GIÁO HỘI HIỆN THẾ

Tháng 2/2005

Ý Chỉ Ðức Thánh Cha

 

Ý Chung: “Xin cho thành phần bệnh nhân, nhất là những bệnh nhân bần cùng nhất, được quan tâm và săn sóc về y khoa xứng với nhân phẩm làm người”.

 

Ý Truyền Giáo: “Xin cho thành phần phụ trách việc truyền giáo mỗi ngày một ý thức hơn là việc loan truyền tin mừng hữu hiệu và thu phục lòng người nhờ ở lòng say mến Chúa Kitô ”.  

 

__________________

 NGÀY 15 THỨ BA

 

“Con phải ở lại thế gian lâu hơn…để làm cho Mẹ được nhận biết và yêu mến”

 Lucia: Người Tông Đồ Fatima Thế Giới Tiên Khởi đã tạ thế lià đời

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

Hôm Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay 13/2/2005, vị thụ khải cuối cùng ở Biến Cố Thánh Mẫu Fatima năm 1917 là chị nữ tu Lucia de Jesus dos Santos đã tạ thế, hưởng thọ gần 98 tuổi. Chị sinh ngày 22/3/1907 tại Aljustrel, một thôn nhỏ ở Fatima vào lúc 7 giờ tối, được rửa tội ngày 30/3 cùng năm và được xưng tội rước lễ lần đầu vào năm 6 tuổi. Bố là ông António dos Santos và mẹ là Maria Rosa, và là người con út trong bảy chị em (6 gái và 1 trai).

Sau mấy tuần liền yếu bệnh liệt giường không ra khỏi phòng, trước thời điểm Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II vào bệnh viện, chị đã an lành thánh đức qua đời tại nữ đan viện Carmêlô của chị ở Coimbra thuộc trung phần nước Bồ Đào Nha, chung quanh có chị em dòng, ĐGM Albino Cleto giáo phận Coimbra, các vị bác sĩ và y tá.

Khi nghe tin chị bị liệt bệnh càng ngày càng trầm trọng, ĐTC GPII cũng đã gửi cho chị những lời an ủi vào Thứ Bảy 12/2/2005, ngài hứa cầu cho chị để chị có thể sống “giây phút đau đớn và đau khổ” và ban phép lành cho chị. Như ĐGM Cleto cho biết chị Lucia đã nghe những lời của ĐTC vào chính ngày chị qua đời và tỏ ra rất cảm động, cử chỉ cuối cùng trước khi chị mãn phần. Khi còn là một trong ba thiếu nhi Fatima, chị đã cùng hai Á Thánh Phanxicô và Giaxinta thiết tha cầu nguyện cho Đức Thánh Cha nên trong giờ lâm chung đã được nghe thấy những lời an ủi của vị Đại Diện Chúa Kitô trên thế gian. Nghe tin chị qua đời, ĐTC GPII, mới vào tuần phòng Mùa Chay với giáo triều Rôma ở Vatican, đã tỏ ra rất buồn thương chị.

Nếu Mùa Chay là Mùa Fatima, vì mệnh lệnh chính yếu của Sứ Điệp Fatima là cải thiện đời sống, và ngày 13 là Ngày Fatima thế nào, thì sự kiện chị Lucia tạ thế vào Ngày Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay 13/2/2005 là thời điểm thật sự mang đầy ý nghĩa và đáng nhớ lắm vậy!

Sự kiện vị nữ tu mang tên Lucia này sống lâu trên trần gian một cách hiếm có so với tuổi đời của con người hiện nay là vì sứ mệnh của chị được Mẹ Maria cho chị biết từ ngày 13/6/1917, đó là sứ mệnh: “Chúa Giêsu muốn dùng con để làm cho Mẹ được nhận biết và yêu mến”. Đó là lý do, như Mẹ tiết lộ cho chị hay là “Phanxicô và Giaxinta sẽ được đưa về trời sớm, còn con phải ở lại thế gian lâu hơn”. Và khi thấy chị tỏ ra buồn tủi lên tiếng: “Con phải ở lại đây một mình hay sao?”, Mẹ Maria liền an ủi chị rằng: “Đừng buồn, hỡi con gái của Mẹ. Con cảm thấy đớn đau lắm phải không? Đừng nản lòng. Mẹ sẽ không bỏ rơi con đâu. Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ là nơi cho con nương náu và là đường đưa con đến với Thiên Chúa”.

Đúng như người viết bài này linh cảm, một linh cảm đã được bày tỏ trong cuộc phỏng vấn của chương trình Phát Thanh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp tối Thứ Ba 16/5/2000 trên băng tần AM 1190 KEZY, bài phỏng vấn này cũng đã được phổ biến trong cuốn “Fatima: Dấu Chỉ Thời Đại” (trang 25), do Nhà Xuất Bản Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp xuất bản trong Đại Năm Thánh 2000, thời điểm vị nữ tu khả kính này còn đang khỏe mạnh không có dấu hiệu gì là suy kiệt về sức khỏe. Nguyên văn của điều linh cảm này như sau:

 

Chị Lucia có thể sắp qua đời, vì sứ mệnh của chị, như Mẹ Maria cho chị biết vào lần hiện ra thứ hai, 13/6/1917, là ‘Phanxicô và Giaxinta sẽ được Mẹ đưa về trời sớm, phần con thì cần phải ở lại thế gian lâu hơn, vì Chúa Giêsu muốn dùng con để làm cho Mẹ được nhận biết và yêu mến’. Quả thực chị đã hết sức nỗ lực để chu toàn sứ mệnh chuyên biệt của mình này, qua việc vận động để giáo quyền chấp nhận (ngày 13/9/1939) việc giữ các Ngày Thứ Bảy Đầu Tháng, việc xin Giáo Hội thành lập (ngày 4/5/1944) Lễ Kính Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ cho toàn thể hoàn vũ, và việc Đức Thánh Cha (ngày 25/3/1984) hiệp cùng hàng giáo phẩm hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ. Giờ đây, Bí Mật Fatima phần thứ ba sắp được hoàn toàn tiết lộ, (có thể xẩy ra trong Năm Thánh 2000 đầy ý nghĩa này), Mẹ càng được nhận biết và yêu mến thì cũng chính là lúc chị về với Mẹ để gặp lại hai người em họ Á Thánh của mình là Phanxicô và Giaxinta”.

 

Lucia: Quyết Chiến trong Đạo Binh Dàn Trận

 

Fatima là một biến cố tuyệt đỉnh của các Biến Cố Thánh Mẫu chính yếu lớn lao được Giáo Hội công nhận và giáo dân sùng mộ (như ở Balê năm 1830, La Salette năm 1846, Lộ Đức năm 1858 v.v.). Vì Biến Cố Thánh Mẫu Fatima này chẳng những liên quan đến vai trò của Giáo Hội, (biến cố Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II bị ám sát ngày 13/5/1981, và việc ngài vì biến cố này đã chính thức hiến dâng thế giới, nhất là Nước Nga, cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ ngày 25/3/1984), mà còn đến lịch sử cận đại của thế giới nữa, (như biến cố Cộng Sản Đông Âu tự động sụp đổ cuối năm 1989, nhất là sự kiện Nước Nga tự giải thể như một hình thức bỏ đường tà trở về với công lý vào Lễ Giáng Sinh 25/12/1991), đúng như những gì đã được Mẹ Maria tiên báo ở cuối phần Bí Mật Fatima thứ ba: “Cuối cùng, Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ thắng. Đức Thánh Cha sẽ hiến dâng Nước Nga cho Mẹ và Nước Nga sẽ trở lại”, những gì đã được chị Lucia viết ra từ thập niên 1940. 

 

Biến Cố Fatima thực sự nổi vượt hơn mọi Biến Cố Thánh Mẫu khác, chẳng những ở tại biến cố này liên quan đến vai trò của Giáo Hội hoàn vũ cũng như đến lịch sử thế giới, mà còn ở tại biến cố này có một chiến đấu tính rõ ràng, có một “đạo binh dàn trận” sẵn sàng chiến đấu, đúng như Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort) đã tiên đoán trong cuốn Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria của ngài:

 

·         “Đối với ma quỉ cùng quân quốc của hắn, Mẹ Maria chắc chắn trở thành kinh hoàng khủng khiếp như một đạo binh dàn trận, nhất là vào những thời gian sau này, vì ma quỉ, khi biết rằng không còn nhiều thời gian, và giờ đây càng ít thời gian hơn nữa, trong việc hủy hoại các linh hồn, sẽ tăng gấp đôi nỗ lực của hắn cũng như những cuộc chiến đấu của hắn” (50)

 

·         “Quyền năng của Mẹ Maria trên tất cả mọi quỉ ma sẽ đặc biệt chiếu sáng vào những thời buổi sau này, khi mà Satan giăng bẫy gót chân của Mẹ: tức là giăng bẫy các tôi tớ khiêm hạ và các con cái nghèo hèn của Mẹ, thành phần Mẹ sẽ lập nên để chống lại với hắn…” (54)

 

·         “Họ sẽ vác trên vai mình một thứ Thánh Giá đẫm máu, tay phải của họ cầm Tượng Chuộc Tội, tay trái của họ nắm Tràng Kinh Mân Côi, con tim của họ ghi Thánh Danh Chúa Giêsu và Mẹ Maria, hành vi cử chỉ của họ bộc lộ đức hạnh và khổ hạnh của Chúa Giêsu Kitô. Họ là những con người cao cả phải đến; còn Mẹ Maria, theo lệnh của Đấng Tối Cao, chính là vị sẽ trang bị cho họ, để vương quốc của Ngài bao trùm trên vương quốc của những người vô đạo, trên vương quốc của những kẻ tôn thờ ngẫu tượng cũng như trên vương quốc của tín đồ Hồi Giáo” (59)

 

Thật vậy, nếu Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort) đã nói tiên tri đúng về sự kiện vào những thời buổi sau này, Thiên Chúa sẽ làm cho Mẹ Maria được nhận biết và yêu mến (xem Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria số 49), và sự kiện này đã quả nhiên xẩy ra ở Biến Cố Fatima liên quan đến điều bí mật “Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới”, thì những gì thánh nhân nói về cuộc hận thù quyết thắng này, tức về trận chiến Satan hận thù muốn tấn công hủy hoại các linh hồn và Mẹ Maria quyết thắng hắn bằng đạo binh của Mẹ, cũng đã hoàn toàn được ứng nghiệm. Ở chỗ, cũng trong Biến Cố Thánh Mẫu Fatima, khi vừa hiện ra với 3 Thiếu Nhi Fatima lần đầu tiên, ngày 13/5/1917, chưa xưng mình là ai và đến để làm gì, Mẹ Maria đã vội vàng triệu tập một đạo binh để chiến đấu với Satan trong việc cứu độ các tội nhân ngay. So với các lần hiện ra đặc biệt khác trong Thời Điểm Maria, cả ở Biến Cố Thánh Mẫu Paris năm 1830 lẫn ở Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức 1858, Mẹ Maria không hề tỏ ra một thái độ đẩy mạnh chiến cuộc và lôi kéo thành phần được Mẹ chọn hiện ra nhập cuộc để cùng với Mẹ chiến đấu cứu các linh hồn như ở Biến Cố Thánh Mẫu Fatima vào lần hiện ra thứ nhất này.

 

“- Các con có sẵn lòng dâng mình cho Thiên Chúa hầu chấp nhận mọi đau khổ Ngài để xẩy ra, như một việc đền tạ những xúc phạm Ngài phải chịu mà cầu cho tội nhân ăn năn trở lại không?

- Vâng, chúng con sẵn lòng!

 

- Vậy thì các con sẽ chịu nhiều đau khổ, nhưng ơn Chúa sẽ phù trợ các con”.

 

Phải, “đạo binh dàn trận” của Đức Mẹ Mân Côi, của Đức Mẹ Thắng Trận, chính là 3 Thiếu Nhi Fatima nhỏ bé này. Các em đã “dàn trận” khi thưa “vâng, chúng con sẵn lòng”. Để rồi, các em đã được vị Nữ Tướng Chỉ Huy Trưởng của các em trao cho các em một thứ khí giới vô cùng lợi hại, một thứ khí giới ma quỉ sợ nhất, một thứ khí giới ma quỉ đã phải qui hàng, đó là Thập Giá, là khổ đau. Thật ra, trên danh nghĩa, các em Thiếu Nhi Fatima ở Bồ Đào Nha ấy không trực tiếp dàn trận để chiến đấu với ma quỉ cho bằng để hy sinh “chấp nhận chịu khổ” hầu đền tạ Chúa nhờ đó cứu các tội nhân mà thôi. Tuy nhiên, một khi các em cứu các tội nhân là các em đương nhiên trở thành kẻ thù không đội trời chung của ma quỉ. Cũng như chính ma quỉ, hắn không trực tiếp chống lại và không thể nào chống lại được với Chúa Cứu Thế hay với Mẹ Maria, nhưng chúng vẫn có thể gián tiếp phá hủy công ơn cứu chuộc do hai Mẹ Con này lập được, bằng việc hủy hoại các linh hồn, nhất là thành phần đã lãnh nhận phép rửa, đã được hưởng hoa trái ơn cứu chuộc. Vậy thì ba em Thiếu Nhi Fatima đã dàn trận như thế nào, hay đã tung lưới đánh cá trong mùa biển động cuối thời ra sao?

 

Trước hết, căn cứ vào nội dung và tinh thần của lời hiệu triệu của Mẹ Maria thì ơn gọi chung của cả 3 em Thiếu Nhi Fatima này là Hy Sinh Tự Hiến như một Tế Vật. Thật thế, chị Lucia đã thuật lại những gì 3 em đã sống Ơn Gọi Hy Tế này trong Hồi Ký Thứ Nhất như sau.

 

·         “Vào một ngày nắng gắt, sau khi cho đi bữa ăn trưa của mình, theo quyết định chung với nhau từ trước, hễ thấy các trẻ nghèo thì cho họ đồ ăn trưa của mình, 3 trẻ cảm thấy khát, song không còn một giọt nước để uống. Đầu tiên các em dâng hy sinh khát nước vì Chúa cho các tội nhân như thường lệ. Sau đó, không chịu khát được nữa, với sự đồng ý của Phanxicô và Giaxinta, Lucia đã ghé vô một nhà ở gần đó để xin nước uống. Thế nhưng, số nước xin được lại bị đổ xuống khe đá cho chiên uống, vì cả ba ai cũng nhất định hy sinh chịu khát để cầu cho các tội nhân. Sau cùng, cơn khát làm cho Giaxinta khó chịu đến nỗi em đã nói với Lucia bảo các tiếng dế và ếch nhái đang kêu im đi vì chúng làm ‘em nhức đầu khủng khiếp’. Nhưng, sau khi nghe Phanxicô nhắc: ‘Em không muốn chịu đựng cho các tội nhân à?’, Giaxinta liền lấy hai bàn tay ôm đầu, mà nói: ‘Có chứ. Thôi để chúng kêu đi!’.”

 

Căn cứ vào các việc và các cách hy sinh của các em, mà, theo như Đức Mẹ đã cho các em biết vào lần hiện ra thứ 5, 13/9/1917, là “Thiên Chúa hài lòng với những hy sinh của các con”, thì “những hy sinh” đã làm đẹp lòng Thiên Chúa của các em có thể phân tách và tóm lược như sau:

 

Hy sinh là quên mình. Lúc mới bắt đầu tập hy sinh, các em đã đồng ý với nhau là đem đồ ăn trưa của mình cho đàn vật ăn hay cho các trẻ nghèo mà các em gặp được ăn.

 

Hy sinh là hãm mình. Các em thắt một đoạn giây thừng ở chung quanh bụng cho thân xác của các em luôn luôn cảm thấy khó chịu và đau đớn.

 

Hy sinh là cầm mình. Biết anh Phanxicô đang bị bệnh, theo tình anh em tự nhiên, Giaxinta rất muốn sang thăm anh của mình, song em đã cầm mình lại và không làm như thế: “Mẹ em đi khỏi rồi, em muốn sang thăm anh Phanxicô nhiều lần, song em đã không đi” (Hồi Ký Lucia 1)

 

Hy sinh là ép mình. Giaxinta đã tâm sự với Lucia: “Đêm qua, em đau đớn quá sức, và vì em muốn dâng hy sinh cho Chúa, em đã không trở mình trên giường, làm cả đêm em không ngủ được” (Hồi Ký Lucia 2)

 

Hy sinh là ẩn mình. Trong thời gian cả Phanxicô và Giaxinta bị bệnh, Giaxinta thường được Lucia và phòng thăm trước Phanxicô, Gianxinta hay nói với Lucia là “Thôi chị sang thăm anh Phanxicô đi. Em sẽ hy sinh ở đây một mình”.

 

Hy sinh là dấn mình. Các em vốn không thích, trái lại, còn cảm thấy bị làm phiền và khổ tâm khi người ta cứ tuốn đến hạch hỏi các em về việc Đức Mẹ hiện ra với các em, nhưng, trong khi, theo tính tự nhiên, Lucia và Giaxinta chạy trốn mỗi khi thấy bóng người ta, thì Phanxicô đã đứng lại để tiếp họ.

 

Hy sinh là bỏ mình. Vốn không thích uống sữa một tí nào cả, thế mà, sau lần từ chối ly sữa mẹ em đưa cho em uống khi em bị bệnh, sau đó, được Lucia nhắc cho, Gianxinta đã ngoan ngoãn uống nó mỗi khi Mẹ của em đưa cho em uống.

 

Hy sinh là liều mình. Thay vì hy sinh chịu khát, có một lần, Giaxinta đã uống cho đỡ khát, song nước mà Giaxinta uống cho đỡ khát đó không phải là nước ngon lành gì, mà là nước ao hồ bẩn thỉu, nước mà dân chúng vẫn giặt quần áo và thú vật vừa uống vừa lội trong đó.

 

Hy sinh để đền bù cho tha nhân. Dù đang bị bệnh, Giaxinta cũng cứ đi lễ ngày thường để bù lại việc bỏ lễ Chúa Nhật của các tội nhân, hay cũng vì bị bệnh, Giaxinta cần ăn uống nhiều hơn, song em đã nhịn ăn để bù lại tội tham ăn của các tội nhân.

 

Hy sinh trong tất cả mọi sự. “Giaxinta quan tâm đến vấn đề hy sinh cầu cho tội nhân ăn năn hối cải đến nỗi em không chịu bỏ qua một dịp hy sinh nào” (Hồi Ký Lucia 1).

 

Tóm lại, nguyên tắc và đường lối hy sinh của 3 Thiếu Nhi Fatima gương mẫu tiên khởi này đã thực hiện đúng y như lời Thiên Thần dạy các em vào lần hiện ra thứ hai năm 1916, khi các em hỏi Thiên Thần rằng: “Chúng con phải hy sinh như thế nào?”, đó là “làm mọi sự có thể để hy sinh”.

 

Ba Thiếu Nhi Fatima tiên khởi chẳng những tìm hy sinh theo hoàn cảnh riêng có thể của mình, còn cùng nhau hy sinh, (như trường hợp điển hình được đề cập đến đầu tiên), nhắc nhau hy sinh và nhất là nhắc nhau hy sinh vì yêu Chúa nữa.

 

Cùng nhau hy sinh: Mặc dầu vốn thích hát những bài hát dân ca lành mạnh, nhưng, dù được người ta mến và yêu cầu hát, các em đã không hát nữa, theo đề nghị của Phanxicô:

 

·         “Chúng ta đừng hát bài hát đó nữa. Chúa chúng ta chắc chắn không muốn chúng ta hát những điều như thế này” (Hồi Ký Lucia 3).

 

Nhắc nhau hy sinh:

 

·         “Một ngày kia, khi con đến, Giaxinta hỏi con: ‘Chị có nhiều hy sinh hôm nay không? Em có nhiều lắm.’” (Hồi Ký Lucia 1).

 

Nhắc nhau hy sinh vì yêu Chúa:

 

·         “Kể từ ngày Đức Mẹ dạy chúng con dâng hy sinh của chúng con cho Chúa Giêsu, thì bất cứ lúc nào chúng con chịu đựng, hay đồng ý hy sinh, Giaxinta đều hỏi: ‘Chị có nói với Chúa Giêsu là Chị làm vì yêu Chúa không?’ Nếu con nói chưa, em liền nói: ‘Vậy em sẽ thưa với Người’, rồi em chắp ta lại, mắt ngước lên trời: ‘Ôi Chúa Giêsu, vì yêu Chúa và cho các tội nhân ăn năn hối cải’”.

 

Vẫn biết lời hiệu triệu “dàn trận” của Mẹ Maria trên đây là ơn gọi chung của ba em Thiếu Nhi Fatima - ơn gọi hy sinh: ở chỗ chịu khổ để đền tạ Chúa và cứu các tội nhân. Tuy nhiên, theo Hồi Ký của chị Lucia thuật lại, thì trong ơn gọi chung này, mỗi em lại được kêu gọi sống ơn gọi chuyên biệt của mình nữa.

 

Căn cứ vào cuộc đời của các em, cũng như căn cứ vào thứ tự của lời Mẹ Maria hiệu triệu các em ngay từ ban đầu của Biến Cố Thánh Mẫu Fatima có tính cách chiến đấu tính ấy, chúng ta thấy ba em đã dàn trận khi sống ơn gọi chuyên biệt của mình để hoàn thành ơn gọi chung là hy sinh này, theo kiểu lớn trước bé sau thế này: Thiếu Nhi Fatima Lucia 10 tuổi “chấp nhận mọi đau khổ”; Thiếu Nhi Phanxicô 9 tuổi “đền tạ những xúc phạm”; Thiếu Nhi Giaxinta 7 tuổi “cầu cho tội nhân ăn năn trở lại”.

 

(xin xem tiếp 2 bài nữa "Lucia: Thiếu Nhi Đau Khổ - Nữ Tu Thánh Mẫu" và "Lucia: Vai Chính trong Lược Sử Fatima Biên Niên")

 

 

Những Lời Phát Biểu của Thủ Tướng Do Thái Ariel Sharon: "Chỉ có khi nào loại trừ đi bạo lực chúng ta mới có thể cống hiến hy vọng cho hòa bình mà thôi".

 

…….. (phần chào chúc mở đầu tương tư như của lãnh tụ Palestine Abbas dưới đây)

 

Năm chúng ta tin tưởng đây sẽ đánh dấu một khúc quanh quan trọng nơi tính chất của đời sống của tất cả mọi dân tộc ở miền này, nhất là nhân dân Palestine và nhân dân Do Thái. Và chúng ta thực sự tin tưởng cơ hội này sẽ không bị bỏ lỡ. Chúng ta có cơ hội để quay lưng lại với con đường đổ máu đã từng áp đặt trên chúng ta 4 năm qua. Chúng ta có dịp để bắt đầu bước đi trên một con đường mới lần đầu tiên, cho tới nay, sau cả một thời gian rất dài. Chúng ta thấy được những dấu hiệu của một niềm hy vọng cho một tương lai tốt đẹp hơn cho con cái cháu chắt của chúng ta.

 

Chúng ta cần phải cẩn trọng tiến lên. Đây là một dịp rất ư là mong manh và chúng ta biết rằng có những thành phần cực đoan đang chờ chực để phá vỡ cơ hội này, thế nhưng tùy ở chúng ta trong việc bảo đảm rằng họ không thể nhận chìm cơ hội này vào máu huyết. Nếu chúng ta không làm sao để có thể nắm lấy cơ hội này bay giờ đây thì họ sẽ thành đạt, song chúng ta được được để họ làm thế.

 

Hôm nay đây, tại nơi này, tất cả chúng ta cần phải tuyên bố rằng không để cho bạo lực thắng thế. Bạo lực sẽ không được phép sát hại hy vọng. Tất cả chúng ta cần phải nhất định không thực hiện một giai đoạn yên tĩnh phù du thoáng qua, trái lại, tất cả chúng ta cần phải không ngừng và hăng say phá vỡ guồng máy khủng bố một lần vĩnh viễn. Chỉ có khi nào loại trừ đi bạo lực chúng ta mới có thể cống hiến hy vọng cho hòa bình mà thôi. Chúng ta không được phép để vuột khỏi bàn tay của chúng ta cơ hội này, niềm hy vọng này, cơ hội để thực sự khởi đầu lại này.

 

Và đó là lý do tại sao chúng tôi đã từng hoạt động rất hăng say và hết sức dứt khoát trong việc tái lập mối liên hệ của chúng tôi với bên Palestine. Trong mấy ngày vừa rồi chúng tôi đã có được những kiến thức mới về những con số phản nghịch với người Palestine của chúng tôi, một kiến thức có thể mang lại hòa bình và yên ổn cho cả hai dân tộc.

 

Trong cuộc gặp gỡ của tôi với Ông Abbas hôm nay, tôi đã tiến đến chỗ đồng ý rằng người Palestine sẽ chấm dứt tất cả mọi hoạt động của thành phần Palestine bạo lực, ở hết mọi nơi. Ngược lại, Do Thái sẽ chấm dứt những cuộc hành quân của mình chống lại người Palestine ở tất cả mọi địa điểm. Chúng tôi thực sự tin tưởng và hy vọng rằng kể từ hôm nay một tân kỷ nguyên sẽ được khai mào trong yên hàn và bình lặng.

 

Ngoài ra, chúng tôi đã đồng ý về những dàn xếp mới mẻ về an ninh đối với các địa điểm của người Palestine. Tôi đã tường trình cho Chủ Tịch Abbas về một loạt những đường lối xây dựng niềm tin tưởng. Chúng tôi sẽ thả ra tất cả những đợt tù nhân và chúng tôi sẽ thiết lập một tòa án mới để giải quyết vấn đề dàn xếp việc thả các tù nhân sau này.

 

Chúng ta thực sự hy vọng rằng chúng ta sẽ có được một kỷ nguyên mới, một kỷ nguyên sẽ mang lại một đổi thay thực sự để làm căn bản xứng hợp và vững chắc cho những mối liên hệ mới giữa chúng ta. Tôi cương quyết áp dụng dự án giải gỡ đã được tôi khởi xướng. Dự án này đã được khởi xướng như là một bước tiến đơn phương của chúng tôi, thế nhưng, nếu thực sự có sự đổi thay về phía Palestine, thì việc giải gỡ này có thể mang lại hòa bình và thực hiện như là điểm khởi sự mới cho dự án được hợp tác và thành đạt.

 

Dự án giải gỡ này có thể sẽ mở đường cho việc thực hiện lộ trình hòa bình được chúng ta dấn thân thực hiện và muốn mang ra thi hành. Chúng tôi đang sửa soạn để đảm nhận tất cả những gì chúng tôi đã chấp nhận và biến chúng thành hành động chứ không phải lời nói. Đó là con đường duy nhất chúng ta có thể đạt đến chỗ có hai quốc gia sống trong hòa bình và yên hàn bên nhau.

 

Được ngài cho phép, ở đây tôi xin được ngỏ lời cùng các người công dân của cả hai dân tộc chúng ta.

 

Với người láng giềng Palestine của chúng tôi, tôi xin hứa với quí vị rằng chúng tôi thực sự có ý tôn trọng quyền quí vị được sống độc lập và xứng đáng. Tôi đã nói điều này rồi. Do Thái không có ý tiếp tục cai trị quí vị và vận mệnh của quí vị.

 

Chúng tôi, ở Do Thái, đã từng có thể, mặc dù đớn đau, bỏ đi giấc mơ của mình, nhãn quan của mình, và chúng tôi biết rằng chúng tôi cần phải thực hiện một số điều khác nhau để thực hiện con đường mới đang được phác họa này. Chúng tôi tin tưởng rằng cả quí vị nữa cũng có thể vận dụng sức lực để cụ thể hóa việc từ bỏ một số quan điểm của mình để sống trong an bình và tương kính bên chúng tôi.

 

Với công dân Do Thái, tôi muốn nói là, chúng ta đã trải qua rất nhiều năm khốn khó, mà chúng ta đã đứng vững trong những kinh nghiệm khốn khó nhất, thế nhưng giờ đây chúng ta đang có được tương lai đây trước mắt chúng ta. Chúng ta biết rằng những gì đang đợi chờ chúng ta không phải là những gì dễ dàng và chúng ta cũng biết rằng có vấn đề bất đồng thực sự về những điều ấy. Tuy nhiên, chúng ta không được bỏ lỡ cơ hội để cố gắng mang ra thực hiện những gì chúng ta mong đợi từ rất nhiều năm qua, đó là tình trạng an ninh, yên ổn và hòa bình.

 

Và lời kêu gọi cuối cùng của tôi giờ đây xin được gửi tới các vị điều hợp của chúng tôi, cũng như quí vị lãnh đạo các quốc gia Ả Rập trong vùng: Chúng ta hãy nắm tay, chúng ta hãy xích lại gần nhau và mang đến một bầu khí mới cởi mở cùng nhân nhượng. Hôm nay chúng ta có thể ngăn chặn trận lụt của thành phần cực đoan có thể khiến tất cả chúng ta bị cuốn đi theo cơn lốc máu huyết và bạo lực. Tôi thực sự hy vọng rằng chúng ta có thể nói với các dân tộc ở Trung Đông rằng đang có những tia sáng hy vọng đầu tiên phát hiện ở nơi đây rồi. Tôi hy vọng là tất cả mọi người chúng ta đều có thể sống trong tự do, hy vọng, thịnh vượng và an bình.

 

Chớ gì tất cả chúng ta xứng đáng với cơ hội cao cả đang tự hiến mình cho chúng ta đây.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo tài liệu của CNN

 

 

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ