GIÁO HỘI HIỆN THẾ

Tháng 4/2004

Ý Chỉ Ðức Thánh Cha

Ý Chung: Xin cho việc sửa soạn đầy đủ để giúp những ứng viên chịu chức thánh cũng như cho việc huấn luyện thường xuyên để giúp các vị thừa tác viên chức thánh được thực hiện một cách cận thận kỹ lưỡng”.

Ý Truyền Giáo: Xin cho tinh thần truyền giáo 'cho muôn dân' trở thành vấn đề ưu tư và là vấn đề liên lỉ dấn thân nơi sinh hoạt mục vụ thường xuyên của cộng đồng Kitô giáo”.  

___________________________________________

 NGÀY 13 THỨ BA

 

Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc về Quyền Tự Do Tôn Giáo


Trong cuộc họp lần thứ 60 của Ủy Ban Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc, cuộc họp sẽ kéo dài cho tới hết ngày 23/4/2004, ĐTGM Silvano Tomasi, Quan Sát Viên Thường Trực của Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc tại Geneva, đã ngỏ lời cùng ủy ban này hôm Thứ Sáu 2/4/2004 như sau:


Thưa Ông Chủ Tọa,


1.     Vị thế của các tôn giáo trong xã hội và niềm mong ước của những tôn giáo này muốn được tham dự vào đời sống công cộng để phục vụ dân chúng đã từng là yếu tố cho những cuộc tranh luận gần đây, những cuộc tranh luận được khơi lên bởi những biến cố chính trị và chủ nghĩa đa số tăng phát ở nhiều xứ sở trên thế giới. Tôn giáo là một chiều kích quan trọng nơi đời sống của cá nhân cũng như của các dân tộc, và do đó nó cần phải đóng một vai trò chủ động nơi cuộc sống chung.


Thật thế, Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền (khoản 18) đã cổ võ quyền tự do tôn giáo như sau: “Hết mọi người có quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo; quyền này bao gồm quyền tự do thay đổi tôn giáo hay niềm tin, cũng như quyền tự do biểu lộ tôn giáo của mình hay niềm tin của mình ra qua việc giảng dạy, thực hành, thờ phượng và luật phép một cách riêng tư một mình hoặc với tính cách chung cộng đồng”.


Tôi cảm thấy đây là cơ hội thuận lợi để nhấn mạnh rằng quyền tự do tôn giáo bao gồm cả khía cạnh cá nhân lẫn đoàn thể. Việc tôn trọng khía cạnh đoàn thể về quyền tự do tôn giáo là vấn đề cần thiết để bảo đảm việc hoàn toàn nhìn nhận và cố võ khía cạnh cá nhân của cùng một thứ quyền lợi này.


2.     Bất cứ tín đồ của đạo giáo nào cũng có quyền, miễn là không phạm gì tới nền an ninh và thẩm quyền hợp pháp của quốc gia, tin tưởng và thực hành tín ngưỡng là những gì cần phải được tôn trọng vì quyền tự do tôn giáo là một trong những khía cạnh chính yếu của quyền tự do lương tâm cũng như của việc đóng góp hữu hiệu vào công ích xã hội. Những phương tiện về pháp luật quốc tế, như các hiệp ước và tuyên ngôn, đã liên lỉ khẳng định giá trị và tầm quan trọng của quyền tự do tôn giáo, đồng thời cũng chống lại sự kỳ thị đối với tất cả mọi tín đồ hầu họ được tự do tuyên xưng niềm tin của họ, theo lương tâm, biểu hiệu và truyền thống của họ.


Tiếc thay, quyền tự do tôn giáo vẫn tiếp tục bị vi phạm ở một số nơi, và ngày nay lại còn có những nhóm phi quốc gia ra mặt thực hiện việc kỳ thị, thậm chí sử dụng võ lực để tấn công những nhóm thiểu số tôn giáo, trong nhiều trường hợp những hành động kỳ thị này không bị chính quyền trừng trị. Những nơi thờ phượng và các nghĩa trang bị hủy hoại hay bị cướp phá và tục hóa; các tín đồ bị đe dọa, tấn công, thậm chí bị sát hại, và các vị lãnh đạo của họ trở thành mục tiêu kỳ thị đặc biệt. Khả năng để chọn lựa tôn giáo, kể cả quyền thay đổi tôn giáo, đều gặp nhiều chướng ngại ở một số môi trường xã hội đã trực tiếp vi phạm đến quyền tự do lương tâm là những gì vốn được tôn trọng.


3.     Vai trò của Ủy Ban Nhân Quyền vẫn hợp thời và cần thiết để bênh vực quyền tự do tôn giáo. Từ năm 1987, Bản Tường Trình Đặc Biệt về tự do tôn giáo hay tự do tin tưởng đã kêu gọi chú trọng tới những khoản chưa được hoàn thành của Bản Tuyên Ngôn Về Việc Loại Trừ Tất Cả Mọi Hình Thức Bất Khả Chấp Và Kỳ Thị Tôn Giáo Hay Niềm Tin. Việc làm quí hóa này đáng được chân thành cảm nhận và cần tiếp tục bảo đảm là các qui chuẩn liên quan đến quyền tự do tôn giáo phải được các quốc gia hội viên nhìn nhận và áp dụng.


Sau hết, “quyền tự do tôn giáo, một đòi hỏi thiết yếu nơi phẩm vị của hết mọi con người, là một nền đá xây dựng các thứ nhân quyền, bởi đó, là một yếu tố bất khả thế cho thiện ích cá nhân cũng như toàn thể xã hội… một yếu tố thiết yếu cho việc con người chung sống thuận hòa… Quyền lợi về dân sự và xã hội đối với vấn đề tự do tôn giáo, vì nó chạm đến lãnh vực sâu xa nhất của tâm thần, trở thành một cứ điểm cho các quyền lợi căn bản khác, và một cách nào đó, trở thành một thứ lượng định của những quyền lợi khác” (John Paul II, Message for the 21st World Day of Peace, "Religious Freedom: Condition for Peace," Dec. 8, 1987, No. 1). Thế nên, chẳng những không ai được vi phạm đến quyền lợi này, trái lại, các tín hữu còn phải được bảo vệ cho khỏi nguy cơ bị kỳ thị và tấn công nữa, còn có thể được công bằng xét xử, và nếu là nạn nhân, họ cần phải được bồi thường.


4.     Người ta thấy đang xuất hiện một thứ hình thức tinh khéo trong việc bất khả chấp tôn giáo, khi tỏ ra chống lại quyền tự do tôn giáo trong việc công khai nói về những vấn đề liên quan tới những kiểu hành vi cử chỉ được cho là phản lại các nguyên tắc luân lý và bản chất đạo đức. Vai trò tích cực của các tín hữu nơi đời sống xã hội cần phải được nhìn nhận, miễn là họ tôn trọng ý nghĩa lành mạnh nơi bản chất trần thế của quốc gia. Trong số những vấn đề khác, điều này xứng hợp với những đòi hỏi của một chủ nghĩa đa số lành mạnh và là những gì góp phần xây dựng một nền dân chủ chân thực. Tôn giáo không thể nào bị biến thành một thứ lãnh vực sống riêng tư khiến nó mất đi chiều kích xã hội cùng với hoạt động bác ái của nó đối với thành phần yếu kém được nó vô tư phục vụ.


5.     Trái lại, tất cả mọi tôn giáo đều có thể góp phần đặc biệt vào cuộc chung sống thuận hòa, bằng việc loại trừ đi những ý đồ và phương tiện bạo động của một số phần tử của mình, thành phần che đậy những mục đích phá hoại của họ bằng tấm bình phong tôn giáo, thay vào đó bằng việc tiến đến chỗ đối thoại liên tôn. Trong những tình trạng hiện nay thì con đường dẫn tới một tương lai hòa bình chắc chắn là con đường của sự hiểu biết nhau và thông cảm nhau, của việc đối thoại và hợp tác một cách xây dựng cho nền hòa bình. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này, việc áp dụng quyền tự do tôn giáo, cũng như việc thực hành quyền tự do tôn giáo, cả lãnh vực cá nhân lẫn cộng đồng tín hữu, cần phải trở thành một thực tại phổ quát. Đồng thời, trong tiến trình giáo dục ở tất cả mọi cấp độ, cần phải nhìn nhận việc tôn trọng những quyền lợi này, nhờ đó, mới có thể truyền đạt việc xây dựng một thứ văn hóa tương kính cũng như một thứ cảm nhận tích cực đối với tính cách đa dạng ở một môi trường sống phát triển tất cả mọi thứ quyền lợi của con người.


(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến ngày 5/4/2004)


 

Iraq: Chiến dịch bắt cóc để gây áp lực chính trị... Áp Lực Tôn Giáo
 

Trong thời gian qua tình hình Iraq đã xẩy ra những diễn tiến mới, những cuộc bắt có để làm áp lực trên lực lượng liên minh ngoại quốc đang hiện diện tại Iraq.

Tuy 7 người Trung Hoa bị bắt cóc đã được thả ra hôm Thứ Hai 12/4/2004, nhưng 20 thường dân ngoại quốc khác vẫn còn im hơi lặng tiếng. Trong đó có 3 người Tiệp Khắc, 2 người bị mất tích hôm Chúa Nhật và 1 vào sáng Thứ Hai. Hai nhân viên an ninh của Đức được cho rằng đã bị giết chết. 6 thường dân thầu khoán Hoa Kỳ làm việc cho Halliburton cũng bị mất tích cuối tuần vừa qua. 2 người Ả Rập làm việc cho các cơ quan trợ giúp cũng bị nhóm loạn quân bắt giữ, một người Canada gốc Syria và một cư dân ở Giêrusalem.

Tuy nhiên, hôm Chúa Nhật, 11/4/2004, loạn quân cũng đã thả một người công dân Hiệp Vương Quốc là ông Gary Teeley sống ở Trung Đông bị bắt hôm Thứ Năm tuần trước đó. Ngoài ra, còn có 8 thường dân khác cũng được thả ra vào cùng Ngày Chúa Nhật, bao gồm những người thuộc quốc tịch Pakistan, Phi Luật Tân, Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ. Hôm Thứ Năm tuần trước, 8/4/2004, 7 nhà truyền giáo Đại Hàn cũng được thả ra sau khi bị bắt mấy tiếng đồng hồ.
 

Ngoài ra, vào chính ngày Thứ Hai, 12/4/2004, 7 người Trung Hoa được một nhóm bịt mặt thả ra cho những vị giáo sĩ Iraq ở một đền thờ trong thủ đô Baghdad, và bất chấp Ủy Ban Giáo Sĩ Hồi Giáo đã ban hành một văn kiện kêu gọi ngưng chiến dịch bắt cóc này, nhưng lại có thêm 11 thường dân Nga làm nghề về điện lực bị bắt cóc ở ngay tại thủ đô này.

 

Về số phận của 3 thường dân Nhật Bản, 2 nam và 1 nữ, bị đe dọa là sẽ bị thiêu sống nếu lực lượng Nhật Bản (500 quân nhân trong số 1000 người, kể cả thành phần phục vụ về nhân đạo) không rút khỏi Iraq, nhưng thời hạn đe dọa đã qua từ hôm Chúa Nhật mà vẫn chưa nghe thấy gì từ phía thành phần bắt cóc.

Ngoài ra, thời hạn đe dọa giết chết một tài xế vận tải của Hoa Kỳ là ông Thomas Hamill nếu Hoa Kỳ không rút quân khỏi Fallujah cũng đã qua nhưng vẫn chưa thấy động tịnh gì từ phía đối phương.

Trong khi đó, cuộc nổi dậy của loạn quân từ Najaf đến Tikrit đã làm cho tháng 4 chưa đầy nửa tháng này trở thành một tháng chết chóc chưa từng thấy từ khi xẩy ra chiến cuộc 19/3/2003 tới nay, với con số 73 quân nhân Mỹ bị sát hại bởi những hoạt động thù hận và 26 bị chết bởi cuộc tấn công cuối tuần vừa rồi. Để đạt được mục tiêu sát hại nhân mạng Hoa Kỳ phá kỷ lục như thế, phía loạn quân cũng phải trả bằng giá là con số tử vong cũng đã tăng lên gấp 10 lần.

Hôm Thứ Sáu, 9/4/2004, có 13 người lính Hoa Kỳ bị chết, 4 nhân viên phục vụ Mỹ bị chết vào hôm sau Thứ Bảy và 6 vào hôm Chúa Nhật, tất cả là 23 người trong một cuối tuần. Con số tử vong của Hoa Kỳ cho đến cuối tuần rồi tăng lên đến 671 người. Tổng Thống Bush hôm Chúa Nhật, tại Fort Hood, Texas, vẫn khẳng định: “Tôi biết những gì chúng ta đang làm ở Iraq đều chính đáng”.
 

Trong khi Uỷ Ban Giáo Sĩ Hồi Giáo ban hành một văn kiện kêu gọi chấm dứt chiến dịch bắt cóc người ngoại quốc của đám loạn quân, thì giáo sĩ Muqtada al-Sadr Hồi giáo phái Shiite, một vị có nhóm chiến đấu quân đã cương quyết chiến đấu với lực lượng Hoa Kỳ khắp Iraq, đã ban hành những đòi hỏi của mình qua vị đại diện của ông là Sheikh Raed al-Kadhim vào hôm Thứ Bảy 10/4/2004.

Vị giáo sĩ này tố cáo lực lượng liên minh gây ra bạo loạn và việc lực lượng này đóng cửa tờ nhật báo ủng hộ ông ta là một thảm họa. Vị đại diện giáo sĩ này cho CNN biết rằng: “Chúng tôi ở vào thế tự vệ chống lại tất cả những ai tấn công chúng tôi. Chúng tôi phải làm gì khi xẩy ra những cuộc thả bom của những chiếc trực thăng? Chúng tôi muốn nói và đề nghị là tất cả những gì họ cần làm là thôi làm những gì họ đang làm thì vấn đề sẽ được giải quyết thôi”.

Đối với vấn đề Lực Lượng liên minh muốn bắt vị giáo sĩ này, người đại diện ông đã cho biết, vị giáo sĩ ấy bây giờ là “biểu tượng” cho nhân dân Iraq. Do đó, tất cả những gì động đến ông ấy đều sai lầm: “Họ vẫn đe dọa bắt Sayid Muqtada al-Sadr và cáo gian cho ngài. Họ bảo rằng Sayid Muqtada al-Sadr chỉ là đại diện cho một thiểu số nhưng tôi nói cho quí vị biết là Sayid Muqtada có cả một đại quân 26 triệu người và bất cứ ai tố cáo ngài hay tấn công ngài là tấn công và tố cáo tất cả nhân dân Iraq”.

Sở dĩ vị gaío sĩ này hiện nay được nổi tiếng là vì ông ta là con của giáo trưởng phái Shitte Muhammad Baqr al-Sadr, một vị nổi tiếng bị ám sát năm 1999. Thánh phố Sadr lân cận của thủ đô Baghdad mang tên cha của ông: “Điều làm cho tất cả chúng tôi theo cha của ngài và hy sinh gia đình của chúng tôi cùng con cái của chúng tôi là vì đây là một con người chân chính và chân thành với tất cả nhân hậu. Chúng tôi theo người con của ông ấy”.

Sau đây là những điểm vị giáo sĩ này yêu cầu nhân danh nhân dân Iraq:

“Lấy lại tiếng nói cho Iraq và phải xử nhà độc tài trước đây Saddam Hussein ở Tòa Thượng Thẩm. Thả tất cả mọi người theo al-Sadr đã bị bắt ra; họ không có tội gì cả ngoài việc chấp nhận Allah. Phải tổ chức một chính quyền pháp hiến Iraq không bị chi phối bởi những lực lượng xâm chiếm. Chọn lựa những ai đồng bào muốn chứ không phải bất cứ ai bị áp đặt làm lãnh đạo đồng bào. Điều tra những tội ác của các lực lượng chiếm đóng và mang những kẻ phạm pháp ra trước pháp luật. Phải có một ngày dứt khoát chấm dứt các lực lượng chiếm đóng”.