GIÁO HỘI HIỆN THẾ

Tháng 1/2005

Ý Chỉ Ðức Thánh Cha

 

Ý Chung: “Xin cho tất cả những ai đang hoạt động tại Trung Đông biết dấn thân hơn nữa trong việc xây dựng hòa bình”.

 

Ý Truyền Giáo: “Xin cho những nơi truyền giáo được tăng thêm những vị thừa sai thánh đức và biết quảng đại dấn thân loan báo Tin Mừng của Chúa Kitô cho tất cả mọi người”.  

 

__________________

 NGÀY 10 THỨ HAI

 

Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật Lễ Chúa Chịu Phép Rửa về Việc Tái Nhận Thức Phép Thanh Tẩy

 

1.         Hôm nay chúng ta cử hành lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, một biến cố được các Thánh Ký coi như mở màn cho thừa tác vụ thiên sai của Người. Sứ vụ của Chúa Kitô, được khai mào như thế, sẽ được hoàn tất nơi mầu nhiệm vượt qua, một mầu nhiệm được thực hiện bằng cuộc tử nạn và phục sinh của mình, Người sẽ xóa tội lỗi trần gian (x Jn 1:29).

 

2.         Sứ vụ của Kitô hữu cũng được bắt đầu bằng bí tích rửa tội. Bởi thế, việc tái nhận thức phép rửa, qua những lớp giáo lý thuận hợp ở vào tuổi trưởng thành, là một khía cạnh liên quan tới việc tân truyền bá phúc âm hóa. Việc canh tân một cách chín chắn hơn sự gắn bó của con người với đức tin là điều kiện để thực sự và hoàn toàn tham dự vào việc cử hành Thánh Thể, một việc cử hành là tuyệt đỉnh của đời sống giáo hội.

 

3.         Xin Mẹ Maria Rất Thánh giúp cho những ai được tái sinh “bởi nước và Thần Linh” nơi phép rửa biến đời sống của mình trở thành một của lễ dâng lên Thiên Chúa trong việc hằng ngày thi hành giới luật yêu thương, nhờ đó hành sử chức linh mục chung xứng hợp với hết mọi người đã lãnh nhận bí tích thánh tẩy.

 

(sau khi nguyện Kinh Truyền Tin, ĐTC nói tiếp:)

 

Trong Chúa Nhật Chúa Chịu Phép Rửa này, tôi nghĩ đến các trẻ em đã được lãnh nhận phép rửa trong năm nay. Tôi ôm ấp chúng và chúc lành cho chúng. Tôi cũng chúc lành cho những người cha mẹ đỡ đầu, nhất là cha mẹ ruột của những em mới lãnh nhận phép rửa, xin tất cả hãy vun trồng nơi các em, bằng lời nói và gương sáng, mầm mống của sự sống thần linh bắt nguồn từ bí tích rửa tội.


Những Kiến Trúc Sư xây dựng Nền Văn Hóa Sự Chết (tiếp và hết)

Vấn:     Một số người có khuynh hướng qui trách cho thập niên 1960 về tất cả những rắc rối hiện nay trong xã hội. Nhìn lại vấn đề, phải chăng thập niên 1960 cho thấy cái tột đỉnh của một thứ luyện tập về lý lẽ của các biến cố cũng như của các thứ tư tưởng?

Đáp:     Thập niên 1960 tiêu biểu cho, trong nhiều sự khác, cuộc cách mạng về tình dục theo chiều hướng tách tình dục ra khỏi trách nhiệm; điều này có thể quan niệm xác đáng hơn như là một thứ thoái hóa.

Thập niên này cũng tiêu biểu cho tình trạng phủ nhận quyền bính, kể cả việc bác bỏ vai trò làm cha, tức phủ nhận quan niệm về văn hóa cũng như quan niệm về tôn giáo nơi vai trò làm cha. Các quan điểm của Sigmund Freud, Wilhelm Reich, Jean-Paul Sartre và Simone de Beauvoir là những gì hết sức hiển nhiên trong giai đoạn này.

Nó cũng là một giai đoạn được nhiều người có óc tôn giáo cố gắng tạo nên một tổng hợp giữa Kitô giáo và chủ nghĩa Marxist. Một số người tin rằng Kitô giáo có được yêu thương, chủ nghĩa Marxist có cấu trúc để đổi thay xã hội. Tuy nhiên, Kitô giáo và chủ nghĩa Marxist thực sự là những cơ cấu tin tưởng biệt phân, không thể dung hòa với nhau được.

Đúng vậy, thập niên 1960 là một giai đoạn chao đảo hỗn độn, tiêu biểu cho việc qui hội về tư tưởng của một số “kiến trúc sư” được chúng tôi bàn đến. Thế nhưng nó không phải là khởi nguyên của vấn đề. Trái lại, nó là hoa trái của vấn đề, người ta có thể nói là như thế.

Có những căn nguyên bắt nguồn từ những Cuộc Đại Chiến, thậm chí từ Thời Minh Tri, khi con người bắt đầu nghĩ rằng họ có thể sống hết sức ngon lành mà không cần đến Thiên Chúa hay đạo giáo gì cả. Câu nói của Albert Camus vẫn tiếp tục ám ảnh thế giới tân tiến cũng như đến thái độ con người cứ tưởng rằng mình tự mãn, đó là “Làm thế nào Minh Tri lại dẫn đến tình trạng vô minh được chứ?”
 

Vấn:     Làm sao “các kiến trúc sư xây dựng nền văn hóa sự chết có thể tiếp tục chiếm được địa vị cao trong nền văn hóa thịnh hành này?

 

Đáp:    Tôi nghĩ rằng lời kêu gọi chính yếu được 23 kiến trúc sư này phổ biến, và nó là một lời mời gọi đã tác động ngay từ ban đầu, đó là họ cống hiến cho thế giới một thứ hứa hẹn sống cuộc đời thoải mái hơn.

 

Con đường đi ít bị vướng trở nhất, hay ngõ tắt, bao giờ cũng là một lời mời mọc thu hút. Thế giới tân tiến thích phân sự chết ra khỏi sự sống để được hoan hưởng một sự sống không bị chết chóc. Đó là lời hứa hẹn của các Vị Thiên Sai giả tạo, thành phần giảng dạy những gì đạo đức còn hơn là hầu hết con người ta có thể nhận thấy được.

 

Karl Marx, Friedrich Nietzsche, Sigmund Freud và những kiến trúc sư khác tỏ ra một thứ giận dữ chính trực theo kiểu Cựu Ước. Họ thực sự là những luân lý gia. Và họ muốn làm cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn là thế giới chúng ta đã cảm thấy chán chường.

 

Ortega y Gasset đã viết một tác phẩm tiên tri tuyệt vời vào năm 1931 được gọi là “Cuộc Nổi Dậy của Các Thứ Hỗn Mang”. Một trong những thành ngữ tôi ưa thích trong tác phẩm này, một tác phẩm có vô khối thành ngữ đáng nhớ, đó là “chủ quyền của thành phần bất xứng”. Ortega đã cho thấy rằng cái kim tự tháp của xã hội đang bị đảo lộn, ở chỗ con người xứng đáng đã bị tụt xuống đáy, còn đám hổ lốn bất xứng đã nhẩy lên hàng đầu và nắm quyền kiểm soát văn hóa.

 

Hiện nay chúng ta đang sống trong một thứ văn hóa hổ lốn với cảm giác hỗn mang, với những qui chuẩn lộn xộn cùng với cuộc sống lung tung được chuẩn tắc hóa. Triết lý và tôn giáo là những gì được coi như đáng ngờ vực nhất. Sự khôn ngoan được coi là không có hay bất khả đạt. Việc giải trí về truyền thông là những gì chính đáng, một thứ làm phân tâm khỏi thực tại song lại rất hiếm có những gì là minh tri khôn sáng.

 

Văn hóa của chúng ta là một thứ văn hóa rất nông nổi và chúng ta đang sống với một thứ yêu thương theo tính cách của bộ ba phàm tục là tức thời, thủ đoạn và hời hợt. Chúng ta để cho mình bị ảnh hưởng bởi một thứ những triết lý nông cạn nghèo nàn như chúng tôi thấy nơi các kiến trúc sư xây dựng nền văn hóa sự chết.

 

Thật là dễ dàng cho người nào trồi theo giòng nước, thậm chí cả kẻ chết cũng làm được điều này. Thế nhưng, để bơi ngược giòng, để khám phá ra căn tính đích thực của chúng ta là những con người yêu thương, cần phải nỗ lực, can đảm và nhân đức được biểu lộ qua nhiều hình thức.

 

Truyền thông tiếp tục ru ngủ chúng ta, khêu gợi lên trước mắt chúng ta những thứ hấp dẫn của việc hưu trí sớm, của tình trạng độc lập về tài chính, của một tuần làm việc ít ngày, của những chương trình nghỉ hè hào hứng, của vấn đề dễ dàng về vật chất và của cả ngàn hình thức khác của tình trạng ngáp ngủ tiêu biểu cho cái thoải mái của sự chết hơn là sinh lực của sự sống. Bởi thế mà chúng ta dễ bị khai thác bởi các thứ triết lý tệ hại.

 

Vấn:     Nếu nền văn hóa sự chết là ở chỗ có một quan điểm phân mảnh về con người và mất ý thức về Thiên Chúa như ông nhận định thì văn hóa sự sống là ở chỗ nào? Có một hy vọng nào cho tương lai hay chăng?

 

Đáp:    Câu trả lời hiển nhiên đó là nền văn hóa sự sống được đặt nền tảng trên việc thành phần công dân của nó là những con người nhất thống và có những liên hệ chân thực với Thiên Chúa và tha nhân. Câu trả lời thì rõ ràng là như thế, song việc áp dụng nó hay thực hiện nó lại là vấn đề hoàn toàn khác.

 

Chúng ta cần hứng khởi để chấp nhận những thách đố thực sự của đời sống. Khốn khó không được làm chúng ta nản chí. Nhà thơ Anh quốc John Keats thực sự là một nhân vật anh hùng. Trong một bức thư gửi cho anh chị em của mình ở nhà tại các Hải Đảo Hiệp Vương Quốc, thi sĩ đã giải thích lý do tại sao chúng ta cần đến những khó khăn để thăng hóa việc làm và khám phá ra chúng ta thực sự là ai.

 

“Anh chị em không thấy một thế giới của những nỗi đớn đau và rắc rối cần thiết hay sao để giáo dục trí thức và làm cho nó có một hồn sống? Đời sống của con người khác nhau ra sao thì hồn sống của những cuộc sống này cũng khác nhau như vậy, do đó mà Thiên Chúa đã dựng nên các hữu thể cá biệt”.

 

Keats sống lưu đầy ở Rôma và chết vào năm 23 tuổi bởi bệnh lao phổi. Mặc dù chết sớm nhưng anh cuũg để lại cho hậu sinh một số bài thơ đáng kể đầy minh thức và duyên dáng. Chúng ta cần phải chú ý hơn nữa tới những con người như Keats và ít lưu tâm hơn nữa tới Howard Sterns trên thế giới.

 

Nếu tôi muốn độc giả có được một điều gì đó duy nhất từ tác phẩm của chúng tôi thì đó là cái ý nghĩa nống cốt của thực tại thuyết về nhân loại học. Tất cả vấn đề là ở chỗ chúng ta cần hiểu một cách thực sự, chứ không phải theo những ảo tưởng lôi cuốn, làm người có nghĩa là gì, rồi cố can đảm sống theo những gì thấu hiểu, tức là sống một cách chân thực. 

 

Con người là gì? Họ là một con người đồng một lúc vừa là một cá thể chuyên biệt vừa là một hữu thể cộng đồng mang trách nhiệm yêu thương đối với tha nhân của mình. Trong cái căng thẳng năng động giữa hai cực cá nhân tính và cộng đồng tính ấy xuất phát một con người thực sự có thể sống cuộc đời hôn nhân tốt đẹp và giúp vào việc đặt nền tảng để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.

 

Khi Fyodor Dostoevsky nộp cuốn đại tiểu thuyết của mình là “Tội Ác và Trừng Phạt”, ông đã đính kèm mấy chữ sau đây: “Đây là một câu truyện của một sinh viên đại học có một trí khôn bị lây nhiễm những tư tưởng bất toàn đang trôi nổi theo chiều gió”.

 

Nền văn hóa sự sống được đặt căn bản trên những ý nghĩ trọn vẹn về con người. Ngôi vị thuyết của Đức Gioan Phaolô II là một vị trí tốt đẹp để bắt đầu nếu chúng ta muốn hiểu khá hơn về những gì để làm một con người. Đối với vấn đề thách đố trong việc sống như một con người hoàn toàn, thì cần phải có thách đố như thế nếu chúng ta muốn tránh được những lôi kéo của nền văn hóa sự chết cũng như nếu chúng ta muốn sống hợp với những nguyên tắc của nền văn hóa sự sống.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ Zenit ngày 11-12,14/11/2004

 

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ