GIÁO HỘI HIỆN THẾ

_______

 THỨ TƯ 15/6/2005

 

1) ĐTC Biển Đức XVI về “Gia Đình và Cộng Đồng Kitô Hữu: Việc Huấn Luyện Con Người và Việc Truyền Đạt Đức Tin”

2) Những Dữ Kiện Đen Tối về Hôn Nhân Gia Đình ở Các Quốc Gia Văn Minh Âu Mỹ

3) Nguyên Văn toàn Bài Nói của ĐTC BĐXVI về Cuốn Phim “Karol, Một Con Người đã Trở Thành Giáo Hoàng”
 

 

ĐTC Biển Đức XVI về “Gia Đình và Cộng Đồng Kitô Hữu: Việc Huấn Luyện Con Người và Việc Truyền Đạt Đức Tin”

 

(tiếp Thứ Bảy 11 Chúa Nhật 12 )

 

Gia Đình và Giáo Hội

 

Từ tất cả những điều ấy phát sinh ra một hiệu quả hiển nhiên, đó là gia đình và Giáo Hội, nhất là các giáo xứ và các hình thức cộng đồng giáo hội, được kêu gọi hợp tác một cách hết sức chặt chẽ nơi nhiệm vụ căn bản là những gì được thiết lập nên, một cách bất khả phân ly, bởi cả việc giáo dục con người lẫn việc truyền đạt đức tin.

 

Chúng ta đã quá rõ là để nỗ lực giáo dục chân thực được thể hiện, việc truyền đạt một lý thuyết đúng hay một tín lý đúng cũng chưa đủ. Cần phải có những gì đó cao cả hơn và nhân bản hơn nữa -  đó là việc gần gũi, được thể hiện hằng ngày, một việc gần gũi hợp với yêu thương và là việc gần gũi chiếm được vị thể thuận lợi nhất của mình, trước hết, trong cộng đồng gia đình, rồi sau đó trong giáo xứ, phong trào hay hội đoàn, trong những hội đoàn con người thấy được ai là người chú ý đến anh em của họ, đặc biệt là đến trẻ em và giới trẻ, cũng như đến thành phần người lớn, lão thành, bệnh nhân và chính các gia đình, vì, trong Chúa Kitô, họ yêu thương chúng. Vị đại quan thày của các nhà giáo dục là Thánh Gioan Bosco, đã nhắc nhở con cái tinh thần của ngài rằng “giáo dục là một điều gì đó của con tim và chỉ một mình Thiên Chúa mới là chủ nhân ông của nó” ("Epistolario," 4, 209).

 

Hình ảnh của vị chứng nhân là vấn đề then chốt trong nỗ lực giáo dục, nhất là vấn đề giáo dục đức tin, một đức tin là tuyệt đỉnh của việc hình thành con người và là chân trời xứng hợp nhất của họ, ở chỗ: vị chứng nhân ấy sẽ thực sự trở nên một cứ điểm ở mức độ nhờ đó con người có thể bênh vực cho niềm hy vọng làm nền tảng của đời sống họ (x 1Pt 3:15), và ở mức độ vị chứng nhân ấy tự mình gắn liền với sự thật được họ bày tỏ. Chưa hết, vị chứng nhân ấy không phải là những gì qui về mình mà về một điều gì đó, đúng hơn, về một vị cao cả hơn, Đấng họ đã được hội ngộ và cảm nghiệm như sự thiện hảo khả tín. Bởi thế, hết mọi nhà giáo dục và chứng nhân đều tìm thấy một mô phạm không ai hơn nơi Chúa Giêsu Kitô, Vị đại nhân chứng về Cha, Vị không nói gì về bản thân mình, nhưng nói hoàn toàn những gì được Cha truyền dạy (x Jn 8:28).

 

Bởi thế mà nơi nền tảng của việc huấn luyện con người Kitô hữu cũng như việc truyền đạt đức tin đó là việc cần phải nguyện cầu, cần phải sống thân tình với Chúa Kitô và phải chiêm ngưỡng nơi Người dung nhan của Chúa Cha. Những điều này cũng cần phải được áp dụng cho tất cả mọi việc dấn thân truyền giáo của chúng ta, đặc biệt là chương trình mục vụ về gia đình của chúng ta: chớ gì Gia Đình Nazarét, bởi thế, trở thành đối tượng nguyện cầu liên lỉ và tin tưởng, cũng như trở thành mô phạm sống cho gia đình và cộng đồng của chúng ta. (Ngài tiếp tục một đoạn nữa với riêng các vị linh mục ở giáo phận Rôma về mục vụ giúp đỡ đời sống hôn nhân gia đình)

 

Hiểm Họa của Tương Đối Thuyết

 

Bởi thế, hãy tiếp tục, chứ đừng để mình bị chán nản trước những khó khăn an hem gặp phải. Mối liên hệ về giáo dục, tự bản chất của nó, là một cái gì đó tinh tế, ở chỗ, nó bao hàm tự do của người khác, thành phần mà, cho dù hiền lành đi nữa, cũng cần phải có quyết định. Dù là cha mẹ, linh mục, giáo lý viên, hay các giáo dục viên khác cũng không thể thay thế cho tự do của đứa trẻ, của em trai, của con người trẻ được họ hướng dẫn. Và văn kiện Kitô giáo đề cao tự do một cách hết sức mạnh mẽ, mời gọi tự do chấp nhận đức tin và thực hiện việc hoán cải. Ngày nay có một ngãng trở đặc biệt xảo quyệt đối với việc giáo dục đó là sự hiện diện hỗn loạn, trong xã hội của chúng ta cũng như trong văn hóa của chúng ta, một thứ tương đối thuyết là thuyết chẳng những không chấp nhận một sự gì là tối hậu lại còn lấy làm phương thức trên hết cái ‘tôi’ duy nhất của con người cùng với những ước muốn của họ, một thứ tương đối thuyết, dưới dạng thức tự do, trở thành ngục tụ giam nhốt mỗi người, khiến cho mỗi người thấy mình bị đóng kín trong cái ‘tôi’ của họ. Đó là lý do, trong một chân trời tương đối như thế không thể nào có vấn đề giáo dục thực sự nổi. Bởi vì: thiếu ánh sáng chân lý, không sớm thì muộn, mọi người thực sự sẽ đi đến chỗ ngờ vực cái thiện hảo nơi sự sống của mình cùng với những liên hệ dính dáng tới sự thật ấy, đến chỗ ngờ vực tính cách giá trị của việc họ dấn thân cùng với kẻ khác xây dựng một điều chung.

 

Bởi thế, rõ ràng là chúng ta chẳng những phải tìm cách thắng vượt tương đối thuyết nơi công cuộc đào luyện con người, chúng ta còn được kêu gọi để chiến đấu với vị thế chủ trị của nó trong xã hội và văn hóa của chúng ta nữa. Đó là lý do, vấn đề quan trọng ở đây là, cùng với lời giảng dạy của Giáo Hội, các gia đình Kitô hữu cũng cần phải thực hiện chứng từ và việc công khai dấn thân, nhất là để tái khẳng định tính cách bất khả vi phạm của sự sống con người từ khi được hoài thai đến khi tự nhiên qua đi, một giá trị đặc thù bất khả hoán của gia đình dựa trên hôn nhân và là nhu cầu cần có những biện pháp về lập pháp và hành pháp để nâng đỡ gia đình trong việc sinh sản và giáo dục con cái, một việc thiết yếu cho tương lai chung của chúng ta. Tôi cũng xin chân thành cám ơn việc dấn thân này của anh chị em.

 

Thiên Chức Linh Mục và Đời Sống Tận Hiến Tu Trì

Điều cuối cùng tôi muốn nói với anh chị em liên quan đến việc chú trọng tới các ơn gọi làm linh mục và tận hiến tu trì. Tất cả chúng ta đều biết đến nhu cầu hiện nay của Giáo Hội! Để làm cho các ơn gọi này nẩy sinh và chín mùi, để những người được kêu gọi luôn giữ mình xứng đáng với ơn gọi của họ, thì trước hết cần đến lời cầu nguyện; việc nguyện cầu không phải giờ bị thiếu sót nơi mỗi gia đình cũng như nơi cộng đồng Kitô hữu. Thế nhưng, cũng rất cần nữa là chứng từ sống của các vị linh mục, của thành phần tu sĩ nam nữ, niềm vui họ tỏ ra cho thấy họ được Chúa kêu gọi. Và cũng thiết yếu nữa đó là gương mẫu trẻ em thấy được nơi gia đình của chúng, cùng với niềm tin tưởng là ơn gọi của các em cũng là một đại ân của Chúa ban cho các em. Việc chọn lựa sống đồng trinh vì kính mến Chúa và mến yêu anh chị em, một chọn lựa mà thiên chức linh mục và đời sống tận hiến tu trì đòi hỏi, là những gì song hành với việc cảm nhận về đời sống hôn nhân Kitô giáo: qua hai hình thực khác nhau và bổ khuyết cho nhau, đời sống này hay đời sống kia, ở một nghĩa nào đó, đều làm hiện thực mầu nhiệm giáo ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài”. (Đoạn cuối cùng ĐTC chào chúc và ban phép lành)


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, theo Zenit 9-10/6/2005


 

 

TOP

 

 

Những Dữ Kiện Đen Tối về Hôn Nhân Gia Đình ở Các Quốc Gia Văn Minh Âu Mỹ

Tại một cuộc hội thảo do Đại Học Lateran tổ chức có một bản phân tích các con số thống kê cho thấy một đổi thay đáng lo ngại trong vòng 20 năm (1981-2001). Theo bản tường trình này trong tờ nhật báo Corriere della Sera số ra ngày 19/3/2005 thì ở Ý vào năm 1981 các cuộc hôn nhân ở mức 5.6 trên 1000, với tổng số 316.953, nhưng vào năm 2001 mức độ đã giảm xuống còn 4.5 vụ trên 1000, hay 260.904 vụ kết hôn mà thôi.

Những cặp chung sống ngoại hôn cũng tăng. Năm 1993 có 277 ngàn cặp, năm 2001 có 453 ngàn cặp ở Ý. ĐGM Dante Lafranconi giáo phận Cremona tường trình ở buổi hội thảo này là khoảng một nửa cặp tham dự khóa dự bị hôn nhân đã sống với nhau rồi.

Những con số mới nhất về gia đình Ý quốc của văn phóng thống kê nước này là ISTAT cũng cho thấy mối quan ngại này. Trong năm 2002-2003, thành phần độc thân chiếm 25.4% các đơn vị gia đình, so với 21% trong thời khoảng 1994-1995 theo tường trình 10/2004 trên tờ Corriere della Sera. Con số các cặp sống chung ngoại hôn là 564 ngàn.

Tây Ban Nha cũng bị thử thách nặng về đời sống hôn nhân gia đình. Một bài báo trên tờ La Razón phổ biến một bản tường trình được Viện Chính Trị Gia Đình thực hiện cho thấy 60% gia tăng trong việc ly hôn và ly dị 8 năm qua, với con số là 134.931 trong năm 2004.

Tờ nhật báo Guardian hôm 17/12/2004 đã tường trình những dữ kiện được Văn Phòng Thống Kê Quốc Gia cho thấy là có 41% cuộc sinh nở ở Anh quốc và Wales vào năm 2003 xuất phát từ những cuộc giao du tình dục ngoại hôn. Con số này cao hơn một thập niên trước chỉ ở 12%. Ở những vùng doing bắc hai nước này, còn số còn tăng lên tới 50%.

Tờ nhật báo Telegraph ở Luân Đôn đã phổ biến hôm 5/2/2005 rằng cũng theo văn phòng thống kê trên thì con số thành hôn trong năm 2003 tăng lên 4.7% so với năm trước đó, tức tăng lên 267.770 cuộc. Tuy nhiên, sở dĩ con số này tăng là vì tăng tái hôn sau ly dị. Thật vậy, trong năm 2003 chỉ có 59% cặp là thành hôn một lần. Tuổi trung bình lập gia đình lần đầu tiên ở 2 quốc gia này là 29 ở giới nữ và 31 ở nam giới, so với 40 năm trước đây, nam ở tuổi 26 và nữ ở tuổi 23.

Ở Bắc Mỹ tình hình cũng không kém trầm trọng. Một bản tường trình của văn phòng Thống Kê Gia Nã Đại cho thấy tình trạng gia tăng kinh khủng nơi những cuộc ly dị đi ly dị lại. Trong một bài viết trong tháng 3/2005, tờ nhật báo Globe and Mail tường trình là 16.2% của các cuộc ly dị trong năm 2003 liên quan đến nam giới đã từng ly dị trước đó. Con số ở nữ giới là 15.7%. Tất cả có 70.828 vụ ly dị trong năm 2003, tăng 1% so với một năm trước đó với 70.155 vụ.

Nữ giáo sư Đại Học York và là một trong những chuyên viên thượng thặng về hôn nhân và ly dị ở Canada là Anne-Marie Ambert nhận định như thế này:

“Chúng ta … là một xã hội rất ư cá nhân chủ nghĩa, và chúng ta coi trọng việc chọn lựa, chúng ta coi trọng việc tình tứ, và chúng ta càng trở thành ít có thể chịu đựng nổi bất cứ điều gì sai trái. Chúng ta càng ít muốn giải quyết những rắc rối về mối liên hệ. Thật là dễ dàng đổ vỡ hôn nhân hơn trong quá khứ”.

Một bài báo khác cũng trong tờ nhật báo trên còn bày tỏ mối quan tâm về tình trạng hôn nhân ở Canada. Con số đổ vỡ hôn nhân trước khi kỷ niệm 30 năm năm lấy nhau lên tới 38.3% vào năm 2003, trong khi đó, các chính trị gia lại bận tâm với vấn đề ngả theo chiều hướng hôn nhân đồng tính, và chẳng làm gì để giúp cho các cặp vợ chồng có thể thủy chung với nhau.

Bài chủ biên của tờ báo này viết rằng: “Ly dị được coi là vấn đề tư riêng giữa vợ chồng với nhau, một chọn lựa riêng tư không liên quan gì tới chính quyền và xã hội là bao. Điều này rõ ràng là sai trái. Ly dị không phải chỉ là một thảm cảnh cho các đôi phối ngẫu. Nó là một rắc rối cho mọi người khác nữa”. Sauk hi đề cập đến hậu quả tác hại cho con cái cũng như cho chính các cặp vợ chồng, bài chủ biên này kết luận: “Khi một cuộc hôn nhân kết thúc, là một gia đình bị hủy diệt giống hệt như một ngôi nhà bị cháy rụi. Hết mọi cuộc ly dị là một thảm cảnh vậy”.

Ở Liên Hiệp Quốc, theo Associated Press tường trình ngày 1/12/2004, Văn Phòng Kiểm Tra Dân Số cho thấy con số trong năm 2003 là 1/3 nam nhân và gần Ử nữ giới ở vào tuổi từ 30 đến 34 chưa bao giờ lập gia đình. Con số này gần 4 lần trong năm 1970. Con số sinh nở ngoại hôn lên đến gần 35% trong năm 2003, so với 11% trong năm 1970.


Ở Úc Châu cũng thế. Căn cứ vào tín liệu của cuốn Niên Giám Úc Châu 2005 do Văn Phòng Thống Kê phổ biến, tờ nhật báo Úc Châu hôm 22/1/2005 tường trình là các gia đình có cả cha lẫn mẹ và tối thiểu là 1 đứa con chỉ ở vào khoảng 47%. Những gia đình chỉ có một cha hay mẹ từ 552 ngàn năm 1991 lên tới 763 ngàn trong năm 2001.

Cao Tấn Tĩnh, dịch theo Zenit ngày 11/6/2005
 

TOP

 

 

Nguyên Văn toàn Bài Nói của ĐTC BĐXVI về Cuốn Phim “Karol, Một Con Người đã Trở Thành Giáo Hoàng”

Tối Thứ Năm 19/5/2005, cùng với mấy ngàn người tại Sảnh Đường Phaolô VI, ĐTC đã xem cuốn phim “Karol un uomo deventato Papa – Karol, Một Người đã Trở Thành Giáo Hoàng”. Sau khi xem xong phần đầu của cuốn phim cho tới khi Đức Karol lên làm giáo hoàng, ĐTC đã bày tỏ nhận định của mình bằng những lời lẽ chính yếu tiêu biểu liên quan đến hai chế độ độc tài chuyên chế của sự dữ như sau.

Anh Chị Em thân mến,

Tôi muốn diễn tả những cảm thức chung và bày tỏ lòng biết ơn đối với những ai muốn cống hiến cho tôi cũng như cho tất cả anh chị em cơ hội xem cuốn phim cảm kích này tối hôm nay; cuốn phim diễn lại cuộc đời của con người trẻ Karol Wojtyla, cho đến khi ngài được chon làm Giáo Hoàng với danh hiệu “Gioan Phaolô II”.

Tôi xin chào và cám ơn ĐHY Roberto Tucci về việc ngài giới thiệu cuốn phim này. Và tôi muốn ngỏ lời ca ngợi đến vị đạo diễn kiêm tác giả Giacomo Battiato, cũng như đến các tài tử, nhất là tài tử Piotr Adamczyk là người đóng vai Đức Gioan Phaolô II, đến nhà sản xuất phim Pietro Valsecchi cũng như đến các đài Taodue và Mediaset.

Tôi thân ái gửi lời chào đến quí Hồng Y, Giám Mục, linh mục, các Vị Thẩm Quyền và tất cả những ai muốn tham dự vào việc xem phim này để tôn kính Vị Giáo Hoàng yêu dấu của chúng ta vừa tạ thế. Tất cả chúng ta đều nhớ đến ngài với niềm cảm xúc sâu xa và tri ân chân thành. Hôm qua là ngày ngài mừng sinh nhật 85 của ngài.

“Karol, Một Con Người đã Trở Thành Giáo Hoàng” là nhan đề của một thảm kịch được trích từ bản văn của Gian Franco Svidercoschi. Phần thứ nhất, như chúng ta đã xem, nhấn mạnh đến những gì đã xẩy ra ở Balan dưới thời Nazi chiếm đóng” và ngài nói tới “tình trạng bị đàn áp của nhân dân Balan cũng như cuộc diệt chủng Do Thái. Đây là những tội ác tàn bạo cho thấy tất cả cái xấu xa dữ ác nơi ý hệ Nazi.

Rùng mình trước quá nhiều khổ đau và quá nhiều bạo lực, con người trẻ Karol đã quyết định biến đổi cuộc đời của mình, khi đáp lại tiếng gọi thần linh đi làm linh mục. Cuốn phim này có những cảnh và những đoạn có tính cách thô bạo đã khơi lên nơi khán giả tự nhiên cảm thấy kinh hoàng “muốn quay đi”, và kích thích họ nghĩ đến những gì sâu xa của tội lỗi có thể ẩn náu nơi linh hồn con người.

Khi khơi lên những gì lầm lạc như thế thì đồng thời nó cũng làm nổi lên nơi tất cả những ai biết suy nghĩ đúng đắn quyết tâm thực hiện tất cả những gì có thể để bảo đảm rằng những hành động man di mọi rợ phi nhân ấy không bao giờ còn tái diễn nữa”.

Việc xem phim hôm nay xẩy ra chỉ sau vài ngày kỷ niệm 60 năm chấm dứt Thế Chiến Thứ II. Vào ngày 8/5/1945 là ngày đánh dấu việc chấm dứt của một thảm cảnh khủng khiếp đã gieo rắc hủy diệt và chết chóc ở Âu Châu cũng như trên thế giới với một mức độ chưa từng có.

Mười năm trước đây, Đức Gioan Phaolô II đã viết rằng Thế Chiến II đã là những gì tỏ tường hơn bao giờ hết cho thấy nó như là một ‘cuộc tự sát nhân loại’. Bất cứ lúc nào con người bị một ý hệ độc tài nào đó đè nén thì toàn thể nhân loại bị trầm trọng đe dọa. Những hồi niệm ấy không được phai nhạt theo thời gian, trái lại, chúng phải tồn tại như một bài học thực sự cho các thế hệ của chúng ta cũng như mai hậu. Chúng ta có nhiệm vụ phải nhắc nhở mình và kẻ khác, nhất là giới trẻ, về những hình thức bạo lực chưa từng thấy có thể xẩy ra bởi thái độ khinh bỉ con người và việc vi phạm đến các thứ nhân quyền”.

Chúng ta lại không thấy được hay sao dự án thần linh nơi sự kiện là trên Ngài Tòa Thánh Phêrô vị Giáo Hoàng Balan được kế vị bởi một người công dân Đức Quốc, nơi chế độ Nazi đã củng cố mình bằng tính chất cực kỳ độc hại, trước khi tấn công láng giềng của mình, nhất là Balan?

Cả hai vị Giáo Hoàng này, trong thời còn trẻ, mặc dù ở hai bên khác nhau và ở hai trường hợp khác nhau, đều bị buộc phải trải qua cái dã man mọi rợ của Thế Chiến Thứ Hai cũng như tình trạng bạo lực vô nghĩa được con người và các dân tộc sử dụng để phạm đến nhau.

Trong những ngày cuối cùng của Công Đồng Chung Vaticanô II được tổ chức ở Rôma đây, những vị Giám Mục Balan đã đồng ký tên vào “Bức Thư Hòa Giải” với các vị Giám Mục Đức Quốc; bức thư này đã chất chứa những lời để đời vẫn còn vang vọng trong tâm hồn của chúng ta hôm nay đây: “Chúng tôi tha thứ và xin được thứ tha”.

Trong bài giảng Chúa Nhật vừa rồi tôi đã nhắc nhở các vị tân linh mục là ‘không gì có thể cải tiến trên thế giới này, nếu không thắng vượt sự dữ; và sự dữ chỉ có thể bị chế ngự bằng lòng thứ tha’ (L'Osservatore Romano English Edition, 18 May, p. 7). Chớ gì việc cùng nhau thành tâm lên án chủ nghĩa Nazi và chủ nghĩa Cộng Sản vô thần góp phần vào việc mọi người dấn thân xây dựng vấn đề hòa giải và hòa bình theo chiều hướng thứ tha.

Đức Gioan Phaolô II thân yêu của chúng ta nhắc nhở chúng ta rằng “Tha thứ không có nghĩa là quên đi, nếu hồi niệm là qui luật của lịch sử thì việc thứ tha là quyền năng của Thiên Chúa, quyền năng của Chúa Kitô đang hoạt động nơi những thăng trầm của con người” (cf. "Insegnamenti di Giovanni Paolo II," XVII/2 [1994], p. 250). Hòa bình trước hết là tặng ân của Thiên Chúa, Đấng làm cho dậy lên những cảm thức yêu thương và đoàn kết nơi tâm can của con người đón nhận hòa bình.


Tôi hy vọng rằng, nhờ chứng từ này của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II được tưởng niệm ở cuốn phim ý nghĩa này, mỗi người sẽ lập lại nơi những gì thực hiện – mỗi người ở lãnh vực của mình và tùy theo phương tiện của mình – để phục vụ hoạt động tối hậu cho hòa bình ở Âu Châu cũng như trên toàn thế giới.

Tôi xin ký thác niềm hy vọng hòa bình được tất cả chúng ta ấp ủ trong lòng mình cho việc chuyển cầu từ mẫu của Trinh Nữ Maria, Vị được đặc biệt tôn kính trong Tháng Năm này. Xin Mẹ là Nữ Vương Hòa Bình phấn khích việc quảng đại góp phần của những ai muốn dồn nỗ lực của mình vào việc xây dựng nền hòa bình chân thực trên những trụ cột vững chắc là chân lý, công lý, tự do và yêu thương. Với những cảm thức ấy, tôi ban Phép Lành Tòa Thánh cho tất cả mọi người.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo tài liệu bằng tiếng Ý của Tòa Thánh được Zenit chuyển ngữ sang Anh ngữ và phổ biến ngày 12/6/2005

 

 

TOP

 

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ