GIÁO HỘI HIỆN THẾ

 

Tháng 4/2004

Ý Chỉ Ðức Thánh Cha

Ý Chung: Xin cho việc sửa soạn đầy đủ để giúp những ứng viên chịu chức thánh cũng như cho việc huấn luyện thường xuyên để giúp các vị thừa tác viên chức thánh được thực hiện một cách cận thận kỹ lưỡng”.

Ý Truyền Giáo: Xin cho tinh thần truyền giáo 'cho muôn dân' trở thành vấn đề ưu tư và là vấn đề liên lỉ dấn thân nơi sinh hoạt mục vụ thường xuyên của cộng đồng Kitô giáo”.  

___________________________________________

 NGÀY 1 THỨ NĂM

 

 

Bản Hiến Pháp của Khối Hiệp Nhất Âu Châu sẽ đi về đâu?


Các vị lãnh đạo của Khối Hiệp Nhất Âu Châu hy vọng sẽ đi đến chỗ kết thúc về Bản Hiến Pháp này vào giữa tháng 6/2004. Kết thúc cuộc họp thượng đỉnh của mình vào hôm Thứ Sáu 26/3/2004, đương kim chủ tịch của khối này là Bertie Ahern đã cho biết ngày cuối cùng là ngày 17/6/2004. Ông Giorgio Salina, phó chủ tịch của Hội Đồng Kitô Giáo Cho Âu Châu, đã trả lời Zenit trong một cuộc phỏng vấn liên quan đến tình hình Âu Châu như sau:


Vấn     Tại sao lại xẩy ra vấn đề thiếu tham phần vào tiến trình soạn thảo bản Hiến Pháp Âu Châu này?


Đáp     Vì hiện nay hầu như không ai nói về Bản Hiến Pháp Âu Châu cùng những nội dung của nó nữa, có lẽ là do bởi những thương lượng lưỡng diện kín đáo của vị chủ tiịch người Irish. Bởi thế cái căng thẳng về luân lý trong những giai đoạn trước đó đã được sút giảm đi.


Phương pháp này cho thấy cái hiệu nghiệm của nó nhưng chắc chắn nó gây ra tính cách yếu kém về vấn đề dân chủ. Dù sao tôi cũng nghĩ rằng người công dân cần phải bày tỏ những lời quyết liệt cuối cùng của mình về một văn kiện quan trọng như vậy đối với Khối Hiệp Nhất này.


Vấn     Chẳng những có những điều tiêu cực còn có cả những khả năng nữa. Hiện nay Âu Châu có những khả năng chính yếu nào?


Đáp     Tôi tin rằng có ít là 3 khả năng sau đây: khả năng nới rộng, khả năng đoàn kết và khả năng của một thứ Âu Châu dấn thân vào việc phát triển các quốc gia nghèo.


Việc nới rộng sắp xẩy ra đây, một thứ nới rộng chúng ta thích gọi là “việc tái thống nhất”, thắp lên niềm hy vọng cho một Âu Châu kéo dài từ Atlantic tới Urals, một niềm hy vọng thường nở hoa trong giòng lịch sử và là một thứ hy vọng hôm nay đây có thể trở thành hiện thực.


Nó có nghĩa là cuối cùng người ta đã có thể thắng vượt được cái di sản của bức Màn Sắt làm thấm máu “ngôi nhà Âu Châu chung”. Hơn nữa, chúng ta tin tưởng rằng không có hòa bình nếu thiếu công lý; không có công lý nếu thiếu thứ tha. Tình đoàn kết và sự an bình nơi các quốc gia đa dạng chẳng những cho Âu Châu mà còn cho cả thế giới nữa.


Thế giới cần đến một thứ Âu Châu này, một thứ Âu Châu nhờ đạt được mức quân bình về quốc tế khá hơn, có thể bao gồm cả các nước thuộc thế giới đệ tam.


Vấn     Ông đã nhiều lần phê bình trong những cuộc tranh luận về bản thảo Hiến Pháp Âu Châu.


Đáp     Nếu một quốc gia hay một tổ chức quốc tế muốn phục vụ tất cả mọi người, nó cần phải khuyến khích việc tranh luận và đóng góp tất cả các quan điểm về con người và về xã hội, tức là về tất cả mọi nền văn hóa nhất là về Kitô giáo.


Chúng tôi muốn đề cập tới các thứ giá trị chẳng những là những giá trị của Thời Minh Trí hay của văn hóa Marxist, chúng tôi biện hộ cho một thứ Âu Châu, mà là một Âu Châu cho từng người và mọi người. Bằng không, Âu Châu có nguy cơ trở thành một chân trời hạn hẹp, quá hạn hẹp đến nỗi nó chẳng là gì nữa trong lịch sử.


Đaminh Maria Cao tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo Zenit ngày 28/3/2004.
 

 

Cải Thiện: Bằng Cách Nào?

  Cải Thiện Ðời Sống (tiếp):

            Chúa Nhật - Cải Thiện Những Gì?

           Thứ Hai - Cải Thiện: Tại Sao?

            Thứ Ba - Cải Thiện: Ở chỗ nào?

 

Sau khi đã biết được lý do tại sao phải cải thiện, cải thiện ở chỗ nào và phải cải thiện những gì là những phần thuộc về lý thuyết của việc cải thiện, giờ đây, chúng ta tiến sang phần thực hành việc cải thiện: Cải Thiện: Bằng Cách nào?, hay, nói cách khác, làm sao để có thể cải thiện và cải thiện như thế nào?

 

Nếu lý do chúng ta phải cải thiện là vì chúng ta là kẻ có tội nhưng muốn được đời đời cứu rỗi, và việc cải thiện ở chỗ canh tân nội tâm, thì để có thể cải thiện, chúng ta phải biết nhận lỗi của mình và phải tránh dịp tội.

 

Nếu lý do chúng ta phải cải thiện là vì hạt giống Ơn Thánh trong chúng ta cần phải trổ sinh hoa trái thiêng liêng, và việc cải thiện ở chỗ làm theo ý Chúa, thì để có thể cải thiện, chúng ta phải năng lãnh nhận các phép Bí Tích.

 

Nếu lý do chúng ta phải cải thiện là vì Chúa là Thiên Chúa của chúng ta đã bị xúc phạm nhiều lắm rồi, và việc cải thiện ở chỗ trở về với Tình Yêu Thiên Chúa, thì để có thể cải thiện, chúng ta phải biết cầu nguyện với Chúa.

 

 

Cải Thiện Bằng Cách Nhận Lỗi và Tránh Dịp Tội

 

Nhận Lỗi

 

Theo nguyên tắc, muốn sửa lỗi, phải biết nhận lỗi. Do đó, trên thực hành, nếu không nhận lỗi, chắc chắn không thể nào và không bao giờ có thể sửa lỗi được.

 

Nhưng làm thế nào để có thể nhận lỗi, nếu tôi cho những việc tôi làm không phải là lỗi, và cũng chỉ vì tôi cho những việc tôi làm không phải là lỗi nên tôi mới làm.

 

Một người không nhận lỗi có thể vì mấy lý do chính yếu sau đây: thứ nhất, vì vô ý thức tội lỗi (xem Tông Đồ Công Vụ 3:17), không biết tội là gì, như trường hợp dân Do Thái nhất định đòi giết Chúa Giêsu cho dù máu của Ngài có đổ lên đầu lên cổ họ (xem Mathêu 27:25); thứ hai, vì sợ trách nhiệm phải đền trả hay cải thiện, như trường hợp Cain cho mình không phải người giữ Abel (xem Sáng Thế Ký 4:9) là em bị chính Cain ghen tương sát hại; thứ ba, vì tự ái xấu hổ nên đổ cho hoàn cảnh để mà chạy tội, như trường hợp Evà đổ lỗi cho con rắn và Adong đổ lỗi cho Evà (xem Sáng Thế Ký 3:12-13); thứ bốn, vì dựa vào những yếu tố bên ngoài để mà phạm tội, như trường hợp Philatô rửa tay (xem Mathêu 27:24) để xử tội Chúa Giêsu theo ý dân Do Thái muốn giết Chúa; thứ năm, vì kiêu căng nên mù quáng, như trường hợp của người Pharisiêu lên đền thờ cầu nguyện khoe khoang công lênh lại càng thêm tội (xem Luca 18:9-14).

 

Muốn tránh tình trạng phạm tội mà không nhận ra tội của mình để mà cải thiện, nên để ý những việc sau đây:

 

- Không ra tay làm công việc mà lương tâm còn đang bối rối về nó.

 

- Ngưng làm công việc mà khi làm công việc đó tâm hồn cứ cảm thấy bất an.

 

- Năng bàn hỏi với cấp trên hay người khôn ngoan mỗi khi không biết phải giải quyết ra sao hay hành động thế nào.

 

- Lắng nghe những lời chỉ bảo, đề nghị, phê bình và chỉ trích của người khác.

 

- Hồi tâm xét mình hằng ngày xem, về phần tích cực, mình có sống đúng với ơn gọi của mình qua việc chu toàn mọi bổn phận lớn nhỏ hay không, và, về phần tiêu cực, mình đã phạm những lỗi lầm nào, tại sao mình đã làm như vậy?

 

 

Tránh Dịp Tội

 

Muốn cải thiện đời sống, bề trong chẳng những phải biết nhận lỗi của mình thì mới sửa mình được, bề ngoài còn phải biết tránh xa dịp tội nữa mới thực sự tỏ ra dấu hiệu và thiện chí ăn năn thống hối. Nếu không nhận lỗi, chúng ta không thể sửa lỗi thế nào, nếu không tránh dịp tội, chúng ta cũng không thể nào sửa lỗi như vậy.

 

Chẳng hạn, biết rằng hễ đọc kinh mà ngồi, thế nào mình cũng ngủ gật, thì, để tránh ngủ gật khi đọc kinh, chúng ta hãy đứng hay qùi mà đọc kinh. Hay, biết rằng xem cuốn phim ấy hoặc đọc cuốn sách ấy, thế nào mình cũng bị cám dỗ về đức trong sạch, thì, để khỏi bị cám dỗ về đức trong sạch và ham muốn điều lỗi đức trong sạch, đừng coi cuốn phim đó và đừng đọc cuốn sách đó nữa. Nếu bà Evà, sau khi nghe rắn qủi cám dỗ, không nhìn lên cây biết lành biết dữ để thấy rằng trái cây ngon lành bắt mắt (Sáng Thế Ký 3: 6) thì chưa chắc bà đã giơ tay ra hái mà ăn.

 

Hãy nhớ rằng, dịp tội không phải ở tại ngoại cảnh cho bằng ở ngay nơi chính mình, nơi mắt mình, nơi tay mình. Không phải hay sao, Chúa Giêsu, trong Phúc Âm thánh Mathêu, đoạn 5, từ câu 28 đến câu 29, đã không nói nếu người phụ nữ nên dịp tội cho ngươi hãy giết mụ ấy đi, thà chết một mạng người còn hơn là cứ vì mụ ấy còn sống đã nên cớ cho ngươi phạm tội mất lòng Chúa, mà là nói: Nếu mắt phải ngươi nên dịp tội cho ngươi, hãy móc nó ra mà quẳng nó đi. Thà mất một phần thân thể còn hơn toàn thân bị quăng vào hỏa ngục.

 

Do đó, tránh dịp tội chẳng qua chỉ là giữ ngũ quan. Giữ mắt trong sạch cho khỏi những hình ảnh kích dục. Giữ tai nghiêm chỉnh cho khỏi nghe những lời nói xấu hay chỉ trích người thứ ba làm cho chính mình cũng khinh người ấy. Giữ lưỡi điều độ cho khỏi sống để mà ăn. Giữ tay nết na cho khỏi những sờ mó mất nết hay những cầm nhầm các đồ vật không phải của mình. Giữ chân đàng hoàng cho khỏi đi đến những cho<176> lén lút tối tăm v.v.

 

 

Cải Thiện Bằng Cách Năng Lãnh Nhận Bí Tích.

 

Một thực tại không thể phủ nhận và một chân lý không thể sai lầm, đó là, không có ơn Chúa, dù cố gắng mấy đi nữa, con người cũng không thể nào cải thiện đời sống được.

 

Ơn Chúa được ban cho con người qua Chúa Giêsu Kitô, Đấng đầy ân sủng và chân lý (Gioan 1:14). Nhân tính của Chúa Kitô chính là phương tiện để thông ơn Thiên Chúa cho con người. Lời của Chúa Kitô là thần linh và là sự sống (Gioan 6:63). Thánh Thể của Chúa Kitô là Bánh Thiên Chúa bởi trời xuống ban sự sống cho thế gian (Gioan 6:33). Việc làm của Chúa Kitô là ánh sáng thế gian ... ánh sáng ban sự sống (Gioan 8:12). Con người của Chúa Kitô là sự sống lại và là sự sống (Gioan 11:25). Chẳng những từ bàn tay của Chúa Giêsu, quyền năng chữa trị mọi tật nguyền bệnh hoạn phần xác của con người đã được phát ra, mà ngay cả áo Chúa cũng có mãnh lực ấy (xem Luca 8:43-48).

 

Ngày nay, Chúa Giêsu không ở với loài người một cách hữu hình như ngày xưa nữa, nhưng Người vẫn ở với loài người một cách bí tích, mà hiện thân tiêu biểu là Bí Tích Thánh Thể. Từ các Bí Tích này, quyền năng thần linh của Người vẫn tác dụng nơi các linh hồn thành tín lãnh nhận Người. Bằng chứng hiển nhiên là đời sống thánh thiện siêu phàm của các thánh, nhất là các thánh tử đạo, còn đỏ ngầu những trang lịch sử của nhân loại, với những tinh thần và hành động vượt trên bản tính bẩm sinh và khả năng chịu đựng của một con người tự nhiên.

 

Chính chúng ta cũng cảm thấy một phần nào tác dụng của ơn thánh khi chúng ta lãnh nhận Bí Tích Hoà Giải và Thánh Thể một cách sốt sắng. Ở chỗ, chúng ta dễ giữ mình sạch tội hơn, dễ hy sinh hãm mình hơn, dễ chịu đựng trái ý hơn, dễ làm v.v. Bằng nếu chúng ta lơ là hay bỏ bê hoặc khinh thường việc lãnh nhận các Bí Tích Hòa Giải và Thánh Thể, chúng ta sẽ không thể nào tránh được dịp tội và sẽ phạm hết tội này đến tội kia, dù có muốn trở lại với Chúa cũng không thể nào làm được.

 

Ngoài Thày ra các con không làm gì được (Gioan 15:5) là thế. Sự Sống Thần Linh mà chúng ta được thông hiệp từ khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội phải trổ sinh nhiều hoa trái nơi người Kitô hữu đó là các nhân đức, là các tinh thần của Chúa Kitô. Nhưng, Sự Sống Thần Linh này chỉ có thể trổ sinh hoa trái khi Ơn Thánh nẩy mầm và phát triển nơi con người mà thôi. Của ăn nuôi xác con người làm cho xác họ lớn lên, nhờ đó, họ dần dần trưởng thành, làm được những việc người lớn thế nào, Ơn Thánh cũng cần những của nuôi linh thiêng là các Bí Tích, để phát triển và làm cho con người sống động một cách siêu nhiên như Chúa Kitô đã sống như vậy.

 

 

Cải Thiện Bằng Cách Cầu Nguyện

 

Dù cố ý tránh hết mọi dịp tội, trong bầu khí nhiễm độc (polution) của xã hội sặc mùi hiện sinh và lõa lồ ngày nay, vì hoàn cảnh bất ngờ xẩy ra hay vì những bó buộc phải giao tiếp và đụng chạm trong đời sống chung, chúng ta cũng khó lòng mà giữ mình hoàn toàn khỏi bị ô nhiễm bởi những gương mù hay những tập tục thế gian. Cho dù có xưng tội hằng tuần hay rước lễ hằng ngày đi nữa, Bí Tích Thánh Thể và Bí Tích Hòa Giải cũng không mấy tác dụng nơi chúng ta, và chúng ta vẫn có thể vấp phạm đến Chúa hay vẫn cứ sống cuộc sống tầm thường, nếu chúng ta thiếu tinh thần cầu nguyện. Các thánh tông đồ không phải là những người đã sống gần Chúa Giêsu hơn ai hết, thế mà các ngài vẫn bỏ Chúa mà tẩu thoát khi Người bị bắt, thậm chí còn chối Người đến ba lần, phải chăng là vì các ngài đã không tỉnh thức và cầu nguyện nên đã sa ngã ê chề như thế.

 

Cầu nguyện không phải là đọc kinh, là suy gẫm, là nhớ Chúa, là kết hợp. Đúng hơn, cầu nguyện là tinh thần của việc đọc kinh, suy gẫm, nhớ Chúa, và là cách giúp dễ kết hợp với Chúa. Cầu nguyện chính là giao tiếp với Chúa, là gắn bó với Chúa, là yêu mến Chúa. Khi linh hồn yêu mến Chúa, gắn bó với Chúa, thì bất cứ làm việc gì, công việc ấy cũng là tác động cầu nguyện của linh hồn. Và, chính vì yêu mến Chúa và gắn bó với Chúa trong tinh thần cầu nguyện như thế, linh hồn sẽ luôn luôn sợ làm điều gì mất lòng Chúa và hết sức làm đẹp lòng Chúa mọi đàng.

 

Con người sa ngã và không nên trọn lành được là vì thiếu ơn Chúa. Thiếu ơn Chúa không phải là vì Thiên Chúa, Đấng muốn cho mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lý (1Timôthêu 2:4), không muốn ban cho con người, mà là vì con người không biết cầu nguyện hay thiếu cầu nguyện. Không cầu nguyện, con người sẽ thiếu ơn Chúa để nên thánh và giữ mình sạch tội. Do đó, càng sa sút hay bỏ bê việc cầu nguyện, con người càng sa đọa. Sa đọa càng nhiều là dấu hiệu con người đã hầu như bỏ quên Thiên Chúa, đã hết sức bỏ bê việc cầu nguyện.

 

Trong hai thế kỷ 19 và 20, Đức Mẹ đã hiện ra nhiều lần, như ở La Salette năm 1846, ở Lộ Đức năm 1858 và Fatima năm 1917, không lần nào Đức Mẹ, qua các vị sứ giả của Người, không kêu gọi loài người cầu nguyện. Cầu nguyện là đề tài chính cho tất cả các lần Đức Mẹ hiện ra. Đức Mẹ kêu gọi loài người nói chung và con cái Mẹ nói riêng cầu nguyện, nhưng Mẹ không dạy cầu nguyện. Tuy nhiên, ở Fatima, cả 6 lần hiện ra với Lucia, Phanxicô và Giaxinta, Mẹ đều thúc giục việc lần hạt Mân Côi.

 

Theo lịch sử Giáo Hội và kinh nghiệm sống đạo của các thánh, kinh Mân Côi đã kéo ơn Chúa vô vàn bất tận xuống cho chung cũng như riêng. Do đó, kinh Mân Côi cũng là phương tiện cho con người dùng để cải thiện đời sống và nên thánh. Qua các mầu nhiệm của kinh Mân Côi, nếu sốt sắng đọc và chiêm ngắm, chúng ta sẽ thấy tình Chúa yêu chúng ta nơi Chúa Giêsu và qua Mẹ Maria một cách nhưng không và bất tận, bởi đó, chúng ta sẽ cảm mến các Ngài, tạ ơn các Ngài và đáp trả tình yêu của các Ngài đối với chúng ta một cách xứng đáng hơn, bằng một đời sống đẹp lòng các Ngài hơn. Cải thiện đời sống ở tại việc nhận biết và trở về với tình yêu Thiên Chúa bắt đầu bằng việc cầu nguyện là như thế.