GIÁO HỘI HIỆN THẾ

_______

 THỨ BA 6/12/2005

Tuần 2 Mùa Vọng

 

?   ĐTC Biển Đức XVI gửi Sứ Điệp cho Thượng Phụ Toàn Cầu Bartholomew I dịp Lễ Thánh Anrê

   HIẾN CHƯƠNG VỀ CÁC QUYỀN LỢI CỦA GIA ĐÌNH: Khoản 6-9

?  Những Kiến Trúc Sư xây dựng Nền Văn Hóa Sự Chết (tiếp)

 

?   ĐTC Biển Đức XVI gửi Sứ Điệp cho Thượng Phụ Toàn Cầu Bartholomew I dịp Lễ Thánh Anrê

 

Nhân dịp Lễ Thánh Anrê, quan thày của tòa thượng phụ này, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã gửi cho Đức Thượng Phụ Bartholomew I ở Constantinople một sứ điệp, vị thượng phụ đã mời ngài đến viếng thăm Giáo Hội của mình vào dịp này, nhưng ngài không đến được nên trao sứ điệp tận tay cho vị thượng phụ qua phái đoàn đại biểu của Tòa Thánh do Đức Hồng Y Walter Kasper, chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh Cổ Võ Hiệp Nhất Kitô Giáo, lãnh đạo. Sau đây là nguyên văn sứ điệp của Đức Thánh Cha:

 

Kính gửi Đức Bartholomew I

Tổng Giám Mục Constantinople

Đức Thượng Phụ Hoàn Vũ

 

“Xin ân sủng của Chúa Giêsu ở cùng anh em! Tôi yêu thương tất cả anh em trong Chúa Giêsu Kitô” (1Cor 16:23-24). Thật là vui mừng để viết bức thư này cho Thượng Phụ nhân dịp Lễ Thánh Anrê, vị tông đồ và là người anh em của Thánh Phêrô.

 

Phái đoàn đại biểu tôi gửi đến huynh, do Vị Chủ Tịch của Hội Đồng Tòa Thánh Đặc Trách Cổ Võ Hiệp Nhất Kitô Giáo là Hồng Y Walter Kasper, mang đến huynh lời chào thăm huynh đệ nồng hậu nhất của Giáo Hội Rôma. Vì bản thân tôi muốn hiện diện để chính mình bảo đảm cùng huynh về lòng cảm mến của tôi đối với huynh trong Chúa và cùng huynh cầu nguyện, mà tôi xin chuyển đạt niềm hy vọng thiết tha của tôi về một mối hiệp thông sâu xa thắng vượt những trở ngại vẫn còn giữa chúng ta và làm cho chúng ta có thể cùng nhau cử hành Thánh Thể, một hy tế duy nhất của Chúa Kitô cho thế gian được sự sống.

 

Năm nay chúng ta tưởng nhớ đến đệ tứ chu niên ngày 7/12/1965, ngày Đức Giáo Hoàng Phaolô VI và Đức Thượng Phụ Athenagoras, không hài lòng về những gì xẩy ra vào năm 1054, đã cùng nhau quyết định ở Rôma và Constantinople “hủy bỏ khỏi ký ức của Giáo Hội bản án tuyệt thông đã được ban bố”. Biến cố trọng yếu này trở thành nền tảng cho mối liên hệ mới có tính cách tương kính và hòa giải. Chúng tôi hân hoan nhớ đến những lời đầy thần hứng vang lên hôm ấy ở Vương Cung Thánh Đường Phanar từ Đức Thượng Phụ Athenagoras: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Jn 4:8): tình yêu là dấu chỉ Thiên Chúa của thành phần môn đệ Chúa Kitô, là quyền năng qui tụ Giáo Hội lại với nhau thành một, và là nguồn mạch an bình, hòa hợp và trật tự của Giáo Hội, như là một biểu trưng thường trực và rạng ngời của Thánh Linh ẩn ngự” ("Response to the Common Declaration," 7 December 1965).

 

Thật vậy, việc hủy bỏ này đánh dấu khởi điểm của một mùa mới trong đời sống xã hội, một mùa đối thoại trao đổi, một mùa cho thấy những tiến bộ đáng kể tuy vẫn còn khó khăn cần phải tiếp tục kiên trì theo đuổi những mục tiêu hết sức dấu yêu của nó. Về vấn đề này, nó khiến tôi lấy làm mãn nguyện khi thấy rằng sau vài năm ngưng đọng việc đối thoại về thần học của chúng ta lại được tái diễn. Tôi cầu xin để nó thực sự sinh hoa kết trái và tin tưởng rằng mọi nỗ lực sẽ được thực hiện để đạt được mục đích này. Ai đã cầm cầy thì không được quay trở lại (x Lk 9:62). Trái lại, họ phải kiên trì và làm hoàn trọn công việc của mình, gieo hạt giống và đợi chờ mùa màng tốt tươi được Thiên Chúa ban cho theo lòng nhân hậu của Ngài. Bởi thế chú ý lắng nghe những gì Thần Linh nói về các nhu cầu của Chư Giáo Hội hôm nay cũng như mai hậu, tôi xin Đức Thượng Phụ cùng Tòa Thánh của ngài, cũng như qua ngài tất cả mọi Giáo Hội Chính Thống, hãy tin tưởng rằng Giáo Hội Công Giáo vẫn dứt khoát dấn thân phát động tất cả những hoạt động thích hợp và hữu ích để củng cố đức ái, tình liên kết và việc đối thoại về thần học giữa chúng ta.

 

Trong niềm vui của Lễ Thánh Anrê, Vị Thánh Bảo Hộ Giáo Hội Constantinople, tôi xin lập lại cùng Thượng Phụ tình yêu thương huynh đệ của tôi và gửi tới huynh những lời chào thăm nồng hậu của tôi với chiếc hôn hòa bình.

 

Tại Vatican ngày 26/11/2005

 

Giáo Hoàng Biển Đức XVI

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 30/11/2005

 

  TOP

 

   HIẾN CHƯƠNG VỀ CÁC QUYỀN LỢI CỦA GIA ĐÌNH

 

Văn Kiện của Tòa Thánh ngày 22/10/1983 gửi đến tất cả mọi người, mọi cơ cấu tổ chức và thẩm quyền còn quan tâm tới sứ vụ của gia đình trong thế giới ngày nay

 

(tiếp 3 Thứ Bảy, 4 Chúa Nhật, 5 Thứ Hai)

 

Khoản 6

 

Gia đình có quyền hiện hữu và tiến bộ như là một gia đình (x. Familiaris consortio, no. 46) .

 

a)             Công quyền cần phải tôn trọng và bảo trì phẩm giá, quyền độc lập hợp pháp, tính cách riêng tư, tính cách nguyên tuyền và sự bền vững của mọi gia đình (x. Rerum novarum, no. 10; Familiaris consortio, no. 46; International Covenant on Civil and Political Rights, no. 17).

 

b)            Ly dị là điều tấn công chính cơ cấu hôn nhân và gia đình (x. Gaudium et spes, nos. 48 and 50).

 

c)             Cần phải tôn trọng và giúp đỡ chế độ gia đình bao gồm nhiều thế hệ phần tử khác nhau nơi nào còn tồn tại để chế độ này có thể thi hành vai trò đoàn kết và tương trợ theo truyền thống của mình, đồng thời cũng tôn trọng quyền lợi của cả những gia đình chỉ có thế hệ cha mẹ con cái và phẩm vị riêng của từng phần tử trong gia đình.

 

Khoản 7

 

Hết mọi gia đình đều có quyền tự do sống đời tại gia dưới sự hướng dẫn của cha mẹ, cũng như có quyền công khai tuyên xưng và truyền bá đức tin, tham dự vào việc thờ phượng công cộng và tự do chọn lựa các chương trình học hỏi về đạo giáo mà không bị kỳ thị (x. Dignitatis humanae, no. 5; Religious Freedom and the Helsinki Final Act, 4b; International Covenant on Civil and Political Rights, no. 18).

 

Khoản 8

 

Gia đình có quyền thi hành phận sự về xã hội và chính trị của mình để xây dựng xã hội (x. Familiaris consortio, nos. 44 and 48.).

 

a)             Gia đình có quyền thành lập các hiệp hội với các gia đình và các tổ chức khác, để làm trọn vai trò của gia đình một cách xứng hợp và hiệu năng, cũng như để bảo vệ quyền lợi, duy trì sự thiện hảo và nói lên những chủ trương của gia đình (x. Apostolicam actuositatem, no. 11; Familiaris consortio, nos. 46 and 72).

 

b)            Về các lãnh vực kinh tế, xã hội, pháp lý và văn hóa, cần phải nhìn nhận vai trò chính đáng của các gia đình và các hiệp hội gia đình trong việc phác họa và phát triển các chương trình liên quan tới đời sống gia đình (x. Familiaris consortio, nos. 44 and 45).

 

Khoản 9

 

Gia đình có quyền tin tưởng vào một qui chế thích đáng về gia đình của công quyền nơi các lãnh vực pháp lý, kinh tế, xã hội và tài chính, không có bất cứ một tí gì là kỳ thị trong đó (x. Laborem exercens, nos. 10 and 19; Familiaris consortio, no. 45; Universal Declaration, nos. 16, 3 and 22; International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights, nos. 10, 1).

 

a)             Gia đình có quyền hưởng những điều kiện về kinh tế bảo đảm cho họ có được một mức sống thích đáng với phẩm vị và việc phát triển trọn vẹn của họ. Không được ngăn cản họ chiếm đạt và bảo trì những sở hữu riêng tư là những gì giúp cho gia đình họ được ổn định; những luật lệ liên quan tới việc thừa hưởng hay chuyển đạt của cải cần phải tôn trọng nhu cầu và quyền lợi của các phần tử của gia đình (x. Mater et magistra, Part II; Laborem exercens, no. 10; Familiaris consortio, no. 45; Universal Declaration, nos. 22 and 25; International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights, 7, a, ii).

 

b)            Các gia đình có quyền hưởng những phương sách thuộc lãnh vực xã hội chú trọng tới các nhu cầu của họ, nhất là trong trường hợp một trong hai cha mẹ bị chết sớm, trường hợp một trong hai người phối ngẫu bị bỏ rơi, bị tai nạn, hay bị bệnh nạn hoặc tàn phế, trong trường hợp bị thất nghiệp, hay khi gia đình phải chịu thêm gánh nặng vì các phần tử của mình cao tuổi, bị tật nguyền về tâm thần hay thể lý, hay vì vấn đề giáo dục con cái (x. Familiaris consortio, nos. 45 and 46; Universal Declaration, no. 25, 1; International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights, nos. 9, 10, 1 and 10, 2).

 

c)             Người già có quyền được hưởng trong gia đình của mình, hay trong các tổ chức thích hợp nếu trường hợp trước bất khả, một môi trường giúp họ có thể sống những năm cuối đời một cách thanh thản trong khi thực hiện những sinh hoạt hợp với tuổi tác của họ và giúp họ có thể tham phần vào đời sống xã hội (x. Gaudium et spes, no. 52; Familiaris consortio, no. 27).

 

d)            Cần phải quan tâm tới quyền lợi và nhu cầu của gia đình , nhất là tới giá trị của mối hiệp nhất gia đình, nơi luật lệ và qui chế liên quan đến vấn đề trừng phạt, để làm sao người bị giam giữ vẫn còn liên lạc với gia đình của mình và gia đình được nâng đỡ một cách thích đáng trong thời gian xẩy ra việc giam cầm này (x. ).

 

(còn tiếp)

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ

http://www.vatican.va/roman_curia/pontifical_councils/family/documents/rc_pc_family_doc_19831022_family-rights_en.html

TOP

 

? Những Kiến Trúc Sư xây dựng Nền Văn Hóa Sự Chết

Ông Donald DeMarco, đồng tác giả với ông Benjamin Wiker, viết tác phẩm “Những Kiến Trúc Sư xây dựng Nền Văn Hóa Sự Chết” do Ignatius xuất bản, một tác phẩm trình bày về cuộc sống và lý thuyết của một số tư tưởng gia góp phần gieo mầm văn hóa sự chết. Ông này là phụ giáo sư triết học ở Đại Học và Chủng Viện Các Thánh Tông Đồ Connecticut, và là giáo sư hồi hưu ở Đại Học Thánh Jerome, Ontario. Sau đây là những vấn đề được ông trả lời trong cuộc phỏng vấn với Zenit.

(tiếp 3 Thứ Bảy, 4 Chúa Nhật, 5 Thứ Hai)

Vấn:     Một số người có khuynh hướng qui trách cho thập niên 1960 về tất cả những rắc rối hiện nay trong xã hội. Nhìn lại vấn đề, phải chăng thập niên 1960 cho thấy cái tột đỉnh của một thứ luyện tập về lý lẽ của các biến cố cũng như của các thứ tư tưởng?

Đáp:     Thập niên 1960 tiêu biểu cho, trong nhiều sự khác, cuộc cách mạng về tình dục theo chiều hướng tách tình dục ra khỏi trách nhiệm; điều này có thể quan niệm xác đáng hơn như là một thứ thoái hóa.

Thập niên này cũng tiêu biểu cho tình trạng phủ nhận quyền bính, kể cả việc bác bỏ vai trò làm cha, tức phủ nhận quan niệm về văn hóa cũng như quan niệm về tôn giáo nơi vai trò làm cha. Các quan điểm của Sigmund Freud, Wilhelm Reich, Jean-Paul Sartre và Simone de Beauvoir là những gì hết sức hiển nhiên trong giai đoạn này.

Nó cũng là một giai đoạn được nhiều người có óc tôn giáo cố gắng tạo nên một tổng hợp giữa Kitô giáo và chủ nghĩa Marxist. Một số người tin rằng Kitô giáo có được yêu thương, chủ nghĩa Marxist có cấu trúc để đổi thay xã hội. Tuy nhiên, Kitô giáo và chủ nghĩa Marxist thực sự là những cơ cấu tin tưởng biệt phân, không thể dung hòa với nhau được.

Đúng vậy, thập niên 1960 là một giai đoạn chao đảo hỗn độn, tiêu biểu cho việc qui hội về tư tưởng của một số “kiến trúc sư” được chúng tôi bàn đến. Thế nhưng nó không phải là khởi nguyên của vấn đề. Trái lại, nó là hoa trái của vấn đề, người ta có thể nói là như thế.

Có những căn nguyên bắt nguồn từ những Cuộc Đại Chiến, thậm chí từ Thời Minh Tri, khi con người bắt đầu nghĩ rằng họ có thể sống hết sức ngon lành mà không cần đến Thiên Chúa hay đạo giáo gì cả. Câu nói của Albert Camus vẫn tiếp tục ám ảnh thế giới tân tiến cũng như đến thái độ con người cứ tưởng rằng mình tự mãn, đó là “Làm thế nào Minh Tri lại dẫn đến tình trạng vô minh được chứ?”
 

Vấn:     Làm sao “các kiến trúc sư xây dựng nền văn hóa sự chết có thể tiếp tục chiếm được địa vị cao trong nền văn hóa thịnh hành này?

 

Đáp:    Tôi nghĩ rằng lời kêu gọi chính yếu được 23 kiến trúc sư này phổ biến, và nó là một lời mời gọi đã tác động ngay từ ban đầu, đó là họ cống hiến cho thế giới một thứ hứa hẹn sống cuộc đời thoải mái hơn.

 

Con đường đi ít bị vướng trở nhất, hay ngõ tắt, bao giờ cũng là một lời mời mọc thu hút. Thế giới tân tiến thích phân sự chết ra khỏi sự sống để được hoan hưởng một sự sống không bị chết chóc. Đó là lời hứa hẹn của các Vị Thiên Sai giả tạo, thành phần giảng dạy những gì đạo đức còn hơn là hầu hết con người ta có thể nhận thấy được.

 

Karl Marx, Friedrich Nietzsche, Sigmund Freud và những kiến trúc sư khác tỏ ra một thứ giận dữ chính trực theo kiểu Cựu Ước. Họ thực sự là những luân lý gia. Và họ muốn làm cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn là thế giới chúng ta đã cảm thấy chán chường.

 

Ortega y Gasset đã viết một tác phẩm tiên tri tuyệt vời vào năm 1931 được gọi là “Cuộc Nổi Dậy của Các Thứ Hỗn Mang”. Một trong những thành ngữ tôi ưa thích trong tác phẩm này, một tác phẩm có vô khối thành ngữ đáng nhớ, đó là “chủ quyền của thành phần bất xứng”. Ortega đã cho thấy rằng cái kim tự tháp của xã hội đang bị đảo lộn, ở chỗ con người xứng đáng đã bị tụt xuống đáy, còn đám hổ lốn bất xứng đã nhẩy lên hàng đầu và nắm quyền kiểm soát văn hóa.

 

Hiện nay chúng ta đang sống trong một thứ văn hóa hổ lốn với cảm giác hỗn mang, với những qui chuẩn lộn xộn cùng với cuộc sống lung tung được chuẩn tắc hóa. Triết lý và tôn giáo là những gì được coi như đáng ngờ vực nhất. Sự khôn ngoan được coi là không có hay bất khả đạt. Việc giải trí về truyền thông là những gì chính đáng, một thứ làm phân tâm khỏi thực tại song lại rất hiếm có những gì là minh tri khôn sáng.

 

Văn hóa của chúng ta là một thứ văn hóa rất nông nổi và chúng ta đang sống với một thứ yêu thương theo tính cách của bộ ba phàm tục là tức thời, thủ đoạn và hời hợt. Chúng ta để cho mình bị ảnh hưởng bởi một thứ những triết lý nông cạn nghèo nàn như chúng tôi thấy nơi các kiến trúc sư xây dựng nền văn hóa sự chết.

 

Thật là dễ dàng cho người nào trồi theo giòng nước, thậm chí cả kẻ chết cũng làm được điều này. Thế nhưng, để bơi ngược giòng, để khám phá ra căn tính đích thực của chúng ta là những con người yêu thương, cần phải nỗ lực, can đảm và nhân đức được biểu lộ qua nhiều hình thức.

 

Truyền thông tiếp tục ru ngủ chúng ta, khêu gợi lên trước mắt chúng ta những thứ hấp dẫn của việc hưu trí sớm, của tình trạng độc lập về tài chính, của một tuần làm việc ít ngày, của những chương trình nghỉ hè hào hứng, của vấn đề dễ dàng về vật chất và của cả ngàn hình thức khác của tình trạng ngáp ngủ tiêu biểu cho cái thoải mái của sự chết hơn là sinh lực của sự sống. Bởi thế mà chúng ta dễ bị khai thác bởi các thứ triết lý tệ hại.

(còn tiếp)

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ Zenit ngày 11-12,14/11/2004

TOP

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ