GIÁO HỘI HIỆN THẾ

_______

 THỨ HAI 30/5/2005

 

1) ĐTC Biển Đức XVI: Bài Giảng Thánh Lễ Bế Mạc Hội Nghị Thánh Thể Ý Quốc XXIV, ở Bari, Chúa Nhật 29/5/2005, trước 200 ngàn người, về “Bí Tích Hiệp Nhất”

2) Các Nữ Tu Dòng Kín Thánh Clara ở Hòa Lan cầu cho ĐHY Ratzinger được làm Giáo Hoàng

3) Sắc chỉ về việc cần thu thập các Chứng Từ Thánh Đức của ĐTC GPII cần cho hồ sơ tôn phong

 

 

ĐTC Biển Đức XVI: Bài Giảng Thánh Lễ Bế Mạc Hội Nghị Thánh Thể Ý Quốc XXIV, ở Bari, Chúa Nhật 29/5/2005, trước 200 ngàn người, về “Bí Tích Hiệp Nhất”

“Hỡi Giêrusalem, hãy tôn vinh Chúa, Hỡi Sion hãy chúc tụng Thiên Chúa của ngươi” (câu đáp ca). Lời mời gọi này của Thánh Vịnh gia, một lời mời gọi cũng có cả ở trong bài ca tiếp liên, đã diễn tả rất rõ về ý nghĩa của việc cử hành Thánh Thể này: Đó là việc chúng ta qui tụ lại để ngợi khen và chúc tụng Chúa. Đó là lý do tại sao đã khiến cho Giáo Hội Ý quốc hội họp ở Baria đây vào dịp Hội Nghị Thánh Thể Toàn Quốc này.

Tôi cũng muốn liên kết với tất cả mọi anh chị em hôm nay đây để hết sức đặc biệt cử hành lễ trọng Mình Máu Thánh Chúa Kitô, để tôn kính Chúa Kitô trong bí tích yêu thương của Người, đồng thời củng cố những mối liên hệ hiệp thông nối kết tôi với Giáo Hội ở Ý quốc và với các vị mục tử của Giáo Hội này. Vị tiền nhiệm đáng kính của tôi là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng đã muốn hiện diện ở biến cố quan trọng này của Giáo Hội. Chúng ta cảm thấy ngài gần gũi với chúng ta, và cùng với chúng ta, ngài tôn vinh Chúa Kitô là vị mục tử nhân lành, Đấng mà giờ đây ngài đang được trực diện chiêm ngưỡng.

Với lòng cảm mến, tôi xin gửi lời chào đến tất cả anh chị em đang tham dự việc phụng vụ long trọng này: ĐHY Camillo Ruini cùng các hồng y khác hiện diện nơi đây, ĐTGM Francesco Cacucci giáo phận Bari-Bitonto, giám mục giáo phận Apulia và nhiều vị giám mục đến từ khắp Ý quốc; các linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân, nhất là những ai cộng tác vào việc tổ chức hội nghị này. Tôi cũng xin gửi chào tới những vị thẩm quyền dân sự hiện diện, vì sự hiện diện của các vị đã cho thấy rằng những hội nghị Thánh Thể là một phần lịch sử và văn hóa của nhân dân Ý quốc.

Hội nghị Thánh Thể này, một hội nghị được bế mạc hôm nay đây, có mục đích cho thấy một lần nữa rằng Chúa Nhật là “Ngày Phục Sinh hằng tuần”, một lời diễn tả về căn tính của cộng đồng Kitô giáo và là tâm điểm của đời sống cùng sứ vụ của cộng đồng này. Đề tài được chọn là “Chúng Ta Không Thể Sống Nếu Không Có Chúa Nhật” là đề tài đưa chúng ta về lại năm 304, khi mà hoàng đế Diocletian cấm cách Kitô hữu, với hình phạt tử hình, không cho họ có được những cuốn Thánh Kinh, không được hội họp vào Chúa Nhật để cử hành Thánh Thể và không được xây cất các cơ sở cho các cuộc qui tụ của họ. Ở Abitene, một khu làng nhỏ là nơi ngày nay gọi là Tunis, có 49 Kitô hữu, gặp nhau trong căn nhà của Octavius Felix, đã bất ngờ bị bắt vào một ngày Chúa Nhật khi họ đang cử hành Thánh Thể, khinh thường các cấm lệnh của hoàng đế. Bị giam nhốt, họ được mang đến Carthage cho quan toàn quyền Anulinus chất vấn.

Đặc biệt nhất là lời của Emeritus đối đáp với vị quan toàn quyền này, sau khi ông được hỏi tại sao ông đã vi phạm đến lệnh cấm của hoàng đế. Ông nói: “Sine dominico non possumus”, chúng tôi không thể sống nếu thiếu việc hội họp Chúa Nhật để cử hành Thánh Thể. Chúng tôi sẽ không có sức mạnh để đương đầu với các khó khăn hằng ngày mà không bị thua bại. Sau khi bị hành hình tàn bạo, 49 vị tử đạo ở Abitene đã bị sát hại. Như thế, các vị đã khẳng định đức tin của các vị bằng việc đổ máu. Các vị đã chết nhưng các vị là thành phần chiến thắng; giờ đây chúng ta nhớ đến các vị đang ở trong vinh hiển của Chúa Kitô phục sinh.

Chúng ta, thành phần Kitô hữu của thế kỷ 21 này, cũng phải phản ảnh cảm nghiệm của những vị tử đạo ở Abitene. Đối với chúng ta thì việc sống như là người Kitô hữu cũng không phải là điều dễ dàng gì. Theo quan điểm thiêng liêng, thì thế giới chúng ta đang sống đây, một thế giới thường mang đặc tính hào hứng hưởng thụ, tính cách lạnh lùng dửng dưng về đạo nghĩa, chủ nghĩa trần thế khép kín trước siêu việt thể, dường như là một vùng hoang địa cằn cỗi như miền hoang địa “mênh mông và kinh hoàng” được bài đọc thứ nhất trích từ Sách Nhị Luật cho chúng ta thấy.

Thiên Chúa đã ra tay cứu giúp dân Do Thái trong cơn khốn khó của họ bằng việc ban manna cho họ để họ hiểu rằng “người ta không sống nguyên bởi bánh mà còn sống bởi những gì từ miệng Thiên Chúa phán dạy” (Deut 8:3). Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã cắt nghĩa cho chúng ta biết thứ bánh nào đã được Thiên Chúa muốn dọn ra cho dân tân ước như tặng ân manna. Khi nói một cách ám chỉ về Thánh Thể, Người phán rằng: “Đây là bánh từ trời xuống, không phải thứ bánh cha ông của quí vị đã ăn và đã chết; ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời” (Jn 6:58). Người Con Thiên Chúa này, khi hóa thành nhục thể, đã trở nên bánh, nhờ đó, nên dưỡng thực của dân Người trong cuộc hành trình tiến về đất hứa thiên cung.

Chúng ta cần thứ bánh này để đương đầu với tình trạng vất vả khó nhọc và kiệt sức trên đường đi. Chúa Nhật, ngày của Chúa, là một cơ hội thuận lợi để kín múc lấy sức mạnh từ nơi Người, Đấng là Chúa sự sống. Bởi thế mà luật giữ ngày Chúa Nhật không chỉ là một nhiệm vụ đơn thuần bị áp đặt từ bên ngoài. Việc tham dự vào việc cử hành Chúa Nhật và việc được dưỡng nuôi bởi bánh Thánh Thể là nhu cầu của người Kitô hữu, thành phần nhờ đó có thể tìm thấy nghị lực cần thiết cho cuộc hành trình cần phải thực hiện. Ngoài ra, cuộc hành trình không phải là những gì tùy nghi; đường đi nước bước được Thiên Chúa ấn định qua lề luật của Ngài là những gì được in ấn ngay nơi yếu tính của con người. Việc đi theo con đường này có nghĩa là con người được nên trọn vẹn, bằng nếu con người lạc mất nó là họ đánh mất chính bản thân mình vậy.

Chúa Kitô không để chúng ta cô đơn lẻ loi một mình tiến bước trên cuộc hành trình này. Người ở với chúng ta; chưa hết, Người còn muốn chia sẻ với thân mệnh của chúng ta bằng việc thu hút lấy chúng ta. Trong cuộc đối thoại được Phục Âm vừa trình thuật, Người nói rằng: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi thì ở trong Tôi và Tôi ở trong họ” (Jn 6:56). Làm sao chúng ta lại không hân hoan vui mừng về một lời hứa hẹn như thế chứ? Tuy nhiên, chúng ta cũng nghe thấy rằng, trước lời công bố tiên khởi ấy, thay vì vui mừng thì dân chúng lại bắt đầu tranh cãi và chất vấn rằng: “Làm thế nào mà người này lại có thể ban thịt của mình cho chúng ta ăn chứ?” (Jn 6:52).

Việc nói lên sự thật, một thái độ đã từng được lập lại nhiều lần trong giòng lịch sử. Nói cho cùng thì hình như con người ta không muốn Thiên Chúa quá gần gũi họ, quá thuận lợi, quá hiện hữu nơi các việc làm của họ. Người ta muốn Ngài phải là Đấng cao cả, nói cách khác, muốn cách xa thì hơn. Thế rồi họ tự đặt thành vấn đề cho rằng việc gần gũi ấy thực sự là những gì không thể nào thực hữu.

Tuy nhiên, những lời Chúa Kitô công bố đặc biệt trong trường hợp này vẫn hoàn toàn là những gì sáng tỏ: “Thật vậy, thật vậy, Tôi nói cho quí vị biết, nếu quí vị không ăn thịt Con Người và uống máu Người thì quí vị không có sự sống nơi quí vị” (Jn 6:53). Trước những lời xì xèo chống đối, Chúa Giêsu có thể đã hạ giọng rút lời lại mà rằng. “Này quí bạn, Người có thể nói, quí bạn đừng lo! Tôi đã nói về thịt, nhưng đó chỉ là một biểu hiệu thôi. Những gì tôi muốn nói chỉ là một cuộc hiệp thông sâu xa về tình cảm đó mà”.

Thế nhưng, Chúa Giêsu đã không sử dụng lối ve vuốt mua chuộc như thế. Người vẫn giữ nguyên những gì Người đã mạnh mẽ khẳng định, ngay cả khi phải đối diện với việc đào ngũ nơi thành phần tông đồ của Người, và Người đã không thay đổi một tí nào tính chất cụ thể của bài nói của mình: “Các con cũng sẽ bỏ đi hay chăng?” (Jn 6:67), Người hỏi. Tạ ơn Chúa, Thánh Phêrô đã thưa Người một câu trả lời mà hôm nay đây chúng ta cần phải lập lại với tất cả ý thức rằng: “Lạy Chúa, chúng con còn biết theo ai? Chúa có những lời hằng sống” (Jn 6:68).

Nơi Thánh Thể, Chúa Kitô thực sự hiện diện giữa chúng ta. Việc hiện diện của Người không phải là một cái gì bất động. Đó là một hiện diện năng động, một hiện diện làm chúng ta thành của Người, đồng hóa chúng ta với Người. Thánh Âu Quốc Tinh đã hiểu điều này rất rõ ràng. Được đào luyện theo triết lý Platô, ngài khó lòng mà chấp nhận được chiều kích “nhập thể” của Kitô giáo. Đặc biệt là ngài tỏ thái độ bất đồng về quan điểm “bữa tiệc Thánh Thể” là những gì đối với ngài bất xứng với Thiên Chúa. Nhờ những bữa ăn thông thường tự nhiên mà con người được mạnh khỏe hơn, khi họ đồng hóa thực phẩm, biến nó thành một yếu tố của thực tại thể lý riêng mình. Chỉ sau đó Thánh Âu Quốc Tinh mới hiểu được rằng nơi Thánh Thể đã xẩy ra những gì hoàn toàn khác hẳn, ở chỗ, tâm điểm là Chúa Kitô, Đấng thu hút chúng ta đến với Người; Người làm cho chúng ta thoát ra khỏi bản thân của chúng ta để làm cho chúng ta nên một với Người (x Tự Thú, VII, 10, 16). Nhờ đó, Người mang chúng ta vào cộng đồng huynh đệ.

Đến đây chúng ta đối diện với một chiều kích sâu xa hơn nữa của Thánh Thể là chiều kích tôi muốn bàn đến trước khi kết thúc bài giảng. Chúa Kitô là Đấng chúng ta gặp gỡ trong bí tích này cũng chỉ là một ở Bari đây, như ở Rôma, ở Âu Châu, Mỹ Châu, Phi Châu, Á Châu, Đại Dương Châu. Người là Chúa Kitô duy nhất hiện diện nơi bánh Thánh Thể ở khắp mọi nơi trên trái đất này. Điều này có nghĩa là chúng ta chỉ có thể hội ngộ với Người cùng với tất cả những người khác. Chúng ta chỉ có thể nhận lấy Người trong hiệp nhất mà thôi.

Đó không phải là những gì đã được Thánh Tông Đồ Phaolô nói với chúng ta trong bài đọc chúng ta vừa nghe hay sao? Khi viết cho Kitô hữu Côrintô, ngài đã khẳng định rằng: “Vì chỉ có một tấm bánh duy nhất mà chúng ta tuy nhiều chỉ là một thân thể duy nhất, vì tất cả chúng ta đều tham dự vào một tấm bánh duy nhất” (1Cor 10:17). Kết quả rõ ràng là: Chúng ta không thể hiệp thông với Chúa Kitô nếu chúng ta không hiệp thông với chính chúng ta. Nếu chúng ta muốn ra trước nhan Người, chúng ta cần phải tiến đến chỗ gặp gỡ nhau. Để làm được điều này cần phải biết hết sức thứ tha. Chúng ta không được để cho những con ấu trùng sát hại của tâm trạng bất mãn cầm buộc tinh thần của chúng ta, nhưng hãy mở lòng mình ra một cách rộng lượng, để lắng nghe người khác, để cảm thông, để có thể chấp nhận những lời xin lỗi của nhau, để quảng đại ban phát những gì của chúng ta.

Chúng ta hãy lập lại Thánh Thể là bí tích của hiệp nhất. Thế nhưng, tiếc thay, Kitô hữu lại chia rẽ nhau chính vì bí tích hiệp nhất này. Bởi thế, đó lại càng là lý do, được Thánh Thể nâng đỡ, chúng ta cần phải cảm thấy được phấn khích hết sức hường đến mối hiệp nhất trọn vẹn như Chúa Kitô thiết tha mong muốn ở nhà tiệc ly. Chính ở Baria này đây, thành phố đang giữ những xương cốt của Thánh Nicholas, mảnh đất của gặp gỡ và đối thoại với những người anh em Kitô hữu Đông phương mà tôi xin khẳng định ý muốn của tôi trong vấn đề thực hiện hết sức mình, như là một cuộc dấn thân chính yếu, trong việc tái thiết mối hiệp nhất tất cả mọi thành phần môn đệ Chúa Kitô một cách trọn vẹn và hữu hình.

Tôi biết rằng, để làm như thế, những việc bày tỏ thiện cảm vẫn chưa đủ. Cần phải có những cử chỉ cụ thể là những gì thẩm thấu tâm linh và khuấy động lương tri, mời gọi từng người tiến đến chỗ hoán cải nội tâm là điều kiện tiên quyết cho tất cả mọi sự tiến bộ trên con đường đại kết (cf. Benedict XVI's Address to Representatives of Christian Churches and Communities and of Other Non-Christian Religions, April 25, 2005). Tôi xin tất cả anh chị em hãy cương quyết thực hiện con đường đại kết thiêng liêng này, con đường bằng việc nguyện cầu mở cửa cho Thánh Linh là Đấng duy nhất có thể kiến tạo hiệp nhất mà thôi.

Quí bạn thân mến, những người đã đến Bari từ các phần đất khác nhau ở Ý quốc để cử hành hội nghị Thánh Thể này: Chúng ta cần phải tái nhận thức được niềm vui của Ngày Chúa Nhật Kitô giáo. Chúng ta cần phải hãnh diện tái nhận thức được đặc ân có thể tham phần Thánh Thể là bí tích của một thế giới được canh tân. Việc phục sinh của Chúa Kitô được xẩy ra vài ngày thứ nhất trong tuần, ngày mà đối với người Do Thái là ngày tạo dựng nên thế giới. Chính vì lý do ấy mà Chúa Nhật được cộng đồng Kitô hữu thời sơ khai coi như là ngày mở màn cho một tân thế giới, ngày mà Chúa Kitô chiến thắng sự chết mở màn cho một tân thế giới. Cùng nhau tập trung quanh bàn ti65c Thánh Thể, cộng đồng này đang hình thành một tân dân Chúa. Thánh Ignatiô Antiôkia đã gọi thành phần Kitô hữu là “những người đã chiếm được niềm hy vọng mới”, và ngài coi họ như những con người “sống theo Chúa Nhật” (“iuxta dominicam viventes”). Từ quan điểm này, vị giám mục Antiôkia đã ngẫm nghĩ rằng: “Chúng ta làm thế nào có thể sống nếu thiếu Đấng được các vị tiên tri mong đợi được chứ?” ("Epistula ad Magnesios," 9, 1-2).

“Làm sao chúng ta có thể sống mà không có Người?” Chúng ta nghe thấy âm vang từ lời khẳng định của các vị tử đạo ở Abitene, nơi những lời này của Thánh Ignatiô: “Sine dominico non possumus”. Từ lời âm vang này chúng ta hãy dâng lên lời nguyện cầu: chớ gì Kitô hữu ngày nay tái ý thức được tầm quan trọng quyết liệt của việc cử hành Chúa Nhật, nhờ đó chúng ta có thể rút ra được từ việc tham dự Thánh Thể này động lực cần thiết cho việc dấn thân mới để loan báo Chúa Kitô là “hòa bình của chúng ta” cho thế giới (Eph 2:14). Amen!

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, theo bản dịch của Zenit ngày 29/5/2005

 

TOP

 

 

Các Nữ Tu Dòng Kín Thánh Clara ở Hòa Lan cầu cho ĐHY Ratzinger được làm Giáo Hoàng

Một tờ nội san số tháng 4/2005 của các nữ tu kín Dòng Thánh Clara ở Eindhoven Hòa Lan đã viết như sau:


“Đêm vọng ở Quảng Trường Thánh Phêrô được chấm dứt vào lúc 8 giờ 37 phút ngày 2/4/2005 đã được tiếp tục cho tới khuya ở nơi đây, nơi chẳng có truyền thanh hay truyền hình gì cả để có thể nói cho chúng tôi biết về vị cha của chúng ta đã thực sự bước qua ngưỡng cửa hy vọng”.

Những vị nữ tu kín này, thành phần chỉ biết tin tức bên ngoài nhờ mạng điện toán Zenit và bạn bè, chỉ biết được tin ĐTC GPII qua đời nhờ chuông đổ ở nhà thờ gần đó.

Khi đến tiếng chuông nhà thờ này đổ vào giữa đêm hôm như thế đến hồi thứ 15, các nữ tu cho rằng: “chỉ có một lý do duy nhất khiến chuông đổ vào nửa đêm như vậy”.

Và trong khi cả thế giới đang xem lễ an táng của Đức Gioan Phaolô II thì các nữ tu này giành cả ngày cầu nguyện thiết tha cho ngài.

“Việc làm này ít là đã làm cho một nam nhân lấy làm bàng hoàng”. Số là có một phóng viên của tờ nhật báo địa phương Eindhoven muốn chụp một tấm ảnh về việc các nữ tu này đang xem lễ an táng của ĐTC GPII, các nữ tu cho ông ta biết rằng các sơ không có truyền hình. “Bấy giờ ông ta bật ngửa người ra: Các sơ không có lấy được một cái truyền hình à? Không có truyền hình hay sao? Không có truyền hình hả? Không có thực à?”

Các nữ tu này nói rằng các sơ cầu nguyện thiết tha cho ĐHY Ratzinger được làm giáo hoàng, và các sơ muốn biết ngay vị nào là tân giáo hoàng. Các sơ đã liên lạc với hai người bạn trong cộng đồng được trao cho số điện thoại riêng của mẹ bề trên, và họ phải gọi các sơ khi thấy khói trắng bay lên từ ống khói của nguyện đường Sistine.

Điện thoại đã reo vào chiều ngày 19/4 và báo tin rằng khói đen lại bốc lên, nhưng mẹ bề trên không tin lời trình báo này vì nó cho rằng quá sớm để kết thúc việc bầu phiếu.

Các sơ đã vào tìm trong mạng điện toán toàn cầu, và mẹ bề trên liền gọi các sơ đến ngay văn phòng của mẹ.

Theo dõi các biến cố trên màn ảnh nhỏ của máy điện toán trên bàn của mẹ bề trên, các sơ, tất cả chen chúc trong một văn phòng nhỏ, bật lên cảm xúc khi nghe thấy tên “Ratzinger”: “Chúng tôi đã hô lên, nhẩy lên, chúng tôi đã ôm lấy nhau…”

TOP

Sắc chỉ về việc cần thu thập các Chứng Từ Thánh Đức của ĐTC GPII cần cho hồ sơ tôn phong

Sau khi được ĐTC Biển Đức XVI, vào ngày Thứ Sáu 13/5/2005, châm chước thời hạn 5 năm theo giáo luật cho việc bắt đầu tiến trình tôn phong của ĐTC GPII, vị tổng đại diện Giáo Phận Rôma là ĐHY Camillo Ruini đã phổ biến trên trang chính của tờ L’Osservatore Romano hôm Chúa Nhật 29/4/2005 sắc chỉ về việc cần thu thập các chứng từ thánh đức của vị cố giáo hoàng cần thiết cho tiến trình mở hồ sơ tôn phong ngài, kể cả nhật ký hay thư tư của ngài. Sắc chỉ này sẽ được niêm yết trên các cửa của Tòa Tổng Đại Diện Rôma cũng như tại tòa TGM Krakow Balan.

Sau khi loan báo về việc chính thức mở hồ sơ phong chân phước và phong hiển thánh, bản sắc chỉ này kêu gọi “tất cả mọi tín hữu hãy trực tiếp liên lạc với chúng tôi hay gửi cho Hội Đồng Thẩm Phán Giáo Phận của Tòa Đại Diện Rôma (Piazza San Giovanni in Laterano, 6 -- 00184, Rome) tất cả mọi chi tiết thuận lợi hay bất thuận lợi” về “tiếng tăm thánh đức của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II”.

“Theo những điều kiện về pháp lý, vì tất cả mọi bút tích thuộc về ngài đều phải được thu thập, mà qua sắc chỉ đây, chúng tôi truyền tất cả những ai đang giữ những bút tích ấy hãy thận trọng gửi đến cho hội đồng thẩm phán này bất cứ bất cứ bút tích nào do người tôi tớ Thiên Chúa đây viết, trừ khi bút tích ấy đã được nộp cho văn phòng cáo thỉnh vụ.

“Chúng tôi xin nhắc nhở tín hữu là về vấn đề bút tích của ngài, chúng tôi không chỉ có ý nói đến những tác phẩm được in ấn là những gì đã được thu thập, mà còn là những bản thảo, những thứ hồi ký, những thư tín và bất cứ bút tích tư riêng nào của người tôi tớ Chúa đây. Những ai muốn giữ bản chính cũng có thể gửi một sao bản được thị thực đàng hoàng”.
 

TOP

 

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ