GIÁO HỘI HIỆN THẾ

_______

 THỨ HAI 28/11/2005

 

?   ĐTC Biển Đức XVI: Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật I Mùa Vọng Ngày 27/11/2005 về việc bước vào Mùa Vọng

   Hội Nghị Công Giáo và Hồi Giáo lần đầu tiên ở Nga đánh dấu 40 năm Tuyên Ngôn về Đối Thoại Liên Tôn của Công Đồng Chung Vaticanô II

?  Tuyên Ngôn Nostra Aetate của Công Đồng Chung Vaticanô II với Vấn Đề Đối Thoại Liên Tôn với Do Thái

 

?   ĐTC Biển Đức XVI: Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật I Mùa Vọng Ngày 27/11/2005 về việc bước vào Mùa Vọng

 

Anh Chị Em thân mến!

 

Mùa Vọng bắt đầu vào Chúa Nhật đây, một thời gian rất cảm kích về quan điểm đạo nghĩa, vì nó đầy những hy vọng và mong đợi linh thiêng. Thời nào cộng đồng Kitô hữu cũng sửa soạn tưởng nhớ đến việc hạ sinh của Đấng Cứu Chuộc, nó cảm thấy một nỗi rung động mừng vui ở một tầm mức nào đó truyền đạt cho cả toàn thể xã hội loài người nữa.

 

Trong Mùa Vọng, dân Kitô giáo sống lại một biến động lưỡng diện về tinh thần. Một đàng, họ hướng mắt về mục đích cuối cùng của cuộc hành trình trong lịch sử, đó là việc trở lại vinh quang của Chúa Giêsu Kitô; mặt khác, khi cảm kích nhớ lại việc Người hạ sinh ở Bêlem, họ cúi mình xuống trước máng cỏ của Người. Niềm hy vọng của Kitô hữu được hướng về tương lai, thế nhưng vẫn luôn bắt nguồn từ một biến cố trong quá khứ. Khi tới thời điểm viên trọn, Con Thiên Chúa đã được hạ sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria, “được hạ sinh bởi một người nữ, được hạ sinh theo lề luật”, như Thánh Phaolô đã viết (Gal 4:4).

 

Hôm nay Phúc Âm mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức khi đợi chờ Chúa Kitô tới. Chúa Giêsu nói: “Hãy coi chứng! Vì các con không biết được bao giờ chủ nhà về” (Mk 13:35-37). Bài dụ ngôn ngắn về người chủ bỏ đi có việc và về người đầy tớ có trách nhiệm thay thế ông, cho thấy tầm quan trọng của việc sẵn sàng đón nhận Chúa khi Người đến một cách bất ngờ. Cộng đồng Kitô hữu mong mỏi đợi chờ “việc tỏ hiện” của Người, và Thánh Tông Đồ Phaolô, khi viết cho tín hữu Côrintô, khuyên họ hãy tin tưởng vào việc trung thành của Thiên Chúa, và hãy sống làm sao để khi Người trở lại Người vẫn thấy họ “không lỗi tội” (x 1Cor 1:7-9) vào ngày của Chúa. Đó là lý do mà rất ư là thích hợp khi mở màn cho Mùa Vọng phụng vụ đặt lên môi miệng chúng ta lời kêu cầu của Thánh Vịnh: “Xin hãy tỏ cho chúng con tình yêu kiên trung của Chúa, Ôi Lạy Chúa, và ban cho chúng con ơn cứu độ của Chúa” (84:8).

 

Chúng ta có thể nói rằng Mùa Vọng là thời điểm Kitô cần phải làm bừng lên trong lòng mình niềm hy vọng canh tân thế giới, với ơn Chúa Giúp. Về khía cạnh này, hôm nay tôi cũng xin nhắc lại hiến chế “Vui Mừng và Hy Vọng” của Công Đồng Chung Vaticanô II về Giáo Hội trong thế giới hiện đại: Đó là một văn kiện tràn ngập niềm hy vọng Kitô giáo.

 

Tôi muốn đề cập đặc biệt tới khoản 39, với tiểu đề “Đất Mới và Trời Mới”. Nơi khoản này, người ta đọc thấy rằng: “Chúng ta được dạy rằng Thiên Chúa đang sửa soạn một nơi cư trú mới và một đất mới là nơi công chính ngự trị (x 2Cor 5:2; 2Pt 3:13). Tuy nhiên, “việc mong đợi một đất mới không được làm suy yếu đi mà còn làm phấn khích việc chúng ta quan tâm tới vấn đề xây dựng trái đất này”. Thật vậy, chúng ta sẽ tái nhận thức được những hoa trái nơi nỗ lực của mình khi Chúa Kitô trao cho Cha của Người vương quốc hằng hữu và phổ quát của Người. Chớ gì Mẹ Maria rất thánh, vị trinh nữ Mùa Vọng, giúp chúng ta sống mùa ân sủng này một cách tỉnh thức và dấn thân trong khi đợi chờ Chúa.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 27/11/2005

 

  TOP

    Hội Nghị Công Giáo và Hồi Giáo lần đầu tiên ở Nga đánh dấu 40 năm Tuyên Ngôn về Đối Thoại Liên Tôn của Công Đồng Chung Vaticanô II

 

Lần đầu tiên tại Nga sô, thành phần đại diện Giáo Hội Công Giáo và Hồi Giáo chính thức ngồi lại với nhau để bàn về những khác biệt của nhau cũng như tới những gì tương đồng của họ.

 

Cuộc họp này, với chủ đề “Hồi Giáo và Kitô Giáo: Con Đường Đối Thoại”, đã diễn ra hôm Thứ Năm (Lễ Tạ Ơn ở Hoa Kỳ) 24/11/2005 tại đền thờ chính ở Moscow, và để tưởng niệm 40 năm tuyên ngôn “Nostra Aetate” được Công Đồng Chung Vaticanô II ban hành về mối liên hệ giữa Giáo Hội Công Giáo và các tôn giáo ngoài Kitô Giáo.

 

Bản tuyên ngôn này phát động một ý thức mới giữa những tín đồ Công Giáo và Hồi Giáo, “thành phần tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất, hằng hữu và tồn tại, nhân hậu và toàn năng”. Bản tuyên ngôn này cũng nhấn mạnh đến những điểm về tín điều tương đồng của cả hai tôn giáo được phát sinh từ truyền thống Abraham.

 

Hội Đồng Mufti ở Nga; Cơ Quan Linh Đạo của Tín Đồ Hồi Giáo ở Nga thuộc Âu Châu; Tổng Giáo Phận Mẹ Thiên Chúa ở Moscow, và Học Viện Thần Học Thánh Kinh Thánh Anrê, là những tác nhân đứng ra cùng nhau tổ chức cuộc họp này.

 

Đức Tổng Giám Mục Tadeusz Kondrusiewicz ở Moscow đã nêu lên rằng “nơi môi trường đang thuận lợi hiện nay giữa các tôn giáo trên thế giới, hội nghị này mang một ý nghĩa hợp thời khi mà chẳng những địa phương của chúng tôi mà còn toàn thể xã hội loài người đang phải đối diện với một tiếng gọi cần thiết ở vào những lúc nguy hiểm hơn này”.

 

“Các tôn giáo khác nhau của chúng ta cần phải hợp nhau lại để đáp ứng những tiếng gọi ấy một cách xứng đáng và thích đáng. Nó là trách nhiệm về luân lý của chúng ta và là nhiệm vụ dân sự của chúng ta”.

 

“Thật là ngược đời, ở chỗ, một mặt thì thế giới tân tiến này càng ngày càng bị tục hóa và sống như thể Thiên Chúa không hiện hữu, đàng khác, nó lại van nài các vị lãnh đạo tôn giáo rằng: Hãy giúp chúng tôi, vì tất cả mọi niềm hy vọng của chúng tôi là ở nơi quí vị!”.

 

“Tiếc thay, mặc dù niềm hy vọng nơi các tôn giáo trong việc giái quyết các vấn đề trên thế giới đã không cống hiến những kết quả mong đợi, chúng ta cũng buộc phải dạy cho thế giới đang bị hằn vết bất bình đẳng, tương đối về luân lý, bài ngoại, băng hoại, những cuộc xung đột và khủng bố háo chiến khôn tận, để cuộc đối thoại với nhau và việc khoan dung giữa các niềm tin khác nhau trở thành một phương thức chữa trị các vấn đề của thế giới này”.

 

Vị chủ tịch của Hội Đồng Mufti ở Nga là Ravil Gainutdin, cho biết: “Bốn Mươi Năm trước đây là thời điểm đối thoại và hiệp nhất giữa các niềm tin được bắt đầu. Lần đầu tiên trong lịch sử về mối liên hệ Kitô Giáo và Hồi Giáo, Giáo Hội đã thấy nơi những tín đồ Hồi Giáo – không phải là kẻ thù hay lạc giáo mà là thành phần tham dự vào tình trạng bình đẳng về quyền lợi nơi mối liên hệ giữa nhân loại với nhau”.

 

“Tuyên Ngôn ‘Nostra Aetate’ đã đặt nền tảng cho việc hợp tác hỗ tương giữa người Công giáo và Hồi giáo ở tầm mức quốc tế.

 

“Tín đồ Hồi giáo chúng tôi nhận thấy nơi con người của Đức Gioan Phaolô II là một vị đại canh tân tôn giáo, vị đã ảnh hưởng sâu rộng trong việc truyền đạt tư tưởng của Công Đồng Chung Vaticanô II cũng như việc đối thoại giữa các tôn giáo với nhau”.

 

Cha Igor Byzhanov, bí thư về Mối Liên Hệ Liên Kitô Giáo của Phân Bộ Liên Hệ Tôn Giáo thuộc Tòa Thượng Phụ Moscow Giáo Hội Chính Thống Nga, đã cho biết những nguyên tắc của tuyên ngôn “Nostra Aetate” ngày nay càng hợp thời hơn bao giờ hết nơi đời sống của Âu Châu, nơi mà cuộc náo động mới đây ở Pháp đặt lại vấn đề cùng nhau chung sống ôn hòa của các nền văn hóa Hồi giáo và Kitô giáo, bao gồm cả ở Nga số nữa”.

 

“Giáo Hội Chính Thống Nga có thể cống hiến một mẫu gương tốt lành về vấn dề cụ thể đối thoại…. Nếu có yêu thương là nền móng cho các mối liên hệ giữa những tôn giáo khác nhau, thì sẽ không còn chỗ cho hận thù, cực đoan và khủng bố nữa”.

 

Trong bản tuyên ngôn được thành phần tham dự viên ký kết vào cuối cuộc hội nghị liên tôn này, các vị lãnh đạo tôn giáo nhận định rằng: “thế giới sẽ không cải tiến được bằng việc giải quyết các vấn đề chỉ trong những giới hạn theo chủ nghĩa trần thế”.

 

Họ còn xác tín trong bản tuyên ngôn đúc kết này là: “hết mọi con người đều có quyền tự do theo lương tâm và thờ phượng theo niềm tin đạo giáo của họ”.

 

Họ khẳng định rằng: “Chủ nghĩa cực đoan là những gì xa lạ đối với tính chất tôn giáo, và Thiên Chúa toàn năng không chúc phúc cho bạo lực cùng khủng bố. Thông cảm, đối thoại và khoan dung giữa các niềm tin khác nhau là phương thức chữa trị các vấn đề của thế giới”.
 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 27/11/2005

 

 TOP

 

? Tuyên Ngôn Nostra Aetate của Công Đồng Chung Vaticanô II với Vấn Đề Đối Thoại Liên Tôn với Do Thái

 

Giáo Hội đang mừng kỷ niệm 40 năm nhiều văn kiện được Công Đồng Chung Vaticanô II ban bố. Chúng ta nên nhớ rằng, Công Đồng Chung Vaticanô II là một biến cố rất quan trọng, chẳng những đối với riêng nội bộ Giáo Hội Công Giáo, mà còn với chung thế giới nữa. Đó là lý do chúng ta thấy cả hai vị Giáo Hoàng gần chúng ta nhất là Gioan Phaolô II, và Biển Đức XVI đều công khai tuyên bố rằng các ngài nỗ lực tiếp tục đường hướng của Công Đồng này. Công Đồng Chung Vaticanô II đã kéo dài trong 3 năm, từ ngày Lễ Mẹ Thiên Chúa 11/10/1962 đến Lễ Mẹ Vô Nhiễm 8/12/1965, với tất cả 9 khóa họp, và ban bố 16 văn kiện, trong đó có 4 Hiến Chế (constitution), 3 Tuyên Ngôn (declaration), và 9 Sắc Lệnh (decree). Công Đồng này đã ban bố 2 văn kiện trong năm 1963, 3 trong năm 1964, và 11 trong năm 1965. Riêng khóa họp 7 ngày 28/10/1965, Công Đồng đã ban bố nhiều văn kiện nhất, 5 trong 16 văn kiện. Bởi thế, trong Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật 30/10/2005, vị đương kim Giáo Hoàng Biển Đức XVI của chúng ta đã đề cập đến biến cố 5 văn kiện này, nhất là Tuyên Ngôn Nostra Aetate liên quan tới việc đối thoại liên tôn nói chung và với Do Thái giáo nói riêng, như sau.

 

Riêng vấn đề đối thoại liên tôn với Do Thái Giáo liên quan tới văn kiện Nostra Aetate, ở đây chúng tôi xin đề cập tới 3 chi tiết, chi tiết 1 về Huấn Từ Truyền Tin của Giáo Hoàng Biển Đức XVI, chi tiết 2 về bức thư của ngài gửi Ủy Ban Tòa Thánh về Mối Liên Hệ với Người Do Thái, và chi tiết 3 về lời phát biểu của vị vị tôn sư trưởng của Do Thái đối với mối liên hệ giữa Giáo Hội Công Giáo nói riêng và Kitô giáo nói chung với Do Thái giáo. 

 

Trước hết về Huấn Từ Truyền Tin của Giáo Hoàng Biển Đức XVI liên quan tới vấn đề đối thoại liên tôn với Do Thái Giáo theo văn kiện Nostra Aetate

 

Bốn  Mươi Năm trước đây, vào ngày 28/10/1965, khóa họp thứ bảy của Công Đồng Chung Vaticanô II được diễn ra. Khóa họp này được tiếp nối nhanh chóng bởi 3 khóa khác, và khóa cuối cùng vào ngày 8/12, kết thúc Công Đồng này. Trong thời khoảng cuối cùng của biến cố lịch sử của giáo hội ấy, một biến cố được bắt đầu 3 năm trước đó, một số lớn các văn kiện của công đồng đã được chuẩn nhận. Một số văn kiện này là những văn kiện nổi tiếng và thường được trích dẫn. Những văn kiện khác ít tiếng tăm hơn nhưng cũng đáng ghi nhớ, vì chúng giữ được giá trị của mình và cho thấy tính cách hợp thời của mình, ở một nghĩa nào đó, lại còn gia tăng nữa.

 

Hôm nay, tôi muốn nhắc lại 5 văn kiện được Người Tôi Tớ Chúa là Giáo Hoàng Phaolô VI cùng với các vị nghị phụ của công đồng ký nhận ngày 28/10/1965. Những văn kiện ấy là sắc lệnh “Christus Dominus” về thừa tác vụ mục tử của các vị giám mục; sắc lệnh “Perfectae Caritatis” về việc canh tân đời sống tu trì; sắc lệnh “Optatem Totius” về việc đào luyện linh mục; tuyên ngôn “Gravissimum Educationis” về việc giáo dục Kitô giáo, và sau hết là tuyên ngôn “Nostra Aetate” về mối liên hệ của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo. ……..

 

Tuyên ngôn “Nostra Aetate” cũng có một tầm vóc quan trọng hiện nay, vì nó ảnh hưởng tới thái độ của cộng đồng giáo hội đối với các tôn giáo ngoài Kitô giáo. Căn cứ vào nguyên tắc “tất cả mọi dân tộc làm nên một cộng đồng duy nhất” và Giáo Hội có sứ vụ “nuôi dưỡng mối hiệp nhất và bác ái” giữa các dân tộc (khoản 1), Công Đồng này “không phủ nhận những gì thánh hảo và chân thực” nơi các tôn giáo khác và loan báo cho tất cả mọi người biết Chúa Kitô “là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”, nơi Người con người tìm thấy “tầm mức trọn vẹn của đời sống đạo giáo” (khoản 2). Với bản tuyên ngôn “Nostra Aetate”, các Vị Nghị Phụ Công Đồng Vaticanô II đã nêu lên một số sự thật trọng yếu: ở chỗ rõ ràng nhắc nhở mối liên kết đặc biệt thắt nối Kitô hữu với người Do Thái (khoản 4); nhấn mạnh đến việc Giáo Hội quí trọng những người Hồi giáo (khoản 3), và những tín đồ thuộc các đạo khác (khoản 2); và nhấn mạnh đến tinh thần huynh đệ đại đồng cấm thái độ kỳ thị hay bắt hại đạo giáo (khoản 5).

 

Sau nữa, về bức thư đề ngày 26/10/2005 của Đức Giáo Hoàng gửi Ủy Ban Tòa Thánh về Mối Liên Hệ với Người Do Thái là ủy ban tổ chức đại hội kỷ niệm văn kiện này ngày Thứ Năm 28/10/2005 tại Rôma, ngài đã nhận định và khuyến dụ như sau:

 

Bốn mươi năm đã qua đi từ ngày vị tiền nhiệm của tôi là Giáo Hoàng Phaolô VI ban hành Tuyên Ngôn của Công Đồng Chung Vaticanô II về mối liên hệ của Giáo Hội với Các Tôn Giáo Không Phải Kitô Giáo “Nostra Aetate”, một tuyên ngôn đã mở ra một tân kỷ nguyên của mối liên hệ với nhân dân Do Thái và cống hiến một nền tảng cho việc đối thoại chân thành về thần học. Việc kỷ niệm này cho chúng ta nhiều lý do để bày tỏ lòng tri ân Thiên Chúa Toàn Năng về chứng từ của tất cả những ai, bất chấp một lịch sử phức tạp và thường đau thương, nhất là sau biến cố thảm thương Shoah, một biến cố bị ảnh hưởng bởi ý hệ duy chủng ngoại đạo, đã can đảm hoạt động để nuôi dưỡng việc hòa giải và cải tiến mối thông cảm giữa những người Kitô hữu và Do Thái.

 

Trong việc đặt nền tảng cho mối liên hệ mới mẻ giữa Nhân Dân Do Thái và Giáo Hội, Bản Tuyên Ngôn “Nostra Aetate” đã nhấn mạnh đến nhu cầu cần phải thắng vượt những thành kiến, hiểu lầm, lạnh lùng cũng như ngôn từ khinh khi và hận thú của quá khứ. Bản Tuyên Ngôn này đã từng là cơ hội để hiểu biết và tôn trọng nhau hơn, để hợp tác và thường thân tình giữa những người Công giáo và Do Thái hơn. Bản Tuyên Ngôn này cũng thách đố họ trong việc nhìn nhận những nguồn gốc thiêng liêng chung của họ và cảm nhận gia sản phong phú về đức tin của họ nơi Vị Thiên Chúa Duy Nhất là Đấng tạo thành trời đất, Đấng đã thiết lập giao ước với Dân Tuyển Chọn, đã tỏ cho biết các giới răn của Ngài, và đã dạy là hãy hy vọng vào những lời hứa hẹn cứu độ mang đến niềm tin tưởng và niềm ủi an cho các cuộc chiến đấu trong cuộc đời.

 

Nhân dịp kỷ niệm này, dịp chúng ta nhìn lại 4 thập niên của những giao tiếp tốt đẹp giữa Giáo Hội và Nhân Dân Do Thái, chúng ta cần lập lại việc dấn thân của chúng ta cho những gì vẫn cần phải được thực hiện. Về vấn đề này, từ những ngày đầu tiên Giáo Triều của mình, nhất là trong cuộc tôi viếng thăm mới đây tại Hội Đường Do Thái ở Cologne, tôi đã bày tỏ quyết tâm mạnh mẽ của mình trong việc bước đi theo vết chân của vị tiền nhiệm yêu dấu của tôi là Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.

 

Sau hết, về lời phát biểu của một vị tôn sư Do Thái đối với mối liên hệ giữa Giáo Hội Công Giáo nói riêng và Kitô giáo nói chung với Do Thái giáo trong 40 năm qua.

 

Vị tôn sư này là đại tôn sư Ángel Kreiman ở Chí Lợi từ năm 1970-1990, cũng là vị nguyên phó chủ tịch Hội Đồng Thế Giới Chư Hội Đường Do Thái. Trong cuộc phỏng vấn với mạng điện toán toàn cầu Zenit ở Rôma vào dịp này, ông đã bay toà cảm nhận của mình như sau:

 

Bốn mươi năm là thời gian rất quan trọng. Trong 40 năm, nhân dân Do Thái, thành phần đã bị làm tôi ở Ai Cập, ở trong sa mạc trước khi vào được Đất Hứa. Bốn mươi năm sau Tuyên Ngôn ‘Nostra Aetate’ chúng ta đang tiến vào một miền đất hứa, một miền đất mà đối với các vị giám mục và linh mục Công giáo, thì việc giảng dạy và giáo huấn về Do Thái giáo của  Đức Giêsu, về Do Thái giáo của Phêrô và Phaolô, của các vị tông đồ, về đời sống Do Thái của các Kitô hữu tiên khởi, có một nền tảng về thần học”.

 

“Đó là 40 năm rất ư là tốt đẹp và tích cực. Cả vấn đề liên hệ giữa người Do Thái và Công Giáo, cũng như vấn đề liên hệ giữa Tòa Thánh và nước Do Thái đã gia tăng rất nhiều. Về phía Kitô giáo, tôi nghĩ rằng cái giới hạn duy nhất đó là việc cho vấn đề đối thoại với người Do Thái là quan trọng nhưng không khẩn trương. Giờ đây, rõ ràng là vấn đề đối thoại với người Do Thái không phải là một vấn đề tùy nghi mà là một trách nhiệm bó buộc. Bởi thế mà người Công giáo cần phải chấp nhận nhân dân Do Thái như là liên minh từ ban đầu của mình.

 

“Những diễn tiến trong vấn đề đối thoại về thần học đang xẩy ra rất ư là phấn khởi. Đã tới lúc cần phải nhìn nhận những khác biệt nhau để tương kính nhau hơn nữa, chấp nhận nhau như chúng ta là, yêu thương nhau đúng như những gì chúng ta là. Cái giới hạn của 40 năm này là ở chỗ không có vấn đề nói tới thần học trong việc đối thoại, trong việc giảng dạy và trong giáo lý.

 

“Nó cũng là vấn đề liên quan tới người Do Thái, những người cần phải hiểu rằng việc đối thoại với những người em trẻ trung Kitô hữu là điều hệ trọng, thành phần cùng chia sẻ một niềm tin tưởng vào Vị Thiên Chúa duy nhất, vị Thiên Chúa tỏ mình ra trong thế giới vũ hoàn này. Đối với những vị tôn sư quan sát viên thì đây là lúc bắt đầu nghĩ rằng Giáo Hội không phải là kẻ thù của Do Thái mà là đồng minh đệ nhất của mình.

 

“Vấn đề không phải chỉ nói rằng Kitô hữu và người Do Thái là bạn hữu, rằng không được nghĩ người Do Thái sát hại Con Thiên Chúa; mà phải nói rằng Do Thái Giáo và Kitô Giáo là nền tảng cho cuộc chiến chống chủ nghĩa ngoại đạo… Chủ nghĩa ngoại đạo trong thời đại chúng ta đây được thể hiện qua các hình thức khủng bố, tục hóa, duy vật và duy chủng”.

 

Chúng ta hãy nguyện cầu để dân Do Thái càng tiến đến chỗ gần gũi với Giáo Hội của Chúa Kitô càng nhận biết Người hơn, nhờ đó, họ có thể áp dụng tinh thần trọn lành bao dung tha thứ theo Phúc Âm của Người, hầu mau chóng mang lại hòa bình cho Thánh Địa nói riêng và Trung Đông nói chung, nhất là để dọn đường cho Chúa Kitô tái giáng. Vì theo Thánh Tông Đồ Phaolô, trong Thư gửi Giáo Đoàn Rôma ở đoạn 11 câu 26, ngài đã khẳng định và tiên báo rằng: “Tình trạng mù quáng xẩy ra ở nơi Do Thái cho tới khi đủ số Dân Ngoại, bấy giờ tất cả dân Do Thái sẽ được cứu” (x Rm 11:25-26). Như thế, một khi dân Do Thái tỏ ra nhận biết Chúa Kitô là dấu báo hiệu cho gày cùng tháng tận, cho việc Chúa Kitô đến lần thứ hai; trong khi đó, việc dân Do Thái càng ngày càng thân tình với chung Kitô giáo và riêng Giáo Hội Công Giáo không phải là một dấu chỉ thời đại rất cánh chung rồi hay sao?

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL


 

   TOP

 

TOP

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ