Tổng Thống Bush tuyên bố kết thúc trận chiến chính thức vào ngày 1/5/2003. Sau đó mấy tiếng, bộ trưởng nội vụ Hoa Kỳ là ông Powell Colin đã tới Baghdad và nói trong một cuộc họp báo là “Chúng tôi đã đến đây… như những người giải phóng. Chúng tôi đã giải phóng một số quốc gia, và chúng tôi không chiếm cứ một tấc đất của bất cứ quốc gia nào trong các nước ấy, ngoại trừ nơi chúng tôi chôn cất người chết của chúng tôi”.

Ông nói Hoa Kỳ không hề có ý định ở lại Iraq lâu hơn nhu cầu đòi hỏi. Ông nói với CNN rằng “Chúng tôi nbao giờ cũng biết rằng Liên Hiệp Quốc muốn đóng vai trò ở Iraq. Nhiều lần Tổng Thống của chúng ta đã nói là ông muốn Liên Hiệp Quốc đóng một vai trò nồng cốt. Tại sao? Tổng thống tin vào LHQ, và LHQ là một cơ cấu làm cho toàn thể thế giới hợp lại với nhau. Pháp nghĩ rằng chúng ta phải thực hiện điều này nhanh bao nhiêu có thể, ngay cả trong vòng một tháng. Vấn đề duy nhất ở đây đó là không có một chính phủ nào quí vị có thể trao quyền hành cho cả. … Chúng ta muốn trao chính quyền từ chúng ta sang cho nhân dân Iraq với một vai trò lãnh đạo được tuyển cử chứ không phải được chỉ định. Cái vội vã này là kẽ hở nơi dự định của nước Pháp”.

Nhận định của www.thoidiemmaria.net: Qua lời của vị Bộ Trưởng Nội Vụ Hoa Kỳ có ba vấn đề cần phải đặt ra, trước hết, nếu Hoa Kỳ không muốn giải quyết vấn đề Iraq hậu chiến một cách nhanh chóng bao nhiêu có thể, thì tại sao lại thúc bách ban thanh tra vũ khí Liên Hiệp Quốc phải hoàn tất công việc của họ sớm bao nhiêu có thể, đến nỗi họ chưa kịp xong như ý mình thì đã tự động gạt họ ra ngoài đem binh bom tấn công Iraq rồi? Như thế là Hoa Kỳ muốn làm gì thì làm theo ý nghĩ và ý muốn của mình, vì ỷ mình mạnh? Sau nữa, Hoa Kỳ tự mình làm gì có quyền hành trên nhân dân Iraq mà nói là trao quyền hành cho chính phủ của họ, chẳng lẽ nước Iraq lạc hậu đến nỗi không biết lập một chính phủ cho mình, cần phải có Hoa Kỳ mới được? Đấy là chưa kể đến việc Hoa Kỳ coi thường Liên Hiệp Quốc, không cho LHQ đóng vai chủ chốt trong việc giải quyết cho Iraq, y hệt như thái độ Hoa Kỳ đã coi thường việc thanh tra các thứ vũ khí đại công phá ở Iraq trước đây vậy. Vấn đề thứ ba đó là lý do để Hoa Kỳ viện lý chính đáng trong việc giải phóng Iraq là Saddam Hussein và các thứ vũ khí đại công phá, vậy mà cho tới nay vẫn chưa thực hiện được ý đồ của mình, là hạ Saddam Hussein và tìm ra khí giới cấm, (ngược lại còn bị đe dọa bởi Saddam Hussein trong bóng tối, như những chi tiết dưới đây), thì có gọi là giải phóng hay chăng? Vả lại, giải phóng gì mà lại không để cho người được giải phóng tự chủ song cứ chần chừ không muốn ra đi, như thèm thuồng muốn cai trị người được giải phóng?

Trong khi đó, càng cố gắng ở lại với thành phần được giải phóng số thương vong càng tăng bởi những cuộc tấn công du kích do tàn quân của nhà độc tài Saddam Hussein gây ra, một nhân vật Hoa Kỳ muốn triệt hạ và treo giải thưởng 30 triệu Mỹ kim. Hôm Thứ Tư 17/9/2003, tại Hoa Kỳ, trước cuộc thăm dò cho thấy 70% người Hoa Kỳ nghĩ rằng Saddam Hussein có nhúng tay vào biến cố 911, Tổng Thống Bush, và bộ trưởng quốc phòng Donald Rumsfeld (hôm Thứ Ba 16/9/2003) đều xác nhận là không có một chứng cớ nào cho thấy như vậy.  

Cũng cùng ngày Thứ Tư này, một đài tin tức Ả Rập đã phát tiếng được cho rằng của cựu Tổng Thống Saddam Hussein kêu gọi quân đội Hoa Kỳ hãy rời Iraq hay tiếp tục đương đầu với các cuộc tấn công. Tiếng nói tuyên bố là cuộc rút lui của Hoa Kỳ “không thể nào không xẩy ra, nếu không phải hôm nay thì ngày mai. Chúng tôi kêu gọi nhà ngươi hãy rút quân đội của mình sớm bao nhiêu có thể một cách vô điều kiện, vì không có lý do nào để những mất mát hơn nữa trở thành một thảm họa cho Hoa Kỳ, nếu các viên chức Hoa Kỳ, chính yếu là nhà ngươi, cứ nhất định tiếp tục việc xâm lược và máu hung hăng của mình”. Hai người con trai của cựu Tổng Thống Saddam Hussein là Uday và Qusay đã bị quân đội Hoa Kỳ giết chết vào Tháng Bảy vừa rồi ở Mosul. Thánh trước đây Đài Phát Thanh Labanon cũng đã cho phổ biến một băng cũng được cho là của Saddam Hussein phủ nhận cuộc khủng bố tấn công 29/8. Tháng Bảy cũng có một cuốn băng kêu gọi nhân dân Iraq hãy chống lại lực lượng Hoa Kỳ.

Về vấn đề Iraq Hậu Chiến cũng vẫn là một vấn đề gây nhức nhối cho quốc tế nói chung, nhất là cho Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc nói riêng, vì những bất đồng nội bộ, giống như những gì xẩy ra thời Iraq Tiền Chiến sau quyết định thanh tra vũ khí và trước quyết định giải giới bằng võ lực vậy.

Giải thuyết của Hoa Kỳ kêu gọi lực lượng quân sự đa quốc “hợp lại” dưới quyền tư lệnh của Hoa Kỳ, cho phép hội đồng quản trị do Hoa Kỳ chọn lựa phác ra một thời gian để soạn thảo bản hiến pháp Iraq cũng như để tuyển cử.

Giải thuyết của Pháp và Đức là muốn đặt ra một thời hạn để chuyển giao quyền hành cho nhân dân Iraq. Họ muốn quốc tế kiểm soát các ngân quĩ tái thiết Iraq, nhất là qua Quĩ Phát Triển Iraq, được lập ra để thu giữ các thứ lợi tức về dầu hỏa. Bởi vì, theo một giải thuyết trước đây thì Hoa Kỳ có quyền trên hết trong việc tiêu pha ngân quĩ này dưới sự xem xét của quốc tế. Hai nước Pháp và Đức chấp nhận Hội Đồng Chính Phủ Iraq và hội đống nội các của họ “như là thành phần tín thác viên của thượng quyền Iraq cho đến khi hoàn tất tiến trình tuyển cử một chính quyền đại diện cho dân”.

Theo giải thuyết của Nga thì cho rằng một lực lượng đa quốc có sứ mệnh một năm nhưng Hội Đồng Bảo An có quyền gia hạn thêm. Cũng theo giải thuyết của Nga, sứ mệnh này sẽ hoàn tất khi nào vị tổng thư ký LHQ tường trình cho hội đồng này rằng “tiến trình chính trị” đã đạt được tiến bộ khả quan và vấn đề quân đội không còn cần thiết nữa.

Giải thuyết của Syria là lời kêu gọi “việc quốc tế hóa những cơ cấu về chính trị và kinh tế của Iraq nhắm đến việc chiếm lấy lòng của nhân dân Iraq trong việc giúp họ chấp nhận thành phần chuyển tiếp”.

Nói chung, tất cả mọi quốc gia hội viên của Hội Đồng BALHQ nói rằng họ muốn quyền bính ở Iraq phải được chuyển sang cho nhân dân Iraq được thực hiện sớm bao nhiêu có thể. Tuy nhiên, Hoa Kỳ khác với các nước, ở chỗ cách thức và thời gian chuyển giao quyền bính này.

 

 

Cha Thánh Piô Năm Dấu

 

Bài Giảng của ĐTC Gioan Phaolô II trong Lễ Phong Thánh ngày Chúa Nhật 16/6/2002

 

Padre Pio da Pietrelcina (1887-1968)


1.- “Vì ách của Thày thì êm ái và gánh của Thày thì nhẹ nhàng” (Mt 11:30).


Những lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ mà chúng ta vừa nghe, giúp chúng ta hiểu được sứ điệp quan trọng nhất của việc long trọng cử hành này. Thật vậy, ở một nghĩa nào đó, chúng ta có thể coi những lời ấy như là một bản tóm lược tổng quan về cả cuộc sống của Cha Piô ở Pietrelcina, vị hôm nay được tuyên phong hiển thánh.


Hình ảnh Thánh Kinh về “cái ách” nhắc lại nhiều thử thách mà tu sĩ Capuchin hèn mọn ở San Giovanni Rotondo đã đối diện. Ngày nay chúng ta chiêm ngưỡng nơi Ngài làm thế nào để “ách” của Chúa Kitô trở thành êm ái, và gánh của Người trở nên nhẹ nhàng khi nó được chấp nhận chịu đựng bằng một tình yêu trung thành. Cuộc sống và sứ vụ của Cha Piô chứng tỏ cho thấy rằng những khó khăn và sầu muộn, nếu được chấp nhận vì yêu, sẽ được biến đổi thành một đường lối thuận lợi dẫn đến sự thánh thiện, một sự thánh thiện hướng về những viễn tượng thiện ích hơn chỉ có một mình Chúa biết.


2.- “Thế nhưng, chớ gì tôi không hề biết vênh vang một điều gì khác ngoài thập giá của Chúa Giêsu Kitô” (Gal 6:14).


Không phải chính vì thế mà “vinh quang Thập Giá” đã trước hết chiếu tỏa nơi Cha Piô hay sao? Linh đạo Thập Giá mà người tu sĩ Capuchin hèn mọn ở Peitrelcina đã sống hợp thời biết bao! Thời đại của chúng ta cũng cần phải tái nhận thức được giá trị của linh đạo Thập Giá này để cõi lòng mở ra ôm ấp hy vọng.


Suốt cả cuộc sống của mình, ngài lúc nào cũng tìm kiếm niềm an ủi dồi dào hơn nơi Đấng Tử Giá, với ý thức là mình được kêu gọi để cộng tác một cách đặc biệt vào công cuộc cứu chuộc. Sự thánh thiện của ngài không thể nào hiểu được nếu không liên lỉ căn cứ vào Thập Giá.


Theo dự án của Thiên Chúa, Thập Giá đã trở thành một dụng cụ cứu độ thực sự cho toàn thể nhân loại, và là được lối Chúa Giêsu minh nhiên muốn cho tất cả mọi người muốn theo Người phải thực hiện (x Mk 16:24). The Holy Brother of Gargano đã quá hiểu điều này, vị đã viết vào ngày Lễ Mông Triệu 1914 như sau: “Để tiếp tục tiến đến cùng đích tối hậu của chúng ta, chúng ta phải theo Vị Thủ Lãnh thần linh, Đấng không muốn dẫn linh hồn ưu tuyển trên bất cứ con đường nào khác ngoài con đường Người đã đi qua; đó là lý do tôi mới nói về từ bỏ mình cũng như về Thập Giá” (Epistolario II, p. 155).


3.- “Ta là Chúa mang lại niềm từ ái” (Jer 9:23).


Cha Piô là một nơi chất chứa dồi dào lòng thương xót Chúa, lúc nào cũng sẵn sàng cho tất cả mọi người bằng lòng hiếu khách, bằng việc linh hướng, nhất là bằng việc ban phát bí tích thống hối. Thừa tác vụ giải tội, một đặc tính nổi bật nơi việc hoạt động tông đồ của Ngài, đã lôi kéo rất nhiều đoàn lũ giáo dân tuốn đến với đan viện San Giovanni Rotondo. Thậm chí vị giải tội đặc biệt này có tỏ thái độ nghiêm thẳng ra mặt với các người hành hương, thành phần này, một khi ý thức được tính cách nặng nề của tội lỗi và thành tâm hối lỗi, hầu như lúc nào cũng muốn trở lại với ngài để được bình an lãnh nhận ơn bí tích thứ tha.


Chớ gì gương sáng của ngài khuyến khích các vị linh mục thi hành thừa tác vụ này một cách vui vẻ và sốt sắng, một thừa tác vụ rất quan trọng hôm nay đây, như Tôi đã xác nhận trong Bức Thư gửi Linh Mục dịp Thứ Năm Tuần Thánh vừa qua.


4.- “Lạy Chúa, Chúa là sự thiện duy nhất của con”.


Đó là điều chúng ta xướng lên trong Bài Đáp Ca. Với những lời này, vị thánh mới muốn kêu mời chúng ta hãy đặt Thiên Chúa trên hết mọi sự, và hãy coi Ngài là sự thiện duy nhất tối cao của chúng ta.


Thật vậy, lý do tối hậu mang lại công hiệu cho việc tông đồ của Cha Piô, căn nguyên sâu xa phát sinh hoa trái thiêng liêng của ngài, là ở nơi mối hiệp nhất thân mật và liên lỉ với Thiên Chúa, được thể hiện sống động nơi việc ngài cầu nguyện lâu giờ. Ngài đã thích lập lại rằng: “Tôi là một Tu Sĩ nghèo nàn cần phải cầu nguyện”, với niềm xác tín “cầu nguyện là khí cụ lợi hại nhất chúng ta có được, là chìa khóa mở lòng Thiên Chúa”. Đặc tính nền tảng này nơi linh đạo của ngài được tiếp tục nơi Những Nhóm Cầu Nguyện do ngài thành lập, những nhóm người cống hiến cho Giáo Hội và xã hội việc đóng góp tuyệt vời về việc liên lỉ và tin tưởng nguyện cầu. Cha Piô liên kết việc cầu nguyện với việc hăng say hoạt động bác ái, điển hình nhất là Ngôi Nhà Xoa Dịu Đau Thương (House for the Relief of Suffering). Cầu nguyện và bác ái, đó là tổng hợp cụ thể nhất giáo huấn của Cha Piô, một giáo huấn một lần nữa lại được nêu lên cho mọi người hôm nay đây.


5.- “Con chúc tụng Cha là Chúa trời đất, vì những gì Cha giấu những kẻ tinh khôn và thức giả thì Cha lại tỏ cho những kẻ bé mọn biết” (Mt 11:25).


Những lời của Chúa Giêsu đây thích hợp biết bao nơi trường hợp của ngài, thưa Cha Piô khiêm nhượng và dấu yêu.


Chúng tôi xin ngài cũng hãy chỉ dạy cho chúng tôi biết khiêm nhượng trong lòng, để thuộc vào số những kẻ bé mọn của Phúc Âm, thánh phần được Chúa Cha hứa mạc khải cho biết các mầu nhiệm của Nước Trời.


Xin hãy giúp chúng tôi không ngừng cầu nguyện, tin tưởng rằng Thiên Chúa biết những gì chúng tôi cần, ngay trước cả khi chúng tôi xin Ngài.


Xin hãy xin cho chúng tôi cặp mắt đức tin có thể nhìn thấy ngay nơi thành phần nghèo nàn và đau khổ dung nhan của Chúa Giêsu.


Xin hãy bảo trì chúng tôi trong giây phút chiến đấu và thử thách, và nếu chúng tôi sa ngã, xin làm cho chúng tôi cảm nghiệm được niềm vui của bí tích thứ tha.


Xin hãy truyền đạt cho chúng tôi lòng ngài thiết tha tôn sùng Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ của chúng ta.


Xin hãy hỗ trợ chúng tôi trong cuộc hành trình trần thế tiến về quê hương vinh phúc, quê hương chúng tôi cũng hy vọng tiến đến để muôn đời chiêm ngưỡng Vinh Hiển của Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Thần. Amen!


Tiểu Sử Cha Thánh Piô Năm Dấu (1887-1968)



Vị môn đệ của Thánh Phanxicô Assisi này chào đời ngày 25/5/1887 ở Pietrelcina thuộc Tổng Giáo Phận Benevento, và là con của ông Grazio Forginone và bà Maria Giuseppa De Nenzio. Ngài được rửa tội ngay ngày hôm sau với tên Thánh là Francesco. Năm 12 tuổi, Ngài chịu Phép Thêm Sức và được Rước Lễ Lần Đầu. Năm 16, vào ngày 6/1/1903, Ngài nhập tập viện Dòng Anh Em Hèn Mọn Capuchin ở Morcone, cũng là nơi vào ngày 22 tháng đó Ngài đã mặc áo dòng Phanxicô với tên gọi là Thày Piô. Sau năm tập, Ngài đã tuyên khấn đơn thệ và cuối cùng đã khấn trọng ngày 27/1/1907. Sau khi lãnh chịu linh mục ngày 10/8/1910 ở Benevento, Ngài đã ở nhà với gia đình vì lý do sức khỏe cho đến năm 1916, năm mà vào Tháng Chín, Ngài đã được sai đến ở tu viện San Giovanni Rotondo cho đến khi qua đời.


Đầy lòng yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân, Cha Piô đã sống trọn ơn gọi của mình trong việc cứu chuộc con người, hợp với sứ vụ đặc biệt đánh dấu cả cuộc sống của Ngài cũng là sứ vụ Ngài đã thi hành qua việc linh hướng cho tín hữu, ở chỗ ban bí tích hòa giải cho các hối nhân và cử hành Thánh Lễ. Cao điểm của hoạt động tông đồ của Ngài là việc cử hành Thánh Lễ. Tín hữu tham dự Thánh Lễ Ngài dâng đều chứng nhận việc này thực sự là tột đỉnh và là tất cả linh đạo của Ngài. Về phương diện bác ái xã hội, Ngài dấn thân xoa dịu đau đớn và đau khổ của nhiều gia đình, chính yếu qua việc thành lập Nhà Xoa Dịu Thương Đau Casa Sollievo della Sofferenza, một cơ sở bắt đầu ngày 5/5/1956.


Đối với Cha Piô, đức tin chính là cuộc sống, ở chỗ Ngài muốn hết mọi sự và làm hết mọi sự trong ánh sáng đức tin. Ngài tận sức hiến mình cho việc cầu nguyện. Ngài dùng ngày sống và một phần lớn về đêm để giao tiếp với Thiên Chúa. Ngài vẫn nói: “Chúng ta tìm kiếm Thiên Chúa nơi sách vở, chúng ta thấy Ngài nơi nguyện cầu. Cầu nguyện là chìa khóa mở lòng Thiên Chúa”. Đức tin làm cho Ngài lúc nào cũng chấp nhận ý nhiệm của Thiên Chúa. Ngài luôn chìm sâu trong những thực tại siêu nhiên. Tuy nhiên, trong hơn 50 năm, vô vàn con người đã đến với Ngài để xưng tội, bàn hỏi và tìm nguồn ủi an. Họ tìm Ngài trong nhà thờ, ở cung thánh, nơi viện tu.


Ngài đã hiểu được từ sớm là cuộc đời của Ngài là một con đường Thánh Giá, và Ngài đã vì yêu mến can đảm chấp nhận Thánh Giá. Ngài đã trải qua nhiều đau thương về tâm hồn trong nhiều năm, nhất là cái đớn đau nơi thương tích của Ngài. Khi bị điều tra và không cho thi hành thừa tác vụ linh mục nữa, bởi những lời vu khống cáo gian, Ngài đã hoàn toàn tin tưởng Thiên Chúa và hết lòng khiêm nhượng chấp nhận mọi sự. Ngài triệt để thi hành những việc khổ hạnh theo luật dòng. Ngài sống tinh thần ba lời khấn tới mức hết sức trọn lành. Ngài thực sự nghĩ mình là đồ vô dụng, bất xứng với các tặng ân của Thiên Chúa ban, đầy những yếu hèn và kém cỏi, đống thời cũng chúc tụng các hồng ân Chúa ban. Trước vô vàn lời khen tặng, Ngài nói rằng: “Tôi chỉ muốn là một người anh em hèn mọn nguyện cầu mà thôi”. Ngài đã qua đời ngày 23/9/1968, hưởng thọ 81 tuổi.


Vào ngày 20/2/1971, gần 3 năm sau cái chết của cha, Đức Phaolô VI, khi nói với các vị bề trên dòng Capuchin, đã đề cập đến Ngài như sau: “Hãy coi Ngài có tiếng là chừng nào, cả thế giới tuốn đến quanh Ngài! Tại sao thế? Có thể vì Ngài là một triết gia chăng? Vì Ngài là một người khôn ngoan chăng? Vì Ngài có sẵn những giải quyết chăng? Vì Ngài khiêm nhượng dâng Thánh Lễ, giải tội từ sáng tới tối và là – không dễ gì nói đến điều này - một người mang các thương tích của Chúa Kitô. Ngài là một con người của nguyện cầu và khổ đau”.

 

Ngài đã được tuyên phong chân phước ngày 2/5/1999 và hiển thánh ngày 16/6/2002.

 Ðaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, trích từ tài liệu của VIS.

 

22/9 Thứ Hai

Những chặng đường hành hương kết thúc Năm Mân Côi

Kể từ tuần trước, qua Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật hằng tuần, ĐTC đã bắt đầu nhắc nhở về Kinh Mân Côi trước những ngày bế mạc Năm Mân Côi nói chung và trước ngày Ngài đến hành hương Đền Thánh Đức Mẹ Pompeii ở Ý Quốc vào chính ngày Lễ Đức Mẹ Mân Côi 7/10/2003 tới đây.

Anh Chị Em thân mến!

1. Để tiếp tục cuộc hành trình thiêng liêng của Tôi đến Đền Thánh Pompeii, nơi mà nếu Thiên Chúa cho phép, Tôi hy vọng tới đó vào ngày 7/10, hôm nay Tôi muốn suy niệm về các mầu nhiệm mân côi được gọi là “các mầu nhiệm ánh sáng”. Những mầu nhiệm này bổ túc cho truyền thống về các đoạn đời thơ ấu, khổ nạn và vinh quang của Chúa Kitô với các mầu nhiệm khác liên quan đến cuộc đời công khai của Người là những nầu nhiệm cũng quan trọng không kém (Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria, 19).

Đó là thời gian, bằng quyền lực của lời nói và việc làm, Chúa Giêsu hoàn toàn mạc khải cho thấy “dung nhan” của Cha trên trời, khai mở cho Vương Quốc yêu thương, công chính và bình an của Người. Việc lãnh nhận phép rửa ở sống Dược Đăng, việc dự tiệc cưới Cana, việc loan báo Nước Trời, việc biến hình trên Núi Tabor, và việc thiết lập bí tích Thánh Thể tất cả đều là những lúc mạc khải; thật vậy, các mầu nhiệm “ánh sáng” là những mầu nhiệm phản ảnh vinh hiển của thần tính của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô.

2. Nói chung Mẹ Maria hiện diện ở hậu trường đằng sau những mầu nhiệm ánh sáng này, trừ một mầu nhiệm duy nhất, đó là ở tiệc cưới Cana, nơi “Mẹ Chúa Giêsu” đã đóng một vai trò quyết liệt. Thật vậy, chính Mẹ đã nói cho Con Mẹ biết rằng không còn rượu nữa; để rồi khi nghe thấy Người trả lời “Giờ” của Tôi chưa tới, Mẹ vẫn theo đuổi động lực từ mẫu của Mẹ khi nói với các người giúp tiệc là”Hãy làm theo những gì Người bảo anh em làm” (Jn 2:5). Như thế Mẹ đã tỏ ra cho thấy rằng Mẹ trực giác thấy hơn bất cứ ai khác ý định sâu xa của Chúa Giêsu. Mẹ biết Chúa “một cách thân tình lòng kề lòng bên nhau”, như từ ban đầu Mẹ đã giữ và suy niệm hết mọi cử chỉ và lời lẽ của Người (x Lk 2:19,51). Bởi thế Trinh Nỡ mới là sư phụ đệ nhất và chính yếu của đời cầu nguyện Kitô hữu. Nơi học đường của Mẹ. Nơi học đường của Mẹ người ta mới biết chiêm ngưỡng dung nhan Chúa, mới biết hòa hợp những niềm cảm mến của họ, cũng như biết chấp nhận giá trị của Người bằng một mức độ liên tục.

3. Anh Chị Em thân mến, chúng ta hãy đi theo Chúa Kitô trên con đường của các mầu nhiệm cứu độ, bằng một tình yêu tha thiết đối với Trinh Nữ Maria. Trong những tuần cuối cùng tới đây của Năm Mân Côi chúng ta cảm thấy càng hiệp nhất hơn bao giờ hết khi lần hạt để đặc biệt cầu cho gia đình và hòa bình thế giới.

Một Thoáng Nhìn về Hậu Trường của Tiến Trình Phong Thánh

ĐHY Jose Saraiva Martins, bộ trưởng Thánh Bộ Điều Tra Phong Thánh, đã khai mở cho Ngày Thứ Hai về Những Tra Cứu trong Việc Điều Tra Phong Thánh do TGP Ma Ní Tây Ban Nha tổ chức. Khoảng chứng 200 vị ở Âu Châu đến tham dự cuộc hội họp ba ngày này ở El Escorial, với đề tài “Phép Lạ trong tiến trình phong thánh”.

Vấn     Có phải hồ sơ phong thánh cho Mẹ Têrêsa Calcutta nhanh nhất trong thời gian gần đây chăng?

Đáp     Phải, vì mấy lý do. Tiêu chuẩn giáo luật hiện nay cho phép dễ dàng hơn những nơi chưa có thánh hay chân phước nào. Mặc dù Mẹ Têrêsa không phải là người bản xứ Ấn Độ, mẹ cũng đã sống ở đó lâu năm, và có thể được coi là của xứ sở đó. Ngoài ra, các phần tử của các hội dòng do Mẹ Têrêsa sáng lập đã làm việc rất tốt như là một nhóm với nhau, và đã dọn 80 tập văn kiện trong vòng một thời gian rất ngắn.

Vấn     Phải chăng dầu sao chúng ta đang thấy được một người phụ nữ phi thường?

Đáp     Có lẽ mẹ là một nhân vật ngoại hạng đệ nhất trong hạnh tích thánh nhân đương thời. Mẹ đã tạo nên một ngỡ ngàng rất lớn chẳng những nơi Giáo Hội mà còn nơi cả những người vô tín ngưỡng nữa. Mẹ được thế giới coi như là một vị thánh.

Vấn     Có tất cả bao nhiêu hồ sơ phong thánh hiện nay tại thánh bộ này?

Đáp     Khoảng 2200 hồ sơ đã qua tiến trình giáo phận và đang ở Rôma.

Vấn     Một số người nghĩ rằng có quá nhiều vị thánh đang được tuyên phong.

Đáp     Giáo Hội ngày nay cần nhiều mẫu gương. Hơn nữa, thế giới của chúng ta hiện nay thiếu các thứ giá trị và xã hội đang cần đến các thứ lý tưởng cho con người. Thánh thiện là việc loan truyền sự tuyệt hảo nhân bản và Kitô giáo. Thật vậy, thánh thiện không là gì khác ngoài tầm mức con người viên trọn. Chúng ta nói về Chúa Giêsu Kitô rằng Người là một con người hoàn hảo vì Người là một con người thánh thiện.

Vấn     Thế nhưng Giáo Hội được những gì nơi việc phong thánh?

Đáp     Hoa trái chính yếu nơi bất cứ một cuộc phong chân phước hay phong thánh nào đó là việc tôn vinh dâng lên Thiên Chúa với một số lượng rất nhiều về “các phép lạ về luân lý” kèm theo đó. Mỗi một cuộc phong chân phước và phong thánh đều được gắn liền với một làn sóng ân sủng thúc giục phải cải thiện đời sống và trung thành, cũng như khơi động ước muốn thánh thiện nơi người khác. Những cuộc tuyên phong này làm phát sinh hoa trái thiêng liêng phi thường.

Vấn     Trong những ngày học hỏi này đã bàn đến vấn đề các phép lạ. Tại sao Giáo Hội đòi phải có dấu hiệu phép lạ mới công bố con người là chân phước hay thánh nhân?

Đáp     Các phép lạ bao giờ cũng được coi như là một thứ ấn tín Thiên Chúa bảo đảm về sự thánh thiện của một con người. Ngoài ra nó là một điều kiện cần thiết vì người ta thấy tính cách mong manh nơi các thứ chứng cớ của loài người. Việc điều tra lịch sử về đời sống của một con người dù có kỹ lưỡng mấy đi nữa bao giờ cũng chỉ là mặt nổi mà thôi: vì nó không thể nào phân tích được tất cả mọi giây phút cuộc đời của người tôi tớ Chúa hay của những gì con người này xác tín. Phép lạ xác nhận những gì chúng ta trực giác thấy nơi đời sống của một con người.

Vấn     Phải chăng đa số các phép là là việc chữa lành các thứ bệnh tật?

Đáp     Đúng thế, và điều này tỏ ra cho thấy công việc cứu chuộc của Chúa Kitô chẳng những chạm đến linh hồn mà còn cả thân xác của con người nữa. Đó là lý do tại sao trời mới đất mới được ngưỡng vọng một cách nào đó nơi phép lạ.

Vấn     Ngài có nghĩ rằng thế giới của chúng ta dường như đầy hoài nghi đây có chấp nhận được các thứ phép lạ chăng?

Đáp     Con người đương thời tìm kiếm siêu nhiên. Đó là lý do tại sao các thứ phép lạ và sự thánh thiện tạo nên nỗi ngỡ ngàng cả thể. Thậm chí con người khó tính nhất cũng phải nhìn nhận sự kiện phi thường.

Vấn     Phải chăng Giáo Hội đang ngặt nghèo về việc nhìn nhận một phép lạ?

Đáp     Ở thánh bộ Vatican này của chúng tôi thì các phép lạ được nghiên cứu hết sức nghiêm chỉnh. Trước khi Đức Giáo Hoàng chuẩn nhận một phép lạ, nó được phân tích bởi một ủy ban rất ngặt nghèo, gồm bác sĩ hay các khoa học gia chuyên môn, các thần học gia, các vị hồng y và giám mục.

Vấn     Bản tường trình về y khoa hay khoa học cần phải có để nhìn nhận một phép lạ. Phải chăng những người viết bản tường trình này là Công Giáo?

Đáp     Không. Nhiều khi họ là thành phân bất khả tri hay thuộc các tôn giáo khác. Trường hợp của Thánh Faustina Kowalska đã được trao phó cho một người Do Thái ở Hoa Kỳ; những trường hợp khác họ là những người bất khả tri. Trong những trường hợp như thế, tất cả những gì chúng tôi cần biết đó là họ nói rằng việc lành bệnh không thể giải thích theo trần gian.
 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo tài liệu được Zenit phổ biến ngày 18/9/2003

 

Lộ Trình Hòa Bình Trung Đông: Giải Quyết Chướng Vật Arafat

Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc hôm Thứ Ba 16/9/2003 đã bỏ phiếu cho giải pháp được Khối Liên Hiệp Ả Rập phác họa và qua quốc gia thành viên của hội đồng này là Syria đệ trình. Theo giải pháp này thì “Do Thái, quyền lực chiếm đóng, phải ngưng lại bất cứ hành động đầy ải nào cũng như phải thôi không được đe dọa đến sự an toàn của vị tổng thống được tuyển cử của Thẩm Quyền Palestine”. Giải pháp này cũng kêu gọi chấm dứt “tất cả mọi hành động khủng bố, khơi động, kích động và phá hoại”. Giải pháp cũng đã lên án cả việc Do Thái tấn công các tay lãnh đạo chiến đấu quân lẫn những cuộc liều mạng khúng bố tấn công của Palestine”. Kết quả xẩy ra là trong 15 quốc gia thành viên, 11 nước bỏ phiếu thuận, 3 nước (Hiệp Vương Quốc, Đức và Bulgaria) không bỏ phiếu và Hoa Kỳ phủ quyết.

Ông Nasser al-Kidwa, trưởng phái đoàn quan sát viên của Palestine ở Liên Hiệp Quốc cảnh giác là “những hậu quả trầm trọng có thể gây ra bởi việc phủ quyết này, và Liên Hiệp Quốc sẽ chịu các hậu quả bởi đó mà ra”.

Sau cuộc bỏ phiếu, vị đại sứ Hoa Kỳ ở Liên Hiệp Quốc là John Negroponte đã lập lại chủ trương của Hoa Kỳ là bản giải thuyết thiếu cân bằng: “Như chúng tôi đã nói hôm qua là chúng tôi không ủng hộ bất cứ một giải pháp nào lảng tránh mối đe dọa tỏ tường cho tiến trình hòa bình Trung Đông gây ra bởi nhóm Hamas và các nhóm khủng bố khác giống như thế”. Ông đại sứ Mỹ này cũng lập lại là bộ trưởng nội vụ Colin Powell đã nói rõ không ủng hộ “việc loại trừ Ông Arafat hay ủng hộ việc buộc ông phải lưu đầy”. Ông đại sứ tiếp: “Cho dù Ông Arafat có là một phần của vấn đề rắc rối, chúng tôi cũng tin rằng vấn đề này được giải quyết hay nhất bằng việc cô lập ngoại giao, và chúng tôi đã làm sáng tỏ quan điểm này rồi”.

Vị đại sứ của Syria ở Liên Hiệp Quốc là Fayssal Mekdad nhận định là “Sự kiện đại biểu Hoa Kỳ sử dụng quyền phủ quyết là một điều hết sức đáng tiếc. Nếu Do Thái muốn sống an bình ở miền này, và rõ ràng là họ không muốn sống an bình ở miền ấy, họ muốn sống với cuộc lan rộng của họ, với những cuộc định cư của họ, với cuộc chiếm cứ của họ, những gì chẳng những các người Ả Rập và Palestine không thể chấp nhận mà cả mọi người trên thế giới cũng không chấp nhận nữa”.

Trong khi đó, vị đại sứ Do Thái ở Liên Hiệp Quốc là Dan Gillerman nhận định về việc bất thành của bản giải pháp này như sau: “Đây là một giải pháp rất hạ cấp, một giải pháprất thiên lệch, bởi thế tôi muốn lên tiếng khen những quốc gia đã tỏ ra không ủng hộ nó. Đây là một giải pháp hết sức ghê gớm trong việc phê phán các nạn nhân bị khủng bố hơn là các kẻ ra tay khủng bố”.
 

Thứ Năm 18/9/2003, sau khi Hoa Kỳ phủ quyết giải thuyết của Khối Liên Hiệp Ả Rập qua quốc gia hội viên HĐBA LHQ là Syria hôm Thứ Ba, ông Arafat và các viên chức cao cấp của phe Palestine đã họp lại để bàn về hai vấn đề, trong đó có vấn đề ngưng chiến liên quan tới các nhóm chiến đấu quân. Hôm Thứ Tư, ông này đã nói bằng tiếng Ả Rập với một đài truyền hình Do Thái phỏng vấn ông tại cơ dinh của ông là các nỗ lực liên quan đến vấn đề ngưng chiến với những nhóm chiến đấu quân Palestine đang diễn tiến tốt đẹp: “Vẫn tiếp tục có những giao tiếp với các phái nhóm khác nhau. Hôm qua tôi đã họp với tất cả mọi thành phần thuộc Tổ Chức Giải Phóng Palestine PLO. Ngay cả thành phần Thánh Chiến Hồi Giáo cũng nói rằng họ sẵn sàng tôn trọng vấn đề ngưng chiến. Chúng tôi đang tiếp tục giao tiếp với nhóm Hamas, trong cũng như ngoài”. Ông còn hứa hẹn là một bản thỏa hiệp về vấn đề ngưng chiến sắp sửa xẩy ra, nhưng ông nói thêm vấn đề “quan trọng là Do Thái cần phải giúp cho chúng tôi”.

Vị cố vấn cho Thủ Tướng Sharon là ông Ra’anan Gissin, đã gọi cuộc phỏng vấn này là “Màn trình diễn 3-D (deceit – dối trá, deception - lường gạt và defiance – thách thức) của Arafat. Nó là một “màn trình diễn thực sự nhắm đến việc chiếm được lòng quần chúng Do Thái”. Cũng hôm Thứ Tư xẩy ra cuộc phỏng vấn 3-D này, nhà lãnh đạo Palestine ấy còn nói với phái đoàn đại biểu hàn lâm Palestine tại cơ dinh của ông về việc Hoa Kỳ phủ quyết giải pháp được nêu lên ở HĐBA/LHQ là “Không có một quyết định này ở bất cứ đâu có thể làm rung chuyển chúng ta. Chúng ta còn bự hơn và cao hơn tất cả những quyết định ấy nữa kìa”.
 

Bị Hoa Kỳ phủ quyết giải pháp của mình, Khối Liên Hiệp Ả Rập và các nước trung lập đã yêu cầu một cuộc họp bất thường của Tổng Hội Đồng Liên Hiệp Quốc để cứu xét vấn đề, lấy lý là Hội Đồng Bảo An “bất lực” trong việc “hoàn thành trách nhiệm của mình trong việc bảo trì nền hòa bình và an ninh quốc tế”. Kết quả cuộc bỏ phiếu hôm Thứ Sáu 19/9/2003 có 133 phiếu thuận, 4 phiếu chống (Do Thái, Hoa Kỳ, Micronesia và the Marshall Islands), và 15 phiếu không bỏ. Tuy nhiên, giải pháp này dù được Tổng Hội Đồng LHQ đa số chấp thuận song không buộc thi hành như của Hội Đồng Bảo An. Dầu sao cũng cho thấy đườn chiều hướng chung của các quốc gia trên thế giới không muốn Do Thái hành động như đã dự tính đối với vị lãnh đạo của phe Palestine.

 

21/9 Chúa Nhật
 

Quí huynh hãy sống thánh thiện!

Thứ Sáu 19/9/2003, ĐTC đã chia sẻ và kêu gọi 180 tham dự viên khóa huấn luyện cho các vị giám mục ở các địa điểm truyền giáo nói tiếng Anh, được Thánh Bộ Truyền Bá Phúc Âm Cho Các Dân Tộc của Tòa Thánh tổ chức.

Quí Huynh trong hàng giáo phẩm thân mến!

1.     Tôi vui mừng gặp gỡ quí huynh trong dịp khóa huấn luyện được Thánh Bộ về Việc Truyền Bá Phúc Âm Hóa Các Dân Tộc tổ chức…. (lời chào hỏi)

2.     Quí Huynh Giám Mục thân mến và khả kính! Bằng việc quảng đại dấn thân của quí huynh, quí huynh làm cho việc hiện diện của Chúa Kitô trên thế giới sinh hoa kết trái và quí huynh làm phong phú những hoạt động khác nhau của Giáo Hội Người. Việc quí huynh tham dự vào giai đoạn huấn luyện chuyên biệt được Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin phát động này cho thấy một dấu hiệu rõ hơn nữa về việc quí huynh càng mong muốn phát triển hoạt động truyền giáo khắp thế giới. Hoạt động truyền giáo vẫn là một đảm nhiệm tông đồ khẩn trương ở vào thời đại của chúng ta đây, và quí huynh được kêu gọi để trở thành những con người can đảm và nhiệt thành ủng hộ việc đảm nhiệm này giữa những khó khăn và thử thách thường nhật.

Như Tôi đã nhận định trong Thông Điệp “Redemptoris Missio”, với thừa tác vụ của mình, các vị Giám Mục có trách nhiệm truyền bá phúc âm hóa thế giới, với tư cách vừa là phần tử của Giáo Phẩm Đoàn vừa là những vị Mục Tử của Giáo Hội riêng (x số 63). Việc loan báo Phúc Âm ở khắp mọi phần đất trên thế giới thuộc về các vị Mục Tử, những vị đã được thánh hiến không phải chỉ cho một Giáo Phận mà là cho phần rỗi của toàn thế giới (x ibid). Tôi đã viết trong bức thông điệp này rằng “Tôi cảm thấy đã đến lúc phải dồn tất cả mọi nghị lực của Giáo Hội vào việc tân truyền bá phúc âm hóa cũng như cho việc truyền giáo cho muôn dân ‘ad gentes’. Không một người nào tin vào Chúa Kitô, không một cơ cấu nào của Giáo Hội, được tránh né nhiệm vụ tối hậu này: nhiệm vụ loan báo Chúa Kitô cho tất cả mọi dân tộc” (ibid, 3). Bởi thế, toàn thể Giáo Hội, ở các phần thể của mình, được thôi thúc để truyền bá Phúc Âm cho tới những vùng xa xôi nhất của mọi lục địa.

3.     Quí Huynh thân mến và khả kính, tiếng gọi của Chúa Giêsu cũng mãnh liệt vang dội đến cả quí huynh nữa: “Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Phúc Âm cho tất cả mọi tạo vật” (Mk 16:15).

Trong số các nhiệm vụ của quí huynh là nhiệm vụ truyền đạt tặng ân đức tin và thúc giục cộng đồng của quí huynh trở thành những tay truyền bá phúc âm hóa. Trong vườn nho Chúa có chỗ cho hết mọi người. Không ai quá nghèo đến nỗi không có gì để cho; không ai quá giầu đến nỗi không nhận lãnh điều gì.

Chớ gì tâm hồn của quí huynh hằng ngày nghe thấy âm vang của lời Đấng Cứu Chuộc huấn dụ: “Hãy thả lưới ở chỗ nước sâu!”. Đây là lời kêu gọi hãy tung “những thứ lưới thiêng liêng” vào biển cả trần gian. Để rồi, những ai tin tưởng vào Vị Thày Thần Linh sẽ cảm nghiệm thấy cái kỳ diệu của mẻ cá lạ. Đó là những gì Chúa Giêsu hứa hẹn, Đấng đã không làm thất vọng những ai đặt tin tưởng nơi Người, như Thánh Phaolô và rất nhiều vị thánh trong các thiên kỷ này đã làm cho Giáo Hội được hiển vinh.

Phải, đúng thế! “Thiên Chúa đang sửa soạn một mùa xuân rực rỡ cho Kitô giáo, và chúng ta đã thấy được những dấu hiệu đầu tiên của nó” (ibid. 86). Bởi thế, quí huynh hãy tin tưởng và vững vàng nhìn về tương lai trong mọi hoàn cảnh. Chúa là Đấng, như Người đã trấn an chúng ta, luôn ở cùng chúng ta.

4.     Quí huynh hãy sống thánh thiện! Vào nhiều dịp khác nhau, Tôi đã nhận định thánh thiện là nhu cầu mục vụ khẩn trương ở thời đại chúng ta. Nó là một đòi hỏi cấp bách trước hết đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi phục vụ Ngài thiết tha hơn. Thật vậy, để trở thành những bảo quản viên khôn ngoan coi sóc đàn chiên của Chúa, để bảo vệ đoàn chiên này khỏi tất cả mọi thứ nguy hiểm, để nuôi dưỡng chúng bằng lương thực lời Chúa và Thánh Thể, chính các vị Mục Tử cần phải được nuôi dưỡngbằng đời sống thiết tha và liên lỉ nguyện cầu cũng như phải lo sống mật thiết sâu xa với Chúa Kitô. Chỉ có như thế các vị mới trở nên, trước mắt thành phần linh mục và giáo dân, mẫu gương trung thành và là những chứng nhân của một lòng nhiệt thành tông đồ do Chúa Thánh Thần tác động.

Việc nâng đỡ và phát triển hết mọi đảm trách tông đồ được tìm thấy nơi mối hiệp thông với Thiên Chúa. Thế nên, Quí Huynh thân mến và khả kính, quí huynh phải là thành phần đầu tiên trong việc củng cố đời sống nội tâm của quí huynh, bằng việc kín múc từ nguồn mạch ân sủng thần linh, luôn luôn nhớ lại hình ảnh thánh kinh của một Moisen cầu nguyện trên núi: “Khi nào Moisen giơ tay lên thì Do Thái thắng trận” (Ex 17:11).

5.     Không một hoạt động nào, dù quan trọng đến đâu, được làm cho quí huynh lơ đãng với cái ưu tiên thiêng liêng làm nên đặc tính của sứ vụ tông đồ phát xuất từ việc lãnh nhận giáo phẩm quyền này. Chúa Giêsu, vị Mục Tử Nhân Lành, đã làm cho quí huynh thành đồng nghiệp của Người trong việc phục vụ dân Kitô giáo với tư cách là một người cha, một bậc thày và là mục tử. Quí huynh hãy hỗ trợ việc không ngừng loan báo đức tin bằng chứng từ thiết tha và hân hoan với Phúc Âm của mình, vì “Giáo Hội sẽ truyền bá phúc âm hóa thế giới bằng chính việc làm và đời sống của mình, nói cách khác, bằng chứng từ sống động trung thành với Chúa Giêsu của Giáo Hội, một chứng từ của sự khó nghèo và không dính bén, của tự do trước các thứ quyền lực của thế gian này, tóm lại, một chứng từ của sự thánh thiện” (Thông Điệp Evangelii Nuntiandi, 41). ]

Cộng đồng của quí huynh cử hành việc tưởng nhớ đến các vị thánh, các vị tử đạo, các vị giải tội, các vị giảng thuyết can trường cho sứ điệp cứu độ, những người, bằng chính đời sống của họ hơn là bằng lời nói của họ, làm cho tình yêu Chúa Kitô được tỏ hiện, thậm chí chúng ta có thể nói rằng hầu như hiển hiện một cách thể lý. Hãy theo chân các vị ấy! Hãy là những vị mục tử, bằng gương lành hơn ngôn từ, tôn kính Phúc Âm và tác động nơi những người chung quanh quí huynh ước muốn hiểu biết Phúc Âm hơn nữa và mang Phúc Âm ra thực hành.

Xin Đức Trinh Nữ Maria, Nữ Vương của các Cuộc Truyền Giáo, bảo vệ quí huynh. Tôi hứa hằng ngày nhớ đến quí huynh trong lời cầu nguyện của Tôi và Tôi thân ái ban phép lành cho quí huynh cùng cộng đồng của quí huynh.

 

Ðaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, trích dịch từ tài liệu được Zenit phổ biến ngày 19/9/2003
 



(Giáo Hội Hiện Thế các tuần trước)