GIÁO HỘI HIỆN THẾ

Tháng 3/2005

Ý Chỉ Ðức Thánh Cha

 

Ý Chung: “Xin cho chính quyền ở hết mọi quốc gia luôn biết quan tâm đến những người nghèo, bị bỏ rơi và đàn áp, trong những phương sách chính trị và dự án phát triển của họ”.

 

Ý Truyền Giáo: Xin cho mỗi một Giáo Hội địa phương nhận thức được nhu cầu cần phải huấn luyện những Kitô hữu thánh thiện, nhờ đó có thể đáp ứng các đòi hỏi của việc tân truyền bá phúc âm hóa.  

 

__________________

 NGÀY 6 CHÚA NHẬT VI MÙA CHAY

TRONG NĂM THÁNH THỂ

        

ĐTC GPII: Sứ Điệp gửi Thánh Bộ Phượng Tự và Bí Tích về Phụng Vụ Thánh Thể

 

Nhân dịp Đại Hội của Thánh Bộ Phượng Tự và Bí Tích, ĐTC đã gửi cho đại hội (gồm 32 vị hồng y và được kết thúc vào Thứ Sáu 4/3) này một sứ điệp, được ký tại bệnh viện hôm Thứ Năm 3/3/2005, qua ĐHY Tổng Trưởng Francis Arinze.

 

Trong sứ điệp của mình, ngoài lời cám ơn riêng vị hồng y tổng trưởng, ĐTC còn bày tỏ lòng biết ơn “thánh bộ này về việc nhanh chóng đáp ứng những ý định của Thông Điệp ‘Giáo Hội Sống Bởi Thánh Thể’ cũng như của Tông Thư ‘Xin Chúa Ở Với Chúng Con’, bằng việc biên soạn trước hết là Bản Hướng Dẫn ‘Redemptionis Scaramentum’ rồi tới ‘Những Gợi Ý và Dự Thảo’ cho Năm Thánh Thể. Tôi hy vọng rằng, nhờ những văn kiện ấy, cộng đồng Kitô hữu có thể mến yêu Bí Tích Chí Thánh hơn, cũng như giúp vào việc cử hành hy tế Thánh Thể một cách xứng đáng hơn, hợp với các qui tắc phụng vụ, nhất là với việc tham dự nội tâm”.

 

Về một trong những khía cạnh của đề tài đại hội lần này là “nghệ thuật cử hành phụng vụ” “ars celebrandi”, ĐTC đã nhấn mạnh là “trên hết, nơi việc cử hành Thánh Thể, một tái hiện thực sống động của Mầu Nhiệm vượt qua, Chúa Kitô hiện diện và tác động của Người được chia sẻ bằng nhiều cách thích hợp với nhân tính của chúng ta, một nhân tính rất cần đến những lời nói, dấu hiệu và nghi thức. Tính cách hiệu lực của hành động này là hoa trái của công việc Chúa Thánh Thần làm, thế nhưng cũng cần đến đáp ứng của loài người nữa”.

 

Theo ĐTC, “nghệ thuật cử hành cho thấy khả năng của các vị thừa tác viên thánh chức cũng như của toàn thể cộng đồng qui tụ lại để cử hành trong việc tác hành và sống ý nghĩa của mỗi một tác động phụng vụ”, giúp cho họ “thấm nhập sâu xa vào Mầu Nhiệm này”.

 

Một vấn đề khác cũng được bàn đến trong đại hội là việc giảng giải trong khi cử hành Thánh Thể, ĐTC cũng nói việc giảng giải “có một hình thức khác với hình thức  dạy giáo lý thông thường, và là vấn đề giảng giải bắt con người thực hiện phải thi hành một trách nhiệm lưỡng diện đối với cả Lời Chúa lẫn cộng đồng…. Không được bỏ qua việc giảng giải, nhất là khi cử hành Thánh Thể Chúa Nhật. Trong môi trường tân truyền bá phúc âm hóa thì bài giảng tiêu biểu cho một cơ hội huấn luyện quí hóa, và đối với nhiều người là một cơ hội đặc biệt”.

 

Theo ý ĐTC thì bài giảng “cần phải thiên về cuộc hội ngộ, một cách sâu xa và tác động nhất có thể, giữa Thiên Chúa là Đấng nói và cộng đồng là người nghe”.  

 

Một vấn đề khác nữa cũng được bàn đến trong đại hội đó là vấn đề huấn luyện về phụng vụ, ĐTC viết: “Các cộng đồng giáo xứ, các hội đoàn và các phong trào của hội thánh rất cần phải được huấn luyện thích hợp, để hiểu biết phụng vụ hơn nơi ngôn từ phong phú của phụng vụ, cũng như để cảm nghiệm được phụng vụ trọn vẹn hơn. Có thế, đời sống cá nhân cũng như cộng đồng mới cảm thấy được những thành quả lợi ích của phụng vụ”.

 

Việc huấn luyện về phụng vụ, theo ĐTC, chẳng những là những gì “quan trọng” đối với “việc sửa soạn cho các linh mục, phó tế, các thừa tác viên hội dòng và thành phần tu sĩ”, mà còn trở thành một “chiều kích vĩnh viễn của việc giảng dạy giáo lý cho tất cả mọi tín hữu nữa.

 

“Việc canh tân phụng vụ của Công Đồng Chung Vaticanô II đã làm phát sinh ra nhiều hoa trái quan trọng, nhưng cần phải tiến từ việc canh tân đến việc việc ý thức sâu xa hơn, nhờ đó phụng vụ có thể càng ngày càng làm nên đặc tính của đời sống cá nhân cũng như cộng đồng, biến đổi họ thành những nguồn lực thánh đức, hiệp thông và truyền giáo”.

 

Mầu Nhiệm Thánh Thể – Ơn Gọi Làm Người

 Tổng Quan về Thông Điệp Thánh Thể của ĐTC Gioan Phaolô II

Theo tài liệu được Zenit phổ biến ngày Thứ Năm Tuần Thánh, 17/4/2003, thì Văn Phòng Báo Chí của Tòa Thánh đã phổ biến một bản tóm lược về Bức Thông Điệp về Thánh Thể với Giáo Hội cùng ngày Thứ Năm Tuần Thánh, trước khi Đức Thánh Cha ký ban hành bức Thông Điệp này trong Thánh Lễ Tiệc Ly ban chiều. Nguyên văn của bản tổng tóm này như sau:

Bức Thông Điệp thứ 14 của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II được ban hành với mục đích cống hiến một ý thức sâu xa hơn về mầu nhiệm Thánh Thể liên quan đến Giáo Hội. Bản văn kiện tương đối ngắn nhưng quan trọng về khía cạnh thần học, qui luật và mục vụ. Bản văn sẽ được ký ban hành vào Ngày Thứ Năm Tuần Thánh, trong Thánh Lễ Tiệc Ly, nơi khung cảnh phụng vụ mở màn cho Tam Nhật Vượt Qua (the Paschal Triduum).

Hy Tế Thánh Thể, “nguồn mạch và là tột đỉnh của đời sống Kitô giáo”, chất chứa tất cả những gì phong phú thiêng liêng của Giáo Hội đó là Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã hiến mình cho Chúa Cha vì phần rỗi của thế giới. Trong việc cử hành “mầu nhiệm đức tin” này, Giáo Hội làm cho Tam Nhật Vượt Qua trở thành “đương thời” với con người nam nữ ở hết mọi thế hệ.

Chương thứ nhất, chương về Nhiệm Đức Tin”, là chương cắt nghĩa về bản tính hy hiến của Thánh Thể là hy hiến, nhờ thừa tác vụ của linh mục, được làm cho hiện thực một cách bí tích nơi từng Thánh Lễ mình Chúa Kitô “đã trao nộp” và máu Người “đã đổ ra” để cứu độ thế gian. Việc cử hành Thánh Thể không phải là việc lập lại Cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô, hay việc làm cho cuộc khổ nạn này được lập đi lập lại nhiều lần trong thời gian và không gian; Thánh Thể là một hy tế Thập Giá duy nhất được tái hiện thực cho tới năm cùng tháng tận. Theo lời Thánh Ignatio Antiochia, Thánh Thể là “một thứ thuốc bất tử, một thứ chất kháng tử”. Là một hứa hẹn Nước Trời mai hậu, Thánh Thể cũng nhắc nhở tín hữu về trách nhiệm của họ đối với hiện thế, trong đó, thành phần yếu kém, thành phần bất lực nhất và thành phần bần cùng nhất đang mong được giúp đỡ từ những ai biết đoàn kết có thể cho họ thấy lý do của niềm hy vọng.

“Thánh Thể Xây Dựng Giáo Hội” là đầu đề của chương thứ hai. Khi tín hữu đến với bữa tiệc thánh này, họ chẳng những lãnh nhận Chúa Kitô mà còn được Người lãnh nhận nữa. Bánh và Rượu được thánh hiến là lực phát sinh sự hiệp nhất của Giáo Hội. Giáo Hội được nên một với Chúa của mình, Đấng ẩn thân dưới các hình Thánh Thể, ngự trong Giáo Hội và xây dựng Giáo Hội. Giáo Hội tôn thờ Người chẳng những nơi chính Thánh Lễ mà còn ở tất cả mọi lúc khác nữa, khi ân cần sống với Người như “bảo tàng” trân quí nhất của mình.

Chương thứ ba là chương suy tư về “Tính Cách Tông Đồ của Thánh Thể và Giáo Hội”. Như tất cả thực tại của Giáo Hội không thể nào hiện hữu nếu không có việc tông truyền thế nào thì cũng không có Thánh Thể thực sự nếu không có Giám Mục như vậy. Vị linh mục cử hành Thánh Thể là tác hành thay cho Chúa Kitô là Đầu; vị linh mục không chiếm hữu Thánh Thể như làm chủ Thánh Thể mà là làm tôi phục vụ lợi ích cho cộng đồng thành phần được cứu độ. Cũng thế, cộng đồng Kitô hữu không “chiếm hữu” Thánh Thể mà là lãnh nhận hồng ân Thánh Thể.

Những suy tư này được khai triển ở chương thứ bốn, chương “Thánh Thể và Mối Hiệp Thông Giáo Hội”. Giáo Hội, với tư cách là thừa tác viên của mình và máu Chúa Kitô cho phần rỗi thế giới, trung thành với tất cả những gì chính Chúa Kitô thiết lập. Trung thành với giáo huấn của các Tông Đồ, gắn bó với qui luật của các phép bí tích, Giáo Hội cũng cần phải tỏ ra một cách hữu hình mối hiệp nhất vô hình của mình nữa. Thánh Thể không thể bị “sử dụng” như phương tiện hiệp thông; trái lại, Thánh Thể bao hàm mối hiệp thông như vốn đã hiện hữu và củng cố mối hiệp thông này. Theo chiều hướng này cần phải để ý nhấn mạnh đến việc dấn thân đại kết là những gì làm nên đặc tính của tất cả mọi người môn đệ Chúa Kitô, vì Thánh Thể kiến tạo nên mối hiệp thông và xây dựng mối hiệp thông này, khi Thánh Thể được cử hành một cách chân thực. Thánh Thể không thể trở thành một thứ vồ vập của cá nhân cũng như của các cộng đồng riêng biệt.

“Phẩm Chất của Việc Cử Hành Thánh Thể” là vấn đề của chương thứ năm. Việc cử hành “Thánh Lễ” được đánh dấu bằng những dấu hiệu bề ngoài nhắm đến việc đề cao niềm vui qui tụ cộng đồng lại chung quanh tặng ân Thánh Thể khôn sánh. Các thứ kiến trúc, điêu khác, hội họa, âm nhạc, văn chương và một cách tổng quan hơn, hết mọi hình thức nghệ thuật, đều cho thấy Giáo Hội qua các thế kỷ đã không sợ phung phí nơi việc Giáo Hội làm chứng cho tình yêu đã liên kết Giáo Hội với Phu Quân thần linh của Giáo Hội. Các cuộc cử hành ngày nay cũng cần phải lấy lại cảm quan mỹ lệ.

Chương thứ sáu, chương về “Tại Học Đường Maria, ‘Người Nữ của Thánh Thể’”, là một suy tư hợp thời và vốn có về hình ảnh tương tự giống nhau lạ lùng giữa Mẹ Thiên Chúa, Vị trở thành ‘nhà tạm” đầu tiên khi cưu mang thân thể của Chúa Giêsu trong lòng Mẹ, và Giáo Hội là nơi bảo trì và ban tặng cho thế gian mình máu Chúa Kitô. Thánh Thể được ban cho các tín hữu để sự sống của họ được trở thành một bài ca vịnh Ngợi Khen liên tục tôn vinh Chúa Ba Ngôi Chí Thánh.

Đoạn Kết đòi những ai muốn theo đuổi con đường thánh thiện không cần phải có “các thứ chương trình” mới. Chương trình này vốn đã hiện hữu, đó là chính Chúa Kitô, Đấng muốn được nhận biết, mến yêu, bắt chước và loan truyền. Việc áp dụng tiến trình này được thực hiện nhờ ở Thánh Thể. Điều này được thấy nơi chứng từ của các Vị Thánh, thành phần lúc nào trong cuộc sống cũng chỉ biết làm giãn cơn khát của mình nơi nguồn mạch vô tận của mầu nhiệm này, cũng như chỉ biết kín múc từ mạch nguồn ấy một thứ mãnh lực thiêng liêng cần thiết để sống trọn vẹn ơn gọi rửa tội của mình mà thôi.

“Vì sự dữ tràn lan mà lòng mến nơi hầu hết con người ta đã trở nên nguội lạnh”

Nhân dịp Đức Thánh Cha ban hành Thông Điệp Thánh Thể Ecclesia de Eucharistia vào chính Ngày Thứ Năm Tuần Thánh 17/4/2003, dịp Chúa Giêsu thiết lập Bí Tích Thánh Thể, kèm theo Phẩm Chức Linh Mục và Giới Răn Yêu Thương, chúng ta chẳng những cần phải đọc kỹ những gì Đức Thánh Cha nhắc nhở và giáo huấn về mối liên hệ sâu xa giữa Giáo Hội và Thánh Thể, đúng như nhan đề của văn kiện, một giáo huấn bao gồm cả 3 khía cạnh thần học, qui luật và mục vụ. Về mục đích Đức Thánh Cha viết bức thông điệp này, như ở các đoạn 6 và 7 cho thấy, là để tiếp tục chiều hướng Duc in altum về nội tâm của một Giáo Hội Chứng Nhân Truyền Giáo, bằng việc chiêm ngắm dung nhan Chúa Kitô, nhất là trong Bí Tích Thánh Thể.

Thế nhưng, một trong những lý do sâu xa Đức Thánh Cha đã viết bức thông điệp về mối liên hệ mật thiết giữa Giáo Hội và Thánh Thể này, chứ không phải chỉ viết nguyên những gì về Mầu Nhiệm Thánh Thể mà thôi, như bức Thông Điệp “Mầu Nhiệm Đức Tin” Mysterium Fidei của Đức Thánh Cha Phaolô VI được ban hành vào chính ngày Lễ kính Thánh Giáo Hoàng Thánh Thể Piô X, 3/9/1965, hay một số Thông Điệp khác được Ngài nhắc đến ở đoạn 9, là vì ngày nay Kitô hữu Công Giáo đã coi thường, nếu không muốn nói là tỏ ra bất kính, một cách ý thức hay vô thức, đối với Chúa Giêsu Thánh Thể nơi việc cử hành Phụng Vụ Thánh Thể cũng như trong việc tin thờ Thánh Thể. Đó là lý do, ở câu cuối cùng của phần dẫn nhập, đoạn 10, Ngài đã thẳng thắn cho biết về mối quan tâm của Ngài như sau: “Tôi hy vọng rằng bức Thông Điệp này đây sẽ hiệu nghiệm giúp vào việc đánh tan những đám mây mù bất khả chấp về tín lý cũng như thực hành, nhờ đó Thánh Thể tiếp tục chiếu sáng tất cả mầu nhiệm rạng ngời của mình”.

Thực ra, ngay vào đầu thế kỷ 20, trời cao đã báo động tình trạng “vì sự dữ tràn lan mà lòng mến nơi hầu hết con người ta đã trở nên nguội lạnh” (Mt 24:12) này rồi. Đúng thế, thế kỷ 20 được mở ra với Vị Giáo Hoàng (1903-1914) lấy khẩu hiệu phục hồi mọi sự trong Chúa Kitô “Instaurare omnia in Christo”, vị Giáo Hoàng được tặng cho tước hiệu Giáo Hoàng Thánh Thể, vì một đàng, về mặt tiêu cực, Ngài đã mạnh mẽ chống lại “sự dữ lan tràn” là các ngụy thuyết được tổng hợp nơi Tân Tiến Thuyết (Modernism), bằng Sắc Lệnh Lamentabili Sane ngày 3/7/1907 và Thông Điệp Pascendi Dominici Gregis ngày 8/9/1907, và về mặt tích cực, Ngài nỗ lực củng cố “lòng mến” nơi Kitô hữu Công Giáo, như vào năm 1905, Ngài đã cho phép và kêu gọi giáo dân rước lễ thường xuyên hơn, thậm chí rước lễ hằng ngày, một thực hành sống đạo hoàn toàn ngoại lệ và phá lệ đối với truyền thống trước đó, nhất là qua Sắc Lệnh Quam Singulari vào năm 1910 Ngài đã giảm số tuổi trẻ em xuống để các em có thể rước lễ sớm hơn. Sau khi Vị Thánh Giáo Hoàng Thánh Thể Piô X này qua đi 2 năm, tại Bồ Đào Nha đã xẩy ra Biến Cố Fatima, một Biến Cố Thánh Mẫu được mở màn với thần trời và các trẻ em về Chúa Giêsu Thánh Thể.

Thánh Thể là Cốt Lõi của Biến Cố Fatima và Sứ Điệp Fatima

Thật vậy, theo Hồi Ký của chị Lucia, một trong ba trẻ được thị kiến của Biến Cố Fatima bấy giờ, thì vào năm 1916, tại Fatima, Thiên Thần Hòa Bình đã hiện ra với các em trong thời đoạn của Thế Chiến Thứ Nhất (1914-1918) để dạy các em về Chúa Giêsu Thánh Thể. Diễn tiến xẩy ra ba lần thứ tự như sau:

Lần thứ nhất, Thiên Thần Hòa Bình hiện ra với 3 Thiếu Nhi Fatima vào Mùa Xuân năm 1916 ở trong hang Loca do Cabeco, để kêu gọi và dạy các em cầu nguyện:

"Đừng sợ. Ta là Thiên Thần Hòa Bình. Hãy cầu nguyện với Ta".

Thiên Thần Hòa Bình đã làm gương cho 3 Thiếu Nhi Fatima để các em biết các em cần phải có những cử chỉ cầu nguyện như thế nào, bằng việc ngài phục mình sát mặt xuống đất.

Thiên Thần Hòa Bình đã dạy 3 Thiếu Nhi Fatima cầu nguyện như sau:

"Lạy Chúa Trời Con, con tin kính Chúa, con thờ lạy Chúa, con trông cậy Chúa và con yêu mến Chúa. Xin Chúa tha thứ cho những người không tin kính Chúa, không thờ lạy Chúa, không trông cậy Chúa và không yêu mến Chúa".

Sau khi 3 Thiếu Nhi Fatima bắt chước tác động và lập lại lời cầu của Thiên Thần trên đây ba lần, Thiên Thần Hòa Bình khuyên dụ các em cầu nguyện:

"Các em hãy cầu nguyện như thế, Trái Tim Chúa Giêsu và Mẹ Maria luôn lắng nghe lời các em kêu xin".

Lần thứ hai, Thiên Thần Hòa Bình hiện ra với 3 Thiếu Nhi Fatima vào Mùa Hè cùng năm, sau giờ nghỉ trưa, ở dưới bóng cây bên một giếng nước, để kêu gọi các em hy sinh cầu nguyện và dạy cho các em biết cách hy sinh đền tạ Chúa mà cứu rỗi các tội nhân:

"Các em đang làm gì thế? Hãy cầu nguyện, cầu nguyện thật nhiều. Trái Tim Chúa Giêsu và Mẹ Maria có những dự tính đầy yêu thương dành cho các em đó. Hãy dâng kinh nguyện và thật nhiều hy sinh lên Đấng Tối Cao".

Thiên Thần Hòa Bình dạy cho 3 Thiếu Nhi Fatima cách hy sinh khi ngài trả lời cho câu hỏi của Lucia: "Chúng con làm thế nào để hy sinh?":

"Các em hãy biến mọi sự các em có thể thành những hy sinh dâng lên Chúa như một việc để đền tạ tội lỗi Ngài đã bị xúc phạm mà cầu cho tội nhân ơn ăn năn hối cải. Như thế, các em sẽ mang lại hòa bình cho quê hương của các em. Ta là thiên thần bổn mạng, thiên thần của Nước Bồ Đào Nha. Nhất là các em hãy chấp nhận và bằng lòng với tất cả mọi đau khổ Chúa gửi đến cho các em".

Lần thứ ba, Thiên Thần Hòa Bình hiện ra với 3 Thiếu Nhi Fatima vào một buổi chiều Mùa Thu cũng năm ấy, trên đường các em từ Pregueira về Lapa, để cho các em rước Mình Thánh (Lucia) và Máu Thánh (Phanxicô và Giaxinta), sau khi kêu gọi các em đền tạ Chúa Giêsu Thánh Thể như sau:

Thiên Thần Hòa Bình cho 3 Thiếu Nhi Fatima rước Mình Máu Thánh Chúa Giêsu, bằng cách, ngài cho Lucia (bấy giờ đã được xưng tội rước lễ lần đầu) rước Mình Thánh và cho Phanxicô cùng với Giaxinta (bấy giờ chưa xưng tội rước lễ lần đầu) rước Máu Thánh.

Thiên Thần Hòa Bình kêu gọi 3 Thiếu Nhi Fatima đền tạ Chúa Giêsu Thánh Thể như sau:

"Các em hãy nhận lãnh Mình và uống Máu Chúa Kitô bị xúc phạm khủng khiếp bởi những tội vong ân bội nghĩa. Các em hãy đền bồi tội lỗi của họ và hãy an ủi Thiên Chúa của các em".

Ngài sấp mình trước Thánh Thể mà nguyện 3 lần:

"Lạy Chúa Ba Ngôi Chí Thánh là Cha và Con và Thánh Thần, con sấp mình thờ lạy Chúa. Con xin dâng lên Chúa Mình Máu châu báu, linh hồn và Thiên Tính của Chúa Giêsu Kitô đang hiện diện trong các nhà tạm trên khắp thế giới, để đền tạ những lăng nhục, phạm thánh và thờ ơ lãnh đạm mà chính Người đã phải chịu. Xin vì công nghiệp vô cùng của Thánh Tâm Chúa Giêsu và của Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria, xin Chúa ban cho các tội nhân ơn ăn năn hối cải".

Phần Mẹ Maria đã hiện ra sáu lần với 3 em Thiếu Nhi Fatima Lucia (10), Phanxicô (9) và Giaxinta (7) vào cùng ngày 13 trong tháng, từ Tháng Năm đến Tháng Mười, (trừ Tháng Tám xẩy ra vào ngày 19 vì 3 em bị chính quyền bắt nhốt vào thời điểm ngày 13 như Đức Mẹ hẹn), khoảng thời gian ở giữa cuộc Cách Mạng Nga đang sửa soạn bùng nổ, từ lúc Lenin về nước vào Tháng Tư (trước khi Đức Mẹ hiện ra 1 tháng) và cách mạng thành công vào Tháng Mười Một (sau khi Đức Mẹ hết hiện ra 1 tháng). Tại Biến Cố Thánh Mẫu Fatima năm 1917 này, Mẹ Maria đã đến để kêu gọi con người về với Chúa qua Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, một Trái Tim đã được Mẹ cho biết vào lần hiện ra thứ ba 13/7/1917 trong phần Bí Mật Fatima thứ hai, đó là “Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới”, một trái tim Mẹ cũng đã cho 3 Thiếu Nhi Fatima thị kiến thấy vào lần hiện ra thứ hai 13/6/1917, một trái tim có vòng gai quấn chung quanh đâm vào cần phải được rút ra bằng việc đền tạ, và sau đó Mẹ đã nói riêng với Lucia rằng: “Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ là nơi con nương náu và là đường đưa con đến với Thiên Chúa”.

Vâng, cốt lõi của Sứ Điệp Fatima với ba Mệnh Lệnh Fatima là cải thiện đời sống, lần hạt mân côi và tôn sùng mẫu tâm, cũng như trọng tâm của Biến Cố Fatima đó là Chúa Giêsu Thánh Thể, chứ không phải Mẹ Maria. Ngay trước khi biến đi vào lần hiện ra cuối cùng 13/10/1917, chấm dứt Biến Cố Fatima, Mẹ đã cho con người thấy cốt lõi của Sứ Điệp Fatima, đó là lời Mẹ kêu gọi con người hãy cải thiện đời sống, trở về với Chúa như sau: “Đừng xúc phạm đến Chúa là Thiên Chúa của chúng at nữa, vì Người đã bị xúc phạm đến nhiều lắm rồi”. Vị “Chúa là Thiên Chúa của chúng ta” trong câu nói chính yếu của Sứ Điệp và Biến Cố Fatima đây là gì, nếu không phải là Chúa Giêsu Thánh Thể, Đấng đã được Thiên Thần Hòa Bình dạy cho 3 Thiếu Nhi Fatima cầu nguyện, hy sinh và đền tạ Người.

Mầu Nhiệm Thánh Thể là Mầu Nhiệm Chúa Kitô cũng là Mầu Nhiệm Ơn Gọi Làm Người

Ôi Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa đã yêu loài người chúng con nói chung và Kitô hữu chúng con nói riêng, đến nỗi Chúa đã tìm hết cách để ở lại với chúng con cho đến tận thế trong Bí Tích Thánh Thể. Bí Tích Thánh Thể quả thực là chứng từ hùng hồn nhất về nỗi lòng khao khát này của Chúa, như Chúa đã thiết tha bộc tỏ trên cây Thập Giá trước khi tắt thở: “Tôi khát” (Jn 19:28), khát đến “há hốc miệng ra” và đến “nhỏ cả giãi ra”, qua hình ảnh cạnh sườn của Chúa bị lưỡi đòng của người lính Rôma rạch toác ra để máu và nước là những gì cuối cùng còn sót lại nơi thân thể hy hiến đến tận tuyệt của Chúa tuôn trào (x Jn 19:34).

Thế nhưng, lạy Chúa, để có thể nhận ra Chúa thực sự là Emmanuel (x Mt 1:23; Jn 1:14) chẳng những đã ở giữa loài người chúng con nơi dân Do Thái đời các thánh Tông Đồ ngày xưa, cũng như nơi Giáo Hội hậu lai cho tới tận thế, chúng con cần phải có một đức tin mãnh liệt. Bằng không, chúng con cũng sống với Chúa chẳng khác gì trường hợp các tông đồ ngày xưa, thành phần được sống ngay bên Chúa, được chứng kiến thấy phép lạ Chúa làm, được nghe thấy những lời Chúa nói, tức được trực tiếp động chạm đến một Vị Thiên Chúa Làm Người hữu hình bằng xương bằng thịt (x 1Jn 1:1-2), mà rồi cuối cùng tất cả các vị còn bỏ Chúa mà tẩu thoát trong vườn Cây Dầu khi Chúa bị bắt (x Mk 14:50), mà còn phản nộp Chúa như tông đồ Giuđa Ích-Ca (x Mt 16:14-16, 25; 27:3-6), trắng trợn chối bỏ Chúa một cách phũ phàng như tông đồ Phêrô (x Lk 22:31-34, 54-62).

“Xin Chúa hãy tăng thêm đức tin cho chúng con” (Lk 17:5) để chúng con có thể chẳng những tin nhận Chúa thực sự hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể, mà còn hiểu được sâu xa Mầu Nhiệm Thánh Thể của Chúa nữa. Thật vậy, Mầu Nhiệm Thánh Thể bao gồm tất cả Mầu Nhiệm Chúa Kitô, Mầu Nhiệm Nhập Thể, Mầu Nhiệm Tử Giá, Mầu Nhiệm Phục Sinh và Mầu Nhiệm Giáo Hội.

Mầu Nhiệm Thánh Thể bao gồm Mầu Nhiệm Nhập Thể, vì nếu Thiên Chúa không “hóa thành nhục thể” (Jn 1:14) cũng chẳng bao giờ sẽ có Thánh Thể. Mầu Nhiệm Thánh Thể bao gồm Mầu Nhiệm Tử Giá, vì Chúa Giêsu thiết lập Bí Tích Thánh Thể không phải chỉ để ở lại với Giáo Hội mà còn để tiếp tục sứ vụ, đúng hơn, để hiện thực công cuộc cứu độ Tử Giá của Người, qua riêng Phụng Vụ Thánh Thể và chung Phụng Vụ Bí Tích. Mầu Nhiệm Thánh Thể bao gồm Mầu Nhiệm Phục Sinh, vì mục đích của việc Chúa Kitô đến trần gian và ở với loài người là để “cho chiên được sự sống và là một sự sống viên mãn hơn” (Jn 10:10), một sự sống Người đã bắt đầu thông ban cho con người qua các vị tông đồ vào buổi tối ngày thứ nhất trong tuần, khi Người thổi hơi “Thánh Thần” (Jn 20:22) “là Đấng ban sự sống” (Kinh Tin Kính) từ thân xác phục sinh của Người trên các vị. Mầu Nhiệm Thánh Thể bao gồm Mầu Nhiệm Giáo Hội, vì Giáo Hội, về hữu hình là một Cơ Cấu Phẩm Trật, và về vô hình, là một Cộng Đồng Hiệp Thông, mà Bí Tích Thánh Thể không thể nào có nếu không có phẩm trật tông truyền, không có hàng giáo sĩ, với vị đại diện Chúa Kitô trên trần gian thừa kế Thánh Phêrô “là nguồn gốc và là nền tảng hữu hình và vĩnh viễn cho sự hiệp nhất của cả đức tin lẫn mối hiệp thông” (x. Lumen Gentium, 18), “của cả các vị giám mục lẫn toàn thể cộng đồng tín hữu” (ibid. 23).

Mầu Nhiệm Thánh Thể ngoài ra còn là mẫu gương sống nội tâm và tông đồ. Ở chỗ, nơi Bí Tích Thánh Thể, qua thừa tác vụ của Giáo Hội, về nội tâm, Chúa Kitô chẳng những tiếp tục hiến mình cho Chúa Cha, mà về hoạt động tông đồ, Người còn thông ban sự sống cho con người tín hữu khao khát đến với Người bằng tâm hồn thanh sạch đầy tin yêu sùng bái. Ôi Chúa Giêsu, nơi Bí Tích Thánh Thể, con chẳng những thấy được linh đạo Kitô giáo là sống nội tâm để ban phát, là mến Chúa tức yêu người, mà còn thấy được tất cả ý nghĩa sâu xa của tất cả ơn gọi làm người về khía cạnh nhân loại học siêu nhiên, khía cạnh nhân bản Kitô giáo nữa.

Quả thế, nếu “cho đi phúc hơn là nhận lãnh” (Acts 20:35), bởi tự mình con người không có gì, và bởi tất cả những gì con người có đều “được từ trên ban cho” (Jn 19:11; x. Jn 4:10), thành phần chỉ đóng vai quản lý hơn chủ nhân ông nơi những gì họ có, nên họ phải biết cách sử dụng và phân phát đi theo ý Chủ Nhân Ông Thần Linh của họ, thì còn gì sống động và thực tế hơn là Thánh Thể Chúa, một Thánh Thể đã “bị nộp vì chúng con” với máu đã “đổ ra vì chúng con” (Lk 22:19-20), một tác động hy hiến Chúa đã Giáo Hội làm để “nhớ đến Thày” (ibid.). Thế nhưng, Chúa không truyền cho Giáo Hội chỉ làm việc này nơi Phụng Vụ Thánh Thể quan thừa tác vụ thánh của hàng giáo sĩ thôi, mà còn, qua Giới Răn Mới, giới răn Đức Ái Trọn Hảo, giới răn chúng con phải yêu thương nhau như Chúa yêu chúng con (x Jn 13:34; 15:12), Chúa còn muốn Kitô hữu chúng con phải dấn thân phục vụ những người anh em hèn mọn nhất của Chúa nữa (x Mt 25:40), tức hoàn toàn sống cho tha nhân, thậm chí liều cả mạng sống mình họ, như chính Chúa đã hiến mạng sống vì bạn hữu mình vậy (x Jn 15:13).

Ôi lạy Chúa, như thế, phục vụ là một diễm phúc, vì nhờ những hy sinh thường ngày của mình, khi chúng con cho đi những gì chúng con đã nhận lãnh, nhất là cho đi chính mạng sống của mình nếu cần, đúng hơn khi chúng con biết trả về cho Thiên Chúa những gì Ngài ban tặng cho chúng con, chúng con mới thực sự sống trọn ơn gọi làm người của mình, một Ơn Gọi Thánh Thể, một ơn gọi Sống Đời Thánh Thể của Chúa, như Chúa và với Chúa vậy! Amen.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ