GIÁO HỘI HIỆN THẾ

 

 

Ý Chỉ của Đức Thánh Cha cho Tháng 5/2003

 

 

Ý Chung: “Xin cho trẻ em gặp khốn khó và những ai dấn thân phục vụ các em được luôn tìm thấy nơi Mẹ Maria, Mẹ sự sống, sự nâng đỡ và trợ giúp”.

Ý Truyền Giáo: “Xin Thánh Linh thắp lên lòng nhiệt thánh mới nơi các Giáo Hội địa phương ở Á Châu trong việc truyền bá phúc âm cho toàn Lục Địa này”.

 

 

___________________________________________

 25-31/5/2003

 

31/5 Thứ Bảy

Hồi Giáo cũng nhìn thấy nơi Mẹ Maria, vị đã được đề cập đến 34 lần trong cuốn Thánh Kinh Koran, tấm gương cho tất cả mọi tín hữu.

ĐTGM Francesco Gioia, vị chủ tịch về những Cuộc Hành Hương thăm viếng Ngai Tòa Phêrô, đã vạch ra một điều rất đặc biệt về Hồi Giáo, trong tác phẩm của ngài, “Maria, Mẹ Ngôi Lời, Mô Phạm Đối Thoại giữa Các Tôn Giáo”, do Città Nuova xuất bản. Theo vị TGM tác giả này thì “Thiên Chúa là điểm qui chiếu duy nhất đối với tín đồ Hồi Giáo, thế nhưng, sau Ngài là những ai phản ảnh sự thánh thiện của Ngài. Đức Maria là một trong những vị ấy. Đức Maria đã chiếm được một chỗ đứng nổi bật nơi Hồi Giáo. Người là phụ nữ duy nhất được cuốn Koran nhắc đến tên tuổi 34 lần”.

Đức Maria, theo vị TGM này, đặc biệt đã làm cho những người Hồi Giáo ngưỡng phục: “Người là mô phạm cho tất cả mọi tín hữu, bởi đức tin tuyệt đối của Mẹ và việc Mẹ ‘thuận phục’ trọn hảo trước ý muốn của Thiên Chúa. Công Đồng Chung Vaticanô II đã nhận định về thái độ ưu ái này của tín đồ Hồi Giáo với Mẹ Maria, và trong Tuyên Ngôn ‘Nostra Aetate’ (về mối liên lạc giữa Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô Giáo), người ta đọc thấy viết ‘Họ tôn kính Đức Maria, người mẹ đồng trinh của Chúa Giêsu, và có những lúc sốt sắng kêu cầu Người’”.

Vị TGM tác giả này còn nêu bằng chứng về lòng tôn sùng của tín đồ Hồi Giáo đối với Mẹ Maria khi nêu lên những cuộc hành hương của họ đến những đền thờ Thánh Mẫu, nhất là Fatima, và nhất là dữ kiện nhiều người phụ nữ Hồi Giáo được gọi là Maria.

Theo cuốn Koran viết thì “một vị thiên thần, theo lệnh của Thiên Chúa, đã truyền tin cho Đức Maria rằng bà sẽ hạ sinh một người con trai tinh tuyền nhất, một sứ điệp đã làm cho bà bối rối. Bà đã sinh con dưới một cây dừa, một cây đã nuôi dưỡng bà một cách lạ lùng. Bà là một trinh nữ và là một người tinh tuyền. Bà đã bảo toàn đức đồng trinh của mình và đã được Thiên Chúa thấm nhập Thần Linh của Ngài, làm cho bà và con của bà thành một dấu hiệu cho các tạo sinh”.

Vị TGM cho biết thêm: “Cuốn Koran viết rằng Mẹ Maria ‘là một trong những phụ nữ đạo hạnh và là một vị thánh. Bà được Thiên Chúa yêu thích, thanh tẩy và tuyển chọn hơn tất cả mọi phụ nữ tạo thành’. Trong cuốn Koran, Mẹ Maria có một vai trò ấn định liên quan đến Kitô học, vì vấn đề Chúa Giêsu được gọi là ‘con trai của bà Maria’”.

Tuy nhiên, những yếu tố về hạnh tích và linh đạo của cuốn Koran về Mẹ Maria khác với truyền thống Kitô giáo: “Thánh Mẫu Học của người Hồi Giáo được giới hạn một cách vô phương cứu vãn bởi sự kiện là cuốn Koran minh nhiên chối bỏ thần tính của Chúa Giêsu Kitô”. Theo vị TGM tác giả này thì dù đối với nhân vật Maria, “giữa những người Kitô hữu và tín đồ Hồi giáo có những điểm tương đồng và tương dị, nhưng vẫn không được coi thường vấn đề là truyền thống của người Hồi Giáo vẫn coi Đức Maria như là một mô phạm cho tín hữu Hồi Giáo”.

Liên Hiệp Quốc tặng thưởng một vị linh mục Công Giáo về nỗ lực hòa giải hai dân tộc Trung Đông

Tổ Chức về Giáo Dục, Khoa Học và Văn Hóa của Liên Hiệp Quốc UNESCO (United Nations Educational, Scientific, and Cultural Organization) đã tưởng thưởng cho linh mục Emile Shoufani, một người Palestine có quốc tịch Do Thái, Phần Thưởng Về Giáo Dục Hòa Bình về những nỗ lực hòa giải không ngừng vị linh mục này đã thực hiện nơi hai dân tộc Palestine và Do Thái. Cơ quan UNESCO này đã công bố việc tưởng thưởng này hôm Thứ Tư 28/5/2003. Cha Shoufani vào đời năm 1947, thuộc lễ nghi Greek-Melkite. Ngài đã từng là giám đốc cho Trường Công Giáo Hy Lạp Thánh Giuse ở Nazarét từ năm 1976. Năm 1988, ngài đã viết một chương trình mang tựa đề “Giáo Dục Sống Hòa Bình, Nền Dân Chủ và Việc Chung Sống” để áp dụng ở trường ấy. Trong nỗ lực kéo hai dân tộc Do Thái và Palestine xích lại gần nhau, ngài đã ghép trường của ngài với trường Lyada của người Do Thái ở Giêrusalem. Ngài đã tổ chức việc trao đổi học sinh, với niềm tin tưởng là tính cách đa dạng về văn hóa và tôn giáo không phải là một trở ngại song là một đường lối dẫn đến hòa bình. Vào cuối năm 2002, vị linh mục này đã tổ chức dự án Tượng Niệm Cho Hòa Bình ở Do Thái và Pháp. Dự án này là một cuộc hành hương chung của cả người Ả Rập lẫn Do Thái đến Auschwitz-Bierkenau để tưởng niệm biến cố Tế Thần cũng như để phát động việc hòa giải giữ ahai dân tộc này. Cuộc hành hương này bắt đầu hôm Thứ Hai 26/5/2003 vừa rồi.
 

30/5 Thứ Sáu

ĐTC tiếp nhận vị tân lãnh sự Nhật Bản về vai trò quốc tế của nước này

Sáng nay, Thứ Sáu 30/5/2003, ĐTC đã tiếp nhận ông tân lãnh sự Nhật Bản là Gunkatsu Kano. Qua bài diễn từ của mình, ĐTC ngỏ lời chào hoàng gia, các vị lãnh đạo trong chính quyền cùng nhân dân Nhật Bản, đặc biệt với những ai bị nạn trong cuộc động đất vừa qua. ĐTC cũng nhận định là Nhật Bản đã tha thiết ra sao với “việc phục vụ nền hòa bình. Tình hình thế giới hiện nay vẫn còn đang ở trong tình trạng đáng lo ngại, một tình hình được đánh dấu bằng việc tái diễn những thứ căng thẳng ở nhiều nơi khác nhau trên mặt đất này cũng như bằng việc tái phát những hoạt động khủng bố. Tuy nhiên, tình hình vừa căng thẳng lẫn khủng bố này không được làm nhụt nhuệ khí của những ai dấn thân tìm kiếm những giải pháp ôn hòa cho những xung khắc ấy. Cần phải theo đuổi thực hiện những nỗ lực liên quan một cách đặc biệt đến việc tiến triển, cân bằng và kiểm soát vấn đề loại trừ các thứ vũ khí đại công phá, cũng như việc giải giới và thôi leo thang vũ khí nguyên tử. Vấn đề là cộng đồng quốc tế phải thường xuyên vận động để, ở cả lãnh vực địa phương lẫn thế giới, thực hiện các biện pháp thích hợp hầu ngăn ngừa xẩy ra những cuộc tấn công khả dĩ, những cuộc tấn công mà không có những biện pháp ấy tác hại đến nhưnõng nhu cầu nền tảng của thành phần dân chúng trong cuộc, đưa họ đến chỗ thê thảm và thất vọng”.

ĐTC còn nhấn mạnh đến một quốc gia Nhật Bản có “những truyền thống về đạo giáo và triết lý phong phú là những gì chất chứa những nguồn mạch thiêng liêng có khả năng phấn khích một cách hiệu nghiệm nỗi ước mong thiết tha trong việc hoạt động cho hòa bình cũng như trong việc hòa giải giữa các cộng đồng và giữa các ngôi vị con người với nhau”. Ngài còn nhắc lại là “hình ảnh đau thương về hai thành phố Hiroshima và Nagasaki nhắc nhở chúng ta nhớ lại những lời của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI nói là: ‘Đừng bao giờ đánh nhau nữa!’”.

Thế rồi Ngài cũng đề cập đến vai trò của Nhật Bản trong việc hợp tác về kinh tế với các quốc gia khác ở Á Châu, và vai trò chủ động của Nhật Bản cùng với các nước này nơi “vấn đề cổ võ các dân tộc”, nhất là vấn đề “bảo vệ môi trường và chăm sóc các tài nguyên thiên nhiên”, một vấn đề sẽ được Nhật Bản đứng ra tổ chức trong một cuộc triển lãm quốc tế vào năm 2005.

Ở phần kết của bài diễn từ của mình, ĐTC cũng không quên đề cập tới một cộng đồng Công Giáo ở Nhật tuy nhỏ nhưng chủ động, ở chỗ, ngoài việc giúp cho nhiều người di dân đến Nhật để tìm kiếm “việc làm, phẩm giá và niềm hy vọng” chống lại “hiện tượng kỳ thị” và bất lợi cho “thành phần yếu kém nhất” trong xã hội…, Giáo Hội cũng muốn dạy giúp cho các thế hệ trẻ, “đặc biệt qua việc giáo dục toàn diện ở học đường cũng như ở các đại học đường”, để họ có thể “phát triển về nhân bản, tinh thần, luân lý và dân sự, nhờ đó họ có thể đóng vai trò tích cực trong đời sống của quốc gia họ”.

Bản thảo Lời Dẫn Nhập của Hiến Pháp Âu Châu không đề cập đến Kitô Giáo

Chiều Thứ Sáu 30/5/2003, Tòa Thánh Vatican, qua vị Giám Đốc Văn Phòng Báo Chí là Joaquin Navarro-Valls đã chính thức lên tiếng về bản thảo Lời Mở Đầu cho Bản Hiến Pháp Âu Châu vừa được phổ biến hôm Thứ Tư 28/5, như sau:

“Được ghi nhận một cách khả quan là Bản Hiến Pháp Âu Châu, qua những gì được phác họa hiện nay ở Khoản 51, đã bao gồm vào bản thỏa ước hiến pháp nội dung của Bản Tuyên Ngôn 11 được thêm vào Bản Hiệp Ước Amsterdam, và đã phác họa cho thấy một cuộc trao đổi liên tục với các Giáo Hội cũng như với các cộng đồng tôn giáo, bằng việc nhìn nhận căn tính và sự đóng góp đặc biệt họ.

“Nơi những gì liên quan tới việc phác họa thứ nhất ở Lời Dẫn Nhập, cũng thấy được việc đề cập đến những yếu tố khác nhau và quan trọng đã từng tác dụng làm nên gia sản Âu Châu, thế nhưng lại lạ lùng không hề đề cập một cách rõ ràng về Kitô giáo.

“Bởi thế, chúng tôi xin chia sẻ với những phần tử có thẩm quyền của Hội Đồng soạn thảo này, những phần tử đã có dự định bao gồm yếu tố này vào bản văn kế tiếp của Lời Dẫn Nhập vì lòng tôn trọng sự thật của lịch sử cũng như để bản văn được cân đối hơn”.

Thật vậy, như những gì được phổ biến, người ta đọc thấy bản thảo Lời Dẫn Nhập này không hề nói rõ về nguồn gốc của Kitô giáo trong Lời Dẫn Nhập của Bản Hiến Pháp Âu Châu, mà chỉ đề cập chung chung đến “gia sản về văn hóa, tôn giáo và nhân bản của Âu Châu là những gì được… nuôi dưỡng trước hết bởi các nền văn minh Hy Lạp và Rôma… rồi sau đó bởi các luồng tư tưởng triết lý của Thời Đại Minh Trí”. Theo bản văn này thì nền tảng ấy đã “gắn liền vào đời sống xã hội cái nhận định của nó về vai trò chính yếu của con người cùng với những thứ quyền lợi bất khả vi phạm và không thể thiếu của họ, cũng như quan niệm về việc tôn trọng luật lệ”.

Như thế, ở đây đã có một tiến bộ nhỏ. Đó là nói rõ ràng đến tôn giáo, hơn ở trong bản Hiến Chương về Các Quyền Lợi Căn Bản của Khối Hiệp Nhất Âu Châu là văn kiện chỉ nói đến “gia sản về tinh thần và luân lý” mà thôi. Tuy nhiên, bản thảo Lời Dẫn Nhập có tiến bộ này vẫn không chịu dứt khoát đề cập đến “gia sản tôn giáo, nhất là Kitô giáo” là những gì đã hình thành Âu lục này. Sau khi đọc được bản thảo này, các vị đại diện các giáo hội và cộng đồng Kitô giáo ở Âu Châu đã bày tỏ mối quan tâm của mình qua một bản tuyên cáo cũng được phổ biến cùng ngày Thứ Tư 28/5/2003 như sau:

“Một Âu Châu chối bỏ quá khứ của mình, một Âu Châu chối bỏ sự kiện về tôn giáo, và một Âu Châu không có chiều kích thiêng liêng sẽ bị suy yếu rất nhiều khi phải đương đầu với một dự án tham vọng cần tới tất cả nghị lực của nó, đó là dự án kiến trúc một Âu Châu cho tất cả mọi người” (xem màn điện toán của Ủy Ban Các Hội Đồng Giám Mục thuộc Cộng Đồng Âu Châu – www.comece.org).

Ông Josep Miro I Ardevol, chủ tịch Hội Đồng Kitô Hữu cho Âu Châu, đã phát biểu là bản thảo Lời Dẫn Nhập “hoàn toàn không đáp ứng và có thể phát sinh yếu tố gây chia rẽ hơn nữa vào tình hình hiệp nhất của Âu Châu về chính trị vốn đã bị tổn hại. Đáng buồn cười là bản Dẫn Nhập này nêu danh yếu tố Hy Lạp và Rôma rồi nhẩy ngay đến ‘những triết gia thời Minh Trí’, bỏ qua không nhắc đến Kitô giáo là yếu tố nếu không có không thể hiểu được Phong Trào Minh Trí. Bỏ qua thực tại về căn tính của Âu Châu, như bản văn cho thấy, một căn tính có Kitô Giáo là một trong những yếu tố nồng cốt của nó, là việc tạo nên một áp đặt về ý hệ và cho thấy cái ý muốn chính trị theo chiều hướng thuần túy trần thế chỉ căn cứ vào yếu tố văn hóa và những liên hệ khả dĩ, mà loại trừ yếu tố tôn giáo ra ngoài”.

Trong một cuộc phỏng vấn trên Đài Truyền Thanh Vatican, ĐHY Roberto Tucci, một phần tử của ban quản trị đài này, đã nói rằng các phần tử của hội đồng soạn thảo không hiểu được ý nghĩa của bản dự thảo ấy: “Vấn đề không phải là việc gắn bó với Kitô Giáo, mà là việc nhìn nhận sự kiện lịch sử của một thứ ảnh hưởng lớn lao được văn hóa Kitô Giáo tác dụng nơi văn hóa Âu Châu. Yếu tố then chốt nhất của Âu Châu đó là văn hóa Kitô Giáo bị thiếu hụt” nơi Lời Dẫn Nhập. ĐHY còn nhận định thêm là bản thảo này “phát xuất từ một truyền thống trần tục” cũng như từ “một mất mát về việc thực hành đức tin theo đạo giáo” ở Âu Châu. “Điều này không được làm cho người ta quên rằng cả hằng trăm triệu dân Âu Châu đồng hóa mình với các giá trị Kitô giáo, cho dù có thể họ không phải là các tín hữu. Ngoài ra, còn có cả một con số lớn thành phần tín hữu nữa”.

Ông Giorgio Rumi, giáo sư về lịch sử hiện đại ở Đại Học Milan đã cho tờ nhật báo Avvenire rằng “Tôi cảm thấy hết sức nhức nhối với tư cách là một công dân Âu Châu và với tư cách là một sử gia. Tôi nghĩ rằng giữa Nhã Điển, La Mã và Minh Trí, ba thứ được đề cập tới, còn có một cái gì đó quyết liệt ở giữa chúng. Tôi không có ý nói đến những tuyên bố về niềm tin, mà là đến cái danh xưng mà tất cả mọi thế hệ đã sống động và hy vọng. Việc nhắc đến Chúa Kitô chẳng lẽ ngày nay vẫn còn gây sợ hãi thật nhiều vậy hay sao? Yếu tố Kitô giáo là yếu tố then chốt nhất” của Âu Châu.

Bản thảo cho Lời Dẫn Nhập này cũng loại bỏ chi tiết “tin vào Thiên Chúa” được nguyên Thủ Tướng Ái Nhĩ Lan John Bruton là phần tử của hội đồng này đề nghị. Vị nguyên thủ tướng này cho tờ Avvenire biết “đây mới là bản thảo đầu tiên của Lời Dẫn Nhập, mấy tuần tới đây sẽ có một cuộc tranh luận của hội đồng. Bởi thế vẫn còn cơ hội và thời gian để điều chỉnh nó”. Thật vậy, bản thảo về Lời Dẫn Nhập này sau khi được hội đồng tranh luận sẽ trình lên cho các vị lãnh đạo Âu Châu ở cuộc họp thượng đỉnh vào ngày 20/6/2003 ở Nhã Điển, Hy Lạp. Những vị này sẽ quyết định về bản chung kết.
 

29/5 Thứ Năm

Tòa Thánh với việc viện trợ nhân đạo ở Iraq


Trong khi lực lượng Hoa Kỳ tại Iraq mới trải qua những cuộc tấn công thì ĐTC gửi ĐTGM Paul Josef Cordes, chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng “Cor Unum”, hôm nay, Thứ Tư 28/3/2003, đến Iraq để điều hợp những nỗ lực viện trợ nhân đạo của Giáo Hội Công Giáo ở xứ sở này. Theo bản thông báo được Hội Đồng này phổ biến hôm nay thì ĐTC xin vị TGM chủ tịch này hãy chuyển đến nhân dân Iraq lòng Ngài gắn bó với họ. Công việc của vị chủ tịch này là “đích thân kiểm chứng những nhu cầu và điều kiện cho phép Giáo Hội Công Giáo có thể hoạt động ơ những vùng bị chiến tranh tác hại. Đặc biệt là, cùng với các vị Giám Mục và các Cơ Quan Phi Chính Quyền (NGO) của Công Giáo, ĐTGM thi hành một dự án viện trợ hợp lý và hợp tác để đáp ứng tình trạng khẩn cấp về sức khỏe và lương thực thêm vào những tình trạng khẩn cấp về việc tái kiến thiết. Giáo Hội muốn góp phần, cũng như ở những trường hợp tương tự khác, vào việc phân phối một cách cân đối việc viện trợ nhân đạo cũng như vào việc nâng đỡ vấn đề tái kiến thiết xã hội và chính trị. Trong thời gian ở Iraq, ĐTGM Cordes, vị được các chuyên viên viện trợ nhân đạo hỗ trợ, sẽ gặp gỡ đức khâm sứ tòa thánh, các vị giám mục, các cơ quan Công Giáo và chính quyền dân sự. Chúa Nhật 1/6, ngài sẽ cử hành Thánh Lễ ở nhà thờ chính tòa Baghdad và ngày hôm sau ngài sẽ đến Mosul. Cho dù vấn đề cấm vận đã được cất đi, một biến cố mở ra những cơ hội mới nơi những liên hệ với cộng đồng Iraq, chuyến đi này của vị đại diện Đức Giáo Hoàng xẩy ra vào một thời điểm hết sức tế nhị cho tương lai của một cuộc sống chung hòa bình ở vùng này”.

 

Lộ Trình Hòa Bình ở Trung Ðông
 

Bush to hold Mideast summit

Cho đến ngày hôm nay, thời điểm hậu chiến Iraq, cả hai phe Palestine và Do Thái đều đã chấp nhận “lộ trình” (road map) kiến tạo hòa bình, bằng một loạt nỗ lực tiến đến chỗ thành lập một quốc gia Palestine trong vòng 3 năm. Hội Đồng Nội Các Do Thái đã bỏ phiếu 12-7 với 4 phiếu trống hôm Chúa Nhật 25/5/2003 chấp nhận “lộ trình” này với điều kiện, một biến cố đầu tiên cho thấy chính quyền Do Thái chính thức chấp thuận trên nguyên tắc một quốc gia Palestine. Phe Palestine cũng chấp nhận “lộ trình” này khi bản lộ trình này vào Tháng Tư 2003 đã Tứ Khối Trung Đông là Hiệp Chủng Quốc, Nga, Khối Hiệp Nhất Âu Châu và Liên Hiệp Quốc bàn đến.

Tuy nhiên, để thực hiện “lộ trình” hòa bình này giữa hai phe trong cuộc thì cả là một vấn đề khó khăn, vấn đề “vạn sự khởi đầu nan”. Thật vậy, những bước đầu tiên hết sức quan thiết cho thấy thiện chí chân thực của đôi bên trong việc hết sức muốn chấp nhận dấn thân đi vào “lộ trình” này là việc phe Do Thái phải rút quân ra khỏi những vùng họ tái chiếm đóng thuộc phe Palestine, những vùng đang có những cuộc nổi loạn, nhất là ở giải Gaza và vùng Tây Ngạn là nơi dân Do Thái đang phát triển việc định cư của mình; còn phần phe Palestine cũng cần phải kiểm chế những nhóm chiến đấu quân thực hiện những cuộc tấn công những người Do Thái. Ngay bước đầu tiên này đã làm cho cả hai dội lại, vì cả hai bên đều bất đồng với nhau về việc ai sẽ dấn thân đi tiên phong đây. Phe Do Thái thì nhấn mạnh là phe Palestine cần phải chấm dứt những cuộc tấn công dân Do Thái; còn phe Palestine thì lại muốn phe Do Thái phải chấm dứt các cuộc hành quân cùng với việc nới rộng cuộc định cư dân Do Thái.

Cuộc họp giữa Thủ Tướng Do Thái là Ariel Sharon và Thủ Tướng Palestine là Mahmoud Abbas được ấn định vào Thứ Tư 28/5/2003 đã bị bãi bỏ, vì những trục trặc về chương trình, hy vọng cả hai sẽ gặp nhau vào cuối tuần. Tuy nhiên, căn cứ vào những lời tuyên bố của Thủ Tướng Sharon bên phe Do Thái thì phe này muốn rút quân, không muốn chiếm đóng những vùng của phe Palestine nữa. Hôm Thứ Hai 26/5/2003, Thủ Tướng Sharon đã tuyên bố rằng:

“Quí vị không thích tiếng ấy, thế nhưng những gì đang xẩy ra đó là một cuộc chiếm đóng, một việc nắm giữ 3 triệu rưỡi dân Palestine bằng việc chiếm đóng này. Tôi tin rằng đó là một điều ghê rợn cho cả Do Thái lẫn người Palestine. Việc chiếm đóng này không thể tiếp tục mãi mãi. Quí vị có muốn vĩnh viễn ở Jenin, Nablus, Ramallah, Bethlehem chăng? Tôi không nghĩ điều này là đúng”.

Tuy nhiên, vào hôm sau, Thứ Ba 27/5/2003, văn phòng báo chí của vị thủ tướng này ở Giêrusalem đã phổ biến một bản tuyên cáo nói rõ về những gì ông nói hôm trước như sau:

“Hôm nay ông muốn làm sáng tỏ… là khi ông dùng lời diễn tả việc ‘chiếm đóng’ ở buổi họp hôm qua… ông có ý nói rằng chúng tôi không muốn cai trị nhân dân Palestine trong những vùng đang bị tranh giành”.

Những ranh giới Palestine và Việc Do Thái định cư

 

 

 

 

 

 

 

 

Phe Palestine nhấn mạnh rằng quốc gia của họ cần phải bao gồm tất cả mọi lãnh thổ bị phe Do Thái chiếm đóng từ cuộc chián tranh 1967, tưcùc là bao gồm Giải Gaza và vùng Tây Ngạn kể cả phía Đông Giêrusalem. Phe Do Thái không đồng ý, cho rằng vì nhu cầu an ninh của những người Do Thái mà cần phải có sự hiện diện của họ theo chính sách phác họa của vùng Tây Ngạn, và một số những cuộc định cư của người Do Thái xẩy ra trong những năm họ chiếm đóng cần phải được sát nhập vào nước Do Thái. Ủy ban tìm kiếm dữ kiện của nguyên Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ George Michell đã đề nghị vào ngày 21/5/2001 là chính quyền Do Thái hãy ngưng tất cả mọi hoạt động định cư, bao gồm cả việc phát triển tự nhiên của những cuộc định cư đang có, đồng thời cũng kêu gọi phe Palestine “hãy thực hiện 100% nỗ lực để ngăn cản những cuộc khủng bố và trừng phạt những tay vi phạm”.

Bản đồ những nơi dân Palestine cư trú

Quan điểm đôi bên về những vùng đất tranh giành. Theo phe Do Thái thì cộng đồng định cư Do Thái, lên tới khoảng 200 ngàn người ở vùng Tây Ngạn, cũng như những người bảo thủ đạo giáo thấy rằng vùng này là phần đất thánh kinh của dân Do Thái nên nhất định không chịu bỏ ý định kiểm soát vùng ấy. Những cuộc định cư của dân Do Thái ấy được coi là cần phải được bảo vệ an ninh. Những cuộc định cư ở giải Gaza ít đông dân Do Thái hơn ở vùng Tây Ngạn và là mảnh đất không có tầm quan trọng thánh kinh là bao đối với dân Do Thái. Còn theo phe Palestine thì những người thuộc phe này ngờ vực về những nỗ lực cứ muốn hiện diện của người Do Thái ở những vùng họ chiếm đóng vào năm 1967. Lãnh thổ được Thẩm Quyền Palestine Yasser Arafat bị phân lẻ và chia cắt bởi 144 cuộc định cư thường dân và quân đội Do Thái, làm suy yếu sức sống của việc kiểm soát của chính quyền Palestine. Những cuộc định cư ấy được coi như một khí cụ tiếp tục chiếm đóng với mục đích chia cắt quốc gia Paleatine sau này thành những phần không liên hệ gì với nhau.

Những miền đất bị chiếm đóng là phía Đông Giêrusalem, bao gồm cả trung tâm Cổ Thành xưa. Cả phe Palestine và Do Thái đều cho rằng Giêrusalem thuộc về họ. Đôi bên cũng đang tranh giành nhau giải Gaza và vùng Tây Ngạn. Ngoài ra, còn những điểm then chốt nữa là vùng biên giới giữa Do Thái và Lebanon, nơi chiến đấu quân Hezbollah đã d0ụng độ với quân đội Do Thái, và Cao Nguyên Golan, một bình nguyên ở phía tây năm Syria bị Do Thái chiếm đóng từ năm 1967.

Riêng Giêrusalem là một trong những vấn đề tranh giành đệ nhất nơi những cuộc thương thảo hòa bình giữa hai phe Palestine và Do Thái. Diểm nóng ở Giêrusalem này là ngọn đồi được phe Do Thái cho là Núi Đền Thờ (Temple Mount) và được phe Palestine cho là Thánh Cung Cao Quí (Haram al-Sharif). Sở dĩ đó là điểm nóng là vì nơi ấy được cho rằng có những tàng tích của ngôi đền thờ linh thánh nhất của Do Thái Giáo, một nơi lại bị ngự trị bởi Ngôi Vòm Đá (Dome of the Rock) và đền thờ Al-Aqsa là một dịa điểm đệ tam linh thánh của Hồi Giáo. Tuy nhiên, theo sự phân chia của Liên Hiệp Quốc năm 1947 thì Giêrusalem là một thành đô quốc tế chung cho quốc gia Do Thái và Palestine. Thế nhưng, phe Do Thái đã chiếm vùng phía Tây Giêrusalem sau cuộc chiến tranh giành độc lập của họ và chiếm cả vùng phía Đông Giêrusalem là vùng bao gồm cả Ngôi Vòm Đá năm 1967. Tất nhiên dân Do Thái sống đông đúc ở miền Tây Giêrusalem và dân Ả Rập ở miền Đông Giêrusalem.

Quan điểm đôi bên về vị thế của Giêrusalem: Theo Do Thái thì việc thôi không kiểm soát, ngay cả những vùng lân cận Palestine thuộc phía Đông Giêrusalem hay phía Cổ Thành đi nữa, là một lằn đỏ đối với nhiều người Do Thái coi Giêrusalem là tâm điểm của phong trào Do Thái Phục Quốc và là một phần quan trong thuộc căn tính Do Thái. Họ muốn bảo đảm là họ vẫn có thể đến những địa điểm họ coi là linh thánh và họ không muốn thương thảo về điểm này. Còn theo phe Palestine thì những địa điểm ở Cổ Thành Giêrusalem là nơi có các địa điểm linh thánh của chẳng những người Palestine mà còn của cả thế giới Ả Rập và Hồi Giáo nữa. Thế nhưng, Tổng Thống Yasser Arafat thuộc Thẩm Quyền Palestine đã không thể giải quyết nổi vấn đề này theo những gì ông yêu cầu ở Camp David.

(xin xem tiếp lược sử Thánh Ðịa)

 

28/5 Thứ Tư

Thông Ðiệp Thánh Thể

(tiếp theo ngày 4/5/2003)

Chương Một

Mầu Nhiệm Đức Tin

11.     “Chúa Giêsu vào đêm Người bị phản nộp” (1Cor 11:23) đã thiết lập Hy Tế Thánh Thể mình máu của Người. Nhũng lời của Thánh Tông Đồ Phaolô mang chúng ta trở về với thảm cảnh hạ sinh Thánh Thể. Thánh Thể được đánh dấu bất khả phai mờ bằng biến cố khổ nạn và tử nạn của Chúa Kitô, nhờ đó Thánh Thể chẳng những là một sự nhắc nhở mà còn là một tái hiện thực về bí tích nữa. Chính hy tế Thập Giá đã được kéo dài qua các thế kỷ (9). Chân lý này được diễn tả rõ ràng nơi những lời cộng đồng theo lễ nghi Latinh đáp lời công bố “Mầu Nhiệm Đức Tin” của vị linh mục, đó là “Ôi Chúa, chúng tôi loan truyền việc Chúa chịu chết”.

Giáo Hội đã lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể từ Đức Kitô là Chúa của mình, không phải như là một tặng ân duy nhất, cho dù quí báu đến đâu chăng nữa, trong số nhiều tặng ân khác, mà là một tặng ân tuyệt hạng, vì đó là tặng ân chính bản thân Người, tằng ân ngôi vị của Người nơi nhân tính linh thánh của Người, cũng như tặng ân công cuộc cứu độ của Người. Tặng ân này cũng không chỉ giới hạn trong quá khứ, vì “tất cả những gì Chúa Kitô là – tất cả những gì Chúa Kitô làm và chịu vì toàn thể con người – đều tham dự vào sự vĩnh hằng thần linh, do đó siêu việt qua tất cả mọi thời đại” (10)

Khi Giáo Hội cử hành Thánh Thể, cuộc tưởng niệm việc Chúa chịu chết và sống lại, thì biến cố cứu độ trọng yếu này trở nên hiện tại thực sự và “công cuộc cứu chuộc của chúng ta được thể hiện” (11). Hy tế này quyết liệt cho phần rỗi loài người đến nỗi Chúa Giêsu Kitô đã hiến dâng hy tế này và về cùng Cha chỉ sau khi Người đã để lại cho chúng ta phương tiện để chia sẻ vào hy tế ấy như thể chúng ta đã hiện diện ở đó bấy giờ. Mỗi một phần tử tín hữu đều có thể tham dự vào hy tế này và hái được vô tận hoa trái của hy tế ấy. Đó là niềm tin đã làm cho các thế hệ Kitô hữu sống động qua các thế hệ. Huấn Quyền của Giáo Hội đã liên lỉ tái xác định niềm tin này với một tấm lòng hân hoan tri ân về tặng ân vô giá này (12). Một lần nữa Tôi muốn nhắc lại sự thật ấy và muốn hợp với anh chị em, hỡi anh chị em thân mến, để tôn thờ trước mầu nhiệm này, một mầu nhiệm cao cả, một mầu nhiệm tình thương. Chúa Giêsu còn có thể làm gì cho chúng ta hơn được nữa đây? Thật vậy, nơi Thánh Thể, Người tỏ cho chúng ta thấy một tình yêu “đến cùng” (x Jn 13:1), một tình yêu vô hạn.

12.     Khía cạnh bác ái đại đồng này của Hiến Tế Thánh Thể được chính Đấng Cứu Thế cống bố. Trong việc thiết lập Hiến Tế Thánh Thể này, Người không chỉ nói: “Này là mình Thày”, “Này là máu Thày”, mà còn thêm: “hiến cho các con”, “đổ ra cho các con” (Lk 22:19-20). Chúa Giêsu không chỉ nói rằng những gì Người bấy giờ đang ban cho họ để ăn và uống là mình Người và máu Người; Người còn cho thấy ý nghĩa hy sinh của Hiến Tế Thánh Thể và làm cho hiến tế của Người hiện diện một cách bí tích, một hiến tế sắp được hiến dâng trên Thập Giá cho phần rỗi của tất cả mọi người. “Thánh Lễ đồng thời không thể tách biệt với việc tưởng niệm hiến tế, một hiến tế Thập Giá được kéo dài và là một bữa tiệc thánh hiệp thông với mình máu Chúa Kitô” (13).

Giáo Hội liên lỉ kín múc sự sống của mình từ hiến tế cứu chuộc này; Giáo Hội tiến đến với hiến tế này chẳng những bằng việc tưởng nhớ đầy tin tưởng, mà còn bằng một giao tiếp thực sự nữa, vì hiến tế này hiện thực một cách hoàn toàn mới mẻ, được kéo dài một cách bí tích, nơi mọi cộng đồng hiến dâng hy tế ấy nơi bàn tay của vị thừa tác viên thánh chức. Như thế, Thánh Thể được áp dụng cho con người nam nữ ngày nay mối hòa giải Chúa Kitô đã chiếm được một lần dứt khoát cho nhân loại ở mọi thời đại. “Hiến tế của Chúa Kitô và hiến tế Thánh Thể là một hiến tế duy nhất” (14). Thánh Gioan Chrystostom đã nói đúng: “Chúng ta bao giờ cũng hiến dâng cùng một Con Chiên, chứ không phải một con hôm nay và con khác ngày mai, nhưng lúc nào cũng chỉ có một con giống nhau. Bởi thế hiến tế này bao giờ cũng là một hiến tế duy nhất… Ngay cả hiện nay chúng ta hiến dâng tế vật đã một lần được dâng hiến và sẽ không bao giờ bị tiêu hao đi” (15).

Thánh Lễ làm cho hiến tế Thập Giá hiện thực; Thánh Lễ không thêm vào hiến tế ấy cũng như không tăng thêm cho hiến tế ấy (16). Những gì được lập lại là việc cử hành tưởng niệm của hiến tế ấy, “việc tưởng nhớ tái hiện thực” của hiến tế này (memorialis demonstratio) (17), việc làm cho hiến tế cứu chuộc tối hậu duy nhất của Chúa Kitô lúc nào cũng hiện thực qua thời gian. Bản chất hiến tế của mầu nhiệm Thánh Thể, bởi thế, không được hiểu như là một điều gì tách biệt, không dính dáng gì với Thập Giá hay chỉ gián tiếp liên quan đến hiến tế Canvê.

13.     Vì mối liên hệ chặt chẽ với hiến tế Gongôta, Thánh Thể là một hiến tế theo nghĩa ngặt, chứ không phải một cách tổng quát, như thể hiến tế này chỉ là vấn đề Chúa Kitô tự hiến cho tín hữu như là lương thực thiêng liêng vậy thôi. Tặng ân của tình Người yêu thương và việc Người vâng lời cho đến hy hiến mạng sống mình (x Jn 10:17-18) trước hết là một tặng ân hiến dâng lên Cha của Người. Hiến tế này đã hẳn cũng là một tặng ân ban cho chúng ta nữa, thật ra ban cho tất cả nhân loại (x Mt 26:28; Mk 14:24; Lk 22:20; Jn 10:15), tuy nhiên, trước hết và trên hết là một tặng vật hiến dâng lên Chúa Cha: “một hiến tế được Chúa Cha chấp nhận, khi ban tặng ân phụ thân của mình, tức là ban sự sống bất tử mới ở việc phục sinh, để đáp lại việc toàn hiến này của Người Con đã ‘vâng lời cho đến chết trên thập giá’ (Phil 2:8)” (18).

Trong việc ban cho Giáo Hội hiến tế này của mình, Chúa Kitô cũng làm cho hiến tế của Giáo Hội thành của Người, một Giáo Hội được kêu gọi tự hiến làm một hiến tế với Chúa Kitô. Đây là giáo huấn của Công Đồng Chung Vaticanô II liên quan đến tất cả mọi tín hữu: “Khi tham dự vào Hiến Tế Thánh Thể, một hiến tế là nguồn mạch và là tuyệt đỉnh của tất cả đời sống Kitô hữu, họ hiến dâng tế vật thần linh lên Thiên Chúa, và hiến dâng bản thân mình làm một với hiến tế đó” (19).

(còn tiếp)
 

27/5 Thứ Ba

Tòa Thánh Vatican yêu cầu Giáo Hội Chính Thống Nga tôn trọng nhu câu thiêng liêng của Người Công Giáo Nga.

Hôm Chúa Nhật 25/5, ĐTGM Jean-Louis Tauran, bộ trưởng ngoại giao của Vatican, qua cuộc phỏng vấn với tờ nhật báo Ý Il Corriere delle Sera, đã kêu gọi Giáo Hội Chính Thống Nga hãy nhìn nhận các nhu cầu thiêng liêng của 500 ngàn người Công Giáo, một con số không có gì đáng goiỉi là đe dọa đôi với Chính Thống Giáo cả. Vị bộ trưởng này đã đưa ra nhận định về lời tố cáo của Tòa Thượng Phụ Moscow về vấn đề “dụ giáo” của người Công Giáo ở Nga.

“Tôi cảm thấy rất buồn về thái độ này. Trước hết, vì chúng tôi có cùng một gia sản quan trọng với Giáo Hội Chính Thống, sau nữa, vì tôi là một nhân chứng trực tiếp thấy được niềm ước vọng, đúng hơn, niềm mong mỏi của Đức Gioan Phaolô II trong việc góp phần vào việc đắp lại chỗ rạn nứt của tình trạng ly giáo đã phân rẽ hai Giáo Hội chúng tôi qua nhiều thế kỷ”.

Vị TGM này tin rằng tình hình hiện nay một phần gây ra bởi sự kiện là các vị lãnh đạo thuộc Giáo Hội Chính Thống Nga cho Giáo Hội Công Giáo như là một “giáo hội ngoại bang”. Tuy nhiên ở Nga đã từng có những cơ cấu Công Giáo vững chắc, như Tổng Giáo Phận Mohiley được thiết lập từ năm 1773 và các giáo phận Tiraspol và Vladivostok.

Về lời tố cáo Giáo Hội Công Giáo “dụ giáo”, ĐTGM cho biết chữ này nói chung nghĩa là “chiếm đoạt tín đồ của đạo giáo khác bằng những phương pháp lừa đảo gian manh”. Ngược lại, hoạt động mục vụ của Đức Giáo Hoàng cũng như của các đức giám mục Công Giáo cho thấy “Giáo Hội Công Giáo tỏ ra rất tôn trọng đối với Giáo Hội Chính Thống”.

“Tôi nghĩ rằng đã đến lúc cần phải nhìn nhận quyền lợi hay nhiệm vụ của Đức Giáo Hoàng trong việc Ngài bảo toàn những cơ cấu thông thường của con cái Giáo Hội Công Giáo ở Nga cũng như ở các xứ sở vùng biên giới Nga”. Để đạt được điều này trong tương lai cần phải có một thỏa hiệp “giữa hai Giáo Hội, ơ ũ những lãnh thổ có lịch sử làm cho họ liên hệ với nhau”.

ĐTGM kết luận: “Điều này sẽ giúp thắng vượt thái độ tâm lý về một thứ ‘thành trì bị công hãm’ là những gì làm ngăn trở Giáo Hội Chính Thống, một Giáo Hội đã chịu đựng rất nhiều trong những năm Cộng sản, để cống hiến cho Âu Châu và thế giới bằng việc đóng góp những kho tàng thiêng liêng lớn lao của mình”.

Người Ả Rập và Do Thái cùng hành hương đến địa điểm của Trại Tế Thần Auschwitz

Ba tháng trước đây, Cha Emile Shoufani, vị linh mục coi xứ ở cộng đồng Công Giáo Hy Lạp Melkite ở Bêlem, đã phát động sáng kiến hành hương này, và nghĩ rằng chắc có khoảng 300 người tham dự là cùng. Thế nhưng, sự kiện đã xẩy ra ngoài dự tưởng. Con số cho thấy có 125 người Ả Rập Do Thái, 25 Kitô hữu, 100 người Hồi Giáo và 135 Do Thái đã ghi danh tham dự cuộc hành hương 4 ngày, bắt đầu từ ngày Thứ Hai 26/5/2003, một cuộc hành hương đến địa điểm Trại Auschwitz, một trong những Trại Tế Thần Do Thái nổi tiếng nhất thời Đức Quốc Xã ở Thế Chiến Thứ Hai, cuộc hành hương không phải chỉ để tưởng niệm một biến cố đau thương đã qua mà là để tiến đến cuộc hòa giải trong tương lai giữa hai dân tộc Do Thái và Palestine.

Tham dự đoàn hành hương này còn có 100 phóng viên, cùng với 200 người Pháp và Bỉ, trong 200 người này đó có 140 người Ả Rập (một nữa số này là Kitô hữu và một nửa là Hồi Giáo). Đoàn hành hương này ngoài việc hành hương tới trại tế thần Auschwitz ở Balan còn viếng thăm cả thành phố Wadowice, nơi sinh trưởng của Đức Gioan Phaolô II, vị “ban những giáo huấn và việc dấn thân hòa giải giữa những ngươiụi Ả Rập và Do Thái đã đánh động tôi”, vị linh mục tổ chức gốc Palestine nhưng có công dân Do Thái này cho biết như thế.

Giáo Hội Công Giáo là tiếng lương tâm nhắc nhở thế giới

Đại Học Viện và Học Viện Quốc Tế Jacques Maritain đã tổ chức hội nghị hai ngày này để kỷ niệm 40 năm thông điệp “Hòa Bình dưới thế” của Đức Thánh Cha Gioan XXIII. Cuộc hội nghị này có cả ĐTGM Anh Giáo Emeritus Goerge Carey, ĐTGM Chính Thống France Emmanuel, đại diện Đức Thượng Phụ Giáo Chủ Chính Thống ở Contantinôpôli, và Giám Mục Bela Harmati, chủ tịch Giáo Hội Tin Lành Lutherô Hung Gia Lợi, đại diện cho Liên Hiệp Thế Giới Lutherô.

Trong lời dẫn nhập tổng quan của mình, ĐTGM Martino đã nói: “tính cách chính yếu của con người cùng với mối liên hệ tự nhiên giữa các cá nhân và các quốc gia với nhau là những gì căn bản nói lên giáo thuyết về xã hội của Giáo Hội đối với cộng đồng quốc tế, một cộng đồng phải có qui chế nhắm đến việc bảo đảm hữu hiệu công ích đại đồng của nhân loại, bằng việc bảo vệ nét đặc thù và căn tính của mỗi một dân tộc”.

“Theo chiều hướng của giáo huấn xã hội của Giáo Hội cho một trật tự mới của thế giới thì cộng đồng quốc tế không được coi mình như là một thời điểm chỉ để qui tụ cả đống sinh hoạt của các quốc gia. Nó phải trở thành một cấu trúc hiệu nghiệm có thể giải quyết một cách ôn hòa những xung khắc và có thể bảo toàn cùng ổn định theo chiều hướng công lý chân thực những lợi lộc của từng phe phái liên hệ”.

Vị chủ tịch này nhấn mạnh là hoạt động hay sự tiến hóa của công pháp quốc tế cũng phải nhắm đến việc phát triển về kinh tế xã hội bằng cách thắng vượt tình trạng chênh lệnh liên tục và trầm trọng giữa các quốc gia, các vùng và các dân tộc. ĐTGM nhắc lại là “giáo huấn về xã hội của Giáo Hội luôn luôn kêu gọi việc thiết lập những quyền lực chung trên bình diện quốc tế” và “những xung khắc giữa các dân tộc và các quốc gia chỉ có thể được thắng vượt bằng việc tham khảo, tức là bằng việc kiến tạo nên một hệ thống liên hệ nhắm đến chỗ có những mục tiêu chung cùng với việc hợp tác hữu hiệu. Tuy nhiên, vẫn có lý do để hy vọng, đó là, bằng việc gặp gỡ và thương thảo, con người có thể nhận thức hơn nữa những liên hệ nối kết họ lại với nhau phát xuất từ chính bản tính con người nơi họ; và họ cũng có thể khám phá ra rằng một trong những đòi hỏi sâu xa của bản tính chung này của họ là thế này, đó là, tình yêu chứ không phải sợ hãi chi phối họ và các dân tộc đáng kính, một tình yêu bộc lộ ở việc hợp tác trung thành qua nhiều hình thức và làm trổ sinh nhiều lợi ích”.

Ngoài ra, Vị TGM này còn cho biết quyền lực quốc tế của Giáo Hội trong trật tự thế giới, một quyền lực về luân lý nhắc nhở lương tri của con người. Và vì là một quyền lực luân lý, Tòa Thánh có “một đường lối, nếu người ta có thể nói như thế, đó là nhắc nhở lương tâm của con người và các dân tộc, bằng việc tạo nên một thứ tổng luận về luân lý quốc tế. Lý do tại sao Tòa Thánh nằm ở ngay tâm điểm của cộng đồng các quốc gia là để trở thành tiếng nói cho lương tâm con người, một tiếng nói không làm suy giảm… sự đóng góp của các truyền thống tôn giáo khác”.

ĐTGM nhấn mạnh đến những nguyên tắc Tòa Thánh vốn bênh vực và cổ võ đó là “đặc tính chính yếu của con người cũng như các quyền lợi của họ, việc phát triển nhân bản, bênh vực hòa bình và ý thức dân chủ”. Ngài cũng cảnh giác là “hòa bình và cuộc sống chung dân sự đang bị đe dọa bởi những hình thức khác nhau của quyền lực chuyên chế, bởi nỗi ám ảnh về sự an ninh, về ý hệ cũng như về việc theo đuổi những đặc ân cho một số hạng công dân”.

Về vấn đề giải giới, ĐTGM nói “Tòa Thánh, một quyền lực đệ nhất phi khí giới, bao giờ cũng khích lệ những nỗ lực cần phải được thực hiện để đạt được vấn đề giải giới… Trong cuộc khủng hoảng Iraq, Tòa Thánh đã nói rằng Tòa Thánh không đồng ý với nguyên tắc của một thứ ‘chiến tranh ngăn ngừa’, và kêu gọi tôn trọng Bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, nhất là Chương 7 là chương ấn định tiêu chuẩn tác hành trong trường hợp bị đe dọa cho hòa bình hay hòa bình bị tấn công. Tòa Thánh luôn luôn bảo vệ quyền tự do của lương tâm và tôn giáo, chẳng những như là một thứ quyền tự do thờ phượng mà còn là một cơ hội cho tín hữu tham dự vào sinh hoạt xã hội và chính trị của quốc gia mà họ là công dân. Tòa Thánh chống lại bất cứ quan điểm chiều kích một chiều về con người và nêu lên một quan điểm hướng về yếu tố bản thân, xã hội và siêu việt của họ”.
 

26/5 Thứ Hai

ĐTC với Đại Hội Thánh Bộ Truyền Giáo: Việc Huấn Luyện ở các vùng truyền giáo

Trưa hôm nay, Thứ Hai 26/5, Đức Thánh Cha đã tiếp các tham dự viên Đại Hội của Thánh Bộ Truyền Bá Phúc Âm Hóa Các Dân Tộc, một cuộc đại hội bàn đến chủ đề “việc huấn luyện ở các vùng truyền giáo”. Trong bài huấn từ của mình, ĐTC đã nhấn mạnh đến tầm mức quan trọng của việc huấn luyện để tạo nên những nhà thừa sai có khả năng và thánh đức.

“Việc huấn luyện đầy đủ là một việc cần thiết để có được những nhà truyền bá phúc âm hóa có khả năng và thánh đức sống đúng vơiùi tầm mức sứ vụ truyền giáo của họ. Việc huấn luyện này bao gồm một tiến trình lâu dài và thận trọng, một tiến trình làm cho những học hỏi về thánh kinh, thần học, triết lý và mục vụ được vững vàng trong mối liên hệ riêng tư giữa con người với Chúa Kitô ‘là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống’. Giáo Hội, nhất là ở những xứ truyền giáo, cần có những con người được sửa soạn để phục vụ Phúc Âm một cách tự do và quảng đại, sẵn sàng vì Phúc Âm cổ võ những giá trị công lý và hòa bình, phá đổ hết mọi chướng ngại về văn hóa, chủng tộc, chi tộc và giòng tộc, có khả năng nhận ra ‘những dấu chỉ thời đại’ và khám phá ra ‘những mầm mống Lời Chúa’, không chấp nhận cắn xén hay chủ trương tương đối. Bởi thế, những con người này trước hết phải là ‘những chuyên gia’ và phải ‘say yêu’ Thiên Chúa… Cùng với việc sống thân mật với Chúa Giêsu, còn cần phải làm sao để liên lỉ lớn lên trong tình yêu mến và phục vụ Giáo Hội nữa”.

Đó là lý do, ĐTC kêu gọi riêng linh mục “được kêu gọi, bằng đời sống tu đức của mình, tái diễn tình yêu của Chúa Kitô, Vị Phu Quân của Giáo Hội là hiền thê của Người”. ĐTC cũng ngỏ lời cám ơn những ai “đang dấn thân cho công việc giáo dục ở các vùng truyền giáo”. Ngài kết bài hujấn từ của mình bằng việc nhắc lại vô số “những chủng sinh, linh mục, nữ tu, nam tu và giái dân ở các vùng truyền giáo đang cố gắng hoàn tất chương trình huấn luyện của họ tại các đại học hay trung tâm ở Rôma đây, những người lệ thuộc vào phân bộ của anh em”.

ĐTC tiếp phái đoàn đại biểu Giáo Hội Chính Thống Bulgaria: Vấn đề đại kết Kitô giáo

Cũng vào ngày Thứ Hai 26/5/2003 hôm nay, ĐTC đã tiếp phái đoàn Chính Thống Giáo Bulgaria do ĐTGM Kalinik dẫn đầu. Trong cuộc triều kiến riêng của phái đoàn này có cả ĐHY Walter Kasper, chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Việc Cổ Võ Hiệp Nhất Kitô Giáo cùng một số vị Giám Mục khác.

Trước hết, trong lời ngỏ của mình, ĐTC xin phái đoàn đại biểu chuyển đến Đức Maxim, Thượng Phụ Giáo Hội Chính Thống Maxim, “việc Ngài gắn bó về tinh thần với niềm hy vọng là việc hiệp nhất hoàn toàn giữa Công Giáo và các Kitô hữu Chính Thống đạt được sớm bao nhiêu có thể”.

“Trong khi nước Bulgaria đang hướng chiều về việc thay đổi, trên con đường tiến đến một Âu Châu nới rộng, thì nước này cũng cần phải làm sống lại gia sản phong phú về đức tin và văn hóa của cả Giáo Hội và quốc gia Bulgaria thừa hưởng, và là một thứ gia sản làm nên phép lạ của công cuộc truyền bá phúc âm hóa được thực hiện bởi hai anh em thánh của thành Thessalonica là Cyriliô và Mêthôđiô, những vị có một di sản đối với sắc dân Slav vẫn còn hiện diện và tiếp tục trở nên sâu xa hơn và mạnh mẽ hơn bất cứ một thứ chia rẽ nào sau 11 thế kỷ Kitô giáo nơi sắc dân này”.

Sau khi nhắc lại những lời của Thánh Cyrilô trước khi chết về việc thánh nhân kêu gọi hiệp nhất trong Giáo Hội, ĐTC đã nhấn mạnh thế này: “Sứ điệp đức tin này, một sứ điệp được đâm rễ sâu trong văn hóa của anh em cũng như trong cộng đồng Giáo Hội của anh em, là và phải tiếp tục là mục đích chúng ta phải tiến tới để Kitô hữu Đông Tây có thể hoàn toàn được hiệp nhất và cùng nhau làm cho ‘cái phong phú’ nơi tính cách đại đồng của Giáo Hội được sáng tỏ hơn”.

ĐTC cũng cho biết mục đích của phái đoàn này đến Rôma là để tưởng nhớ đệ nhất chu niên việc Ngài viếng thăm Sofia nước của họ và “việc gặp gỡ không thể nào quên được với Đức Maxim”: “Cảm nghiệm của việc chia sẻ huynh đệ cũng như của việc tôn trọng nhau về những khác biệt hợp lệ có thể giúp vào việc thúc đẩy tiến tới chô hiểu biết nhau hơn cũng như vào việc hợp tác với nhau ở những môi trường và những hoàn cảnh khác, trong những lúc chúng ta có cơ hội. Chớ gì điều này là một dấu hiệu tốt cho những liên hệ sau này của chúng ta! Tôi xin cám ơn Chúa và xin Ngài chúc lành cho những bước đường chúng ta đang tiến tới”.

Huấn Từ trước khi nguyện kinh ‘Lạy Nữ Vương’ Chúa Nhật Thứ VI Phục Sinh: “Kinh Mân Côi được phát xuất từ Nhà Tiệc Ly”.

Anh Chị Em thân mến!

1. Chúa Nhật này, Chúa Nhật thứ sáu Mùa Phục Sinh, đánh dấu tuần cuối cùng của tháng Năm, một tháng được kết thúc vào Thứ Bảy tuần tới, với Lễ Mẹ Maria Thăm Viếng Thánh Isave.

Ở miền Bắc Cực của trái đất thì tháng Năm có đặc tính của một mùa thiên nhiên nẩy nỡ trọn vẹn; nó cũng là thời điểm của lời hoan ca vượt qua ‘hãy vui lên’ vang vọng khắp Giáo Hội, lại càng là một thời điểm thuận lợi hơn nữa để cống hiến cho các thế hệ mới những tặng ân của Chúa Kitô phục sinh, đó là bí tích rửa tội, rước lễ lần đầu và thêm sức.

Ngoài ra, Thứ Năm tới đây là lễ Chúa Kitô Thăng Thiên, bắt đầu tuần chín ngày trước Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, để các cộng đồng Kitô hữu có thể sống lại cảm nghiệm đầu tiên của Nhà Tiệc Ly, nơi các môn đệ sốt sắng đồng tâm nhất trí nguyện cầu với Mẹ của Chúa Giêsu (x Acts 1:14).

2. Việc hiện diện từ mẫu của Mẹ Maria giữa các Vị Tông Đồ, đối với các vị, là một tưởng nhớ về Chúa Kitô, ở chỗ, ánh mắt của Mẹ phản ảnh dung nhan của Đấng Cứu Thế; trái tim vô nhiễm của Mẹ tàng chứa các mầu nhiệm của Người, từ giây phút truyền tin tới cuộc phục sinh và thăng thiên của Người, được diễn tiến qua cuộc đời công khai, cuộc khổ nạn và tử giá của Người.

Như thế, có thể nói rằng việc cầu kinh mân côi đã được phát sinh từ Nhà Tiệc Ly, vì ở đó các Kitô hữu tiên khởi đã bắt đầu cùng với Mẹ Maria chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô, bằng cách nhớ lại những giây phút khác nhau nơi cuộc đời trần gian của Người.

Chớ gì kinh mân côi, hơn bao giờ hết, được tái nhận thức và coi trọng như là một kinh nguyện có tính cách Kitô học và là một kinh nguyện chiêm niệm.

3. Tôi muốn nói lên hai ý chỉ cầu nguyện đặc biệt cho năm nay, một năm được chính thức chuyên chú tới kinh mân côi thánh, đó là ý chỉ cầu cho gia đình là cơ cấu tiếc thay đang bị nguy hiểm trầm trọng ở những nguyên tắc và gía trị nồng cốt của mình, và ý chỉ cầu cho nền hòa bình thế giới, cách riêng cho Thánh Địa. Nếu Chúa muốn thì bất chấp cuộc bạo động dữ dằn có tiếp tục bùng nổ và có phạm đến Thiên Chúa cùng con người, việc tìm kiếm những giải pháp thương thảo chính đáng cũng được củng cố để bảo đảm an ninh và hòa bình cho tất cả mọi dân tộc.

Giờ đây chúng ta hãy hướng về Mẹ Maria, Vị mà hôm qua chúng ta cử hành như “Vị Phù Trợ”, bằng lời ca “lạy Nữ Vương”.
 

25/5 Chúa Nhật

Hội Nghị về “Giáo Hội và Trật Tự Thế Giới”

ĐTGM Renato Martino, chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Công Lý và Hòa Bình, đã đọc bài diễn văn trong một cuộc hội nghị quốc tế tại Đại Học Gregorian của Tòa Thánh, một hội nghị diễn ra vào hai ngày 23-24/5/2003, với chủ đề “Giáo Hội và Trật Tự Thế Giới”.

Theo bản thông báo của Hội Đồng này được phổ biến hôm Thứ Sáu 23/5, thì “sau khi nhấn mạnh là giáo thuyết về xã hội của Giáo Hội đặt trật tự thế giới trên những giá trị về luân thường đạo lý và pháp lý là những gì duy trì cuộc sống chung và việc hợp tác nơi các cộng đồng chính trị khác nhau, ĐTGM nhấn mạnh là nguyên tắc khách quan của giáo thuyết này là liên kết những mối liên hệ giữa các Quốc Gia với quan niệm về sự công lý quốc tế như là một yếu tố chính yếu của công ích. Tự do và việc phục hồi luật lệ không bao giờ đạt được bằng sức mạnh của chiến tranh. Phương tiện luật lệ là một giải pháp thay cho sức mạnh của vũ khí, một phương tiện vốn đã có trong luật lệ quốc tế, cần phải được tái cứu xét ở chỗ làm cho nó tương xứng với những nhu cầu thực sự của cộng đồng quốc tế, nhất là bằng việc củng cố sự tuân giữ cũng như tính cách chính xác của việc áp dụng luật lệ”.

Đức Giám Mục Phêrô Nguyễn Văn Nho qua đời

Đức Giám Mục Phêrô Nguyễn Văn Nho, Giám Mục Phó Giáo Phận Nha Trang vừa qua đời hôm Thứ Tư 21/5/2003, vì bệnh tim, hưởng thọ 66 tuổi. Ngài vào đời ngày 25/1/1937 tại Võ Cảnh. Ngài được Tòa Thánh bổ nhiệm làm giám mục phó giáo phận Nha Trang và thụ phong ngày 18/6/1997. Kể từ đầu thì Ngài là vị giám mục thứ 72 trong danh sách 84 vị được Tòa Thánh tấn phong lên hàng giáo phẩm Việt Nam và là vị thứ 44 qua đời. Xin cầu nguyện cho vị mục tử Việt Nam vừa quá cố, nhất là vào ngày lễ an táng cho ngài sẽ được cử hành hôm Thứ Ba 27/5/2003 tới đây.

Cô Đào Lindsay Younce đóng vai Têrêsa trong cuốn phim mới nhất về Chị Thánh

Những nhà sản xuất cuốn phim về cuộc đời chị Thánh Têrêsa hy vọng rằng nó sẽ tạo nên được việc phục hồi phim ảnh Công Giáo. Cuốn phim “Têrêsa” đã được Tòa Thánh Rôma coi trước hôm 8/5/2003. Màn điện toán Zenit đã phỏng vấn cô đào Lindsay Younce, một tài tử trẻ đóng vai Têrêsa, về việc diễn đạt một vị thánh và làm sao để Thánh Têrêsa có thể tác động khán giả qua cuốn phim này. Nữ tài tử Younce ra trường Đại Học George Fox ở Oregon và mới trở lại Công Giáo từ Hội Thân Hữu (Society of Friends) Quakers.

Vấn     Cái gì thoạt tiên đã kéo cô tới cuốn phim này?

Đáp     Tôi khám phá ra Thánh Têrêsa khi tôi mới thoạt đi ngang qua những thánh tích của Ngài khi những thánh tích ấy du hành khắp Vancouver. Sau đó, tôi đã đọc những đoạn trích dẫn từ “Truyện Một Tâm Hồn” của thánh nữ, và tôi đã bị đánh động bởi sự khôn ngoan và tuổi tác của thánh nữ. Thánh nữ đã có một hiểu biết sâu xa về tình yêu Thiên Chúa trong khi còn quá trẻ. Đầu tiên tôi đã được mời để đóng vai phụ trong cuốn phim thôi. Tuy nhiên, sau khi tôi đóng vai Celine, chị của thánh nữ Têrêsa, tôi được gọi trở lại để đóng vai Têrêsa. Tôi nghĩ rằng tất cả chúng ta đều cảm thấy mình được chọn lựa. Chúng ta đã có một thứ dính dáng gì đó cao cả hơn chúng ta tưởng. Tất cả chúng ta đều là con người nhỏ bé như thế đó. Dự án này thật sự là những thứ nền móng và là những gì không ngờ được.

Vấn     Việc diễn đạt một vị thánh thoạt đầu có rùng rợn không? Cô cảm thấy điều gì khó nhất?

Đáp     Đúng đấy. Tôi nghĩ rằng bất cứ khi nào quí vị diễn tả một người nào thật tốt lành hay thật xấu xa, thì mới thấy khó khăn trong việc lột tả bản tính của họ, vì quí vị muốn cho khán giả cảm thấy được họ, nhất là một nhân vật giống như Têrêsa. Tất cả sứ điệp của chị đó là quí vị không cần phải là một con người nổi tiếng hay cao cả để làm một vị thánh, quí vị chỉ cần là một con người bình thường. Tôi muốn bảo đảm là chị phải được lột tả như là một con người bao nhiêu có thể.

Vấn     Cô đã sửa soạn cho vai trò này như thế nào? Cô có đọc những bản viết của Thánh Têrêsa chăng?

Đáp     Tôi đã đọc đi đọc lại cuốn “Một Tâm Hồn” và cuốn “Những Cuộc Đối Thoại cuối cùng” của thánh nữ cùng những văn kiện phong thánh và các bức thư của chị. Tóm lại, tôi đọc bất cứ điều gì có được trong tầm tay.

Vấn     Việc lột tả Thánh Têrêsa đã ảnh hưởng tới đức tin của cô ra sao?

Đáp     Tôi đã bắt đầu tiến trình trở thành một người Công Giáo ngay trước khi tôi khởi sự cuốn phim này, tuy nhiên, tôi đã phải chờ đợi cho đến khi hoàn tất cuốn phim mới xong tiến trình này. Tôi nghĩ rằng việc hiểu biết về chị Thánh Têrêsa đưa lại cho tôi nhiều khía cạnh về đức tin Công Giáo mà tôi chưa từng quen biết, nhất là niềm vui từ khổ đau khi quí vị dâng nó lên Thiên Chúa như một tặng vật. Quí vị xin được đau khổ, quí vị hân hoan trong đau khổ và đau khổ có thể là những điều nhỏ mọn được quí vị hiến dâng lên mọi ngày. Mối liên hệ giữa chị Têrêsa và Nữ Tu Augustine, một nữ tu chị cảm thấy khó yêu, đã thực sự tác động tôi, nhất là nơi đời sống tư của tôi với con người có lúc khó thương. Tôi cố gắng nhớ lại cách chị đối xử với Chị Augustine và cách chị thực hiện những cố gắng đặc biệt để bày tỏ tình yêu của mình ra cho dù chị cảm thấy khó khăn.

Vấn     Cô thấy điều gì về Thánh Nữ Têrêsa bí mật nhất và lạ lùng nhất? Điều gì làm chị bị hiểu lầm nhất?

Đáp     Tôi nghĩ rằng cái lạ lùng nhất về chị là nét trẻ trung của chị, ở chỗ chị trẻ trung suốt cuộc đời của chị. Chúng ta thường nghĩ về các thánh nhân như những con người tinh tuyền suốt cuộc đời của các vị, thế nhưng chị Têrêsa đã phải trải qua một cuộc biến đổi và một cuộc biến đổi ở vào lứa tuổi trẻ trung. Chị luôn được chiều chuộng, làm theo ý mình, người ta cung phụng chị và chị được ưu ái, nhất là bởi người cha của chị. Chị đã phải biết cách thoát ra khỏi tâm hướng ấy. Chị là một người con gái rất can đảm và dũng mãnh. Chúng ta thường quên rằng một trong những điều chính chị muốn con người hiểu được đó là chúng ta là loài bất toàn và quí vị phải chấp nhận những cái bất hảo của quí vị. Thánh Têrêsa là con người bất toàn nhưng chị không nản và phần lớn của dời của chị không được ủi an. Chúng ta thường không cảm thấy được ủi an, và cần phải hiểu rằng ngay cả một vị đại thánh như chị Têrêsa cũng phải trải qua một giai đoạn không cảm thấy được hy vọng và niềm vui. Chúng ta thấy chị hết sức dễ thương, song chị đã phải chịu đựng rất nhiều. Tôi nghĩ rằng chúng ta có thể thấy nơi chị là một vị thánh trong tầm tay của chúng ta.

Vấn     Sứ điệp Thánh Têrêsa nhắn nhủ giới phụ nữ trẻ ngày này là gì?

Đáp     Tôi nghĩ rằng kiến thức của chị về tình yêu và tính cách tình tứ của chị với Chúa Giêsu Kitô có thể đánh động cuộc đời của nữ giới. Quí vị có khám phá ra ơn gọi của mình là gì chăng nữa, làm vợ, làm mẹ, nữ tu, thì ở mỗi một ơn gọi đều chất chứa những chán chường và niềm vui, thế nhưng ơn gọi chính của quí vị là yêu thương. Nếu quí vị biết hy sinh ý muốn của mình cho nhau, cho người phối ngẫu của mình, cho các nữ tu, cho con cái, cho bất cứ ai trong cuộc đời của quí vị, quí vị đều biết cách yêu mến và phụng sự Thiên Chúa. Ngày nay, nữ giới được bảo rằng họ cần phải nhìn và tác hành làm sao để đẹp mắt, mà không cần phải làm hài lòng thần trí. Tôi nghĩ rằng sứ điệp của chị Têrêsa và mẫu gương của chị đã đạt đến mức độ tuổi tác thấy được “vẻ đẹp từ bên trong mà có”.
 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu của Zenit ngày 21/5/2003
 


(Giáo Hội Hiện Thế các tuần trước)