Lời mở đầu:
 

Giáo Hội Hiện Thế là mục tin về Giáo Hội Trong Tuần giữa thế giới ngày nay, tức về sinh hoạt của Giáo Hội ở Tòa Thánh Rôma, nhất là về nhưng lời giáo huấn của ĐTC cung như chủ trương của Tòa Thánh được phát biểu qua những sinh hoạt nội bộ của Giáo Hội cũng như với thế giới. Bởi đó, mục tin về Giáo Hội Hiện Thế Trong Tuần này, như đa thông báo ở trang Thực Hiện, được lấy từ Màn Điện Toán Toàn Cầu Vatican Information Service (VIS). Tuy nhiên, mục Giáo Hội Trong Tuần đây cung được tổng hợp từ nguồn tin Zenit chuyên về Tòa Thánh, nhờ đó vừa có thêm nhưng tin tức liên quan khác, vừa nhanh hơn một chút. Ngoài ra, để có thể so sánh quan điểm của dân sự với tôn giáo, đôi khi có một số tin tức được lấy từ Màn Điện Toán CNN. Báo chí hay tác giả nào muốn lấy nguồn tin về Giáo Hội được tuyển hợp, trích dịch và cung cấp ở đây, xin cứ tự tiện, miễn là cho biết xuất xứ từ ThờiĐiểmMaria.Net. Đa tạ quí vị.
 

___________________________________________

 26/1-01/2/2003

 

 

Ý Chỉ của Đức Thánh Cha cho Tháng 2/2003
 

Ý Chung: “Xin cho tất cả mọi Kitô hữu, nhậy cảm với tình trạng khổ đau của các dân tộc đang vẫn còn chịu đói khát, được tiến đến chỗ liên kết với anh chị em mình hơn nữa”.

Ý Truyền Giáo:
“Xin cho Giáo Hội ở Mã Lai, Nam Dương và Brunei, trong khi vẫn cởi mở đối thoại với các tín đồ của các tôn giáo khác, biết trung thành với sứ vụ truyền bá phúc âm hóa chân thực của mình”.

 

___________________________________________

 

 

1/2 Thứ Bảy

Thủ Tướng Hồi Giáo Lebanon đến thăm Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II và chia sẻ quan điểm về Liên Tôn Thiên Chúa Giáo

Thứ Sáu, 31/1/2003, Thủ Tướng Rafiq Hariri, vị chủ tịch Hội Đồng Nội Các này đã đến tỏ lòng ngưỡng phục ĐTC. Căn cứ vào những lời phát biểu với Đài Phát Thanh Vatican, vị thủ tướng này cho biết là ông đến Rôma hôm nay vì Hội Đồng Lêbanon “phải duy trì những liên hệ chặt chẽ với Tòa Thánh Vatican. Tôi cũng muốn để để tỏ lòng kính phục của tôi với Đức Gioan Phaolô II, vị tôi đã ngưỡng mộ trong 10 năm vừa rồi. Thật là hết sức vinh dự cho chúng tôi khi Vị Giáo Hoàng này đến Lebanon để thăm chúng tôi”. Thật vậy, ĐTC đã đến thăm nước này vào Tháng Năm năm 1997, một nước chỉ có 25% Công Giáo trong tổng số 3 triệu dân. Vị thủ tướng đến thăm Vatican với vợ và đoàn tùy tùng này còn cho biết “Những vấn đề chính trị mà chúng tôi muốn bàn với những vị có trách nhiệm ở Vatrican là vấn đề Iraq và vấn đề hòa bình ở Trung Đông. Có nhiều điều nói về Hồi Giáo, về thành phần cực bảo thủ và thành phần quá khích. Thế nhưng, thành phần sau không phải là thành phần Hồi Giáo; đó là thái độ của con người điên khùng không có liên quan gì tới niềm tin của chúng tôi cả. Chúng tôi mạnh mẽ tin tưởng là tôn giáo cần phải khoan dung, hòa thuận chung sống và tôn trọng tha nhân của mình. Một số người nói đến cuộc đối chọi giữa những người Kitô Giáo, Hồi Giáo và Do Thái, cũng như giữa Kitô Giáo và Do Thái Giáo. Tôi không thể hiểu được làm sao lại có thể xẩy ra cho một người Hồi Giáo có quyền lập gia đình với một người phụ nữ Kitô Giáo hay Do Thái và có con cái với người phụ nữ ấy, rồi coi người chú của những đứa trẻ này, dù là Do Thái hay Kitô Hữu, như kẻ thù. Điều này không đúng tí nào cả! Không thể nào lại như thế được! Bởi thế, bao lâu chúng ta đã cho phép, như vẫn đã xẩy ra trong giòng lịch sử, một gia đình được hình thành, tức là được biểu lộ hết cỡ những mối liên hệ giữa con người với nhau, và một gia đình được hình thành bởi một người nam Hồi Giáo và một người nữ Kitô Giáo hay Do Thái Giáo, thì điều này nói lên cho thấy việc biểu lộ hết cỡ của những mối liên hệ liên bản vị. Chúng tôi không xung khắc với người nào cả. Chúng tôi tôn trọng các tôn giáo khác, chúng tôi tôn trọng Kitô Giáo, chúng tôi tôn trọng Do Thái Giáo”.
 

Phản ứng về bài diễn văn của Tổng Thống Bush 28/1/2003

Thứ Tư 29/1/2003:

Úc Châu và Nhật Bản tỏ ra ủng hộ bài nói này. Hiệp Vương Quốc thì khỏi nói, phát ngôn viên của Thủ Tướng Blair khen bài nói “rất hùng hồn” về trường hợp Saddam Hussein.

Bộ Trưởng Ngoại Giao Pháp là ông Dominique de Villepin cho biết Pháp sẽ tham dự vào hành động quân sự nếu Liên Hiệp Quốc quyết định. Thế nhưng, ông thêm: “Khi dám đụng tới thế giới Ả Rập là một trách nhiệm nặng nề. Trách nhiệm của cộng đồng quốc tế rất lớn lao. Nó là vấn đề chiến tranh và hòa bình. Nó là một chọn lựa người ta không được coi thường”.

Phát ngôn việc của ngoại giao vụ Nga là ông Alexander Yakovenko cho biết: “Chúng ta được hướng dẫn bởi những nguyên tắc của luật lệ quốc tế và những thẩm quyền của Hội Đồng Bảo An, nên như chúng tôi đã nói, chúng tôi không thấy những lý do để sử dụng quân lực. Khả năng theo qui lệ chính trị và ngoại giao chưa được tận dụng hết cỡ, nên chúng tôi nghĩ rằng các thanh tra viên quốc tế cần phải có cơ hội để tiếp tục việc làm của họ”.

Trưởng ban ngoại giao vụ của Khối Hiệp Nhất Âu Châu là ông Javier Solana cho rằng “trọng trách phải là Liên Hiệp Quốc”.

Tổng Thống Đức là Johannes Rau cảnh giác Hoa Kỳ về việc đơn phương sử dụng quân lực với lập luận là việc chiến đấu với nạn khủng bố và độc tài “không phải là vấn đề đối với một quốc gia duy nhất”.

Chính hôm Thứ Ba, 28/1/2003, ngày Tổng Thống Bush đọc bài diễn văn, ông ElBaradei, làm đầu cơ quan nguyên tử lực quốc tế IAEA đã nói với CNN là vấn đề chiến tranh với Iraq có thể tránh được.

“Cộng đồng thế giới cản thấy rất bất nhẫn. Hầu hết bất mãn là những thứ khí giới đại công phá chồng chất ở Iraq đã không được chấm dứt sau 11 năm thực hiện những cuộc thanh tra. Tuy nhiên, tôi không tin rằng chúng ta đã vận dụng hết mọi giải pháp hòa bình. Ông Hans Blix và tôi tin rằng chúng ta phải thực hiện một nỗ lực cuối cùng. Nếu chúng ta không thành công thì các hậu quả của nó sẽ trở thành trầm trọng khi Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc quyết định. Thế nhưng, chúng ta phải cố gắng thực hiện mọi nỗ lực duy nhất này trước khi chúng ta sử dụng đến chiến tranh. Tôi sẽ làm hết sức của tôi, ông Hans Blix sẽ làm hết sức ông, cộng đồng thế giới sẽ làm hết sức mình. Tôi vẫn nói rằng có thể tránh được chiến tranh… thế nhưng vấn đề là tùy ở Iraq trong mấy tuần lễ tới đây… “ Ông này cho biết nhóm thanh tra của ông không có chứng cớ gì về việc Iraq nhập cảng hay xuất cảng chất uranium. Ông kêu gọi Hiệp Chủng Quốc và Hiệp Vương Quốc cung cấp tin tức tình báo hơn nữa về những chỗ Iraq có thể giấu diếm các thứ vũ khí cấm này. “Tôi nghĩ rằng nắp đã được mở ra, nhưng chúng ta muốn thấy nước chảy vào mấy tuần tới đây”.

Iraq phủ nhận lời cáo buộc của Tổng Thống Bush cho rằng Iraq có dính dáng đến tổ chức Al Qaeda. Ông Quyền Vị Thủ Tướng là Tariq Aziz đã nói tgrong cuộc phỏng vấn ở ABC News là: “Tôi hoàn toàn phủ nhận điều này. Tôi hoàn toàn phủ nhận điều này. Và tôi thách Bush và chính phủ của ông ta trưng ra bất cứ, bất cứ chứng cớ nào về điều này”.

Cũng Thứ Tư, sau ngày Tổng Thống Bush đọc bài diễn văn, qua một cuộc họp được truyền hình với các tướng lãnh của mình, Tổng Thống Saddam Hussein nói Hoa Kỳ không có quyền tấn công xứ sở của ông, và ông sẵn sàng đối phó với tất cả mọi thảm kịch có thể xẩy ra: “Chúng ta phải thận trọng khi có bất cứ lực lượng tàn ác nào cố gắng tấn công chúng ta…. Khi họ xua một đại quân tấn công Iraq lần thứ hai họ phải lưu ý là những người Iraq không dễ gì bị bại đâu và những người Iraq đã sẵn sàng mọi sự có thể rồi”.

Một tờ nhật báo hàng đầu ở Iraq là al-Thawra của Đảng Baath đã lên án bài diễn văn của Tổng Thống Bush, cho rằng: “Nó đầy những lời tố cáo mà chẳng có bằng chứng cụ thể nào. Bài nói hoàn toàn chẳng có ý nghĩa gì, với đầy những lời la lối om sòm và kiểu náo nhiệt Hollywood”.

Ngày hôm sau của bài diễn văn, Vị Lãnh Sự của Iraq ở Liên Hiệp Quốc là Aldouri kêu gọi Liên Hiệp Quốc can thiệp vào những biến động xẩy ra sau bài diễn văn của Tổng Thống Bush: “Vấn đề là quí vị có thể tố cáo chúng tôi bao nhiêu quí vị muốn, thế nhưng quí vị không thể cung cấp một tí chứng cớ nào. Chúng tôi kêu gọi Liên Hiệp Quốc hãy gánh vác trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ Iraq khỏi thứ chính phủ thực dân đang lên cơn sốt dầu hỏa này… Cuộc xâm chiếm của Hoa Kỳ đã không thành công ở Việt Nam thì sẽ không bao giờ thành công ở Iraq đâu… Iraq đã thực hiện tất cả mọi quyết định liew6n quan đến những vấn đề giải giới. Chúng tôi sẽ tiến hơn nữa và cộng tác tích cực với các thanh tra viên để chứng minh cho thấy những tố cáo này chẳng là gì khác ngoài những chuyện bịa đặt”.

Chính Ngày Thứ Tư 29/1/2003 này, Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc cũng họp để bàn đến vấn đề trường trình của thanh tra viên hôm Thứ Hai vừa rồi. Hai vị lãnh đạo thanh tra đã bị hạch hỏi bởi các quốc gia thành viên về thời gian bao lâu mới xong việc thanh tra. Dĩ nhiên Hiệp Chủng Quốc và Hiệp Vương Quốc luôn đi với nhau, nhưng Pháp, Nga, Đức và Tầu chống lại vấn đề đánh đấm trong lúc này. Ông ElBaradei đã công khai xin Hội Đồng cho thanh tra viên thêm thời gian, còn ông Blix sẵn sàng đón nhận các tín liệu do Bộ Trưởng Nội Vụ Hoa Kỳ Powell cung cấp.

Thứ Năm 30/1/2003


Pháp, Nga và Tầu là quốc gia thành viên có quyền veto muốn thêm thời gian thanh tra, cũng như Đức, Mễ Tây Cơ, Chí Lợi, Guinea, Camaroon, Syria, Angola và Pakistan cũng thế, những nhà ngoại giao đã cho hãng thông tấn AP biết như thế. Chỉ có Bulgaria và Tây Ban Nha là theo Hoa Kỳ và Hiệp Vương Quốc mà thôi. Ngoài các quốc gia phần tử của Hội Đồng này, trong Khối Hiệp Nhất Âu Châu còn 6 quốc gia tỏ ra ủng hộ Hoa Kỳ là Ý, Bồ Đào Nha và Đan Mạch, chưa kể các nước đang xin làm thành viên của khối này là BaLan, Hung Gia Lợi và Cộng Hòa Czech. Điều này được thấy trong một bài của tờ nhật báo Thời Điểm Britian và một số tờ khác ở Âu Châu và Hoa Kỳ.

Ở Luân Đôn, ông Mohamed ElBaradei cho đài BBC biết ông muốn có từ 4 đến 5 tháng nữa để thực hiện việc tìm kiếm những thứ vũ khí cấm ở Iraq trước khi họ có thể tuyên bố là Iraq không có gì. “Nếu họ (Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc) quyết định rằng đó là một vi phạm thì đó là quyền của họ. Chúng tôi sẽ không nói rằng đó là điều vi phạm trừ phi chúng tôi thấy một vi phạm lớn tới bản quyết định. Thế nhưng bấy giờ cũng tùy Hội Đồng Bảo An công bố về vấn đề này”.

Nhận định của Thời Điểm Maria:

Bài diễn văn của Tổng Thống Bush ngày 7/10/2002 đã lần lượt trả lời hầu như từng điểm được bức thư ngày 13/9/2002 của Đức Giám Mục Chủ Tịch Hội Đồng Hoa Kỳ đặt ra, tuy không hoàn toàn thỏa đáng, nhưng trong bài diễn văn lần này, ông không giải đáp nổi những vấn đề được Tòa Thánh Vatican cũng như các hội đồng Giám Mục khắp thế giới, nhất là của Đức ngày 21/1/2003, và Canada ngày 23/1/2003, liên quan đến hậu quả của chiến tranh đối với nhân dân Iraq, với vùng Trung Đông cũng như với thế giới Ả Rập.

ĐGM/CT/HĐGMHK: “Cơ hội thành công và tính cách tương xứng. Việc sử dụng võ lực phải có ‘những khả thể nắm chắc thành công’ và ‘không được tạo nên những sự dữ và đảo lộn còn lớn hơn cả sự dữ cần phải loại trừ’ (GLGHCG số 2309). Chiến tranh chống Iraq có thể đạt được những thành quả bất khả dự tưởng chẳng những đối với Iraq mà còn đối với cả nền hòa bình và sự bền vững khắp nơi ở Trung Đông. Vậy lực lượng ngăn ngừa hay ra tay trước liệu có thành công trong việc ngăn chặn những đe dọa trầm trọng, hay, thay vào đó, lại gây ra những cuộc tấn công đích danh, những cuộc tấn công đầu tiên chỉ có ý ngăn ngừa? Một cuộc chiến tranh khác ấy ở Iraq sẽ gây tác dụng nơi thành phần dân sự ra sao, cả trong thời gian ngắn hạn lẫn dài hạn? Bao nhiêu là con người vô tội nữa sẽ phải chịu khổ và chết đi, hay trở thành vô gia cư, thiếu những gì là căn bản nhất, mất công ăn việc làm? Hiệp Chủng Quốc và cộng đồng quốc tế có quyết tâm thực hiện một công tác vất vả lâu dài trong việc bảo đảm cho một nền hòa bình chân chính chăng, hay một nước Iraq hậu Saddam tiếp tục bị lũng đoạn bởi tình trạng xung khắc dân sự và đàn áp, cũng như tiếp tục trở thành một lực lượng gây khủng hoảng trong vùng này? Việc sử dụng lực lượng quân sự có dẫn đến một cuộc xung khắc và bất ổn hơn hay chăng? Chiến tranh chống Iraq có làm cho chúng ta phân tâm đối với trách nhiệm của chúng ta trong việc giúp xây dựng một trật tự chân chính và bền vững ở A Phú Hãn, cũng như có làm suy yếu cuộc liên minh rộng lớn ở việc chống lại vấn đề khủng bố hay chăng?”

HĐGM Đức: “Sau hết: Việc quyết định sử dụng lực lượng quân sự bao giờ cũng cần phải để ý tới những hậu quả có thể tiên đoán. Có còn hồ nghi là thứ cuộc chiến tranh chống Iraq hầu như chắc chắn sẽ sát hại và gây thương tích cho vô số người, một cuộc chiến sẽ làm cho vô số người trở thành dân tị nạn và làm cho nhiều người hụt hẫng cuộc sống của mình hay chăng? Một chuộc chiến cũng đe dọa gây ra tình trạng biến lệch chính trị trầm trọng nhất ở toàn miền Trung Đông, làm nguy hiểm cả việc chiếm đạt của liên minh quốc tế trong việc chống lại khủng bố. Cuộc chiến tranh chống Iraq có thể làm cho thành phần bảo thủ Hồi Giáo cuồng tín tăng thêm ảnh hưởng của họ ở khắp nơi trong vùng, cũng như làm tăng thêm những giằng co trầm trọng thế giới Ả Rập với Hồi Giáo vốn có đối với thế giới Tây Phương. Miền này có khá hơn hướng đến viễn tượng hòa bình, ổn định và bảo vệ nhân quyền sau cuộc chiến này chăng?”

HĐGM Canada: “Chúng tôi tin rằng cuộc tái diễn chiến tranh đánh Iraq sẽ không mang lại việc cuối cùng đi đến chỗ giải giới. Chiến tranh hầu như chỉ mang lại thêm những gì nó vốn gây ra, đó là việc làm tiêu vong mạng sống con người, việc hủy hoại môi sinh, việc hư hại về thể lý lẫn tâm lý cho cả nạn nhân lẫn kẻ tấn công, tình trạng tiêu hao nguồn lực, những đe dọa gây ra một tình trạng chính trị bất ổn hơn nữa cùng với việc tăng gia khủng bố, tình trạng tăng thêm lòng hận ức và tình trạng bùng lên trào lưu quá khích”.

Trong cả hai bài diễn văn, Tổng Thống Bush cũng chỉ nêu lên cùng một lý do để có thể chính đáng tấn công Iraq hầu giải giới Saddam Hussein, bởi vì Saddam Hussein là một nhà độc tài, dã man vô nhân đạo, có những thứ khí giới đại công phá trong tay, ông ta sẽ khống chế thế giới Hồi Giáo và tấn công Hoa Kỳ. Bởi vậy, phải giải giới ông ta ngay, chứ không thể đợi cho tới khi xẩy ra nguy hiểm đến nơi (the threat is imminent), bằng không sẽ không kịp. Đây là thứ chiến tranh ngăn ngừa của Hoa Kỳ, thứ chiến tranh giống như ở Việt Nam cứ bắn bừa vào nhà dân hai bên đường (Dốc Truông Nhà Đá Bình Định Qui Nhơn) để đề phòng nhỡ bị Việt Cộng phục kích. Bởi thế, Hoa Kỳ đã bị chống đối rất nhiều về kiểu lập luận chết người này.

Theo diễn tiến của tình hình, người ta cảm thấy dường như Hoa Kỳ có âm mưu gì đó. Đầu tiên đổ cho Iraq có các thứ vũ khí đại công phá vốn bị cấm, cần phải giải giới. Thế nhưng, bị nghi ngờ và phản đối, Hoa Kỳ đành chấp nhận giải pháp để cho các thanh tra viên trở lại kiểm soát xem có đúng như mình tố cáo chăng; và Iraq cũng sẵn sàng chấp nhận quyết định này của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, kể cả việc cho vào khám xét những dinh thự của tổng thống và vệc cho ban thanh tra  thực hiện các cuộc phỏng vấn với các khoa học gia Iraq. Trong thời gian thanh tra này, Hoa Kỳ kêu là sao lâu thế, và sở dĩ lâu là vì Iraq không chịu cộng tác, mà không cộng tác là vi phạm, đáng bị tấn công. Thế rồi, sau khi ban thanh tra tường trình cho Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc ngày 27/1/2003 biết trong 60 ngày lục soát không thấy Iraq có những thứ vũ khí cấm, thì trong bài diễn văn thứ hai sau đó một hôm, 28/1/2003, Tổng Thống Bush lại tố cáo Iraq là sở dĩ các thanh tra viên không khám phá ra gì cả bởi Iraq khéo léo giấu đút và lừa đảo. Nhất là tố cáo Iraq thêm là có dính dáng đến đám khủng bố quốc tế.

Tóm lại, người ta cảm thấy rằng Hoa Kỳ hình như đang sợ bị bại lộ cái âm mưu gian dối của mình trong việc Hoa Kỳ trước đây đã gán ghép cho Iraq có các thứ vũ khí cấm để có lý tấn công Iraq, đúng như Iraq nghĩ nên đã dám cho thanh tra viên vào khám xét, nên Hoa Kỳ đã và đang cố gắng moi móc hết mọi lý lẽ, đủ mọi tố cáo để tấn công Iraq cho bằng được, thậm chí, như trong bài diễn văn thứ hai của tổng thống Bush cho thấy, Hoa Kỳ dường như coi thường cả Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc: “Chúng tôi sẽ tham vấn, nhưng chớ có hiểu lầm là: nếu Saddam Hussein không hoàn toàn giải giới thì vì sự an toàn của nhân dân chúng tôi cũng như vì nền hòa bình của thế giới, chúng tôi sẽ dẫn đầu một liên minh đến giải giới hắn”.

Nếu quả thật Hoa Kỳ, dù có ý tốt, nhưng bất chấp thủ đoạn như vậy, ở chỗ bất chấp quyền bính quốc tế, thì việc làm của Hoa Kỳ có thật sự là tốt và đúng hay chăng? Thế mà, trong bài nói chuyện ở Tòa Bạch Ốc ngày 10/4/2003 về đạo luật cấm vấn đề tạo sinh sao bản cloning, vị tổng thống này đã ý thức rõ ràng là: “Những phát minh nơi kỹ thuật của ngành sinh học y khoa không bao giờ được thực hiện bất chấp lương tri con người. Khi chúng ta tìm cách làm những gì có thể, chúng ta luôn phải biết những gì là đúng đắn, và chúng ta không được quên rằng cho dù chúng ta có theo đuổi những mục đích cao quí nhất chúng cũng không biện minh cho bất cứ phương tiện nào chúng ta sử dụng”. Chớ gì Hoa Kỳ theo đúng nguyên tắc luân lý này trong việc đối xử với Iraq. Tòa Thánh Vatican và các Hội Đồng Giám Mục trên thế giới lên tiếng phản chiến không phải vì muốn bênh vực và che chở cho cá nhân Saddam Hussein, mà cho chính công lý, một thứ công lý mà nếu không được tuân giữ chặt chẽ, nhiều mạng sống vô tội sẽ bị tiêu vong, và thế giới sẽ đi đến chỗ bạo loạn hơn nữa. Giáo Hội Chúa Kitô hoạt động cho công lý và hòa bình là như thế.

(Xin theo dõi bài diễn văn của Tổng Thống Bush, phần liên quan đến Iraq ngày mai)

31/1 Thứ Sáu

Lại cáo buộc... Nhưng lại càng tìm thấy những dấu chứng tỏ Đức Piô XII ra tay cứu dân Do Thái khỏi bị Hitler diệt chủng

Susan Zuccotti, giáo sư sử học ở Đại Học Barnard Nữu Ước đã viết trong cuốn sách của mình dưới tựa đề “Tòa Thánh Vatican và Việc Tế Thần ở Ý” cho rằng không có dấu nào chứng tỏ Đức Piô XII có thiện cảm với người Do Thái cả: “Piô XII không bao giờ dùng chữ ‘Do Thái’ hay ‘chủng tộc’. Vị Giáo Hoàng này thường dùng những chữ chung chung để nói lên nỗi buồn khổ của mình đối với tình trạng đau khổ của các thường dân vô tội, song không rõ ràng nói đến người Do Thái”. Trước những cáo buộc này, Tờ Nguyệt San Inside the Vatican sẽ phổ biến trong số báo tới hai bức thư được Đức Piô XII gửi vào năm 1940 cho Đức Giám Mục Gieseppe Maria Palatucci ở Campagna thuộc miền nam nước Ý là nơi có một trại tập trung chính ở đó. Vị giám mục này đã cùng với người cháu là Giovanni Palatucci làm trưởng ty cảnh sát ở Fiume bấy giờ, cũng như với Tòa Thánh Vatican, để trông coi các người Do Thái bị quản thúc ở Campagna.

Trong bức thư số 28.436 được Tòa Thánh Vatican gửi ngày 12/10/1940, Đức Piô XII đã ủng hộ số tiền 3000 lire với hàng chữ như sau: “số tiền này được phân phát đặc biệt cho những ai chịu khổ đau vì chủng tộc”. Trong bức thư thứ hai, số 31514, Đức Piô XII đã tặng số tiền 10 ngàn lire “để phân phát cho việc giúp đỡ những người Do Thái bị quản thúc”. Đây là số tiền rất lớn lúc bấy giờ. Những bức thư này đã được phổ biến trong cuốn sách được cảnh sát quốc gia xuất bản mang tựa đề “Giovanni Palatucci, Người Cảnh Sát Đã Cứu Hằng Ngàn Người Do Thái”. Vào ngày 9/10/2002, ĐHY Camillo Ruini đã bắt đầu tiến trình phong chân phước cho người cảnh sát anh hùng này. Năm 1990, ông đã được Do Thái tuyên dương là “Công Chính Giữa Các Quốc Gia”, và có một con đường ở Tel Aviv được mang tên của ông.

Các Nhà Lãnh Đạo Ý Quốc Trở Lại Vấn Ðề Muốn Kitô Giáo được Bản Hiến Pháp Âu Châu Nhìn Nhận

Các chính trị gia Ý, dù khuynh tả, hữu hay trung dung, cũng lên tiếng yêu cầu nhìn nhận các giá trị Kitô Giáo nơi Bản Hiến Pháp của Aâu Châu là những gì làm nên căn tính của lục địa này.

Ông Gianfranco Fini, một Deputy Premier, đã phát biểu như sau: “Không thể phủ nhận là căn tính sâu xa nhất của Âu Châu được tìm thấy nơi các giá trị tôn giáo cũng như nơi truyền thống được gọi là Do Thái Kitô Giáo. Chính sách chính trị phi tôn giáo sâu xa nhất chính là ở chỗ nhìn nhận sự thật này. Ông này là một chính trị gia tham dự cuộc họp hôm Thứ Hai 28/1/2003 về “Hội Đồng Aâu Châu và Những Căn Gốc Kitô Giáo từ Đồng sang Tây của Aâu Châu”. Cuộc hội nghị này được tổ chức bởi Đại Học Viện Regina Apostolorum Pontifical Athenaeum, Hội Đồng Tòa Thánh Về Công Lý Và Hòa Bình, the Guile Foundation, với sự hỗ trợ của tổng thống Ý cũng như vị của chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng. Ông này thôi thúc Hội Đồng Âu Châu, một diễn đàn có trọng trách viết bản Hiến Pháp tương lai cho Âu Châu, là “hãy can đảm tiến lên” đối với Bản Hiến Chương Âu Châu về Các Quyền Lợi Căn Bản, một văn kiện đã được chấp thuận vào năm 2000, một văn kiện giới hạn không cho phép bàn đến vấn đề “gia sản tinh thần và luân lý”.

Ông Lamberto Dini, nguyên Bộ Trưởng Ngoại Giao Vụ của Ý và là đương kim phó chủ tịch Thượng Viện Ý đã tỏ ra ủng hộ quan điểm của ông Fini trên đây, khi cho biết: “Tôi sẻ ủng hộ bất cứ dự án nào thiên về việc đem vào lời phi lộ của Bản Hiến Pháp Âu Châu chi tiết liên quan đến những giá trị tinh thần cũng như đến những giá trị tôn giáo và Kitô Giáo”. Ông cũng không chối cãi rằng việc bàn đến vấn đề này ở Hội Đồng Âu Châu phụ trách phác họa bản Hiến Pháp mới đây sẽ là một chuyện “khó khăn”, nhưng ông ủng hộ bản dự thảo của Đảng Phổ Thông Âu Châu trong việc “đặc biệt qui chiếu đến vai trò của Giáo Hội trong việc hình thành Âu Châu trong hơn 2000 ngàn năm qua”.

Ông Antonio Tajani, phó chủ tịch Đảng Phổ Thông Âu Châu trong Quốc Hội Âu Châu, cũng cho biết rằng mục tiêu của nhiều chính trị gia thuộc nhóm Quốc Hội của ông sẵn sàng “tranh luận” về vấn đề này, vì “một cộng đồng cả nửa tỉ người này không thể chỉ sống dựa vào kinh tế mà thôi, mà còn cần phải có những giá trị trọng yếu nữa”.

Tổng Thống Putin muốn có một cuộc đối thoại về chính trị với Tòa Thánh Vatican

Hôm Thứ Năm 30/1, khi tiếp nhận vị tân đại diện của Tòa Thánh ở Nga là ĐTGM Antonio Mennini, Tổng Thống Putin nói: “Nga xin loan báo là muốn có một cuộc đối thoại về chính trị với Tòa Thánh Vatican. Chúng tôi tin rằng những liên hệ song phương của chúng ta sẽ góp phần vào việc giải quyết những vấn đề khó khăn” được cộng đồng thế giới nói đến, như vấn đề khủng bố. Vị TGM này đã là khâm sứ Tòa Thánh ở Bulgaria, nơi ngài đã nuôi dưỡng những mối liên hệ tốt đẹp với Giáo Hội Chính Thống ở xứ sở này và cũng là vị sắp xếp cho chuyến viếng thăm của ĐTC ở đây.

Đức Thánh Cha nói với các vị thẩm phán của Tòa Hôn Phối Rôma về cuộc khủng hoảng hôn nhân

Khi gặp gỡ các vị thẩm phán của Tòa Hôn Phối Rôma Thứ Năm 30/1/2003, ĐTC đã nhận định cuộc khủng hoảng của hôn nhân gia đình là cuộc khủng hoảng liên quan đến ý nghĩa về Thiên Chúa, đến vấn đề yêu thương.

“Tâm thức ngày nay, bị tục hóa nặng nề, có khuynh hướng công nhận những giá trị nhân bản của cơ cấu gia đình bằng việc tách lìa những giá trị nhân bản này khỏi những giá trị tôn giáo và tuyên bố tất cả những giá trị ấy đều biệt lập khỏi Thiên Chúa. Được thu hút bởi những lối sống rất thường hay được các phương tiện truyền thông xã hội đề ra, vấn đề được đặt ra là: ‘Tại sao người ta phải luôn luôn trung thành với người phối ngẫu của mình chứ?’ Và câu hỏi này trở thành một mối ngờ vực về cuộc sống trong những trường hợp nghiêm trọng. Những khó khăn của đời sống vợ chồng có thể do nhiều loại khác nhau, nhưng tất cả cuối cùng đều phát xuất bởi vấn đề yêu thương. Bởi thế, vấn đề được đặt ra vừa rồi cần phải được đặt lại như sau: Tại sao người ta luôn luôn phải yêu người khác, ngay cả khi có nhiều động lực, dường như có lý, thúc đẩy con người lìa bỏ người khác? Có nhiều câu trả lời, trong đó chắc chắn sự thiện ích của con cái cũng như thiện ích của toàn thể xã hội là những lý do rất mạnh. Thế nhưng, câu trả lời sâu xa nhất trước hết là nhờ ở việc nhận biết tính cách khách quan của vai trò làm vợ làm chồng, một vai trò thể hiện qua việc hiến thân cho nhau, một vai trò được trở thành khả dĩ và bảo đảm bởi chính Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao lý do tối hậu cho phận sự phải trung thành yêu thương nhau không là gì khác hơn là căn cứ vào nền tảng Giao Ước Thiên Chúa ký kết với con người, ở chỗ Thiên Chúa thủy chung! Bởi thế, để hết lòng trung thành với người phối ngẫu của mình, cho dù trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, con người phải kêu xin Thiên Chúa, tin tưởng sẽ lãnh nhận ơn trợ giúp của Ngài. Cuộc khủng hoảng liên quan đến ý nghĩa về Thiên Chúa cũng như đến ý nghĩa của sự dữ và sự thiện luân lý đã có tác dụng làm mờ ám đi kiến thức về những nền tảng của chính hôn nhân cũng như của gia đình được xây dựng trên hôn nhân”.

Văn Kiện Về Phong Trào Thời Mời New Age sắp được ban hành

Theo dự định, Tòa Thánh Vatican sẽ phổ biến một văn kiện về một thứ phong trào ý hệ rất nguy hiểm hiện nay, đó là phong trào Thời Mới New Age. Nhan đề của văn kiện này là “Chúa Giêsu Kitô Đấng Chất Chứa Nước Hằng Sống: Một Suy Tư Của Kitô Giáo Về Vấn Đề Thời Mới”. Văn kiện này được viết bởi Hội Đồng Tòa Thánh Về Văn Hóa và Hội Đồng Tòa Thánh Về Đối Thoại Liên Tôn. Hai vị chủ tịch của hai Hội Đồng này sẽ ra mắt văn kiện được viết bằng 3 thứ tiếng Anh, Pháp và Ý đây tại Văn Phòng Báo Chí của Tòa Thánh vào Thứ Hai, 3/2/2003.
Tài liệu về bản chất và chủ trương của phong trào này đã được phổ biến không ít. Sau đây là đoạn phụ trương 8 trong cuốn Hận Thù Quyết Thắng (trang 286) được xuất bản từ năm 1996.

Phụ Bản 8
Phong Trào Thời Mới
(New Age Movement)


Theo Bí Mật La Salette: "Vào năm 1864, Luxiphe cùng với một số lớn qủi ma sẽ được thả ra khỏi hỏa ngục..." Chắc chắn bọn qủi cuối thời này sẽ không hiện hình để dụ hoặc người ta, mà hoạt động bằng "những sự dối trá" (Gn.8:44) của chúng nơi con người và qua con người. Chân tướng của chúng, vào ngay năm 1864, đã bị Đức Piô IX vạch trần ở Bản Liệt Kê 80 Sai Lầm, mà điều 1 là bộ mặt Phiếm Thần (Pantheísm), chủ trương của Phong Trào Thời Mới:

"Không có một hữu thể tối cao nào toàn tri và quan phòng hết mọi sự tách biệt khỏi vũ trụ này cả, Thiên Chúa cũng giống như bản chất tự nhiên của các sự vật, bởi thế cũng bị chuyển biến' Thiên Chúa thực sự được tạo nên cả ở nơi con người cũng như ở nơi thế gian, nên tất cả mọi sự đều là Thiên Chúa và có cùng một bản thể của Thiên Chúa' Thiên Chúa cũng chỉ là một sự vật giống như thế gian, do đó mà tinh thần cũng giống như vật chất, tất yếu cũng giống như tự do, sự thật cũng giống như giả tạo, sự thiện cũng giống như sự dữ, và công chính cũng giống như bất chính" (xem cuốn RCH: Readings in Church History, trang 992)

Trên thực tế, Phong Trào Thời Mới cho rằng vì không ý thức nên người ta mới tách khỏi thần tính của mình mà thôi. Để nhận thức được thần tính của mình, họ cần ý thức lại, thế thôi. Họ ý thức lại thần tính của mình bằng những phương pháp luyện tập tâm linh, như Thiền, Yoga v.v. Sau khi cảm nghiệm được thần tính của mình, cá thể của con người sẽ được biến đổi, nhờ đó thế giới cũng sẽ được biến đổi, và nhân loại sẽ bước vào một Thời Mới.

Đối với Phong Trào Thời Mới, Đức Kitô đúng là Thiên Chúa, song Người cũng chỉ là Thiên Chúa như mọi người thôi. Sở dĩ Đức Kitô là Thiên Chúa hơn mọi người là vì Người nhận thức được thần tính của mình, do đó, Người có thể thể hiện quyền năng thần linh của mình. Bởi thế, Phong Trào Thời Mới coi Chúa Kitô chỉ là một nguyên lý thần linh (a divine principle) và là một nhiệt lực (an energy force) hay là một tâm thức Kitô (a Christ-conciousness) mà mọi người có thể đạt được:

"Đức Kitô không phải là Thiên Chúa, Người không đến như Thiên Chúa. Người là hóa thân một phương diện của Thiên Chúa. Người là linh hồn hóa thân của mọi tạo vật. Người hiện thân cho năng lực là phương diện tâm thức của Hữu Thể mà chúng ta gọi là Thiên Chúa.

"Đức Kitô là gì? Trong tất cả mọi sự sống đều có một tính chất, một năng lực, như đặc tính căn bản của mình, mạnh mẽ phát triển, mãnh liệt diễn xuất thần tính. Nó là một tính chất có thể nói là bất cứ thể thức nào bao bọc lấy tôi, tôi sẽ không bị cầm giữ bởi nó như là một tù nhân, song tôi sẽ biến đổi nó thành một thể thức vĩ đại hơn. Tôi sẽ sử dụng tất cả cuộc sống, tất cả kinh nghiệm như những bước tiến đến những mạc khải thần linh cao cả hơn. Đức Kitô là một lực tiến hóa nền tảng trong tạo vật.

"Cuộc hạ sinh thật sự của Đức Kitô không phải là cuộc hạ sinh của Giêsu. Giêsu là một cá nhân tự mình phải tái diễn lại những giai đoạn nào đó. Người theo mẫu thức của Phật Tổ đã thiết định... Chính Người cũng phải được đánh thức dậy. Trong tâm thức của mình, Người đã phải chạm đến mẫu thức Kitô" (xem cuốn SIIR: Satanism Is It Real?, trang 93-94)

Về các phương pháp luyện tập tâm linh được Phong Trào Thời Mới sử dụng để giúp con người nhờ đó đạt đến thần tính của mình, ĐTC Gioan-Phaolô II đã lên tiếng trong cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng của Ngài như sau:

"Không phải là không thích hợp để cảnh giác những Kitô hữu say mê đón nhận một số những tư tưởng nơi những truyền thống tôn giáo Viễn Đông - chẳng hạn như những kỹ thuật và những phương pháp suy niệm cũng như thực hành khổ chế... Một vấn đề khác là việc trở lại với những tư tưởng về chủ đạo thức cổ xưa nấp dưới hình thức của cái gọi là Thời Mới. Chúng ta không thể tự dối mình cho rằng cái Thời Mới này sẽ làm canh tân đạo giáo (phụ chú: xem tông huấn Redemptoris Missio của ĐTC Gioan-Phaolô II ban hành ngày 7-12-1990, số 38, về ý tứ "canh tân đạo giáo" ở đây). Nó chỉ là một đường lối mới trong việc thực hành khuynh hướng chủ đạo thức (gnosticism), một thái độ có tinh thần muốn tìm hiểu sâu xa về Thiên Chúa lại làm lệch đi Lời của Ngài bằng những lời của nhân loại. Khuynh hướng chủ đạo thức này không bao giờ hoàn toàn tách biệt khỏi lãnh giới của Kitô giáo. Trái lại, nó luôn luôn hiện hữu sát cánh với Kitô giáo, đôi khi mặc lấy thể thức của một trào lưu triết lý, song thường mang những đặc tính của một tôn giáo, hay một dị giáo tàng hình dù không bị điểm mặt, tương khắc với tất cả những gì chính yếu của Kitô giáo" (xem cuốn CTH: Crossing the Threshold of Hope, trang 89-90)
 

30/1 Thứ Năm

Sứ Điệp của ĐTC Gioan Phaolô II cho Ngày Thế Giới Truyền Thông thứ 37, Ngày 1/6/2003

Anh Chị Em thân mến,

1. Trong những ngày tăm tối của một Cuộc Chiến Tranh Lạnh, Bức Thông Điệp “Hòa Bình Dưới Thế” của Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII đã xuất hiện như một hải đăng hy vọng cho những con người nam nữ thiện tâm. Khi tuyên bố là nền hòa bình chân chính cần phải “cẩn thận tuân giữ trật tự được Thiên Chúa thiết lập” (Pacem in terris, 1), Đức Thánh Cha này đã vạch ra cho thấy những rường cột của một xã hội thái hòa là sự thật, công lý, bác ái và tự do (ibid, 37).

Việc nổi lên quyền lực của những phương tiện truyền thông xã hội tân tiến đã làm nên một phần quan trọng cho bức phông của Bức Thông Điệp này. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã đặc biệt nghĩ đến vấn đề truyền thông đại chúng trong đầu khi Ngài kêu gọi “công bằng và vô tư” trong việc sử dụng “những phương tiện cổ võ và truyền bá việc hiểu biết giữa các quốc gia” do khoa học và kỹ thuật cung cấp; Ngài đã than “những cách thức tuyên truyền tín liệu vi phạm đến nguyên tắc sự thật và công lý, và làm tổn thương đến tiếng tăm của dân tộc khác” (ibid, 90).

2. Hôm nay, như chúng ta kỷ niệm 40 năm bức Thông Điệp “Hòa Bình Dưới Thế”, thì việc chia rẽ các dân tộc thành hai khối hầu như đã trở thành một ký ức đau thương, thế nhưng hòa bình, công lý và tình trạng bền vững của xã hội vẫn còn đang bị hụt hẫng ở nhiều phần đất trên thế giới. Vấn đề khủng bố, tình trạng xung đột ở Trung Đông và ở những miền khác, những mối đe dọa và chống đe dọa, tình trạng bất công, khai thác, những cuộc tấn công phẩm giá và sự thánh hảo của sự sống con người cả trước và sau khi sinh, đều là những thực tại buồn nản của thời đại chúng ta.

Trong khi đó, quyền lực của vấn đề truyền thông đại chúng trong việc hình thành những mối liên hệ nhân bản cũng như trong việc chi phối sinh hoạt chính trị cùng xã hội, cả tốt lẫn xấu, đã tăng triển rất nhiều. Bởi thế đề tài hợp thời được chọn cho Ngày Thế Giới Truyền Thông Năm Thứ 37 là: “Những Phương Tiện Truyền Thông Đại Chúng Phục Vụ Hòa Bình Chân Chính Theo Ý Nghĩa Của Thông Điệp ‘Hòa Bình Dưới Thế’”. Thế giới và phương tiện truyền thông đại chúng vẫn còn nhiều điều phải học nơi sứ điệp của Vị Giáo Hoàng Chân Phước Gioan XXIII này.

3. Vấn đề truyền thông đại chúng và Sự Thật. Vấn đề đòi hỏi căn bản về luân lý đối với tất cả mọi thứ truyền đạt đó là việc tôn trọng sự thật và phục vụ sự thật. Quyền tự do tìm kiếm và nói những gì chân thực là những gì thiết yếu cho việc truyền đạt của con người, chẳng những liên quan đến dữ kiện và tín liệu, mà nhất là còn liên quan đến bản tính và định mệnh của con người, đến xã hội và công ích, đến mối liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa nữa. Về khía cạnh này, vấn đề truyền thông đại chúng có một trách nhiệm bất khả tránh, vì nó tạo nên một vận trường tân tiến tạo cơ hội cho việc chia sẻ tư tưởng, cũng như cho dân chúng hiểu biết và liên kết với nhau hơn. Đó là lý do tại sao Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã bênh vực quyền “tự do điều tra sự thật và, trong giới hạn của lãnh vực luân lý và công ích, tự do phát biểu và phát hành” như những điều kiện cần thiết cho hòa bình xã hội (Pacem in terris, 12).

Thật vậy, vấn đề truyền thông đại chúng thường can trường cống hiến cho việc phụng sự chân lý; thế nhưng đôi khi chúng hành sử như những tác nhân của việc tuyên truyền cũng như của việc tung tin thất thiệt để phục vụ những lợi lộc hẹp hòi, góp phần gây ra những xúc phạm liên quan đến các quốc gia, đến thành phần thiểu số, đến chủng tộc và tôn giáo, phục vụ lòng tham làm vật chất, cũng như phục vụ cho các thứ ý hệ sai lầm khác nhau. Những áp lực thúc đẩy các phương tiện truyền thông đại chúng tác hành một cách sai lầm như vậy, trước hết cần phải được chính tất cả mọi con người nam nữ đi làm truyền thông chống lại, và cả Giáo Hội cùng các nhóm quan tâm khác nữa.

4. Vấn đề truyền thông đại chúng và Công lý. Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII đã nói chí lý trong “Thông Điệp “Hòa Bình Dưới Thế” về sự thiện nhân bản phổ quát, đó là “sự thiện của toàn thể gia đình nhân loại” (số 132), mà hết mọi cá nhân và tất cả mọi dân tộc được quyền chia sẻ.

Về khía cạnh này thì việc truyền thông đại chúng vươn mình ra khắp thế giới mang một trách nhiệm đặc biệt. Phải công nhận là các phương tiện truyền thông đại chúng thường thuộc về những nhóm có xu hướng riêng, công cũng như tư, nhưng chính bản chất của việc chúng ảnh hưởng đến đời sống buộc chúng không được nhúng tay vào việc làm cho nhóm này kình chống nhóm kia, chẳng hạn, nhân danh việc xung khắc giai cấp gây quá khích tinh thần quốc gia dân tộc, quá khích chủ trương đệ nhất giồng nòi, quá khích việc thanh toán chủng tộc, và những điều giống như vậy. Nhân danh tôn giáo làm cho người này chống lại người kia là một thua bại hết sức nặng nề trước sự thật và công lý, vì nó là một thứ đối xử kỳ thị về các niềm tin tôn giáo, bởi những niềm tin này thuộc về một lãnh giới sâu xa nhất của phẩm giá và tự do của con người.

Bởi việc tường trình chính xác các biến cố, cắt nghĩa một cách đúng đắn các vấn đề và trình bày khách quan những quan điểm khác nhau, mà các phương tiện truyền thông đại chúng có một nhiệm vụ nghiêm ngặt trong việc bồi dưỡng công lý và tình đoàn kết nơi các mối liên hệ nhân bản ở tất cả mọi lãnh vực trong xã hội. Điều này không có nghĩa là giải thích về những mối bất bình và chia rẽ song đào sâu vào những căn nguyên của chúng để hiểu chúng và chữa lành.

5. Vấn đề truyền thông đại chúng và Tự Do. Tự do là một điều kiện tiên quyết cho hòa bình thực sự cũng là một trong những hoa trái cao cả nhất của nó. Các phương tiện truyền thông đại chúng phục vụ tự do bằng việc phục vụ sự thật, ở chỗ, chúng cản trở tự do ở chỗ chúng xa lìa những gì là chân thật khi loan truyền những điều sai lạc hay tạo nên một bầu khí gây phản ứng sôi nổi thiếu lành mạnh trước những biến cố xẩy ra. Chỉ khi nào con người ta dễ dàng biết được những tín liệu đúng đắn và đầy đủ họ mới có thể theo đuổi công ích và giữ được vai trò chính quyền cho có uy tín.

Nếu các phương tiện truyền thông đại chúng muốn phục vụ tự do thì tự chúng phải được tự do và sử dụng chính xác cái tự do này. Vị trị đặc biệt của chúng buộc chúng phải vượt trên những tìm kiếm thuần thương mại và phục vụ những thiện ích và nhu cầu thực sự của xã hội. Mặc dù có một số điều lệ công khai về các phương tiện truyền thông đại chúng xứng hợp chú trọng tới công ích thì việc chính quyền kiểm soát lại không xứng hợp. Các ký giả và bình luận gia đặc biệt có nhiệm vụ nặng nề trong việc làm theo những gì lương tâm luân lý họ đòi hỏi và chống lại những áp lực bắt họ phải “thích ứng” sự thật để làm thỏa mãn những đòi hỏi của thành phần giầu có hay của quyền bính chính trị.

Vấn đề thực tế là cần phải tìm cách để làm sao chẳng những cống hiến cho những khối phần tử yếu kém hơn trong xã hội có được những tín liệu họ cần cho việc phát triển cá nhân cũng như xã hội của họ, mà còn phải làm sao bảo đảm được rằng họ không bị tẩy chay không cho góp phần một cách hiệu lực và hữu trách trong việc quyết định về nội dung của các phương tiện truyền thông đại chúng cũng như trong việc ấn định những cấu trúc và qui chế cho các phương tiện truyền thông xã hội.

6. Vấn đề truyền thông đại chúng và Yêu Thương. “Cơn giận dữ của con người không tỏ ra sự công chính của Thiên Chúa” (James 1:20). Ở vào cao điểm của Cuộc Chiến Tranh Lạnh, Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII đã bày tỏ tư tưởng đơn sơ song sâu xa này về những gì đường lối hòa bình cần phải theo, đó là: “Việc bảo trì hòa bình cần phải tùy thuộc vào một nguyên tắc hoàn toàn khác với nguyên tắc đang được thi hành hiện nay. Hòa bình thực sự giữa các quốc gia không được tùy thuộc vào việc làm sao để có được một số lượng khí giới ngang nhau, mà hoàn toàn ở lòng tin tưởng lẫn nhau mà thôi” (Pacem in terris, 113).

Các phương tiện truyền thông đại chúng là những diễn viên chính yếu trên thế giới hôm nay, và chúng đóng một vai trò quan trọng trong việc góp phần xây dựng niềm tin tưởng nhau này. Chúng có một quyền năng đến nỗi chỉ trong vòng mấy ngày ngắn ngủi chúng có thể tạo nên một phản ứng công cộng tích cực hay tiêu cực theo ý đồ của chúng trước những biến cố xẩy ra. Những con người hiểu biết nhận thấy rằng cái quyền năng mãnh liệt này cần phải căn cứ vào những tiêu chuẩn cao nhất trong việc dấn thân phục vụ sự thật và sự thiện. Theo chiều hướng này, những con người nam nữ đi làm truyền thông đặc biệt buộc phải góp phần xây dựng hòa bình ở tất cả mọi phần đất trên thế giới, bằng việc phá đổ những chướng ngại ngờ vực nhau, nuôi dưỡng việc chú trọng tới quan điểm của người khác, và luôn cố gắng mang các dân tộc và quốc gia xích lại gần nhau bằng việc hiểu biết và tôn trọng nhau, thậm chí vượt trên cả việc hiểu biết và tôn trọng nhau nữa, tức tới cả chỗ hòa giải và xót thương! “Nơi nào hận thù và nung nấu trả thù chủ trị, nơi nào chiến tranh mang lại khổ đau và chết chóc cho thành phần vô tội, thì nơi ấy cần đến ân sủng của tình thương để ổn định tâm trí con người cũng như để mang lại hòa bình” (Homily at the Shrine of Divine Mercy at Kraków-Lagiewniki, 17 August 2002, No. 5).

Nêu lên tất cả những thứ thách đố này không có nghĩa là yêu cầu quá nhiều nơi những con người nam nữ đi làm truyền thông đại chúng. Vì, theo ơn gọi cũng như nghề nghiệp của mình, họ được kêu gọi để trở thành những tác nhân của sự thật, công lý, tự do và yêu thương, bằng việc đóng góp hoạt động quan trọng của họ cho một trật tự xã hội “được thiết lập trên sự thật, được xây dựng trên công lý, được bảo dưỡng và sinh động bởi bác ái, và được hiệu nghiệm bởi việc bảo hộ của tự do” (Pacem in terris, 167). Bởi vậy, lời cầu nguyện của Tôi trong Ngày Thế Giới Truyền Thông năm nay là những con người nam nữ đi làm truyền thông hơn bao giờ hết sống trọn cuộc đời trước những thách đố của ơn gọi của mình, ở chỗ phục vụ cho công ích đại đồng. Việc hoàn thành bản thân của họ cũng như hòa bình và hạnh phúc của thế giới tùy thuộc rất nhiều ở điều này. Xin Thiên Chúa chúc lành cho họ bằng ơn soi sáng và can đảm.

Tại Vatican ngày 24/1/2003, Lễ Thánh Phanxicô Salesiô,
Gioan Phaolô II

(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ bản Tiếng Anh do Zenit phổ biến ngày 24/1/2003)
 

Cảm nghiệm thần linh của một cuộc đời đổi thay

Lễ an táng của ký giả Domenico del Rio đã diễn ra ngày 28/1/2003, người đã qua đi năm 76 tuổi, một ký giả được đồng nghiệp cho là một trong những phóng viên nhật báo hay nhất ở Vatican. Ông sinh ở Rôma, đi tu Dòng Capuchin, chịu chức linh mục và đi khắp thế giới như một nhà truyền giáo. Tuy nhiên, lòng nhiệt thành của ông đối với Giáo Hội đã khiến ông có một tinh thần chỉ trích gắt gao, đến nỗi, sau Công Đồng Chung Vaticanô II, ông đã xin hồi tục, để rồi, sau khi được Tòa Thánh tha phép, ông đã lập gia đình. Là ký giả cho tờ La Repubblica, ông đã cay cú phê bình các chuyến tông du hải ngoại của Đức Thánh Cha, cho rằng động lực của những chuyến đi này là do bởi “khuynh hướng vinh thắng” hơn là để truyền bá phúc âm hóa. Bởi thế, năm 1985, Văn Phòng Báo Chí Vatican đã không cho phép ông được cùng đi với Đức Thánh Cha đến Mỹ Châu Latinh. “Hình phạt” này, như ông cắt nghĩa với đồng nghiệp của ông, đã làm thay đổi cuộc đời của ông. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã gặp riêng ông sau vụ này, và qua cuộc gặp gỡ ấy, ông đã khám phá ra con người của Đức Giáo Hoàng. Từ đó trở đi, ông đã bỏ giờ ra tìm hiểu cuộc đời của Đức Thánh Cha, bằng cách viết 5 cuốn sách, cuốn cuối cùng là “Karol Cả” (Karol the Great) sắp được xuất bản ở Ý.

Luigi Accattoli, phóng viên cho tờ Corriere della Sera và là bạn thân của ông đã đến thăm ông một tuần trước khi ông chết ở Bệnh Viện Gemelli Rôma. Vì ông không muốn cho bạn bè biết ông đang nằm nhà thương, Accattoli đã hỏi ông rằng ông có điều gì muốn nhắn với họ hay chăng. Ông liền trả lời: “nói với Đức Giáo Hoàng! Tôi xin anh nói với ĐGH rằng tôi cám ơn Ngài. Tùy anh làm sao có thể nói với Ngài điều này. Nói với Ngài rằng tôi hết lòng cám ơn Ngài về việc Ngài đã giúp tôi tin tưởng. Tôi có rất nhiều điều ngờ vực và nhiều cái khó tin. Tôi đã được sức mạnh đức tin của Ngài trợ giúp. Thấy việc Ngài tỏ lòng tin rất mãnh liệt mà tôi cũng được mạnh sức. Tôi đã nhận được sức hỗ trợ này khi thấy Ngài cầu nguyện. Khi Ngài ‘phó mình trong tay Thiên Chúa’, việc phó mình này hiển nhiên đã cứu được mọi sự cho Ngài vậy”.

28/1 Thứ Tư

Đối Thoại Liên Tôn Với Do Thái Giáo

Màn Điện Toán Zenit ngày Thứ Hai 27/1/2003 đã phổ biến cuộc phỏng vấn sau đây về diễn tiến đối thoại giữa Do Thái Giáo và Công Giáo như sau với Cha Norbert Hofmann, dòng Don Bosco, vị trong hai tháng vừa qua, đã giữ vai trò thư ký của Hội Đồng Tòa Thánh Về Việc Cổ Võ Hiệp Nhất Kitô Giáo, lo vấn đề liên hệ với những người Do Thái. Vị linh mục này có phận sự phác họa chương trình cho các hội nghị và quan tâm đến các trung tâm trao đổi giữa Công Giáo và Do Thái Giáo, cũng như các công việc khác trong việc cải tiến và phát động việc họp hội giữa các tôn giáo.

Vấn     Chúng ta có thể lạc quan về vấn đề trao đổi đối thoại giữa những người Do Thái và Công Giáo chăng?

Đáp     Để mở đầu, tôi cần phải nói với quí vị rằng, là một tu sĩ dòng Don Bosco, lúc nào tôi cũng lạc quan. Ngoài ra, trong 40 năm đối thoại trao đổi với những người Do Thái chúng ta đã thấy được nhiều tiến bộ. Trước Công Đồng Chung Vaticanô II thì không thể nào nghĩ tới điều này; không có một tiến bộ nào cả. Điều đáng chú trọng nhất là việc đối thoại trao đổi này đã tiến tới cấp độ quốc tế. Chẳng hạn, như chúng ta biết, ở Hoa Kỳ đã có lệ gặp gỡ giữa những người Công Giáo và Do Thái Giáo. Cái mới mẻ là ở chỗ việc đối thoại trao đổi này đang xẩy ra ở các cấp độ khác nhau, như với thành phần Do Thái Chính Thống, với thành phần cực chính thống, với thành phần Bảo Thủ, và với thành phần thuộc Phong Trào Cải Cách Hội Đường.

Vấn     Có việc nào được thực hiện ở cấp độ chung hay chăng?

Đáp     Có một công việc đáng được nhắc đến, đó là Tiểu Ban Do Thái Quốc Tế Đặc Trách Tham Vấn Về Liên Tôn. Từ năm 1970, chúng tôi đã thành lập việc đối thoại trao đổi theo cơ cấu với nhóm của các tổ chức này. Hai hay ba năm chúng tôi tổ chức hội nghị một lần. Mấy ngày nữa, vị giám đốc của tổ chức này sẽ đến để tổng kết các chi tiết về cuộc hội nghị mới. Uũy Ban Tòa Thánh Về Liên Hệ Tôn Giáo Với Những Người Do Thái và Tiểu Ban Quốc Tế này làm thành một Tiểu Ban Giao Liên Quốc Tế Giữa Công Giáo Và Do Thái, một tiểu ban đã phổ biến những bản tuyên cáo chung rất đáng chú ý về các vấn đề như gia đình, môi sinh và việc bảo vệ quyền tự do tôn giáo cũng như bảo vệ các nơi thánh.

Vấn     Có xẩy ra những khó khăn nào trong cuộc đối thoại trao đổi này hay chăng?

Đáp     Đôi khi chúng tôi hy vọng nói đến những tranh luận về thần học, nhưng chúng tôi phải nhìn nhận là khó thực hiện. Vấn đề dễ dàng hơn nhiều khi tập trung vào các vấn đề chung về xã hội, như vấn đề văn hóa, gia đình, sự sống là tặng ân của Thiên Chúa, việc bảo vệ môi sinh như là những gì được Thiên Chúa dựng nên. Những khó khăn càng nhiều hơn về lãnh vực tín lý và đỡ hơn về vấn đề luân lý. Một điểm khó khăn khác nữa là, trong một số trường hợp, chúng ta cứ nghĩ rằng chúng ta có rất nhiều điều tương đồng với người Do Thái mà quên đi rằng cũng có những cái khác nhau trọng yếu và sâu xa. Chẳng hạn, người Công Giáo chúng ta nghĩ rằng Thành Kinh Cựu Ước của chúng ta giống như của người Do Thái song lại không phải như vậy. Chúng ta có thêm một số sách nữa, được gọi là Ngoại Thư, ngoài ra, việc giải thích của chúng ta rất khác với của các vị tôn sư. Chúng ta cần phải ý tứ và đừng lẫn lộn.

Vấn     Cha có nhận thấy những tổ chức Do Thái tái trở lại với vấn đề muốn cởi mở đối thoại trao đổi với Giáo Hội Công Giáo hay chăng?

Đáp     Khuynh hướng này là một khuynh hướng hỗ tương. Điều xẩy ra là những người Do Thái rất để ý đến việc họ đang nói chuyện với Tòa Thánh Vatican, song chúng ta lại không có một phát ngôn nhân duy nhất nào của Do Thái để nói với cả. Do Thái Giáo có nhiều nhóm khác nhau, và điều này đã tạo nên cho chúng ta một sự khó khăn nào đó. Điều mừng là đã bắt đầu có những liên hệ với Tòa Đại Tôn Sư ở Giêrusalem. Đó là một dấu hiệu tốt hiện lên trong những khó khăn về chính trị hiện nay. Cuộc gặp gỡ này sẽ xẩy ra ở cả cấp độ Giáo Hội Công Giáo địa phương cũng như ở cấp độ quốc tế với Tòa Thánh Vatican. Đó là một thành quả rất phấn khởi phát xuất từ sau cuộc viếng thăm Do Thái của Đức Giáo Hoàng trong Năm Thánh 2000. Tôi nghĩ đó là một dấu hiệu hy vọng cả thể theo ơn quan phòng.

Vấn     Việc tranh cãi liên tục về vấn đề được gọi là im lặng của Đức Piô XII (đối với việc cứu những người Do Thái khỏi bị Hitler thảm sát) có làm mờ mịt việc đối thoại trao đổi này hay chăng?

Đáp     Những cuộc tranh cãi về Đức Piô XII đã lắng xuống rất nhiều. Chúng rất căng thẳng trong năm 2001, nhất là vì vụ đổ vỡ của Uũy Ban Nghiên Cứu Chung của Những Người Do Thái và Công Giáo. Mặc dù cuộc tranh cãi này đã lắng xuống, việc phong chân phước cho Đức Piô XII vẫn có thể là một trở ngại cho việc phát động cuộc đối thoại trao đổi. Tuy nhiên, với tình trạng tiến bộ cho tới nay, chúng ta không thể lùi bước được nữa. Vào ngày 15/2 tới đây, Tòa Thánh Vatican sẽ công khai mở văn khố mật chứa đựng các thư tín trao đổi giữa Tòa Thánh và tòa khâm sứ ở Bá Linh cũng như Giáo Hội ở Munich trong những năm khốn khó nhất với chế độ Nazi. Chúng ta cần nghiên cứu sâu hơn nữa về vấn đề này.

Vấn     Chúng ta có thể nói thế này hay chăng, giáo triều hiện nay đã trở thành một giáo triều dũng cảm nhất trong lịch sử đối với vấn đề liên hệ với thế giới Do Thái?

Đáp     Đức Giáo Hoàng này chắc chắn đã thiên về việc đối thoại trao đổi, có lẽ là do kinh nghiệm bản thân của Ngài. Đức Gioan Phaolô II đã trải qua cảm nghiệm của cuộc diệt chủng Do Thái ở Ba Lan và lúc nào cũng tranh đấu cho việc hòa giải. Vào những lần viếng thăm khắp thế giới của mình, Đức Giáo Hoàng đã luôn luôn để ý tới việc gặp gỡ các vị đại diện Do Thái. Ngài là vị Giáo Tông đầu tiên trong lịch sử viếng thăm Hội Đường Do Thái ở Rôma năm 1986. Trong khi ở đó, Ngài đã gọi những người Do Thái là “những vị sư huynh trong đức tin Abraham”. Đó là những dấu hiệu tỏ tường cho thấy Ngài cảm mến dân chúng Do Thái. Thật là cảm động đối với một người Do Thái khi thấy Vị Giáo Hoàng này cầu nguyện tại Bức Tường Khóc ở Thánh Địa trong cuộc viếng thăm của Ngài hồi Tháng Ba năm 2000. Và chúng ta cũng đừng quên rằng trước đây Ngài đã xin lỗi về tất cả những gì sai lầm Giáo Hội đã phạm đến dân chúng Do Thái. Chắc chắn đó là một dấu hiệu rất mãnh liệt. Đức Gioan Phaolô II là một dấu hiệu tỏ tường cho vấn đề cổ võ đối thoại trao đổi giữa những người Do Thái và Công Giáo vậy.

Nga cho phép một vị Giám Mục Công Giáo được tại trú

Theo tin tức của tổ chức Renovabis của Đức thì Giám Mục Clemens Pickel ở Saratov đã được thẩm quyền Nga cho phép thường trú. Vị giám mục gốc Đức 41 tuổi này lãnh đạo giáo phận ở miền nam Nga Aâu, với số 40 ngàn người Công Giáo. ĐHY Walter Kasper, chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh Về Cổ Võ Hiệp Nhất Kitô Giáo đã nói với Đài Phát Thanh Vatican về việc quyết định này của Nga là “một dấu hiệu tích cực”. Bởi vì, trong năm 2002, 1 vị giám mục và 7 vị linh mục Công Giáo đã bị nước này trục xuất mà không hề cho biết lý do.
 

27/1 Thứ Ba

Ban Thanh Tra Vũ Khí Tường Trình cho Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc

Ông Hans Blix đã nói với Hội Đồng này vào ngày ấn định hôm nay, tức sau 60 ngày thanh tra, những kết quả cuộc việc làm này và nhận định của ông như sau: “Cho đến hôm nay, Iraq vẫn dường như không tiến đến chỗ thực sự chấp nhận việc giải giới đòi buộc họ phải làm theo”. Ông nhận định là Iraq “tuy nhiên đã tỏ ra hợp tác” trong việc để cho các thanh tra viên đến tất cả mọi địa điểm họ muốn, kể cả những tư gia. Tuy nhiên ông cũng nêu lên một số vấn đề ở một vài lãnh vực khác, như Iraq đã từ chối không chịu bảo đảm cho sự an toàn của những chiếc máy bay quan sát U-2 nếu không hội đủ điều kiện. Nhưng ông nói: “tôi hy vọng thái độ này sẽ được thay đổi”. Ông hoàn toàn phủ nhận lời tố giác của Iraq là các thanh tra viên đang hoạt động cho tình báo.

Ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc là Kofi Annan hôm nay cũng cho biết là các thanh tra viên “thật sự cần thời gian để hoàn tất công việc này…”. Với các phóng viên báo chí ở bên ngoài Tổng Hành Dinh Liên Hiệp Quốc ở Nữu Ước hôm nay, ông phát biểu cảm tưởng của mình là: “Tôi thật sự hy vọng là Iraq sẽ tuân hợp, và chúng ta sẽ có thể tiến đến chỗ giải giới Iraq một cách êm thắm. Tôi chưa bỏ cuộc theo đuổi hòa bình, và anh chị em chắc chắn cũng thế”.

Theo CNN biết được thì Bộ Nội Vụ Hoa Kỳ đã bắt đầu soạn thảo một quyết định thứ hai ban quyền sử dụng võ lực để bắt Saddam Hussein giải giới. Tuy nhiên, bản quyết định này chỉ được mang ra trình bày khi nào Hoa Kỳ thấy có đủ tối thiểu 9 trong 15 quốc gia thành viên trong hội đồng này, vì theo luật bỏ phiếu chấp thuận một quyết định thì cần phải có tối thiểu là 9/15 phiếu thuận và không một phiếu veto nào của 5 quốc gia thành viên thường trực của hội đồng này. Thứ Tư, 29/1/2003, 15 quốc gia thành viên sẽ họp sẽ bàn về bản tường trình của ban thanh tra và sẽ bàn đến những bước kế tiếp. Tòa Bạch Ốc cho biết, căn cứ vào bản tường trình này thì Hoa Kỳ sẽ không kêu gọi chiến tranh.

Bài Giảng ĐTC ở Buổi Kinh Tối Kết Thúc Tuần Lễ Cầu Nguyện Cho Hiệp Nhất Kitô Giáo

Để kết thúc Tuần Lễ Cầu Nguyện Cho Hiệp Nhất Kitô Giáo, ĐTC Gioan Phaolô II đã đọc diễn từ tại Đền Thớ Thánh Phaolô Ngoại Thành trong Buổi Kinh Tối Thứ Bảy 25/1, Lễ Thánh Phaolô Trở Lại, như sau: 

1. “Chúng tôi chứa đựng kho tàng này trong những bình sành” (2Cor 4:7).

Những lời này, được trích từ Bức Thư Thứ Hai gửi giáo đoàn Côrintô đã là đề tài hướng dẫn cho Tuần Lễ Cầu Nguyện Cho Hiệp Nhất Kitô Giáo mà hôm nay là ngày bế mạc. Những lời ấy soi sáng cho việc chúng ta suy niệm trong buổi phụng vụ tối nay cho Lễ Kính Thánh Phaolô Trở Lại. Vị Tông Đồ này đã nhắc nhớ chúng ta rằng chúng ta mang “kho tàng” được Chúa Kitô ban cho chúng ta trong những bình sành. Tất cả mọi Kitô hữu bởi thế được kêu gọi để tiến bước trong cuộc hành trình trần thế của mình mà không để mình bị đè bẹp bởi những khó khăn hay khốn khổ (x Lumen Gentium, 8), với niềm xác tín là họ sẽ thắng vượt tất cả mọi trở ngại nhờ ơn trợ giúp và quyền lực từ trên cao.

Với niềm xác tín này, Tôi sung sướng được cùng với anh chị em cầu nguyện tối hôm nay đây, hỡi anh chị em thân mến của Các Giáo Hội và Các Cộng Đồng Giáo Hội hiện diện ở Rôma được liên kết với nhau bằng một Phép Rửa duy nhất trong Chúa Giêsu Kitô. Tôi xin gửi đến tất cả anh chị em lời chào chân thành của Tôi.

Tôi hết sức ước mong là Giáo Hội ở Rôma, một giáo hội được Đấng Quan Phòng ký thác cho vai trò chuyên nhất trong việc “chủ sự trong đức bác ái” (Thánh Ignatiô Antiôkia, Thư gửi Giáo Đoàn Rôma, Nhập Đề), mỗi ngày một trở nên một mô phạm cho những mối liên hệ đại kết huynh đệ.

2. Là người Kitô hữu, chúng ta biết rằng chúng ta đã được kêu gọi để làm chứng trước thế giới về “Phúc Âm rạng ngời” được Chúa Kitô ban cho chúng ta (x 2Cor 4:4). Nhân danh Người, chúng ta hãy liên kết nỗ lực của mình để phục vụ hòa bình và hòa giải, công lý và đoàn kết, nhất là đứng về bên thành phần nghèo khổ và thấp hèn nhất thế gian này.

Theo chiều hướng này, Tôi muốn nhắc lại Ngày Cầu Nguyện Cho Hòa Bình Thế Giới được tổ chức tại Assisi một năm trước đây vào ngày 24/1. Biến cố liên tôn ấy đã gửi cho thế giới một sứ điệp hùng hồn là, hết mọi con người tín ngưỡng chân chính đều buộc phải xin Thiên Chúa tặng ân hòa bình, bằng một quyết tâm mới mẻ trong việc cổ võ và xây dựng hòa bình cùng với các tín hữu khác. Vấn đề hòa bình vẫn còn khẩn trương hơn bào giờ hết. Nó đặc biệt cần đến thành phần môn đệ Chúa Kitô, Vua Hòa Bình, và tiêu biểu cho cuộc thách đố cũng như cho việc dấn thân hoạt động cho phong trào đại kết.

3. Để đáp lại vị Thần Linh duy nhất là Đấng hướng dẫn Giáo Hội, buổi tối hôm nay chúng ta muốn dâng lời tạ ơn Thiên Chúa về muôn vàn hoa trái Ngài, Đấng ban phát hết mọi tặng ân tốt lành, đã đổ xuống trên con đường đại kết. Ngoài cuộc họp ở Assisi là biến cố chứng kiến thấy việc tham dự của các vị đại diện cao cấp thuộc hầu hết tất cả mọi Giáo Hội và Các Cộng Đồng Giáo Hội Đông Tây, làm sao chúng ta không nói đến cuộc viếng thăm Rôma hôm Tháng Ba năm trước của Phái Đoàn Đại Biểu thuộc Hội Đồng Thánh Giáo Hội Chính Thống Hy Lạp? Vào Tháng Sáu, Tôi đã cùng với Đức Thượng Phụ Giáo Chủ Chính Thống Bartholomew I ký vào Bản Tuyên Ngôn Chung về việc bảo toàn môi sinh. Vào Tháng Năm, Tôi đã hân hoan viếng thăm Đức Thượng Phụ Maxim lãnh đạo Giáo Hội Chính Thống Bulgaria, và trong Tháng Mười, Tôi đã được Đức Thượng Phụ Teoctist lãnh đạo Giáo Hội Chính Thống Romania viếng thăm và Tôi cũng đã cùng ngài ký vào một Bản Tuyên Ngôn Chung. Tôi cũng không thể nào quên được cuộc viếng thăm của Đức Tổng Giám Mục Canterbury là Tiến Sĩ George Carey vào thời điểm kết thúc sứ vụ của ngài, những cuộc họp của Tôi với Các Phái Đoàn Đại Kết thuộc Những Cộng Đồng Giáo Hội Tây Phương, và việc tiến bộ đạt được bởi những Uũy Ban đối thoại hỗn hợp khác nhau.

Chúng ta cũng không thể không thực tế nhìn nhận những khó khăn, những vấn đề và có những lúc những thất vọng chúng ta vẫn gặp phải. Có những lúc chúng ta cảm thấy rã rời làm sao ấy, thiếu phấn khởi, khi cảm nghiệm thấy nỗi đớn đau về việc chúng ta chưa thể cùng nhau tham dự Bàn Tiệc Thánh Thể. Thế nhưng, Chúa Thánh Thần không bao giờ thôi làm cho chúng ta ngỡ ngàng và Ngài tiếp tục hoạt động thực hiện những điều hết sức lạ lùng.

4. Trong tình hình hiện nay của vấn đề đại kết, cần phải nhận ra rằng chỉ có Thần Linh Thiên Chúa mới có thể làm cho chúng ta hoàn toàn hiệp nhất với nhau về hình thức; chỉ có Thần Linh Thiên Chúa mới có thể tác động một nhiệt tình và lòng can đảm mới. Đó là lý do tại sao chúng ta cần nhấn mạnh đến tầm quan trọng của vấn đề đại kết về tinh thần, là vấn đề làm nên linh hồn của tất cả phong trào đại kết (x Unitatis Redentegratio, 6-8).

Điều này không có nghĩa là một cách nào đó giảm bớt hay ít chú trọng đến việc trao đổi về thần học là những gì đã trổ sinh nhiều hoa trái trong những thập niên vừa rồi. Việc trao đổi này vẫn và bao giờ cũng là một việc làm bất khả thiếu. Thật vậy, vấn đề hiệp nhất giữa thành phần môn đệ Chúa Kitô chỉ có thể là một vấn đề hiệp nhất trong chân lý (x Thông Điệp Ut Unum Sint, 18-19) mà thôi. Thần Linh hướng dẫn chúng ta tiến đến mục đích này cũng qua những cuộc trao đổi về thần học, những cuộc trao đổi tạo nên một cơ hội vững chắc cho việc làm cho nhau thêm phong phú.

Tuy nhiên, chỉ ở trong Chúa Thánh Thần chúng ta mới có thể lãnh nhận sự thật của Phúc Aâm, khi làm cho hết mọi người thấu hiểu ý nghĩa sâu sa của Phúc Aâm. Vấn đề đại kết về tinh thần đây làm cho chúng ta mở mắt và mở lòng của chúng ta ra để có thể hiểu biết sự thật được mạc khải, nhờ đó, chúng ta có thể nhận biết sự thật ấy và chấp nhận sự thật ấy, cũng nhờ cả ở những minh thức của các Kitô hữu khác nữa.

5. Vấn đề đại kết về tinh thần xẩy ra trước hết bằng lời cầu nguyện được dâng lên Thiên Chúa, một cách cộng đồng khi nào có thể. Như Đức Maria và các môn đệ sau khi Chúa Giêsu Lên Trời, chúng ta cần phải đến với nhau để không ngừng kêu cầu Thánh Linh (x Acts 1:12,14). Để cầu nguyện chúng ta cũng cần phải lắng nghe Lời Chúa trong Thánh Kinh là nền tảng và dưỡng chất cho đức tin của chúng ta (x Dei Verbum, 21-25). Vì không có tái hợp đại kết mà lại thiếu việc hoán cải tâm hồn, thánh hóa bản thân và canh tân đời sống Giáo Hội.

Các cộng đồng sống đời tận hiến và các phong trào sống đạo gần đây đóng một vai trò đặc biệt trong việc nuôi dưỡng việc gặp gỡ Các Giáo Hội Đông Phương cổ kính thấm nhuần tinh thần đan tu. Có những dấu hiệu khích lệ của một cuộc phục hồi hứa hẹn đời sống linh đạo ở Các Cộng Đồng Giáo Hội ở Tây Phương nữa, và Tôi vui mừng thấy được những trao đổi hữu ích xẩy ra giữa tất cả những nhóm Kitô hữu khác nhau này.

Chúng ta cũng không được bỏ qua những trường hợp giáo sĩ của các Giáo Hội khác học ở Các Viện Đại Học Công Giáo: là khách ở các chủng viện của chúng ta, họ tham dự vào đời sống sinh viên hợp với kỷ luật của Giáo Hội buộc tuân giữ. Kinh nghiệm đã tỏ cho chúng ta thấy rằng điều này dẫn đến việc làm giầu cho nhau.

6. Niềm hy vọng chúng ta cùng nhau bầy tỏ hôm nay đây đó là linh đạo hiệp thông sẽ được phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết! Như Tôi viết trong Tông Thư Mở Màn Cho Một Tân Thiên Kỷ, chớ gì mỗi một người trong chúng ta có thể mỗi ngày lấy đức tin nhìn vào anh chị em của chúng ta trong mối hiệp nhất của Nhiệm Thể, như “những người là phần thể của tôi”, để có thể “chia vui sẻ khổ”.

Chớ gì chúng ta tiến đến chỗ nhìn thấy “những gì tích cực nơi khẻ khác, đón nhận những thứ ấy và coi trọng chúng như là tặng ân của Chúa: chẳng những như một tặng ân cho anh chị em đã tyrực tiếp lãnh nhận nó, nhưng còn là một ‘tặng ân cho tôi’”. Đừng hiểu lầm là không có linh đạo hiệp thông chân chính thì những cấu trúc hiệp thông bề ngoài “trở thành thứ máy móc vô hồn, đeo ‘những chiếc mặt nạ hiệp thông, hơn là phương tiện nó bộc lộ và phát triển” (số 43).

Vậy chúng ta hãy tiếp tục can đảm và nhẫn nại theo con đường này, tin tưởng vào quyền năng của Thần Linh! Chúng ta không phải là người định liệu ấn hạn thời gian; lời Chúa hứa là đủ cho chúng ta rồi.

Được tăng cường bằng lời Chúa Kitô, chúng ta sẽ không chịu thua trước trạng thái bạc nhược, trái lại, sẽ tăng thêm nỗ lực và lời cầu nguyện cho sự hiệp nhất. Chớ gì lời mời gọi của Người vang vọng trong lòng của chúng ta tối nay và làm cho chúng ta cảm thấy ủi an: “Duc in altum!” Chúng ta hãy tiến lên, luôn đặt lòng tin tưởng của chúng ta nơi Người! Amen!

 

Ðaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL dịch theo tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến ngày Chúa Nhật 26/1/2003

27/1 Thứ Hai

Huấn Từ của ĐTC Gioan Phaolô II Thứ Bảy 25/1/2003 cho Cuộc Họp Thế Giới Các Gia Đình lần IV

1. Các gia đình Phi Luật Tân và từ khắp thế giới thân mến, Tôi nghĩ đến anh chị em và cầu nguyện cho anh chị em khi anh chị em tụ họp lại ở Manilla để cử hành Cuộc Họp Thế Giới Các Gia Đình lần thứ tư. Với lòng rất cảm mến, Tôi xin nhân danh Chúa gửi lời chào đến tất cả anh chị em!

Nhân dịp này Tôi cũng muốn gửi lời chào nguyện cầu “Ân sủng, tình thương và an bình của Chúa là Cha và Chúa Giêsu Kitô” (1Tim 1:2) tới tất cả mọi gia đình trên thế giới được anh chị em đại diện.

Tôi cám ơn Vị Đại Diện Giáo Hoàng là ĐHY Alfonso Lopez Trujillo về những lời lẽ tốt lành ngài đã thay anh chị em ngỏ với Tôi. Tôi xin cám ơn ngài cũng như nhân viên của Hội Đồng Tòa Thánh Về Gia Đình về thời giờ và công sức bỏ ra cho việc sửa soạn Cuộc Họp này. Tôi cũng cám ơn ĐHY Jaime Sin, TGM Manilla, vị đã sốt sắng tiếp rước anh chị em trong những ngày này.

2. Trong buổi trình luận về thần học và mục vụ vừa kết thúc anh chị em đã bàn đến đề tài: “Gia Đình Kitô Giáo: Tin Mừng Cho Thiên Kỷ Thứ Ba”. Tôi đã cố ý chọn những lời này cho Cuộc Họp Thế Giới của anh chị em đây, để nhấn mạnh đến sứ vụ cao cả của gia đình. Bằng việc tha thiết với Phúc Âm và bước đi trong ánh sáng của Phúc Âm, các gia đình mang một trách nhiệm buộc phải làm chứng cho sứ điệp Phúc Âm.

Các gia đình Kitô hữu thân mến, hãy hân hoan loan báo cho toàn thể thế giới biết đến kho tàng tuyệt vời mà anh chị em có được như những giáo hội tại gia! Hỡi các đôi vợ chồng Kitô hữu, trong mối hiệp thông sự sống và yêu thương của mình, trong việc anh chị em tự hiến thân cho nhau cũng như trong việc anh chị em quảng đại đón nhận con cái, hãy trở nên ánh sáng thế gian trong Chúa Kitô. Chúa Kitô xin anh chị em hằng ngày hãy là đèn soi không bị che khuất đi song “được đặt trên giá để soi sáng cho cả nhà” (Mt 5:15).

3. Trước hết, anh chị em hãy là “tin mừng” cho ngàn năm thứ ba bằng việc sống trung thành với ơn gọi của anh chị em. Anh chị em dù có mới lập gia đình hay nhiều năm trước đây thì Bí Tích Hôn Phối vẫn tiếp tục là đường lối đặc biệt của anh chị em trong việc làm môn đệ của Chúa Giêsu, góp phần vào việc làm lan rộng Vương Quốc của Thiên Chúa cũng như vào việc lớn lên trong sự thánh thiện là ơn gọi của tất cả mọi Kitô hữu. Như Công Đồng Chung Vaticanô II đã nhận định, các đôi phối ngẫu Kitô hữu, trong việc làm trọn trách nhiệm hôn nhân và gia đình của mình, “càng tiến hơn đến chỗ trọn lành của bản thân cũng như đến chỗ thánh hóa lẫn nhau” (Gaudium et Spes, 48).

Anh chị em hãy chấp nhận một cách trọn vẹn tình yêu Thiên Chúa đã ban cho anh chị em trước nơi Bí Tích Hôn Phối, để làm cho anh chị em có thể yêu thương những người khác (x 1Jn 4:19). Anh chị em hãy đứng vững với niềm xác tín duy nhất mang lại ý nghĩa, sức mạnh và niềm vui cho cuộc sống của anh chị em, đó là tình yêu của Chúa Kitô sẽ không bao giờ bỏ rơi anh chị em, giao ước bình an của Người ký kết với anh chị em sẽ không bao giờ cùng (x Is 54:10). Tặng ân và ơn gọi của Thiên Chúa bất khả vãn hồi (x Rm 11:29). Ngài đã ghi tên tuổi của anh chị em trong lòng bàn tay của Ngài rồi (x Is 49:16).

4. Ân sủng anh chị em đã nhận được nơi đời sống hôn nhân sẽ ở với anh chị em qua năm tháng. Ân sủng này được phát xuất từ trái tim bị đâm thâu qua của Đấng Cứu Chuộc, Vị đã tự hy hiến mình trên bàn thờ Thập Giá vì Giáo Hội, Hôn Thê của Người, khi chấp nhận chết đi cho phần rỗi của thế giới.

Ân sủng này bao giờ cũng gắn liền với nguồn mạch ấy, tức là ân sủng của một tình yêu tự hy hiến, một tình yêu vừa cho đi vừa ban phát vừa thứ tha. Đó là ân sủng của một tình yêu vô vị kỷ biết quên đi nỗi đớn đau phải chịu, một tình yêu trung thành cho đến chết, một tình yêu bừng lên sự sống mới. Đó là ân sủng của một tình yêu bao dung quảng đại, tin tưởng mọi sự, chấp nhận mọi sự, hy vọng mọi sự, chịu đựng mọi sự, một tình yêu không cùng, một tình yêu cao cả hơn tất cả mọi sự khác (x 1Cor 13:7-8).

Một tình yêu như thế không phải bao giờ cũng dễ dàng. Cuộc sống hằng ngày đầy những cạm bẫy, căng thẳng, khổ đau, thậm chí mệt mỏi. Thế nhưng, trong cuộc hành trình này, anh chị em không lẻ loi cô độc một mình đâu. Chúa Giêsu bao giờ cũng hiện diện bên cạnh anh chị em, như Người đã đến với đôi tân hôn ở tiệc cưới Cana xứ Galilêa trong lúc khó khăn của họ. Công Đồng Chung Vaticanô II đã nhắc nhở chúng ta rằng Chúa Cứu Thế ở gần với các đôi phối ngẫu và ban ơn trợ giúp họ, để như Người đã yêu thương và hiến mình cho Giáo Hội thế nào, họ cũng có thể mãi mãi yêu thương nhau một cách trung thành và luôn chăm lo cho nhau (x Gaudium et Spes, 48).

5. Hỡi các đôi phối ngẫu Kitô hữu, anh chị em hãy là “tin mừng cho ngàn năm thứ ba” bằng việc minh chứng một cách sống động và kiên trì cho chân lý về gia đình.

Gia đình được thiết lập trên nền tảng hôn nhân là một gia sản của nhân loại, một sản vật cao cả vô giá, cần cho sự sống, cho việc phát triển và tương lai của các dân tộc. Theo ý định tạo dựng được thiết định ngay từ ban đầu (x Mt 19:4,8) thì gia đình là một môi trường nhờ đó con người được dựng nên theo hình ảnh và tương tự như Thiên Chúa (x Gen 1:26) được hoài thai và sinh hạ, lớn lên và trưởng thành. Gia đình, với vai trò như một học đường nồng cốt nhờ đó con người được hình thành (x Familiaris Consortio, 19-27), là những gì bất khả thiếu đối với một “môi sinh nhân bản” đích thực (Centesimus Annus, 39).

Tôi cám ơn những chứng từ anh chị em đã nói lên tối hôm nay, những gì Tôi đã chú ý theo dõi. Chúng làm cho Tôi nhớ lại cảm nghiệm của mình khi còn là một vị linh mục, là Tổng Giám Mục Krakow, cũng như trong gần 25 năm làm giáo hoàng. Như Tôi thường hay nói, tương lai của nhân loại đi qua con đường gia đình (x Familiaris Consortio, 86).

Tôi thiết tha xin anh chị em, hỡi các gia đình Kitô hữu thân mến, hãy chứng tỏ qua cuộc sống hằng ngày của anh chị em là, bất chấp bao khó khăn và trở ngại, anh chị em vẫn có thể sống đời hôn nhân một cách trọn vẹn như một cảm nghiệm ý vị và như “một tin mừng” cho con người nam nữ ngày nay. Anh chị em hãy là những người lãnh đạo trong Giáo Hội cũng như trên thế giới: đó là một trách nhiệm phát xuất từ việc anh chị em cử hành Bí Tích Hôn Phối, từ việc anh chị em là giáo hội tại gia, cũng như từ sứ vụ hôn nhân của anh chị em như là những tế bào căn bản của xã hội (x Apostolicam Actuasitatem, 11).

6. Sau hết, hỡi các gia đình Kitô hữu, nếu anh chị em muốn là “tin mừng cho ngàn năm thứ ba”, anh chị em đừng quên rằng, gia đình cầu nguyện là đường lối vững chắc để tiếp tục liên kết với nhau theo đường lối đúng như ý muốn của Thiên Chúa.

Khi Tôi công bố Năm Mân Côi mấy tháng trước đây, Tôi đã khuyên thực hiện việc tôn sùng Thánh Mẫu này như là một kinh nguyện của gia đình và cho gia đình. Bằng việc đọc kinh Mân Côi, các gia đình “lấy Chúa Giêsu làm tâm điểm, họ chia vui sẻ buồn với Người, họ đặt các nhu cầu và dự tính của họ trong tay của Người, họ tìm thấy nơi Người niềm hy vọng và sức mạnh để tiến lên” (Rosarium Virginis Mariae, 42).

Tôi ký thác tất cả mọi anh chị em cho Mẹ Maria, Nữ Vương Gia Đình; chớ gì Mẹ đồng hành và nâng đỡ đời sống gia đình của anh chị em. Tôi cũng hân hoan loan báo là “Cuộc Họp Thế Giới Các Gia Đình Lần Thứ Năm sẽ được tổ chức tại Valencia, Tây Ban Nha vào năm 2006.

Vậy giờ đây khi ban cho tất cả mọi anh chị em Phép Lành Tòa Thánh của Tôi, Tôi muốn lưu lại cho anh chị em một trách nhiệm cuối cùng, đó là, với ơn Chúa giúp, xin anh chị em hãy làm cho Phúc Âm trở thành nguyên tắc hướng dẫn gia đình của anh chị em, và làm cho gia đình của anh chị em trở thành một trang Phúc Âm viết gửi cho thời đại của chúng ta!

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo tài liệu của Tòa Thánh bằng Anh ngữ do Màn Điện Toán phổ biến ngày Chúa Nhật 26/1/2003, ngày bế mạc Đại Hội Thế Giới Các Gia Đình tại Manilla Phi Luật Tân, với Thánh Lễ có 1 triệu người tham dự, 6 hồng y, 245 giám mục, 360 linh mục tại Quirino Grand Stand, địa điểm Ngày Giới Trẻ Thế Giới năm 1995. Buổi trực tiếp truyền hình của ĐTC để nghe huấn từ trên đây của Ngài có 350 ngàn người tham dự, đến từ 75 quốc gia. Nếu cần, xin đọc thêm bài Hai Cuộc Họp Quốc Tế Về Gia Ðình trước đây.

Thống Kê về Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ

Nhân dịp một năm sau biến cố linh mục lạm dụng tình dục trẻ em bùng lên tại TGP Boston vào tháng 1/2002, chúng ta hãy nhìn lại xem con số thống kê chung của Giáo Hội Hoa Kỳ, cách riêng của hàng linh mục và phó tế. Theo cuốn Source Book 2003 do Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ phổ biến, sau đây là con số thống kê cần biết về nhân số:

65.270.444 người Công Giáo (23% dân số Hoa Kỳ); 45.713 linh mục; 4.719 chủng sinh; 13.764 phó tế vĩnh viễn; 75.500 nữ tu; 5.690 nam tu; năm 2002 có 1.007.716 trẻ em được rửa tội; 79.892 người lớn được rửa tội; 81.240 người trở lại Công Giáo từ các giáo phái Tin lành; 3.391.581 học sinh ở các học đường Công Giáo, kể cả đại học; 7.017.845 người được giúp đỡ bởi các cơ quan bác ái Công Giáo.

Huấn Từ của ĐTC với tham dự viên ngày học hỏi kỷ niệm 20 năm ban hành bộ Giáo Luật

Ngày học hỏi này được Hội Đồng Tòa Thánh Về Các Bản Luật Pháp tổ chức vào ngày Thứ Sáu 24/1/2003. ĐTC đã ban huấn từ cho các vị vào buổi sáng hôm nay như sau:

“Hai mươi năm qua đã đánh dấu việc Giáo Hội cần đến Bộ Tân Giáo Luật này. May mắn thay, cuộc tranh luận về luật lệ giờ đây đã được vượt qua. Tuy nhiên, cũng không nên ngây thơ bỏ qua những gì còn lại cần phải được thực hiện để củng cố một nền văn hóa giáo luật tài phán trong những hoàn cảnh hiện nay của lịch sử, cũng như củng cố phương thức giáo hội chú trọng đến khía cạnh mục vụ nội tại nơi các khoản luật của Giáo Hội”.

Ý định viết lên một Bộ Giáo Luật mới là để cho các vị mục tử cũng như tín hữu có được “một phương tiện chuẩn mực rõ ràng liên quan đến những khía cạnh chính yếu của lãnh vực tài phán. Tuy nhiên, thật là đơn sơ và lầm lẫn khi nhìn luật lệ của Giáo Hội chỉ như là một thứ tổng hợp những bản văn về pháp luật liên quan đến cái nhìn có tính tích cực về luật pháp. Các qui tắc giáo luật được chi phối bởi một thực tại còn trổi vượt hơn chính những qui tắc ấy nữa. Bộ mới của Giáo Luật – và tiêu chuẩn mới này cũng có giá trị cho cả Bộ Giáo Luật của Các Giáo Hội Đông Phương – phải được giải thích và áp dụng theo cái nhìn thần học ấy. Có thế mới tránh được một số những suy diễn lệch lạc làm yếu kém đi khoa giáo luật và phương thức giáo luật, làm chúng xa lìa khỏi chân trời giáo hội chân thực của chúng. Điều này hiển nhiên có thể xẩy ra đặc biệt là lúc qui tắc giáo luật được đem ra phục vụ cho những xu lợi xa lạ với đức tin và nền luân lý Công Giáo”.

ĐTC cảnh giác về một thứ “khuynh hướng suy diễn nguy hiểm trong việc cố gắng giải thích và áp dụng các khoản luật của Giáo Hội tách lìa khỏi tín lý của Huấn Quyền. Nếu điều này xẩy ra thì những tuyên bố về tín lý sẽ không còn giá trị buộc phải tuân giữ nữa mà chỉ cần phải nhìn nhận duy có những tác động pháp luật chính thức mà thôi”. Tuy nhiên, Ngài tiếp tục nói: “Khía cạnh tài phán, vì gắn liền sâu xa về thần học với các thực tại của Giáo Hội, vẫn có thể trở thành đối tượng thuộc các giáo huấn của huấn quyền, kể cả những giáo huấn tối hậu nữa”.

ĐTC vạch ra “những khía cạnh mới quan trọng nhất” của cả hai bộ Giáo Luật đó “là qui tắc hai bản văn này ghi nhận về các nhiệm vụ và quyền lợi của người tín hữu”. Theo ĐTC khía cạnh cá nhân ấy giúp cho người ta “hiểu hơn nữa về việc phục vụ riêng biệt và bất khả thay thế mà hàng giáo phẩm của Giáo Hội cần phải tỏ ra nhận biết và bảo vệ các quyền lợi của cá nhân cũng như cộng đồng trong Giáo Hội”. ĐTC nhắc nhở tham dự viên đang nghe Ngài là các khoản luật lệ, các phương thức và các việc trừng phạt theo giáo luật “như thế mới có một ý nghĩa thực sự, một ý nghĩa mục vụ chuyên chính về mục vụ”, một việc phục vụ, như Ngài kết luận, “đôi khi có thể bị hiểu lầm và gặp khó khăn, ở chỗ, chính lúc ấy nó lại càng cần phải làm sao để đề phòng những quyết định có thể gây ra, và thậm chí có thể vô tình thiên về những gì thực sự bất công”.

26/1 Chúa Nhật

Tình hình trước ngày tường trình của thanh tra viên vũ khí với Hội Ðồng Bảo An Liên Hiệp Quốc về vấn đề kiểm soát vũ khí Iraq

Chúa Nhật 26/1/2003, Tổng Trưởng Nội Vụ Colin Powell tuyên bố với thành phần Âu Châu chất vấn ông trong bài diễn đàn 30 phút của ông tại Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới tại Davos Thụy Sĩ nhiều điều về vấn đề Hoa Kỳ trước phản ứng nghịch đảo của Âu Châu như sau. Thứ nhất, về vấn đề Hoa Kỳ không đủ chứng cớ cho thấy Iraq đang nắm trong tay những thứ khí giới đại công phá, ông đã trích lại lịch sử của Hoa Kỳ trong việc bảo vệ A Phú Hãn, Bosnia, Kosovo và Kuwait và nói thế giới nên biết rằng Hoa Kỳ không phải chỉ đáng tin tưởng ở trong việc làm tham vấn cho các nước liên minh của mình mà còn đáng “tin tưởng trong việc sử dụng khả năng to tát về chính trị, kinh tế, nhất là quân sự một cách khôn ngoan và công bằng”. Thứ hai, về vấn đề tại sao Hoa Kỳ chỉ đặt nặng chuyện sử dụng “khả năng năng ký” quân sự hơn là “khả năng nhẹ tay” là khả năng hợp với chính sách dân chủ, tự do kinh tế và nhân quyền hơn, ông nói Hoa Kỳ “mạnh mẽ tin tưởng” vào điều sau nhưng thêm là “có lúc khả năng nhẹ tay hay nói chuyện với sự dữ không thành công”. Ông đã nhắc lại biến cố 911 mà nói: “Chúng ta càng chờ đợi thì càng tạo cơ hội cho nhà độc tài này có những liên hệ rõ ràng với những nhóm khủng bố, kể cả nhóm al Qaeda, trong việc chuyển vũ khí, chia kỹ thuật hay sử dụng các thứ vũ khí này một lần nữa”. Thế nhưng Hoa Kỳ đã không có một chứng cớ nào cho thấy Iraq đã dan díu với al Qaeda cả. Ông bộ trưởng này nhận định là “không có một dấu hiệu nào cho thấy Iraq… tuân hợp với việc giải giới theo như quốc tế đòi buộc cả… Chuyện đa quốc tham phần làm việc không thể trở thành một thứ khiếu nại cho việc bất động không ra tay hành động”. Thứ ba, về vấn đề cho rằng Hoa Kỳ muốn tấn công Iraq chỉ vì muốn chiếm những mỏ dầu hỏa phong phú của Iraq, ông nói Hoa Kỳ không hề nhắm đến “bất cứ lợi lộc đặc biệt nào” nếu cần phải sử dụng võ lực: “Chúng tôi chẳng tìm gì khác ngoài việc mang lại an ninh cho vùng này”.

Trong khi đó, cũng ngày hôm nay, sau cuộc trao đổi này của vị tổng trưởng trên, Thủ Tướng Tony Blair đã nói với đài truyền hình BBC Hiệp Vương Quốc là những thanh tra viên cần phải có thêm thời gian để làm việc của họ, trừ khi họ không thể thực hiện được việc làm của họ thì Saddam Hussein mới bị giải giới bằng võ lực mà thôi: “Tôi luôn luôn nói là các thanh tra viên cần phải có thời gian để làm việc của họ. Thời gian họ cần là để chứng tỏ cho thấy Saddam Hussein có hoàn toàn hợp tác hay chăng. Tôi không nghĩ là họ cần phải có nhiều tháng để thấy được ông ta có hợp tác hay chăng, song họ phải có bất cứ thời gian nào họ cần”. Để trả lời vấn đề nhiều nước liên minh Âu Châu không đồng ý với việc Hoa Kỳ muốn tấn công Iraq hiện nay, vị thủ tướng này nói Hiệp Vương Quốc sẽ tấn công Iraq không cần có Liên Hiệp Quốc nếu các thanh tra viên tuyên bố là Saddam Hussein không chịu cộng tác và một trong các quốc gia phần tử của Hội Đồng này veto bản quyết định thứ hai. Cũng ngày Chúa Nhật hôm nay, một ngày trước khi thanh tra viên tường trình cho Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quấn theo hạn định, cơ quan nguyên tử lực quốc tế IAEA cho biết họ chưa tìm thấy một chứng cớ nào về việc Iraq bị tố cáo có chương trình chế tạo các thứ vũ khí cấm. Sau ngày Thứ Hai 27/1, ngày tường trình của thanh tra viên với Hội Đồng Bảo An, Tổng Thống Bush sẽ đọc một bài diễn văn hằng năm. Thủ tướng Blair sẽ gặp Tổng Thống Bush tại Trại David vào Thứ Sáu tới để bàn chuyện Iraq sau cuộc tường trình của thanh tra viên ở Hội Đồng Bảo An.

(xin xem thêm những chi tiết liên quan đến Một Tây Phương Xung Khắc Về Vấn Ðề Iraq dưới đây)

Đức Giám Mục Sacramento nói vị thống đốc California phò phá thai không được rước lễ nữa

Trong Thánh Lễ ngày Thứ Tư 22/1/2003, Đức Giám Mục William Weigand đã nói với cộng đoàn tham dự bấy giờ tại Vương Cung Thánh Đường Bí Tích Thánh là thống đốc Davis phải thôi rước lễ vì ông này tiếp tục ủng hộ phá thai. Vị phát ngôn viên của thống đốc này đã nói: “Thống đốc Davis đã lập đi lập lại là ông hãnh diện về khoản luật ông đã ký cho phép phụ nữ được quyền tự do chọn lựa”. Đức Giám Mục Weigand nói với một tờ nhật báo sau đó rằng ngài chưa liên lạc với Tòa Thánh trước khi quyết định trừng phạt vị thống đốc này. Mới tuần trước đây, Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin đã ban hành một Bản Ghi Nhận Về Tín Lý nhấn mạnh là các chính trị gia Công Giáo phải giữ vững đức tin của mình trong khi hoạt động chính trị.

Trong khi đó, Tòa Thánh vừa bổ nhiệm một vị giám mục phó cho giáo phận Oakland, để từ từ thay thế vị giám mục John Cummins sẽ về hưu vào Tháng Ba tới đây khi đủ 75 tuổi. Vị giám mục phó này là Đức Giám Mục Allen Vigneron, giám mục phụ tá giáo phận Detroit, một vị giám mục mà, theo một số linh mục nói với tờ San Francisco Chronicle rằng, theo các vị, Tòa Thánh bổ nhiệm vị giám mục phó này là để áp dụng chặt chẽ tính cách chính thống của Giáo Hội Công Giáo. Trả lời cho cuộc phỏng vấn của tờ báo trên, vị giám mục phó này thẳng thắn trả lời là: “Sứ vụ của tôi là làm một vị giám mục và làm chứng cho đức tin Công Giáo. Giáo Hội nói lên cái nhìn của Chúa Kitô về con người cũng như về cuộc sống chúng ta phải sống. Đó là những gì tôi sẽ đứng lên bảo vệ. Những gì không đúng như vậy tôi sẽ đương đầu”.

Diễn Từ của Đức Thánh Cha với Các Vị Giám Mục Ba Tây thuộc Miền Nam Vùng 1

Sáng ngày Thứ Năm 23/1/2003, ĐTC đã gặp các vị giám mục này dịp Viếng Thăm Ngũ Niên của các vị. Ngài đã bố cục bài nói của Ngài vào ít là bốn vấn đề thực tế hiện tại cần Giáo Hội Ba Tây phải để ý, như vấn đề giáo phái, vấn đề truyền bá phúc âm hóa, vấn đề hội nhập văn hóa và vấn đề phụng vụ.

Trước hết, ĐTC nhận định là dân chúng Ba tây “theo truyền thống đã gắn liền với những nguyên tắc chính yếu của Kitô giáo nhưng đã đầu hàng trước những ảnh hưởng tiêu cực dưới những hình thức khác nhau”, kể cả nạn giáo phái đang lan tràn khắp xứ sở và đang hoành hành mạnh mẽ ở một số vùng. Ngài đã đặt vấn đề như sau: “Đây chẳng lẽ không phải là một dấu hiệu cụ thể cho thấy lòng khát vọng khôn thỏa hướng về chiều kích siêu nhiên hay sao?”. Nhưng dầu sao, theo ĐTC, đó là “một thách đố thực sự” đối với các vị mục tử, những vị cần phải “canh tân cung cách tiếp nhận trong những cộng đồng giáo hội và cũng như làm tái sinh động lòng phấn khởi thực hiện việc hăng say tươi trẻ truyền bá phúc âm hóa”. ĐTC thêm: “Việc huấn luyện về đạo giáo nhiều lần đã rất thiếu gây ra hậu quả hờ hững với nhu cầu đức tin vào Chúa Kitô và gắn bó với Giáo Hội Người đã thiết lập. Có khuynh hướng chủ trương các tôn giáo cũng như các cảm nghiệm thiêng liêng khác nhau đều bình đẳng với nhau theo một mẫu số chung, nên chúng hầu như tương đương nhau, khiến mọi người cảm thấy mình thoải mái một cách bất phân biệt trong việc theo đuổi một trong những đường lối cứu độ được đề ra”.

ĐTC nhắc đến Đại Hội Thánh Thể Toàn Quốc lần thứ 14 được tổ chức ở Ba Tây và nhấn mạnh đến tầm vóc quan trọng của Thánh Thể trong đời sống Kitô hữu: “Thánh thể là sự thiện thiêng liêng thượng hạng của Giáo Hội, và phải là tâm điểm của việc mục vụ để truyền đạt sức mạnh siêu nhiên cho tất cả mọi lãnh vực Kitô giáo, như lãnh vực truyền bá phúc âm hóa, lãnh vực dạy giáo lý, và lãnh vực của muôn vàn sinh hoạt bác ái, dấn thân cho việc canh tân xã hội và cho việc tranh đấu công lý cho mọi người, bắt đầu bằngỉ việc tôn trọng sự sống cùng các quyền lợi của mỗi người và bằng việc dấn thân phục vụ các gia đình”. Tuy nhiên, Ngài nhấn mạnh thêm là “để hy tế Thánh Thể sinh trọn vẹn hiệu quả của mình, bao giờ cũng phải cử hành mầu nhiệm này một cách xứng đáng và chân chính, theo đúng tín lý và chỉ dẫn của Giáo Hội, như Tôi đã nhắc nhở ở những dịp khác nhau… Bất cứ sự lạm dụng nào trong những yếu tố ấy (việc công bố Lời Chúa, các kinh nguyện, lễ nghi và tất cả mọi biểu hiệu của Giáo Hội) đều có một tác hiệu tiêu cực đối với việc giáo dục đức tin”, trái lại, nếu cử hành phụng vụ một cách đúng dắn và chân chính sẽ “xây dựng đức tin và đời sống của người tín hữu”. ĐTC còn nêu lên vấn đề “phụng vụ chỉ được qui định bởi những thẩm quyền xứng hợp mà thôi, những gì đòi mọi người phải hết sức kính cẩn trung thành giữ những lễ nghi và bản văn nguyên chính. Việc áp dụng sai lạc về giá trị do óc sáng tạo và bột phát tự nhiên trong các việc cử hành mà ra, cho dù việc áp dụng này có thông dụng với nhiều việc bộc lộ nơi đời sống dân chúng của quí huynh, cũng không bao giờ được làm thay đổi các lễ nghi và bản văn, nhất là, thay đổi cái cảm nghiệm về mầu nhiệm được cử hành trong phụng vụ”.

Đức Thánh Cha công nhận là Ba Tây là một xã hội đa chủng tộc, đa văn hóa và mỗi một sắc dân có một thứ văn hóa riêng, chính vì thế mới liên quan “đến vấn đề tế nhị của việc hội nhập văn hóa, nhất là vào các lễ nghi phụng vụ, ngôn từ, ca nhạc và những bộc lộ bề ngoài phù hợp với văn hóa afro-Brazilian”. Tuy nhiên, cần phải “áp dụng nghiêm khắc cái ý thức nghiêm chỉnh và sâu xa liên quan đến tính cách thích hợp của nó với Sự Thật được Chúa Giêsu Kitô mạc khải”. Phụng vụ Công Giáo chân chính không được thay hình đổi dạng hay không được lẫn lộn với “đền miếu thần linh và những thần linh của các thứ cúng tế Phi Châu… Giáo Hội để ý đến những thứ cúng tế này nhưng cho là có hại ở cái tính cách tương đối hóa thực sự của việc thi hành chung cả hai lễ nghi hay của một thứ lễ nghi hỗn hợp, như thể hai thứ lễ nghi ấy có cùng một giá trị, và Giáo Hội cũng coi nó nguy hiểm cho cả căn tính của đức tin Công Giáo”.

Vấn Đề Đại Kết với một vị Giám Đốc Anh Giáo

Nhân dịp Tuần Lễ Cầu Nguyện Hiệp Nhất Kitô Giáo, Ngày 23/1/2003, Màn Điện Toán Zenit phổ biến một cuộc phỏng vấn về vấn đề đại kết với vị Giám Đốc Trung Tâm Anh Giáo là Richard Garrard như sau:

Vấn     Việc đối thoại giữa Anh Giáo và Công Giáo có còn tồn tại hay chăng?

Đáp     Tôi nghĩ rằng cuộc đối thoại giữa những người Anh Giáo và Công Giáo vẫn còn tồn tại, tốt đẹp và đang chầm chậm tiến theo đúng hướng của nó. Nếu người ta để ý đến sự kiện là qua nhiều thế kỷ, tình trạng phân ly này đã kéo dài cùng với những đắng cay xẩy ra thì việc tiến bộ trong 30 năm vừa rồi thật là phấn khởi. Hiện nay chúng ta đang ở giai đoạn của một thời điểm dường như hiếm thấy có gì xẩy ra, nhưng thực sự đang có nhiều điều đang diễn tiến. Đáng phấn khở nhất là việc hiện hữu của đệ nhị ủy ban quốc tế về Hiệp Nhất và Sứ Vụ, mặc dù quá sớm để thấy được kết quả của nó. Nó mới được có hơn 1 năm thôi.

Vấn     Những người Anh Giáo có cởi mở với vấn đề đại kết hay chăng?

Đáp     Giáo Hội Hiệp Thông Anh Giáo hết sức dấn thân tìm kiếm sự hiệp nhất. Chúng tôi đang bàn luận và ở vào những giai đoạn hiệp thông khác nhau toàn phần hay bán phần với rất nhiều cộng đồng Kitô hữu đủ loại. Việc tìm kiếm hiệp nhất là một điều mà những người giáo dân thuộc Giáo Hội Hiệp Thông Anh Giáo rất lứu ý và thường thôi thúc việc đẩy mạnh vấn đề này đối với những ai phụ trách việc liên lạc và bàn luận.

Vấn     Rôma có phải là một thành phố cởi mở theo nghĩa đại kết hay chăng?

Đáp     Có: thế nhưng mức độ cởi mở khác nhau rất nhiều.

Vấn     Các mục đích chung để cùng nhau làm việc ở Rôma với các Kitô hữu khác niềm tin đây là gì?

Đáp     Tôi đã đề cập đến Ủy Ban Quốc Tế về Hiệp Nhất và Sứ Vụ… Cơ cấu này đã được dịp rất tốt để tìm hiểu những gì chúng tôi có thể làm chung để nhờ đó giúp cho con người ta tìm thấy cách thức cứ theo đó mà làm. Điều này đạt tới một mức độ liên hiệp với nhau nhất mà chúng tôi thấy được. Những người Anh Giáo và Công Giáo có thể và thực sự hợp tác với nhau trong những vấn đề quan tâm xã hội, cho dù có nhiều lúc họ khác nhau về những điều luân lý thần học. Tôi tin rằng hòa bình và công lý là lãnh vực quan trọng nhất, vì nó đánh động lòng thương cảm của tất cả mọi người Kitô hữu, thành phần chẳng những cùng nhau hành thiện mà còn thấy mình nhờ đó liên kết sâu xa hơn. Tôi không thể nào đi vào tất cả mọi dự án chung chung này, chỉ vì có quá nhiều dự án khắp thế giới cần phải liệt kê.

Vấn     Từ khi có vị tân Tổng Giám Mục Canterbury là Đức Rowan Williams thì có gì thay đổi xẩy ra liêan quan tới những người không thuộc Anh Giáo chăng?

Đáp     Chúng ta phải chờ xem. Đức Tổng Giám Mục Rowan chắc chắn sẽ đánh dấu quan điểm của ngài trên toàn thể giáo hội. Ngài đã chiếm được lòng trọng kính và quí mến của nhiều người, nhờ công việc ngài làm và tính nết của ngài qua nhiều năm trước khi làm tổng giám mục Canterbury. Ngài đã hứa ngài có thể thực hiện những liên hệ tốt đẹp với những Kitô hữu thuộc các truyền thống khác cũng như với thành phần thuộc các tôn giáo khác. Ngài sẽ có thể tiếp tục và phát triển công việc đã được vị tiền nhiệm của ngài là Đức Carey thực hiện hết sức tốt đẹp.

Vấn     Trung Tâm Anh Giáo là gì?

Đáp     Trung tâm này được thành lập do sự khích lệ của cả Đức Tổng Giám Mục Michael Ramsey và Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, theo đà nhiệt tình về vấn đề đại kết được Công Đồng Chung Vaticanô II phát động. Đức tổng giám mục và Đức Giáo Hoàng nhận thấy rằng những lời phát biểu chính thức chưa đủ và “mối liên hệ đặc biệt” giữa những người Anh Giáo và Công Giáo Rôma không thể nào triển nở nếu người ta không thực sự biết nhau và có thể thẳng mặt nói chuyện với nhau về những gì họ cùng nhau có và những gì phân rẽ họ. Không có trung tâm này, việc hiểu biệt nhau thực sự sẽ không sâu xa, và sẽ không tạo được sự tiến bộ.

Một Tây Phương xung khắc về vấn đề Iraq

Thứ Hai 20/1/2003, Tướng Amer al-Saadi, một cố vấn tối cao của Tổng Thống Saddam Hussein, đã đọc một bản văn 10 điểm ở một cuộc họp báo có sự hiện diện của hai ông lãnh đạo hai phái đoàn thanh tra vũ khí Iraq là ông Hans Blix và Mohamed AlBaradei, trong đó, vị tướng này đã hứa tiếp tục và tăng thêm sự cộng tác trong việc thanh tra vũ khí. Cũng qua các cuộc họp với hai ông này, vị tướng trên cho biết ông đã làm sáng tỏ một số vấn đề liên quan đến văn bản và những khám phá mới được thanh tra viên tìm thấy, và ông cho là kết quả “rất xây dựng và tích cực”. Cũng hôm nay, tổng số quân của Hiệp Vương Quốc được gửi đến Vùng Vịnh đã lên đến 32.500 người (ít hơn con số 35 ngàn hồi Bão Chiến Sa Mạc 12 năm trước, cuộc chiến Hoa Kỳ phải dùng đến 360 ngàn người).

Thứ Ba 21/3/2003, Tổng Thống Bush nói rằng: “Hắn (Saddam Hussein) đang trì hoãn. Hắn đang lừa đảo. Hắn đang cần thời gian. Hắn đang chơi trò ú tim với các thanh tra viên. Một điều rõ ràng đó là hắn không giải giới. Bởi thế, Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, nhân danh hòa bình, sẽ tiếp tục đẩy mạnh việc hắn phải giải giới, và chúng ta sẽ làm áp lực SDaddam Hussein. Phó Tổng Thống Iraq Taha Yassin Ramadan hôm nay cũng nói Hiệp Chủng Quốc đang coi thường tiến trình thanh tra vũ khí và “việc tấn công sẽ xẩy ra bất cứ lúc nào. Tùy cộng đồng quốc tế có muốn hỏi Liên Hiệp Quốc xem tại sao lại xẩy ra một thứ trống trận vang lên dồn dập như vậy”. Cho đến hôm nay, nhân viên Hoa Kỳ có mặt tại Vùng Vịnh để sửa soạn cho cuộc tấn công Iraq được ước lượng lên tới 125 ngàn.

Thứ Tư 22/1/2003, Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ, nguyên lãnh sự Hoa Kỳ ở Liên Hiệp Quốc, là ông Donald Rumsfeld hôm nay đã nhận định về tình hình Âu Châu đối với chiều hướng Hoa Kỳ muốn tấn công Iraq như sau: “Đức Quốc vốn là một cái nạn và Pháp Quốc vẫn là một cái nạn. Thế nhưng quí vị hãy nhìn vào số đông các quốc gia khác ở Âu Châu. Họ không ngả theo Đức và Pháp về vấn đề này, họ theo Hiệp Chủng Quốc”. Theo vị bộ trưởng này thì Đức và Pháp thuộc về “Quí vị nghĩ về Âu Châu như Đức với Pháp. Tôi không nghĩ như vậy. Tôi nghĩ rằng đó là một thứ Âu Châu cổ thời”, và “nếu quí vị nhìn vào toàn Khối NATO ngày nay sẽ thấy trọng lực đang hướng về phía đông. Có rất nhiều phần tử mới”. Trong khi đó, cũng hôm nay, Tổng Thống Pháp Jacques Chirac và Thủ Tướng Đức Gerhard Schoroeder đã lên tiếng ở Paris là họ không thấy chiến tranh đánh Iraq là cần trong khi các thanh tra viên vẫn còn đang tìm kiếm các thứ vũ khí đại công phá của Iraq. Tổng Thống Pháp nói: “Bất cứ quyết định nào cũng đều phải do Hội Đồng Bảo An và chỉ có Hội Đồng Bảo An mà thôi, một hội đồng sẽ cho biết vấn đề sau khi đã xem xét bản tường trình cuối cùng của các thanh tra viên. Thứ đến, theo quan tâm của chúng tôi thì chiến tranh bao giờ cũng mang một ý nghĩa thua bại”. Còn Thủ Tướng Đức thì nói: “Nếu các thanh tra viên cần thêm thời gian chúng ta cần cho họ thêm thời gian”.

Thứ Năm 23/1/2003, nói với một nhóm sinh viên Đức và Pháp ở Bá Linh hôm nay, Thủ Tướng Đức cho biết là ông và tổng thống Pháp bất đồng với ý nghĩ cho rằng chiến tranh không thể nào tránh được. Ngồi cạnh tổng thống Pháp khi cử hành lễ nghi đánh dấu 40 năm hòa ước thân hữu Pháp Đức hậu chiến, thủ tướng Đức nói: “Chiến tranh không bao giờ được cho rằng không thể nào tránh được… Cần phải thực hiện mọi sự để đạt được việc áp dụng quyết định của Liên Hiệp Quốc bằng phương tiện ôn hòa. Đó là chủ trương chung của Pháp và Đức và chúng tôi sẽ không đi lạc hướng chiều này”. Được hỏi về lời phê bình của bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ, Bộ Trưởng Ngoại Giao Pháp là ông Dominique de Villepin nói ở Bá Linh rằng: “Mọi người bộc lộ quan điểm của mình. Điều này phải dược thực hiện một cách thành thực và kính trọng”. Ông Volker Ruehe, nguyên bộ trưởng quốc phòng Đức và thường ủng hộ chính sách tự vệ của Hoa Kỳ, hiện là chủ tịch của ủy ban phụ trách về chính sách ngoại giao của quốc hội Đức cho biết: “Không nên chơi trò cho Đông Âu phản lại với Tây Âu. Rumsfeld không biết ngoại giao tí nào và không khôn ngoan lắm khi nói những điều như vậy”. Ông Hans-Ulrich Klose, thuộc Đảng Dân Chủ Xã Hội trong quốc hội Đức, cho biết: Chưa từng nghe thế bao giờ. Những người Hoa Kỳ không thể gọi các quốc gia chỉ vì không đồng quan điểm với mình là một cái nạn. Những người Hoa Kỳ không được cố gắng chia Âu Châu thành những người Âu Châu ‘tốt’ và ‘không tốt lắm’”. Cũng hôm nay, Bộ Trưởng Ngoại Giao Nga là Igor Ivanov đã phát biểu ở Nhã Điển Hy Lạp khi nói với các phóng viên là: “Vẫn còn một con đường trôi dạt về chính trị và ngoại giao để giải quyết vấn đề Iraq. Những nỗ lực của cộng đồng quốc tế giờ đây phải hướng tới việc giúp cho các thanh tra viên quốc tế thi hành sứ vụ của họ. Đó là chiều hướng chúng tôi có ý theo đuổi, trong số những nỗ lực khác, với Khối Hiệp Nhất Âu Châu”.

Thứ Sáu 24/1/2003, các chính trị gia và giới truyền thông Đức và Pháp đã nổi sùng lên tiếng phê bình lời bình phẩm của Hoa Kỳ cho rằng hai nước này thuộc về một thứ “Âu Châu cổ thời” và cô lập mình trong việc chống chiến tranh đánh Iraq. Trong khí đó, ở Hoa Kỳ, Tòa Bạch Ốc, qua những viên chức cao cấp, không đặt ra dứt khoát ngày chấm dứt việc thanh tra vũ khí Iraq, nhưng cho biết Hoa Kỳ sẽ không chấp nhận việc thanh tra tiếp tục kéo dài nhiều tháng.

Thứ Bảy 25/1/2003, Bộ Trưởng Nội Vụ Hoa Kỳ Powell đã đến Davos, Thụy Sĩ để tham dự Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới. Đối với việc chống đối của các nước Âu Châu mới đây, vị bộ trưởng này cho biết Hoa Kỳ được ít là 12 quốc gia dấu tên ủng hộ việc đánh Iraq dù có hay không có quyết định của Liên Hiệp Quốc. Ông nói 12 nước này muốn có quyết định thứ hai của Liên Hiệp Quốc, nhưng nếu “không có quyết định khác ấy thì họ cũng sẽ về phe Hoa Kỳ”. Ông cũng cho biết Hoa Kỳ sẽ chờ đợi các vị thanh tra tường trình cho Hội Đồng Bảo An trước khi quyết định những bước kế tiếp, tuy nhiên, việc cho thêm thời gian cũng vẫn chẳng mang lại kết quả nào khả quan hơn.

 

(Giáo Hội Hiện Tế các tuần trước)