GIÁO HỘI HIỆN THẾ

Tháng 8/2004

Ý Chỉ Ðức Thánh Cha

 

Ý Chung: “Xin cho Khối Hiệp Nhất Âu Châu tìm thấy sinh lực mới nơi gia sản Kitô giáo của mình là những gì thiết yếu làm nên văn hóa và lịch sử của lục địa này”.

Ý Truyền Giáo: “Xin cho các dòng tu đang hoạt động tại các xứ truyền giáo gia tăng mối hiệp thông và việc hợp tác với nhau hơn nữa”.  

 

__________________

 NGÀY 22 CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN NĂM C

  

CỬA HẸP

 

Tâm lý chung ai cũng sợ khó, ngại vất vả, và trốn tránh đau khổ. Ngược lại, thích những gì dễ dãi, nhàn hạ và sung sướng. Tâm lý này cũng ảnh hưởng mạnh đến đời sống tâm linh trong nỗ lực con người tìm kiếm số phận đời đời của mình. Muốn lên Thiên Đàng nhưng không muốn vất vả, và không muốn chịu khó. Tâm lý ấy đã bộc lộ qua câu hỏi mà một người đã nêu lên với Chúa Giêsu: “Lậy Chúa, phải chăng chỉ có một số ít người được cứu rỗi?” (Lc 13:23). Nêu lên câu hỏi ấy, hẳn là người này cũng cùng một trường phái “thích Thiên Đàng nhưng ngại chịu khó”.

Nhưng Chúa Giêsu đã không muốn trả lời trực tiếp những câu hỏi như thế. Ngài không phủ nhận con đường về Thiên Đàng khó đi, và cửa vào Thiên Đàng chật hẹp: “Hãy cố mà vào cửa hẹp. Ta nói thật với các ngươi, nhiều người đã cố vào mà không vào được” (Lc 13:24). Ngược lại, Ngài cũng không phủ nhận là trên Thiên Đàng có nhiều người: “Thiên hạ sẽ từ đông sang tây, từ nam chí bắc đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa” (Lc 13:29). Như vậy, Chúa Giêsu đã có ý cho những người thắc mắc về tương lai của mình câu trả lời là muốn lên Thiên Đàng hay muốn xuống hỏa ngục tùy thuộc ở thái độ sống của mỗi người.

Ngài không nói ít người được cứu rỗi, vì sẽ là cớ cho nhiều người buông xuôi và bỏ cuộc viện dẫn ơn cứu độ vượt quá sức con người không thể đạt được. Ngài cũng không nói là nhiều, vì như vậy là tạo cơ hội cho những kẻ ham hố thế gian có cớ để tự lừa dối mình, và khi họ không chuẩn bị chu đáo, thình lình giờ Con Người đến, họ sẽ lỡ chuyến tầu đời đời. Đó cũng là lý do mà những người không tìm được đường về và không vào được Thiên Đàng đã vặn hỏi Chúa: “Chúng tôi ăn uống trước mặt Ngài, và Ngài đã giảng dậy nơi phố xá của chúng tôi” (Lc 13:26).

Ăn uống trước mặt Ngài, và Ngài đã giảng dậy nơi phố phường của họ nhưng Ngài đã không nhận ra họ: “Ta bảo thật các ngươi. Ta không biết các ngươi từ đâu tới” (Lc 13:27). Đây là điều mà mỗi người chúng ta phải thắc mắc và tự kiểm. Vì cái làm ngăn trở con người về Thiên Quốc, cũng như cái làm họ không vào qua cửa Thiên Đàng tùy thuộc thái độ người đó có thân thiết với Chúa và có sẵn sàng, có nhiệt tình với nưới Trời hay không. Một người ngồi ăn uống trước mặt mình chưa chắc đã là bạn mình, và việc mình không nhận ra họ là chuyện bình thường. Trong nhà hàng, chúng ta ngồi cạnh nhiều người, nhưng không phải tất cả là bạn thân với mình, hoặc biết mình. Người ngồi ăn uống thỏa thuê trước mặt mình chứ không chia sẻ với mình, và không chung bàn với mình không phải là bạn thân thiết với mình.

Cũng một cách thức tương tự, việc Chúa giảng dậy nơi công cộng của họ, chứ không phải là giảng cho họ, vì họ không tới tham dự, lắng nghe, và thực hành. Họ chỉ là những khách bàng quan đi lại bên đường nhìn thấy Ngài giảng dậy rồi bỏ qua nên không thể trách Chúa là không nhận ra họ.

Tóm lại, những người đồng bàn với Chúa, cùng ăn một mâm với Ngài, hoặc là môn sinh chăm chỉ lắng nghe và thực hành lời Ngài, khác với người ngồi ăn uống trước mặt Ngài, hay đi lại qua nơi Ngài đang giảng dậy. Và đây là cốt lõi làm nên sự khác biệt, khiến một người có thể tìm được đường lên Thiên Đàng và vào qua cổng Thiên Đàng, hoặc lạc lối về Thiên Đàng và không qua được cổng Thiên Đàng.

Mặc dù Chúa Giêsu không trả lời dứt khoát về số phận đời đời của mỗi người, nhưng nếu để tâm suy nghĩ những gì mà Thánh sử Luca đã ghi lại trong cuộc đối đáp này, ta có thể nói được là Chúa Giêsu thật sự đã cho chúng ta một câu trả lời lạc quan và tích cực về viễn ảnh tương lai của mình. Qua những gì Thánh Luca ghi nhận, thì nguyên nhân khiến cho những người bị loại ra khỏi bàn tiệc nước Trời đến từ chính thái độ sống và sự lựa chọn của họ chứ không phải từ sự khó khăn, ngặt nghèo, hoặc khắt khe của Thiên Chúa. Vì Ngài đã mở sẵn cho ta con đường về Thiên Quốc và chờ sẵn chúng ta ở đó: “Hỡi đoàn con nhỏ đừng lo, vì Cha các con đã sẵn lòng ban nước Trời cho các con” (Lc 12:32). Phần còn lại, là mỗi người có muốn đón nhận nước Trời từ bàn tay nhân lành của Thiên Chúa hay không. Và đó là phần tự do lựa chọn của mỗi người.

Cửa hẹp, đường gập ghềnh khó đi cũng là một nét tích cực và thực tế làm tăng giá trị của những cố gắng của con người. Trong thực tế, những gì càng khó, càng hiếm, càng quí, càng có giá trị. Điều gì không phải kiếm tìm mà vẫn có trước mặt và có dư thừa, thì không quí và không mấy giá trị. Ngọc trai, kim cương, vàng ròng là những vật hiếm, khó tìm nên quí và có giá trị. Chính cái tính chất hiếm hoi và khó kiếm tìm của nó làm nó thành giá trị. Thiên Đàng là một phần thưởng đời đời tự nó đã là hiếm quí và khó đạt được. Như vậy, để tìm được, chiếm được Thiên Đàng, thì phải đi trên đường chật, gập ghềnh, trơn trượt, và phải vào qua cửa hẹp cũng là một điều hiển nhiên và rất thực tế.

Cửa hẹp, đường nhỏ nhưng là cửa và đường dẫn đến nước Trời. Chúa Giêsu, Mẹ Maria, các thánh tất cả đã đi trên con đường ấy và vào qua cửa ấy. Các ngài đang chờ chúng ta ở đó, và đang khuyến khích chúng ta: “Hỡi đoàn con nhỏ đừng lo, vì Cha các con đã vui lòng ban nước trời cho các con” (Lc 12:32). Và “Người ta từ đông sang tây, từ nam chí bắc sẽ đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa” (Lc 13:29). Vậy, nào chúng ta hãy cùng nhau cất bước và lên đường để tìm và vào qua cửa ấy.

 

Trần Mỹ Duyệt


 

“Phải chăng chỉ có một số ít người được cứu độ?”
bởi vì “nhiều người cố vào mà không được!”



Bài Phúc Âm Chúa Nhật XXI Mùa Thường Niên tuần này vẫn theo Phúc Âm Thánh Luca, đúng như chu kỳ Năm C của mình, chứ không như chu kỳ Năm B theo Phúc Âm Thánh Marcô đã được Giáo Hội thay bằng Phúc Âm Thánh Gioan, từ Chúa Nhật 17 đến Chúa Nhật 21 tuần này, với chủ đề về Bánh Hằng Sống bởi trời xuống, trích nguyên đoạn thứ sáu của Phúc Âm thứ bốn này. Tuy nhiên, Giáo Hội cũng bỏ phần cuối của đoạn 12 Phúc Âm Thánh Luca Năm C về những dấu chỉ thời đại, và nhẩy sang đoạn 13, và chỉ lấy ở đoạn 13 này có tám câu, từ câu 22 đến 30, sau đó lại bỏ 4 câu cuối của đoạn này để nhẩy sang đầu đoạn 14 vào Chúa Nhật XXII tuần tới. Đó là dấu chứng tỏ cho chúng ta thấy bài Phúc Âm bao giờ cũng phải phản ảnh ý hướng của Mùa Phụng Vụ.

Như thế, để tiếp theo ý nghĩa về “Lửa” Thánh Linh của bài Phúc Âm Chúa Nhật XX tuần trước, bài Phúc Âm Chúa Nhật XXI Mùa Thường Niên Năm C tuần này muốn nói gì: phải chăng nói đến việc “hãy gắng mà vào qua cửa hẹp”?

Thật ra, nếu đối chiếu với hai bài đọc một và hai trong phần Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XXI Mùa Thường Niên Năm C tuần này, chúng ta thấy bài đọc một theo Sách Tiên Tri Isaia chỉ hợp với phần cuối của bài Phúc Âm và bài đọc hai theo Thư Thánh Phaolô gửi Giáo Đoàn Do Thái lại chỉ hợp với phần đầu của bài Phúc Âm.

Trước hết, bài đọc một theo Sách Tiên Tri Isaia chỉ hợp với phần cuối của bài Phúc Âm ở chỗ, cả hai đều nói đến ý định cứu độ phổ quát của Thiên Chúa. Theo Sách Tiên Tri Isaia trong bài đọc một thì ý định cứu độ phổ quát này được bộc lộ qua lời Chúa phán: “Ta đến để qui tụ các dân tộc của đủ mọi ngôn ngữ; họ sẽ đến và nhìn thấy vinh quang của Ta… Ta sẽ sai những kẻ đào thoát … đến với các dân nước… đến các bờ cõi xa xăm chưa hề nghe nói về Ta hay chưa thấy vinh quang của Ta…”, và ý định cứu độ phổ quát này cũng được Chúa Giêsu xác nhận trong bài Phúc Âm Thánh Luca hôm nay: “Người ta sẽ từ đông sang tây, từ bắc chí nam đến ngồi vào chỗ của mình trong bữa tiệc vương quốc Thiên Chúa”. Nếu bài đọc một hợp với phần cuối của bài Phúc Âm thì bài đọc hai theo Thư Thánh Phaolô gửi Giáo Đoàn Do Thái lại chỉ hợp với phần đầu của bài Phúc Âm, liên quan đến nỗ lực con người cần phải đáp ứng ý định cứu rỗi phổ quát của Thiên Chúa. Nếu Chúa Kitô khuyên dạy người Do Thái trong bài Phúc Âm hôm nay là “hãy gắng qua cửa hẹp mà vào”, thì Thánh Phaolô cũng kêu gọi Giáo Đoàn Do Thái thế này: “Anh em hãy chịu đựng những gian nan thử thách như người môn đệ của Thiên Chúa, Đấng đối xử với anh em như con cái… Vậy anh em hãy kiên cường lên bàn tay rụng rời của mình và đầu gối bại nhược của anh em”.

Như thế, căn cứ vào cả ba bài đọc trong Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XXI Mùa Thường Niên Năm C tuần này, chúng ta thấy có hai vấn đề chính yếu, đó là vấn đề ý định cứu độ phổ quát của Thiên Chúa, và vấn đề nỗ lực con người cần phải đáp ứng ý định cứu độ phổ quát này của Ngài.


Tuy nhiên, theo Lời Chúa Giêsu mạc khải trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này thì hình như vấn đề cứu độ không phải chỉ vỏn vẹn và đơn giản có thế, nghĩa là chỉ cần Thiên Chúa muốn cứu độ con người và chỉ cần con người nỗ lực đáp ứng là xong, là đủ. Đó là lý do, để trả lời cho vấn nạn của một người đặt ra trên đường Người lên Giêrusalem, về vấn đề: “Phải chăng chỉ có một số ít người được cứu độ?”, Chúa Giêsu chẳng những đã nhấn mạnh đến việc con người cần phải đáp ứng ý định cứu độ phổ quát của Thiên Chúa, khi Người phán: “Quí vị hãy gắng qua cửa hẹp mà vào”, mà còn nhấn mạnh đến cả yếu tố đặc biệt khác là đức tin tuân phục nữa, qua lời khẳng định: “Tôi bảo cho quí vị biết: nhiều người sẽ cố vào mà không được”.

Ở đây, Chúa Giêsu không nói “ít người” mà là “nhiều người”, và Người cũng không nói “nhiều người” ấy “muốn vào” mà là “cố vào”, tức là không phải “nhiều người” ấy chỉ muốn xuông mà còn hết sức thực hiện ý muốn được cứu độ của mình nữa. Vậy “nhiều người” ấy đã tỏ ra “cố vào” bằng việc tìm cách vào ra sao, nếu không phải, như Chúa Giêsu cho biết tiếp trong bài Phúc Âm qua lời họ tự biện hộ cho mình trước tòa phán xét chí công khi thấy mình hoàn toàn bị xua đuổi loại trừ: “Chúng tôi đã ăn uống chung với Ngài. Ngài đã dạy dỗ chúng tôi nơi phố xá”.

Vậy, yếu tố vô cùng thiết yếu để được cứu độ đây không phải chỉ là “ăn uống với Ngài”, như kiểu Kitô hữu Công Giáo chúng ta năng xưng tội rước lễ, cũng không phải như anh em Kitô hữu Tin Lành chỉ nghe “Ngài đã dạy dỗ chúng tôi nơi phố xá”, những lời đã được ghi chép lại trong Thánh Kinh, mà còn là và chính là ở tại việc nhận biết Đấng mà họ “đã ăn uống chung với Ngài” và đã nghe “Ngài dạy dỗ nơi phố xá”. Thật thế, còn ai hơn các vị tông đồ là những người được diễm phúc “ăn uống chung với Ngài” và nghe “Ngài dạy dỗ”, chẳng những nghe “Ngài dạy dỗ nơi phố xá”, nghĩa là chung với dân chúng, mà còn được nghe “dạy dỗ” riêng tư nữa, và chẳng những một năm mà là ba năm liền. Ấy thế mà cuối cùng, các Phúc Âm cho chúng ta biết, một vị quay ra phản nộp Thày, tất cả mọi người đào tẩu khi thấy Thày bị bắt, thảm nhất là vị đầu đàn công khai trắng trợn chối bỏ Thày.

Bởi thế, dù có “ăn uống chung với Ngài” và có được nghe “Ngài dạy dỗ”, nếu tận thâm tâm không thực sự nhận biết Ngài như Ngài mạc khải cho biết, thì cuối cùng chúng ta vẫn bị Ngài tuyên bố vĩnh viễn ruồng bỏ: “Ta không biết các ngươi từ đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt Ta”. Thật là khủng khiếp!

Chưa hết, để thành phần hư đi này thấy được lý do chính đáng tại sao Ngài ruồng bỏ họ, dù họ đã “ăn uống chung với Ngài” và đã nghe “Ngài dạy dỗ”, ngay sau khi tuyên phạt họ, Ngài liền cho họ biết thành phần được cứu độ như sau: “Ở đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng khi thấy Abraham, Isaac, Giacóp và tất cả mọi tiên tri an lành trong vương quốc của Thiên Chúa…”. Qua việc điểm mặt chỉ tên thành phần được cứu độ như thế, Chúa Giêsu muốn mạc khải cho riêng dân Do Thái và chung Kitô hữu chúng ta biết yếu tố cứu độ quyết liệt, đó là con người cần phải có Đức Tin Thần Linh, vì thành phần được Chúa Giêsu điểm mặt chỉ tên quả đã sống đức tin, như Thánh Phaolô nhắc lại để làm gương trong Thư gửi Giáo Đoàn Do Thái đoạn 12 từ câu 8 đến 19 về Abraham, câu 20 về Isaac, câu 21 về Giacóp, và từ câu 35 đến 37 về các tiên tri. Vậy “hãy gắng mà vào qua cửa hẹp” đây có thể được chuyển dịch là “hãy gắng mà sống đức tin”.

Nếu thành phần được cứu độ chỉ có thế, chỉ đếm được trên đầu ngón tay như thế, nơi thành phần nêu gương sống đức tin như Thánh Phaolô liệt kê trong bài đọc thứ hai, thì quả thực những kẻ được cứu rỗi thật là hiếm hoi ít ỏi… Tuy nhiên, ngoài những thành phần tiêu biểu được cứu rỗi trong Dân Chúa thuộc về Cựu Ước này, Chúa Giêsu, ngay sau đó, còn thêm trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này là: “Người ta sẽ từ đông sang tây, từ bắc chí nam đến ngồi vào chỗ của mình trong bữa tiệc vương quốc Thiên Chúa”. Như thế thì thành phần được cứu độ cũng nhiều chứ không ít.

Thế nhưng, thành phần Dân Ngoại thuộc Tân Ước này sẽ được cứu độ như thế nào, nếu không phải, trước hết, chẳng những bởi ý định cứu độ phổ quát của Thiên Chúa mà còn bởi ý muốn tự do chọn lựa của Thiên Chúa nữa. Đó là lý do hiện hữu và là tất cả ý nghĩa của lời Chúa Giêsu kết thúc bài Phúc Âm hôm nay: “Có những người sau hết sẽ lên trước hết và có những người trước hết sẽ thành sau hết”. Thành phần “sau hết sẽ nên trước hết” này không phải là thành phần Dân Ngoại hay sao? Điển hình nhất là trường hợp của ba chiêm gia Đông phương, những người chưa hề “ăn uống chung với Ngài” hay nghe “Ngài dạy dỗ” như dân Do Thái trong Mạc Khải Cựu Ước, thế mà họ cũng từ xa đến để triều bái “vua Do Thái mới sinh”, như Phúc Âm Thánh Mathêu thuật lại ở đoạn 2 từ câu 1 đến 12; trong khi đó, cũng Phúc Âm này cho biết, chính dân Do Thái, nhờ Mạc Khải Cựu Ước của mình, biết được nơi “vua Do Thái mới sinh” là “ở Bêlem xứ Giuđa”, song họ chỉ thông báo cho dân ngoại biết thôi, chứ họ không tin, nên không đến, thậm chí có đến không phải để triều bái Ngài như ba nhà chiêm gia Đông phương, mà là để tiêu diệt vị hài vương này. Phải chăng chính vì thế Chúa Giêsu đã ám chỉ họ là thành phần “trước hết sẽ thành sau hết”?

Vậy nếu bài Phúc Âm Chúa Nhật XXI Mùa Thường Niên Năm C tuần này chính yếu nói về thành phần được cứu độ và lý do hay yếu tố khiến họ được cứu độ, thì ý nghĩa của bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này liên hệ với ý nghĩa của bài Phúc Âm về “Lửa” Thánh Linh tuần trước ra sao?

Theo tôi, ý nghĩa của bài Phúc Âm Chúa Nhật XXI Chúa Nhật tuần này tiếp tục ý nghĩa của bài Phúc Âm Chúa Nhật XX tuần trước trong việc phản ảnh chủ đề phụng vụ trong Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh. Ở chỗ, nếu “không ai có thể tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa nếu không có Thánh Thần”, như Thánh Phaolô xác tín trong Thư Thứ Nhất gửi Giáo Đoàn Côrintô, được Giáo Hội lập lại trong bài đọc hai của Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, mà yếu tố tối khẩn để được cứu độ là Đức Tin Thần Linh, bởi thế, dù là dân Do Thái hay Dân Ngoại, muốn được cứu độ, ai cũng phải có “Lửa” Thánh Linh do Chúa Kitô mang xuống từ trời, và là một thứ “Lửa” đã được Người chính thực thắp lên bằng Cuộc Vượt Qua của Người, trước hết, nơi các tông đồ khi Người sống lại từ trong cõi chết, rồi sau đó, qua các Vị Tông Đồ Chứng Nhân Tiên Khởi này, cũng như qua Chư Vị Tử Đạo trong giòng lịch sử Giáo Hội là những Chứng Nhân Đức Tin Tông Truyền, Người vẫn tiếp tục thắp lên trong lòng người trên khắp thế gian, cho đến khi Người lại đến trong vinh quang vậy.

Lời Chúa Giêsu khuyên dạy “hãy gắng mà vào qua cửa hẹp” trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XXI Mùa Thường Niên Năm C Hậu Phục Sinh tuần này có thể được chuyển dịch là “hãy gắng sống đức tin”, bằng không tất cả mọi việc chúng ta làm, như “ăn uống chung với Người” qua việc xưng tội rước lễ, hay như tác động nghe “Người giảng dạy”, qua việc đọc Thánh Kinh chẳng hạn, tự chúng cũng không thể cứu độ chúng ta. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, nếu không có đức tin, chúng ta đã không xưng tội rước lễ hay đọc Thánh Kinh là những gì siêu nhiên và thiêng liêng giúp chúng ta có thể giao tiếp với “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24).

Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra ở đây là, như thực tế cho thấy, nếu không có đức tin, chúng ta đã không xưng tội rước lễ hay đọc Thánh Kinh là những gì siêu nhiên và thiêng liêng giúp chúng ta có thể giao tiếp với “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24). Trái lại, có những việc làm của đức tin hay theo đức tin, như việc đọc kinh cầu nguyện, thậm chí dâng lễ hiệp lễ, mà lại chẳng những không có công gì trước mặt Chúa, mà lại bị xua đuổi trừng phạt nữa: “Ta không biết các ngươi từ đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt Ta”? Vậy chúng ta nghĩ sao về vấn đề đầy rắc rối và hầu như nan giải này, tức là vấn đề làm thế nào để biết mình lúc nào đang thực sự sống đức tin, bằng những việc tỏ ra bề ngoài, và lúc nào chúng ta thực hiện những việc làm đức tin bề ngoài ấy mà lại phi đức tin, mà lại luống công vô ích?

Để giải quyết vấn đề này, chúng ta hãy nhớ rằng, Đức Tin là thần đức giúp cho Kitô hữu chúng ta có khả năng để giao tiếp với “Thiên Chúa là Thần Linh trong tinh thần và chân lý” (Jn 4:24), môt cuộc thần hiệp làm cho chúng ta có thể yêu thương nhau như chính Ngài yêu thương tha nhân nơi Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô, Đấng đã ban cho các môn đệ của Người điều răn mới là yêu thương như Người thương yêu (x Jn 13:34, 15:12).

Bởi thế, nếu chúng ta thực sự sống đức tin, thực sự muốn giao tiếp với Thiên Chúa là Thần Linh, bằng việc nghe lời Chúa trong Thánh Kinh, cũng như bằng việc cử hành mầu nhiệm đức tin nơi Bí Tích Thánh Thể, thì Kitô hữu Công Giáo chúng ta không thể nào có thái độ thấy chết mà không cứu, như người phú hộ trước Lazarô cùng khổ ở ngay trước cổng nhà mình (x Lk 16:19-21), hay như người Pharisiêu lên đền thờ cầu nguyện mà lại vênh vang đến nỗi khinh khi những người có vẻ tội lỗi xấu xa hơn mình (x Lk 18:10-12). Trái lại, chúng ta còn dám hy sinh cho anh chị em xấu số của mình, như một Chân Phước Têrêsa Calcutta phục vụ thành phần nghèo nhất trong những người nghèo trên thế giới văn minh của hậu bán thế kỷ 20, thậm chí dám hy sinh mạng sống mình cho tha nhân, như vị nữ tân thánh bác sĩ nhi khoa Gianna Beretta ngưới Ý được Giáo Hội tuyên phong ngày 18/5/2004, vì đã hy sinh mạng sống của mình để cứu lấy đứa con thai nhi của mình.
 


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL