GIÁO HỘI HIỆN THẾ

_______

 THỨ TƯ 27/4/2005

 

1)  Một Nữ Đan Viện Biển Đức ở Tuscany vốn là Nhà Bêtania của Hồng Y Joseph Ratzinger
2) Một cặp vợ chồng trẻ mới được Hồng Y Ratzinger làm phép cưới cho cảm nhận về vị tân giáo hoàng

3)  ĐTC Biển Đức XVI về Vấn Đề Hiệp Thông và Đoàn Tính của Hàng Giáo Phẩm khi còn là HY Tổng Trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin Joseph Ratzinger

 

 

 

 

 

Một Nữ Đan Viện Biển Đức ở Tuscany vốn là Nhà Bêtania của Hồng Y Joseph Ratzinger

 

Đức Hồng Y Joseph Ratzinger đã chọn danh hiệu giáo hoàng của mình là Biển Đức. Trong bài giảng của mình tại Đền Thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành hôm Thứ Hai 25/4/2005, ngài cũng đề cập tới câu tâm niệm được Thánh Biển Đức Tổ Phụ Đan Viện Tây Phương viết trong luật dòng cho những ai làm môn đệ của thánh nhân là “đừng coi gì hơn tình yêu Chúa Kitô”. Hôm Lễ Đăng Quang của mình hôm Chúa Nhật 24/4, ngài đã mặc áo lễ do các đan nữ Biển Đức ở Rosano làm cho Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.

 

Hiện nay các nữ đan tu Biển Đức này đang tới phiên ngũ niên, từ Tháng 10/2004, đến ở tại nữ tu viện Mẹ Thiên Chúa Mater Ecclesiae trong thành Vatican, như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đã thiết lập lệ này cho các dòng nữ tu kín, đầu tiên là dòng Carmêlô, vì sự hiện diện của các chị dòng kín tu này là tiêu biểu cho đời sống nội tâm của Giáo Hội, như Nữ Tiến Sĩ Thiên Sa Hài Đồng Giêsu đã tự nhận ơn gọi của chị là yêu mến, là con tim của Giáo Hội vậy.

 

Các nữ tu kín dòng Biển Đức này, qua một bản văn, được Zenit phổ biến ngày 26/4/2005, cho biết về vị tân giáo hoàng ngày xưa còn là hồng y Ratzinger “đã thường đến đan viện của chúng tôi”, một đan viện ở Tuscany miền trung Ý quốc, như sau:

 

“Lần đầu tiên vào năm 1985, dịp các chị em tập sinh tuyên khấn lần đầu. Trước khi rời đan viện, khi nói với mẹ giám tập rằng hãy vui mừng vì con cái của mẹ đã được ở một nơi an toàn, một nơi sống theo Luật Thánh Biển Đức một cách đặc biệt bình thản, vững vàng và hân hoan.

 

“Từ đó, ngài còn trở lại một số lần nữa, nhất là vào dịp Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Vào ngày hôm ấy, nhà thờ của chúng tôi đầy chật người tham dự và ngài đã thu hút mọi người bằng bài giảng rất sâu xa của ngài cũng như bằng tính cách giản dị thân tình bỏ giờ ra với từng người ở ngoài vườn sau Thánh Lễ. Ngài thường thích Kiệu Mình Thánh đi trong đan viện và ra cả ngoài vườn.

 

“Ngài đã đến Rosano vào Tháng 6/2001 với người anh linh mục của ngài để cử hành kim khánh 50 năm linh mục của ngài.

 

“Ngài thường đến với vị thư ký của ngài, giờ đây đã làm giám mục và là thư ký của Hội Đồng Giáo Hoàng Đặc Trách Giáo Dân, đó là Đức Ông Josef Clemens, cũng như với người tài xế tín cẩn của ngài là Alfredo. Ngài đến vào chiều Thứ Bảy và rời vào chiều Chúa Nhật. Ngài thích đi bách bộ lâu giờ vào buổi chiều ở trên đồi hay ngoài đồng.

 

“Trong cuộc viếng thăm của mình, ngài hầu như bao giờ cũng gặp tất cả cộng đồng chúng tôi, làm ai cũng cảm thấy dễ giao tiếp với ngài ngay, vì ngài là một con người rất giản dị, thân tình, trầm tĩnh, khiêm tốn, có khả năng khéo trêu chọc và thật sự là khôi hài.

 

“Khi chúng tôi xin ngài nói với chúng tôi về những vấn đề trực trặc đặc biệt liên quan tới Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin, đến Đức Thánh Cha và Giáo Hội, ngài bao giờ cũng nói hết sức rõ ràng, nhất là có một khả năng hiểu được yếu tính của mỗi vấn đề và trình bày vấn đề một cách giản dị, chính xác đồng thời cũng tường tận, bằng việc cắt nghĩa nhanh chóng và trôi chảy.

 

“Trước hết, ngài không bao giờ tỏ ra thái độ thảm thiết, trái lại, ngài có thể giải quyết tất cả mọi khó khăn một cách mạnh mẽ, kiên trì, tin tưởng và hy vọng theo đức tin và lời cầu nguyện.

 

“Đó là lý do chúng ta tạ ơn Chúa về tặng ân ban cho chúng ta vị tân giáo hoàng này, vị giáo hoàng mang danh hiệu và thực sự là Biển Đức (một danh hiệu có nghĩa là được chúc phúc)”.

 

 

TOP

 

 

Một cặp vợ chồng trẻ mới được Hồng Y Ratzinger làm phép cưới cho cảm nhận về vị tân giáo hoàng

 

Tháng 6/2004, Marta và Anthony Valle được Đức Hồng Y Joseph Ratzinger làm phép hôn hối cho tại Đền Thờ Thánh Phêrô. Lúc bấy giờ họ đã cảm thấy hân hạnh lắm rồi, vì vị chủ tế Thánh Lễ Hôn Phối của họ là vị hồng y Tổng Trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin, một nhân vật quan trọng bậc nhất về giáo huấn của Giáo Hội sau ĐTC. Thế nhưng, giờ đây, họ lại càng cảm thấy hãnh diện hơn nữa, vì vị chủ tế lễ hôn phối của họ ấy giờ đây đã là Giáo Hoàng Biển Đức XVI.

 

Cả hai anh chị vợ chồng mới này đều là sinh viên của Regina Apostolorum Pontifical University, Marta là người Đức theo học ngành đạo lý sinh học, còn Anthony là người Mỹ ở Nữu Ước theo khoa thần học. Trong cuộc phỏng vấn với mạng điện toán toàn cầu Zenit và được Zenit phổ biến ngày 25/4/2005, cả hai anh chị này đã cho biết cảm nhận của mình về con người của hồng y Ratzinger đã được Thiên Chúa chọn làm vị giáo hoàng thứ 265 của Giáo Hội như sau.

 

Vấn:        Làm sao hai anh chị lại được ĐHY Ratzinger làm phép hôn phối cho vậy?

 

Đáp:        (Anthony:) Chúng tôi thật là may mắn, đúng hơn, may mắn một cách thiên định. Chúng tôi đã xin ngài sau một trong những Thánh Lễ chung của ngài và được ngài cho biết ‘Được, để xem đã. Hãy viết ra cho tôi biết một ít ngày và giờ đi’.

 

Là những sinh viên tốt, chúng tôi đã làm bài của mình và nộp cho đức hồng y một lá thư được chúng tôi soạn đêm hôm trước với tất cả những chi tiết cần thiết. Trong vòng một tuần lễ, Marta đã nhận được hồi âm là được!

 

Chúng tôi đã được ngài làm phép cưới cho ở Đền Thờ Thánh Phêrô ngày 24/6/2004. Ngài thực sự là một con người của dân chúng. Mặc dù ngài là con người quan trọng thứ hai trong Giáo Hội, ngài cũng bỏ giờ ra cho chúng tôi váo buổi sáng Thứ Năm ấy một tiếng rưỡi đồng hồ để chúng tôi có thể lãnh nhận bí tích hôn phối. Đó là những gì chính yếu nơi đặc sủng của vị linh mục, đó là ban các phép bí tích cho dân chúng, vì các phép bí tích là phương tiện cứu độ Chúa Kitô ban cho chúng ta. 

 

Vấn:        Anh chị đã cảm thấy gì khi tên của ngài được loan báo là vị tân Giáo Hoàng?

 

Đáp:        (Anthony:) Chúng tôi rung động và mừng đến nỗi chảy cả nước mắt ra.

 

(Marta:) Chúng tôi đã la lên thật là to!

 

(Anthony:) Thật là lạ lùng ngài đã được tuyển bầu chỉ trong vòng bốn lần bỏ phiếu và chưa đầy 24 tiếng đồng hồ. Như thế chứng tỏ là đã có một mối hiệp nhất hết sức nơi các vị hồng y. Các vị biết rằng ngài là một con người đáng chọn. Chúng ta thật là hạnh phúc vì chúng ta có một con người thánh thiện và khiêm nhượng như vị tân Giáo Hoàng của chúng ta đây.

 

Như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã làm rất hay, vị Giáo Hoàng Biển Đức XVI cũng sẽ tiếp tục dẫn dắt Giáo Hội, bảo trì truyền thống của Giáo Hội và mang Giáo Hội tiến vào ngàn năm thứ ba bằng một cuộc Tân Truyền Bá Phúc Âm Hóa, Phải, ngài già đời, nhưng Thiên Chúa ban cho ngài những ơn cần thiết. Chắc quí vị còn nhớ, điều đầu tiên khi xuất hiện ở lan can là ‘Chúa biết cách hoạt động và tác hành thậm chí với cả những dụng cụ thiếu thốn, và tôi đặc biết trao phó bản thân mình cho lời cầu nguyện của anh chị em”. Ngài rất khiêm nhượng. Tôi không thể nhấn mạnh điều này cho đủ được.

Tuy nhiên, ngài thường bị yên trí một cách bất công là rất nghiệm ngặt và là người áp buộc khắc nghiệt. Thật là sai hẳn sự thật. Những thứ yên trí đó là những gì lố bịch và buồn cười. Ngài là một con người dịu dàng và khiêm tốn, thậm chí có lẽ còn hơi e thẹn nữa là đằng khác.

 

Như chúng ta đều biết, việc làm trước kia của ngài với tư cách là tổng trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin là việc đòi ngài phải bảo trì các giáo huấn hai ngàn năm của Giáo Hội Công Giáo. Bởi thế, ai đã hay đang thi hành nhiệm vụ này đều mang một hình ảnh tiêu cực chính vì rất nhiều giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo không thể hòa hợp với chiều hướng ý hệ của thứ nhân bản tân tiến trần tục cũng như với rất nhiều cái “chủ nghĩa” thời trang và sai lầm khác của thời đại lịch sử chúng ta đây.


Vấn:        Một số người nói rằng ngài có một bộ mặt rất nghiêm nghị.

 

Đáp:        (Anthony:) Nếu quí vị có cơ hội gặp ngài, như chúng tôi đã có được một số lần, quí vị liền thấy rằng ngài dịu dàng, nhân ái và quan tâm mục vụ ra sao. Thật vậy, ngài đã từng là vị hồng y dễ giao tiếp nhất trong Giáo Hội. Chẳng hạn, ngài đã cử hành Lễ ở một nhà nguyện nhỏ công cộng mỗi Thứ Năm hằng tuần trong khoảng thời gian 20 năm qua.

 

Ngoài ra, ngài cử hành Thánh Lễ một cách rất ư là sốt sắng và cung kính, thực sự là đi vào mầu nhiệm cứu độ của việc cử hành này. Chưa hết, sau Lễ, ngài cởi áo lễ ra một cách rất trầm tưởng trong buồng áo, như thể vẫn còn chiêm ngắm mầu nhiệm siêu việt vừa diễn ra.

 

Đoạn ngài ra khỏi phòng áo để chào hỏi dân chúng đến gặp ngài. Đó là lúc quí vị thấy được con người thực sự của ngài, ngài thực sự là người như thế nào. Ngài bỏ giờ ra để chào hỏi từng người, nhìn vào mắt họ, bắt tay họ, hỏi tên tuổi của họ, làm sao họ lại đến đấy, họ thuộc về giáo phận nào, ngài ký tên của ngài, chụp hình với họ, v.v. Ngài thực sự lưu ý đến tất cả quí vị và nói với quí vị từng người một. Đây là những gì vị linh mục cần phải là, đây là những gì vị Giáo Hoàng phải là, đó là trở thành một vị chủ chăn, một mục tử của dân chúng, và đó chính là những gì Giáo Hoàng Biển Đức là, và đó là những gì thế giới cần biết và sẽ biết.


Vấn:        Ngài đã khuyên anh chị những gì trong Lễ cưới của anh chị?

 

Đáp:        (Anthony:) Marta biết rõ hơn vì bài giảng hầu hết bằng Đức ngữ.

 

(Marta:) Chúng tôi lập gia đình vào ngày lễ Thánh Gioan Tẩy Giả, bởi thế chỉ có bài đọc thứ hai là đặc biệt đối với lễ cưới của chúng tôi mà thôi. Chúng tôi đã chọn chương thứ 5 Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Êphêsô, là đoạn nói về cách thức vợ chồng phải sống với nhau. ĐHY Ratzinger nói rằng chúng tôi cần soi gương bắt chước lòng yêu thương của Chúa Kitô, đó là một tình yêu được thể hiện một cách rất cụ thể nơi những tác động phục vụ và hy sinh.

 

(Anthony:) Vị hồng y này bấy giờ đã nhấn mạnh đến cách thức làm sao để vợ chồng hỗ trợ lẫn nhau. Tuy nhiên, ngày nay, mọi người quá chú ý tới một câu nói về cách thức người vợ phải phục tùng chồng. Thế nhưng, đừng quên rằng sau đó Thánh Phaolô nhấn mạnh – và đây là một trong những điểm chính của đức hồng y – là người chồng phải yêu thương vợ mình như Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội, cho đến độ hiến mạng sống mình cho Giáo Hội. Đó là những gì nói về người chồng cần phải làm đầu trong gia đình: ở chỗ bắt chước Chúa Giêsu Kitô làm đầu Giáo Hội.

 

Mặc dù là Chúa, là đấng tiên khởi, ngài đã tỏ vai trò làm chúa của mình bằng việc trở nên cuối rốt, bằng việc đặt mình ở vào chỗ cuối bét, bằng việc trở nên tôi tớ của tất cả mọi người, bằng việc rửa chân cho các môn đệ của Người.

 

 

TOP

 

ĐTC Biển Đức XVI về Vấn Đề Hiệp Thông và Đoàn Tính của Hàng Giáo Phẩm khi còn là HY Tổng Trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin Joseph Ratzinger

Trong cuộc vấn đáp với tờ tuần san Ý Famiglia Cristiana, ĐHY Tổng Trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin, vị vừa xuất bản (do nhà xuất bản St Paul ở Ý) cuốn sách mang tựa đề "La Communione nella Chiesa" (Mối Hiệp Thông Trong Giáo Hội), cho biết cần phải hiểu được ý nghĩa thần học về mối hiệp thông mới có thể hiểu được mối liên hệ giữa các Giáo Hội địa phương và Tòa Thánh, cũng như mới cảm nhận được đoàn tính của Giáo Hội đối với vai trò của các hội đồng giám mục. Trong phần thứ hai của cuộc phỏng vấn này, ĐHY còn trả lời những vấn đề liên quan tới quan niệm “Dân Chúa”, đến những việc cử hành phụng vụ “sáng tạo”, cũng như đến cơ hội Rước Lễ của thành phần ly dị rồi tái hôn.

Vấn     Mối hiệp thông trong Giáo Hội là gì?

Đáp     Trong Bức Thư Thứ Nhất của Thánh Gioan, chúng ta thấy câu định nghĩa cho thấy một quan cái nhìn rất đầy đủ về mối hiệp thông.

Thánh Gioan nói rằng những gì đã được ban cho chúng ta là đức tin, là được làm người Kitô hữu, nhất là được hiệp thông với Thiên Chúa, với Thiên Chúa Ba Ngôi là chính thực tại hiệp thông. Đó là một điều tuyệt vời mạc khải đã cống hiến cho chúng ta, ở chỗ, Thiên Chúa là thực tại hiệp thông và bởi thế Ngài có thể ban tặng hiệp thông.

Được hiệp thông với Thiên Chúa, con người cũng được hiệp thông với tất cả những người khác sống trong cùng mối hiệp thông này. Ở đây hai chiều hướng tung hoành gặp nhau và trở nên một thực tại duy nhất.

Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng là hiệp thông, làm cho mối hiệp thông của nhân loại bao rộng hơn và sâu xa hơn. Mối hiệp thông với Chúa Kitô đã làm nên sự liên kết giữa Thiên Chúa và loài người này. Mối hiệp thông này đã được, có thể nói, nhập thể nơi bí tích Thánh Thể nhờ đó chúng ta được hiệp nhất với thân mình của Chúa.

Giáo Hội đã được hạ sinh bằng cách đó: Giáo Hội là một mối hiệp thông trên hết các mối hiệp thông, tức là Giáo Hội hiện hữu như là một thực tại Thánh Thể.

Hết mọi cộng đồng Thánh Thể hoàn toàn ở trong sự hiện diện của Chúa Kitô. Điều này cần phải thực hiện là cộng đồng này không được đối nghịch với cộng đồng khác nhân danh Chúa Kitô “riêng” của mình, vì chỉ có một Chúa Kitô duy nhất.

Tôi nghĩ rằng, từ ban đầu, chính việc cấu tạo của Giáo Hội đã được làm nên bởi mối hiệp nhất và đa dạng này. Như chúng ta thấy, mối hiệp thông của Giáo Hội là một sự kiện thần học, chứ không phải là một sự kiện xã hội học. Bất cứ ai muốn biến quan niệm về hiệp thông này thành một quan niệm thuần túy xã hội là kẻ đã vấp phạm lỗi lầm.

Vấn     Thế nhưng phải chăng mối hiệp thông này có những thành quả về xã hội?

Đáp     Tôi xin làm sáng tỏ vấn đề là không phải chỉ liên quan đến việc vun xới những mối liên hệ đúng đắn giữa Tòa Thánh Rôma và các Giáo Hội địa phương, mà còn, trên hết, duy trì mối hiệp nhất và đa dạng làm nên Giáo Hội nữa.

Các Giáo Hội địa phương cần phải sống những chuyên biệt về văn hóa và lịch sử của mình bằng việc hội nhập chúng vào mối hiệp nhất của tòan thể, cởi mở chấp nhận những đóng góp tốt đẹp của các Giáo Hội khác, nhờ đó không ai dẽ đi vào con đường mà những người khác không biết.

Tòa Thánh Rôma, một tòa thành giúp ĐTC trong việc Ngài phục vụ cho mối hiệp nhất ấy, có phận sự phải cổ võ việc hiểu biết này giữa các Giáo Hội địa phương để nhờ đó những cái khác biệt trở thành một thực tại đa âm làm sống động mối hiệp nhất và đa dạng.

Vấn     Nguyên tắc phụ thuộc nơi mối liên hệ giữa “tâm điểm” và “chu vi”, giữa Tòa Thánh và các Giáo Hội địa phương khác nhau quan trọng ra sao?

Đáp     Nó là một quan niệm về kỹ thuật cần phải bàn luận thêm chi tiết để thấy được ý nghĩa của nó.

Nó có thể được chấp nhận ở chỗ việc chú trọng đến mối hiệp nhất không được làm lịm tắt đi những đặc sủng ở các Giáo Hội địa phương; trái lại, còn phải khuyến khích chúng và lấy chúng vào việc phục vụ cho một Giáo Hội duy nhất.

Một mặt thì việc phục vụ trung ương của Tòa Thánh Rôma không được pha mình vào những gì có thể thực hiện tốt đẹp hơn ở một phần cụ thể nào đó của Giáo Hội; tuy nhiên, mặt khác thì các Giáo Hội địa phương không được sống một cách tự động mà không hướng đến chỗ làm phong phú mối hiệp nhất, vì chỉ có một Chúa Kitô duy nhất.

Vấn     Chúng ta hãy đưa ra một thí dụ liên quan đến vấn đề này. Chẳng hạn có những nghi ngờ gì về tính cách tông truyền của một thần học gia, thì phải chăng Giáo Hội địa phương là nơi cư trú của vị thần học gia này không được can thiệp gì trước khi có sự can thiệp của thánh bộ do ĐHY là tổng trưởng?

Đáp     Ở đây, nơi thánh bộ này, chúng tôi lấy làm hài lòng khi thấy một vị giám mục hay hội đồng giám mục nhúng tay vào việc giải quyết những vấn đề loại này. Tuy nhiên, các vị thường nói với chúng tôi rằng những vấn đề đó vượt ra ngoài giới hạn của Giáo Hội địa phương, vì những vấn đề đó liên quan tới việc tranh luận của Giáo Hội hoàn vũ, nên cần chúng tôi giúp đỡ.

Vấn     Phải chăng các vị ấy trốn lánh trách nhiệm của mình?

Đáp     Không phải vậy, tôi không dám nói điều gì như thế. Chúng tôi bao giờ cũng khuyến khích các vị giám mục hãy tự nhúng tay vào việc giải quyết những vấn đề như vấn đề quí vị vừa đề cập tới. Thế nhưng, trong một thế giới càng ngày càng toàn cầu hóa hơn này thì đây là một điều hết sức khó khăn.

Vấn     Từ Công Đồng Chung Vaticanô II có những tiến triển ra sao nơi đoàn tính của hàng giáo phẩm?

Đáp     Có một bước tiến bộ khả quan. Tôi đang nghĩ tới việc phát triển của những cuộc viếng thăm “ngũ niên”. Tôi nhớ là cuộc viếng thăm đầu tiên tôi thực hiện vào năm 1977. Tôi là Tổng Giám Mục Municj chỉ trong một thời gian ngắn. Tất cả cuộc viếng thăm này bao gồm việc gặp gỡ vị tổng trưởng Thánh Bộ Giám Mục, kính viếng các đền thờ và triều kiến với Đức Phaolô VI.

Giờ đây các vị giám mục gặp tất cả mọi thánh bộ và hội đồng. Một cuộc bàn luận sống động và hữu hiệu được diễn ra. Và các vị giám mục lấy làm biết ơn về việc này, vì một mặt thì Tòa Thánh hiểu được hơn nữa những gì đang xẩy ra ở các miền địa dư và văn hóa khác nhau; mặt khác thì các vị giám mục có thể cùng nhau tìm cách giải quyết những vấn đề các vị muốn cũng như hiểu hơn được những gì huấn quyền mong muốn.

Tôi cho quí vị một thí dụ khác, đó là những liên lạc thường xuyên chúng tôi thực hiện với những vị chủ tịch các hội đồng giám mục cũng như những cuộc viếng thăm nhau. Nhờ đó tăng thêm việc hiểu biết thông cảm nhau.

Ngoài ra cũng không được quên những thượng hội giám mục. Tóm lại, vẫn có một cuộc trao đổi liên tục giữa tâm điểm và chu vi làm kiên cố cho việc dấn thân chung phục vụ một Giáo Hội duy nhất.

Vấn     Phải chăng các hội đồng giám mục không có giá trị gì ngoài việc là một phương tiện của đoàn tính?

Đáp     Tôi sẽ phân biệt giữa các hội đong nhỏ, có khoảng 10 hay 15 phần tử, với những hội đồng lớn, có thể với hơn 200 vị giám mục.

Trong trường hợp thứ nhất, hội đồng giám mục này thực sự là một phương tiện của vấn đề điều hợp, của một cái nhìn chung, của sự giúp đỡ lẫn nhau cũng như của việc sữa chữa cho nhau khi cần.

Trong trường hợp của những hội đồng lớn, khi những hội đồng này phải đối diện với những đống giấy tờ cần phải đọc, những lịch trình trong ngày với cả chục vấn đề cần phải bàn luận, thì tôi nghĩ rằng không thể nào thực sự có được một cuộc đối thoại sâu xa cả. Cũng có thể nguy hiểm là những vấn đề bàn luận và giải quyết đã được thực hiện trước bởi những văn phòng, bởi chính sách quan liêu.

Trong trường hợp những hội đồng lớn thì việc tranh luận có lẽ cần phải được giới hạn vào một ít những vấn đề thích đáng thôi và phân phối những gì còn lại cho mỗi một Giáo Hội địa phương. Vấn đề quan trọng là các hội đồng này cần phải trở thành một khí cụ tùy cơ ứng biến.

Vấn     ĐHY đã đề cập đến vấn đề thượng nghị giám mục như là một thí dụ về sự tiến bộ nơi đoàn tính. Ngài có thích phương thức hiện nay của các hội đồng thượng hội giám mục này hay chăng?

Đáp     Mặc dù đây hoàn toàn là một ý kiến cá nhân, tôi cũng có thể nói rằng đó là một phương thức phần nào được nghi thức hóa. Nó bảo đảm một nhịp điệu nhanh lẹ ở những cuộc họp bàn làm việc, nhưng nó lại bất tiện ở chỗ không thể thực hiện được một cuộc bàn luận thực sự giữa các vị giám mục tham dự.

Chắc chắn là cần phải bảo đảm được tốc độ của công việc này. Thế nhưng cuộc bàn luận thực sự và hữu hiệu cũng cần phải có thời gian nữa.

Vấn     Cuốn sách của ĐHY khiến tôi nghĩ rằng ĐHY không có một ưu tiên đặc biệt nào trong việc áp dụng quan niệm về Dân Chúa vào Giáo Hội cả.

Đáp     Điều này không đúng. Quan niệm về Dân Chúa là một quan niệm trong Thánh Kinh. Đúng hơn, tôi không thích độc đoán sử dụng quan niệm này, một quan niệm ngược lại đã hoàn toàn có một câu định nghĩa rõ ràng trong Sách Thánh.

Trong Cựu Ước, Do Thái là Dân Chúa, trước hết là vì dân này đã chấp nhận tiếng gọi và việc tuyển chọn của Thiên Chúa, vì họ đã đáp lại ý muốn của Thiên Chúa. Nó không phải là một quan niệm bất dịch mà là năng động, ở chỗ, nó là Dân Chúa như dân Do Thái, nhưng việc nó là Dân Chúa cần phải luôn luôn được đổi mới theo khả năng liên hệ của nó với Ngài. Đó là những gì nền tảng trong Cựu Ước.

Vấn     Thế còn trong Tân Ước thì sao?

Đáp     Trong hầu hết tất cả mọi đoạn Tân Ước thì quan niệm này ám chỉ dân Do Thái, và chỉ có hai hay ba đoạn ám chỉ Giáo Hội mà thôi. Bởi thế Giáo Hội mới được cho rằng thừa hưởng việc tuyển chọn của dân Do Thái; Giáo Hội tham phần vào việc làm Dân Chúa này.

Thế nhưng, cả ở đây nữa, nó không phải là vấn đề về một sản vật được chiếm hữu: Giáo Hội đã trở nên Dân Chúa theo chiều hướng được tuyển chọn này. Tuy nhiên, thêm vào quan niệm của Cựu Ước là một đường lối mới trong việc hội nhập với ý muốn của Thiên Chúa, đó là việc hiệp thông với Chúa Kitô.

Có một nguyên tắc thần học, rồi đến việc cụ thể hóa Kitô học, nhưng trước hết có một năng lực quan trọng không cho phép được kiêu hãnh cho rằng “Chúng tôi là Dân Chúa”. Chúng ta bao giờ cũng phải hoán cải thành Dân Chúa và chỉ theo chiều hướng này thì quan niệm ấy mới có giá trị. Ngược lại, nếu chúng ta coi nó như là một mẫu thức phàm tục, phi kinh thánh, thì quan niệm về Giáo Hội sẽ bị pha phôi một cách trầm trọng.

Vấn     Trong cuốn sách của mình, ĐHY tỏ ra gắt gao với bất cứ ai sử dụng phụng vụ như là một cách truyền đạt mà thôi, như một phương tiện giáo dục tín hữu. Tại sao?

Đáp     Tôi muốn nói hẳn rằng phụng vụ là việc truyền đạt và là việc mục vụ.

Tôi chống lại những ai nghĩ rằng phụng vụ chỉ là việc truyền đạt khi phụng vụ bị biến thành một cảnh tượng, biến thành một “màn trình diễn”, bị suy giảm thành những gì rất nhỏ đối với cả một công việc nghệ thuật vĩ đại theo bản chất của phụng vụ khi phụng vụ được cử hành đàng hoàng bằng cả nội tâm con người.

Trong 20 năm qua, việc tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật ở Đức đã giảm xuống 70%. Tín hữu không còn cảm thấy tham dự vào những việc cử hành “mới mẻ” chẳng có nghĩa gì với họ cả. Phụng vụ rất thường bị đối xử như là một điều gì đó có thể loại bỏ tùy sở thích, như thể nó là một sản vật riêng của chúng ta. Thế nhưng, làm như thế là chúng ta đã gây hư hoại cho phụng vụ vậy.

Vấn     Phải chăng dự tưởng về một thứ kiêng chay Thánh Thể (không Rước Lễ), được ĐHY hình như gợi lên, ngược lại với những lời khuyến dụ của nhiều vị Giáo Hoàng, bắt đầu từ Đức Piô X?

Đáp     Không phải thế. Lần đầu tiên tôi đã nêu lên dự tưởng này cả 15 hay 20 năm trước đây, liên quan tới việc cử hành Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, một ngày chay tịnh.

Chúng ta thấy nguồn gốc của việc chay tịnh này trong Phúc Âm Thánh Marcô: “Sẽ có những ngày khi mà chàng rể không còn ở với họ nữa thì bấy giờ họ mới chay tịnh”. Ngay từ thế kỷ đầu đã thực hành việc chay tịnh trong Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, một việc thể hiện lòng chúng ta “cảm thương” Chúa Kitô, Đấng đã chịu chết trên cây thập giá vì chúng ta.

Lần thứ hai tôi đã nói về dự tưởng này khi lên tiếng về thành phần ly dị tái hôn, như ngày nay cho thấy họ thực sự là thành phần duy nhất không được Rước Lễ.

Mỗi người chúng ta cần phải suy nghĩ xem mình có cần phải liên hệ bản thân mình hay chăng, ít là ở một số trường hợp, vào tình trạng bị ngoại trừ này. Nhờ đó, chúng ta tỏ cho họ thấy dấu hiệu của tình đoàn kết, và chúng ta sẽ có cơ hội để đi sâu hơn vào đời sống thiêng liêng của mình.

Tôi thấy rằng có nhiều lần, trong các lễ mồ, lễ cưới cũng như nhiều trường hợp khác, người ta lên Rước Lễ như thể đó là một phần của lễ nghi vậy, tức nó là một bữa tối mà người ta cần phải ăn. Thế nhưng, làm như thế là người ta không còn sống tính cách sâu xa thiêng liêng của biến cố này nữa, một biến cố bao giờ cũng là một thách đố lớn lao cho mỗi một người trong chúng ta.

Tôi thực sự đồng ý với các vị đại giáo hoàng khi các ngài nói rằng chúng ta cần Hiệp Lễ vì chỉ có Chúa mới là Đấng có thể ban cho chúng ta những gì chúng ta không thể tự mình chiếm hữu. Chính vì chúng ta thiếu thốn mà chúng ta mới cần đến sự hiện diện của Người. Tuy nhiên, chúng ta cần phải tránh đi một thứ nghi thức hời hợt làm hạ giá tác động này, và hãy cố gắng đi sâu vào tính cách cao cả của nó.

Vấn     Đối với thành phần ly dị tái hôn, ĐHY có nghĩ rằng tình trạng bị loại trừ không được Rước Lễ này sẽ tiếp tục có hiệu lực hay chăng?

Đáp     Nếu cuộc hôn nhân đầu tiên đã hiệu thành mà họ (đôi tân hôn) lại sống trong một cuộc hiệp nhất phản lại với mối ràng buộc của bí tích này thì việc không được Rước Lễ vẫn còn hiệu lực.

Tuy nhiên, tôi thấy rằng cần phải bàn luận rộng hơn nữa về vấn đề này nhờ đó tránh triệt để áp dụng việc Rước Lễ vào tất cả mọi hoàn cảnh đau thương thuộc trường hợp này. Cần phải giúp cho những con người này sống trong cộng đồng giáo xứ, chia sẻ nỗi đớn đau của họ, tỏ cho họ thấy rằng họ được yêu mến và họ thuộc về Giáo Hội cũng như Giáo Hội cùng khổ đau với họ.

Tôi nghĩ cần phải nới rộng trách nhiệm chung này, hầu giúp đỡ lẫn nhau, để vác đỡ gánh nặng của nhau trong tình huynh đệ.

Vấn     Hiện nay ĐHY quan tâm nhất đến những vấn đề nào của Giáo Hội?

Đáp     Tôi xin nói ngay rằng cái khó khăn hiện nay là vấn đề tin tưởng. Xu hướng tương đối đã trở thành tự nhiên đối với con người của thời đại chúng ta đây.

Ngày nay nó được coi là một hành động hãnh diện, một hành động không hợp với thái độ khoan nhượng, khi nghĩ rằng chúng ta thực sự đã nhận được sự thật của Chúa. Tuy nhiên, hình như khoan nhượng nghĩa là tất cả mọi tôn giáo và văn hóa cần phải được coi ngang hàng với nhau. Theo chiều hướng này thì tin tưởng là một tác động càng trở nên khó khăn hơn nữa.

Bởi thế chúng ta mới chứng kiến thấy một tình trạng âm thầm mất đức tin, không cần phải có những đối chọi xẩy ra, nơi một phần lớn Kitô giáo. Đó là mối quan tâm lớn nhất.

Bởi vậy chúng ta cần phải tự hỏi xem trong trào lưu tương đối thuyết này chúng ta có mở lại cửa cho sự hiện diện của Chúa hay chăng, cho việc Giáo Hội tỏ cho biết về Người hay chăng. Bấy giờ chúng ta mới thực sự chấp nhận việc khoan nhượng, một thứ khoan nhượng không lạnh lùng dửng dưng, mà là yêu thương tôn trọng người khác, giúp đỡ nhau tiến bước trong cuộc sống.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu được Zenit phổ biến ngày 22-23/2/2004

 

TOP

 

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ