GIÁO HỘI HIỆN THẾ

_______

 THỨ BA 21/6/2005

 

1) ĐTC Biển Đức XVI với 20 vị Giám Mục  Madagascar về việc xây dựng một xã hội biết tôn trọng phẩm giá con người

2) Giáo Hội Công Giáo càng xích gần lại hơn với người “Anh Cả” Do Thái

3) ĐTC Gioan Phaolô II: Vị Giáo Hoàng Đẩy Mạnh Chiến Dịch Hủy Bỏ Án Tử Hình

 

ĐTC Biển Đức XVI với 20 vị Giám Mục  Madagascar về việc xây dựng một xã hội biết tôn trọng phẩm giá con người

Hôm Thứ Bảy 18/6/2005, ĐTC BĐXVI đã tiếp 20 vị giám mục ở Madagascar trong dịp các ngài hoàn thánh nhiệm vụ viếng thăm Tòa Thánh ngũ niên của mình. Ngài hy vọng rằng nhân dân thuộc quốc gia của các vị "sẽ sống trong hòa bình của Thiên Chúa và sẽ can đảm theo đuổi việc xây dựng một xã hội tôn trọng con người và phẩm giá của họ hơn".

ĐTC nói tiếp: "Trong Năm Thánh Thể này, tôi đặc biệt kêu gọi chư huynh hãy lập lại việc chư huynh gắn bó với Chúa Kitô là Đấng không ngừng ban mình cho chúng ta trong Bí Tích này. Qua đời sống gương mẫu của chư huynh cũng như qua việc giảng dạu của chư huynh, tích cực cộng tác với nhau, chư huynh hãy dẫn tín hữu đến việc sống thân tình với Chúa Kitô, khuyên giục họ sống đức bác ái quảng đại hơn đối với anh em của họ".

ĐTC cũng nhận định là giáo dân, khi trung thành với ơn gọi của mình, "hoạt động để thiết lập một xã hội chân chính hơn, chiến đấu với nạn nghèo khổ, bất an và tất cả mọi hình thức khai thác thành phần nghèo khố nhất, thể hiện mối quan tâm của Giáo Hội cho sự thiện hảo chân thực của con người".

Là thành phần giám mục, ĐTC huấn dụ là "chúng ta cần phải giúp thành phần tín hữu được trao phó cho chúng ta có được một đức tin sáng suốt được bắt nguồn từ cuộc gặp gỡ thân tình với Chúa Kitô. Người phải là chuẩn mức của hết mọi sự, giúp cho chúng ta có thể nhận thức được sự thật ở chỗ nào, nhờ đó mới có thể đối diện với các vấn đề của ngày hôm nay một cách trung thành với giáo huấn của Người. Về vấn đề này thì việc hội nhập đức tin nơi văn hóa Malagasy vẫn còn là một mục tiêu quan trọng.  Việc đón nhận tính cách tân tiến không loại trừ mà còn đòi hỏi việc hội nhập đâm rễ sâu nữa. Bảo trì bản thân mình bằng một đức tin sáng suốt là những gì bất khả châm chước cho vấn đề tiến bộ chân thực trong việc tìm cầu mối hiệp nhất của thành phần môn đệ".

Ngài cũng không quên nhắc nhở đến việc chăm sóc các vị linh mục là thành phần cộng sự viên thân cận nhất của ngài: "Linh mục phải là con người có tính chất về trí thức, thiêng liêng và luân lý, những vị, "bằng đời sống của mình làm chứng cho thấy việc gắn bó vô vị lợi với con người của Chúa Kitô và của Giáo Hội Người". Ngài xin các vị giám mục "hãy đặt ưu tiên cho vấn đề trân trọng đào luyện nơi các chủng viện và tìm cách phát triển các phương tiện để liên lỉ huấn luyện cho các vị linh mục".

Tâm Phương, dịch theo Zenit ngày 20/6/2005

 TOP

 

Giáo Hội Công Giáo càng xích gần lại hơn với người “Anh Cả” Do Thái

 

Sau khi được ĐTC Biển Đức XVI, vào ngày Thứ Sáu 13/5/2005, châm chước thời hạn 5 năm theo giáo luật cho việc bắt đầu tiến trình phong thánh của ĐTC GPII, vị tổng đại diện Giáo Phận Rôma là ĐHY Camillo Ruini đã phổ biến trên trang chính của tờ L’Osservatore Romano hôm Chúa Nhật 29/4/2005 sắc chỉ về việc cần thu thập các chứng từ thánh đức của vị cố giáo hoàng cần thiết cho tiến trình mở hồ sơ tôn phong ngài, và tiến trình này sẽ được chính thức bắt đầu vào ngày Lễ Thánh Phêrô Phaolô 29/6/2005 tới đây, sau một nghi thức đặc biệt vào Giờ Kinh Phụng Vụ Tối ngày 28/6/2005.

 

Như chúng ta biết, Đức Gioan Phaolô II, theo một tổ chức của Do Thái ở Washington DC là Hiệp Hội Chống Nói Xấu Bôi Nhọ, là Vị Giáo Hoàng đã đẩy mạnh việc đối thoại liên tôn với Do Thái giáo, đến nỗi, đã được cho là việc ngài làm trong thời gian 26 năm rưỡi còn hơn cả gần 2 ngàn năm nữa. Vào ngày Thứ Ba 18/1/2005, một phái đoàn Do Thái gồm 160 vị lãnh đạo trên khắp thế giới đã qui tụ lại Rôma với mục đích ngỏ lời cám ơn ngài về những nỗ lực ngài thực hiện để hòa giải hai niềm tin giữa hai tôn giáo. Để tiếp tục đà tiến hết sức khả quan này, ĐTC Biển Đức XVI, vị GH người Đức, vị GH thuộc chủng tộc, vào Thế Chiến Thứ II, qua Đảng Đức Quốc Nazi, đã vô cùng dã man ra tay diệt chủng người Do Thái, cũng đã hết sức chú trọng đến việc đối thoại liên tôn với những người Do Thái, với “những cử chỉ cụ thể”, như ngài đã tỏ ra trong việc Đại Kết Kitô giáo vậy.

 

Trước hết, chúng ta cần phải lưu ý đặc biết tới một chi tiết rất quan trọng liên quan đến dân Do Thái, một chi tiết đã được tôi đề cập tới trong cuốn “Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Vị Giáo Hoàng của Hiệp Nhất Kitô Giáo và cho Một Tân Âu Châu”, vừa được phát hành 1 tháng trước đây, ở chương cuối cùng: “Giáo Hội – Dấu Chỉ Thời Đại Cánh Chung”, trang 183-185, đó là lời tiên báo của Thánh Tông Đồ Phaolô về dân tộc của ngài như thế này: “Dân Do Thái bị mù tối cho đến khi đủ số Dân Ngoại, thì bấy giờ tất cả dân Do Thái sẽ được cứu” (Rm 11:25-26).

 

Qua câu tiên báo này, lời tiên báo xuất phát từ Thánh Kinh, từ những gì được Thánh Thần linh ứng viết ra và được Giáo Hội công nhận là chân thật, buộc phải tin tưởng, thì không thể nào xẩy ra tận thế nếu dân Do Thái nói chung chưa trở lại, tức họ chưa tỏ ra nhận biết Chúa Kitô là Đấng Thiên Sai của họ, và nếu dân Do Thái càng ngày càng xích lại gần Giáo Hội Công Giáo là dấu chứng tỏ tận thế đã đến gần.

 

Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo cũng minh nhiên xác nhận sự kiện được mạc khải Thánh Kinh Tân Ước này khẳng định ở số 674 như sau: “Việc tái lâm của Chúa Kitô vinh hiển được trì hoãn ở hết mọi giây phút trong lịch sử, cho tới khi Người được ‘tất cả mọi người dân Yến Duyên’ nhận biết”.

 

Theo lịch sử thì dân Do Thái đã bị phân tán đi khắp nơi trên thế giới sau khi Thành Thánh Giêrusalem và Đền Thờ Giêrusalem của họ bị tướng Titô của đế quốc Rôma tàn phá vào năm 70, đúng như những gì đã được Chúa Giêsu tiên báo trước về số phận của biểu tượng tôn giáo Do Thái là thánh thánh và đền thánh Giêrusalem này, lời tiên báo được Phúc Âm Thánh Marcô (được viết cũng vào khoảng năm 70 hay trước đó) ghi nhận ở đoạn 13 câu 2 là: “Các con có thấy những dinh thự nguy nga ấy chăng? Tất cả sẽ bị hủy hoại, không còn một hòn đá nào trên hòn đá nào”. 

 

Thế rồi, có ngờ đâu, gần 20 thế kỷ sau, thành phần Dân Chúa Cựu Ước này, chính sau khi bị Đức Quốc Xã Nazi thời Thế Chiến Thứ II diệt chủng, với con số lên tới 6 triệu người tại Âu Châu, đã chính thức lập quốc ở ngay chính mảnh đất hứa của họ, một quốc gia Do Thái được tổ chức Liên Hiệp Quốc công nhận vào năm 1948, một quốc gia Do Thái ở giữa thành phần dân Palestine Hồi giáo Ả Rập là dân đã chiếm mảnh đất của họ, nhưng mãi cho tới nay, sau hơn nửa thế kỷ họ lập quốc (1948-2005), dân Palestine vẫn chưa thể nào trở thành một quốc gia như họ.

 

Với nỗ lực của vị Giáo Hoàng “đến từ một xứ sở xa xôi” là Balan, một xứ sở đã có trại diệt chúng Do Thái nổi tiếng là Auschwitz (nơi đã có hai vị Thánh là Têrêsa Benedicta Thánh Giá dòng Carmêlô được phong thánh ngày 11/10/1998, và Thánh Maximilianô Kolbe dòng Phanxicô được phong thánh ngày 17/10/1982), và là vị giáo hoàng đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo đã vào Hội Đường của họ ở Rôma ngày 13/4/1984, nước Do Thái đã chính thức thiết lập bang giao với Tòa Thánh Vatican vào ngày 30/12/1993.

Hy vọng, với nỗ lực của vị tân Giáo Hoàng Biển Đức XVI, vị giáo hoàng đến từ Đức quốc, một quốc gia, qua chủ nghĩa Đức Quốc Xã Nazi thời Thế Chiến Thứ II, đã chủ trương bài Do Thái và dã man thực hiện mưu đồ tru diệt dân Do Thái, dân Do Thái sẽ xích lại gần với Giáo Hội Công Giáo hơn.

Cử chỉ đầu tiên được vị tân giáo hoàng này thể hiện đó là, trong tất cả mọi thành phần lãnh đạo Liên Tôn và Đại Kết, ngài chỉ đích thân viết mấy lời hồi âm hôm 20/4/2005 cho vị tôn sư trưởng Riccardo di Segni ở hội đường Do Thái Rôma về lời ông mừng chúc tân giáo hoàng, và đã chính thức ngỏ lời mời vị tôn sư trưởng ở Hội Đường Do Thái Rôma này đến tham dự Lễ Đăng Quang giáo triều của ngài vào Chúa Nhật 24/4/2005.

Để tiếp tục, ngài cũng đã viết thư cho vị nguyên tôn sư trưởng Hội Đường Do Thái ở Rôma là Elio Toaff, 90 tuổi, một sứ điệp được ĐHY Walter Kasper, chủ tịch Ủy Ban Liên Hệ Tôn Giáo với Do Thái giáo, đọc trong buổi mừng sinh nhật của vị tôn sư được ĐTC GPII nhắc đến trong di chúc thư của ngài này:

“Với tinh thần biết ơn Thiên Chúa, tôi xin cám ơn ngài về những liên hệ tốt đẹp với Tòa Thánh Vatican, nhất là trong giáo triều của vị cố tiền nhiệm tôi. Ngày sinh nhật của ngài là cơ hội để lập lại quyết tâm dấn thân tiếp tục đối thoại giữa chúng ta với niềm tin tưởng hướng đến tương lai. Tôi chúc tụng Cha hằng hữu về tặng ân Người đã ban cho ngài có được một đời sống trường thọ và tốt lành, một cuộc sống Thiên Chúa đã nhiều lần tỏ ra cho ngài thấy sự thiện hảo của Người”.

Chưa hết, trong cuộc tông du về Đức nhân dịp Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX tháng 8/2005, ngài đã nhận lời đến viếng thăm hội đường Do Thái cổ kính nhất ở Đức nữa.

Hôm Thứ Năm 9/6/2005, ĐTC Biển Đức XVI đã tiếp phái đoàn đại biểu của Tiểu Ban Do Thái Quốc Tế Đặc Trách Việc Tham Vấn Liên Tôn, và đã bày tỏ với phái đoàn này quyết tâm tiếp tục vấn đề liên hệ với dân Do Thái như sau:

“Trong những năm sau Công Đồng này, các vị tiền nhiệm của tôi là Đức Phaolô VI, nhất là Đức Gioan Phaolô II, đã thực hiện những bước tiến quan trọng trong việc cải thiện những liên hệ với nhân dân Do Thái. Tôi cũng có ý tiếp tục con đường này. Lịch sử của mối liên hệ giữa hai cộng đồng của chúng ta đã từng là những gì phức tạp và thường đau thương, nhưng tôi tin rằng ‘cái gia sản thiêng liêng’ hằng được ấp ủ bởi cả Kitô hữu lẫn người Do Thái tự bản chất là nguồn mạch khôn ngoan và hứng khởi có thể hướng chúng ta đến ‘một tương lai hy vọng’ theo dự án thần linh (x Jer 29:11)”.

 

Chúng ta hãy tiếp tục cầu nguyện cho dân Do Thái chóng nhận biết Chúa Kitô cũng là Đấng Thiên Sai của họ.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, Bài Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống www.tinmungsusong.org 250 ngày 26/6/2006

TOP

 

ĐTC Gioan Phaolô II: Vị Giáo Hoàng Đẩy Mạnh Chiến Dịch Hủy Bỏ Án Tử Hình
 

HY Theodore McCarrick, TGM Washington, làm đầu Tiểu Ban Chính Sách Tại Nội của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, đã gửi thư kêu gọi các nghị viên Hạ Viện và Thượng Viện đang phác họa một khoản luật hậu biến cố 911 đừng áp dụng án tử hình với thành phần khủng bố. Sau đây là mấy ý tưởng chính yếu tiêu biểu của ngài:

 

“Những hành động đề hèn trong ngày 11/9 cùng với những giá thê thảm phải trả của con người vẫn còn là những gì ám ảnh quốc gia chúng ta. Không thể nào có vấn đề làm suy giảm cái khủng khiếp ghê rợn của nạn khủng bố hay trách nhiệm của những kẻ sử dụng bạo lực một cách ngang tàng phạm đến thành phần vô tội.

 

“Tuy nhiên, theo giáo huấn của Giáo Hội chúng tôi, chúng tôi phản đối việc áp dụng án tử hình ngay cả cho thành phần khủng bố. Giáo huấn Công Giáo về án tử hình minh định: Nếu phương tiện không đổ máu đã đủ để bênh vực mạng sống con người chống lại thành phần tấn công, cũng như đủ để bảo vệ đời sống quần chúng và sự an toàn của con người, thì công quyền cần phải sử dụng các phương tiện đó thôi, vì chúng đáp ứng hơn với những điều kiện cụ thể của công ích cũng như tương hợp hơn với phẩm giá của con người.

 

“Sau nữa, chúng tôi hết sức cảm thấy rằng những kẻ khủng bố tự sát không sợ bị án tử hình. Đúng vậy, nhiều kẻ khủng bố tin rằng nếu họ chết vì hành động khủng bố họ sẽ trở thành những vị tử đạo. Vấn đề hành quyết những tay khủng bố ít ra cũng biến họ thành các bậc anh hùng trước mắt của thành phần có cùng một chủ trương khủng bố tương tự như thế.

 

“Là những mục tử, chúng tôi tin rằng việc sử dụng án tử hình ở bất cứ trường hợp nào cũng đều làm giảm giá trị chúng ta là con người. Như chúng tôi đã đề cập đến trong văn kiện ‘Đối Đầu Với Một Thứ Văn Hóa Bạo Lực’ là ‘Chúng Ta không thể giảng dạy rằng sát hại là việc làm sai trái bằng cách thực hiện việc sát hại’”.

 

Trong khi đó, ở Âu Châu, có hai phạm nhân mang án tử nhưng được trắng án vô tội đã kêu gọi loại bỏ án tử và gọi án tử hình là những gì “tàn bạo vô nhân đạo”. Thật thế, hai phạm nhân này là Nick Yarris và Ray Kron, những người đã ở trong tù tất cả là 30 năm, đang thực hiện một cuộc du hành vòng quanh Âu Châu mang ý nghĩa “Từ Vòng Tay Tử Thần Đến Tự Do: Chứng Nhân Cho Việc Vô Tội”.

 

Tại các trung tâm ở Rôma của Cộng Đồng Sant’Egidio, hai người Mỹ này đã kể lại về trường hợp của họ cũng như về niềm tin của họ nơi Thiên Chúa, và kêu gọi Âu Châu giúp vào việc chấm dứt án tử hình. Hai chứng nhân này được cộng đồng này mời, những người đã trình bày cho báo chí Ngày Thế Giới Các Thành Phố Chống Án Tử Hình tới đây, 30/11/2004 ở 200 thành phố trên khắp thế giới.

 

Một viên chức của cộng đồng này là Mario Marioãiti cho biết việc chống lại án tử hình này do tổ chức của ông phát động “đã kiếm được 5 triệu ủng hộ viên, kể cả nhiều vị lãnh đạo tôn giáo. Việc hủy bỏ án tử hình có thể là một quà tặng cho gia đình của các nạn nhân nữa, vì họ có thể thôi hận thù và muốn trả đũa. Một thế giới không có án tử vẫn có thể hiện hữu”.

 

Lời kêu gọi của cộng đồng Sant’Egidio xẩy ra vào ngày hành quyết người tội phạm mang tên Dominique Green ở Texas.

 

Đúng như dự định, vào Ngày Thứ Ba 30/11/2004, 300 thành phố trên thế giới cùng với thành phố Rôma hợp tiếng phản đối chống lại án tử hình, bằng các loạt biến cố công khai khắp thế giới. Thật vậy, Cộng Đồng Sant’Egidio giáo dân đã phát động chiến dịch liên kết toàn cầu “Các Thành Phố Tranh Đấu Cho Sự Sống – Các Thành Phố Chống Án Tử Hình”.

 

Cộng đồng này đã xin được khoảng 5 triệu hội viên ở 150 quốc gia, làm bừng lên một cuộc đi tiên phong về liên tôn trong việc chống lại án tử hình. Vào năm 2002, cộng đồng này đã mở màn lần đầu tiên Ngày Quốc Tế Các Thành Phố Chống Án Tử Hình, đó là ngày 30/11/2002. Ngày này sở dĩ được chọn là để nhắc nhở việc hủy bỏ lần đầu tiên án tử hình tại Grand Duchy ở Tuscany ngày 30/11/1786.

 

Trong số những thành phố ủng hộ cuộc vận động chống án tử hình là Amsterdam, New York, Buenos Aires, Berlin, Hiroshima và Paris. Hí Trường ở Rôma sẽ là khởi điểm của một số trình diễn được cộng đồng này phát động.

 

Ngay trong Tuần Cửu Nhật Tòa Thánh giành riêng để cầu cho linh hồn vị cố giáo hoàng Gioan Phaolô II vừa qua đời thì chính quyền nước Guatemala, một quốc gia có 14.2 triệu và đã xử tử 36 người, ở Nam Mỹ Châu Latinh cứu xét đến vấn đề hủy bỏ án tử hình “để tôn kính” ngài. Tại sao vậy? Nếu không phải tại vì ngài là vì giáo hoàng của nền “văn hóa sự sống” (một thành ngữ do ngài sử dụng lần đầu tiên trong Thông Điệp “Phúc Âm Sự Sống ban hành ngày 25/3/1995, và đã trở thành thông dụng), mà còn vì ngài là vị đã phát động chiến dịch chống án tử trên thế giới nữa.

 

Về việc bảo vệ sự sống con người nói chung, chưa bao giờ người ta thấy Giáo Hội Công Giáo tỏ ra cương quyết và mạnh mẽ như vào thời gian tranh cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2004, liên quan đến một ứng cử viên người Công giáo là thượng nghị sĩ Kerry thuộc đảng Dân chủ mà lại công khai phò văn hóa sự chết như ủng hộ vấn đề phá thai. Ngoài ra, cũng tại Hoa Kỳ, cho dù chỉ là sự sống của một cá nhân, đó là bà Terri Schiavo, 41 tuổi, theo yêu cầu của người chồng giám hộ pháp lý của bà, đã bị tòa án (sau đó cả một hệ thống luật pháp Hoa Kỳ đã tỏ ra đồng loạt chấp nhận) án lệnh triệt sinh an tử bà, một người chỉ ở vào trạng thái nhận thức tối thiểu nhất hơn là trạng thái thực vật miên viễn, bằng cách rút ống dinh dưỡng ra, vào ngày 18/3/2005 (và bà đã quả thực qua đời ngày 1 tháng 4, tức trước 1 ngày vị giáo hoàng của văn hóa sự sống qua đời), nhưng sự sống nơi cá nhân con người nạn nhân vô tội này đã được cả giáo quyền địa phương Florida lẫn Hoa Kỳ và Tòa Thánh đã công khai lên tiếng bênh vực. 

 

Tại Liên Hiệp Quốc, vị quan sát viên thường trực của Tòa Thánh còn tỏ ra chống đối việc tạo sinh sao bản phôi bào con người dưới bất cứ hình thức nào và với mục đích nào, một cuộc tranh đấu cuối cùng đã được đáp ứng một phần nào qua quyết định của Tổng Hội Đồng LHQ hôm Thứ Ba 8/3/2005, Ngày Nữ Giới Quốc Tế, khi cơ cấu thẩm quyền này đã phê chuẩn quyết nghị (với hiệu lực không bắt buộc thi hành) kêu gọi các chính quyền hãy chuẩn nhận các khoản luật “cấm tất cả mọi hình thức tạo sinh sao bản con người vì chúng không xứng hợp với phẩm giá con người cũng như việc bảo vệ sự sống con người”, kể cả việc tạo sinh sao bản phôi bào con người để thực hiện việc nghiên cứu thân bào.

 

Thật vậy, tất cả những biến động và vận động phò sự sống và chống án tử ấy đã được bùng lên từ vị giáo hoàng Gioan Phaolô II. Vì, sau khi ban hành Cuốn Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo vào ngày 11/10/1992 bằng Tông Hiến Kho Tàng Đức Tin Fidei Depositum, ngài đã bắt đầu phát động và đẩy mạnh chiến dịch chống án tử hình này bằng Thông Điệp Phúc Âm Sự Sống được ban hành ngày 25/3/1995, Lễ Mẹ Thai Lời liên quan đến sự sống. Ở chỗ, trong khi Cuốn Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, ở khoản số 2266, vẫn chấp nhận cho phép thi hành án tử trong những trường hợp vi phạm tội ác cực kỳ trầm trọng, vị giáo hoàng “vui mừng và hy vọng” Gioan Phaolô II này đã còn đi đến độ hoàn toàn chống lại việc thi hành án tử hình nữa. Đúng thế, trong Thông Điệp Phúc Âm Sự Sống, một thông điệp mà, lần đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội, một vị giáo hoàng đã chính thức long trọng lấy quyền mình công khai tuyên bố những vấn đề về luân lý (chứ không phải tín lý như các tín điều Thánh Mẫu), như việc sát nhân nói chung (khoản số 57), cách riêng việc phá thai (khoản số 62), và triệt sinh an tử (khoản số 65), là những hành động hoàn toàn vô luân rất nặng, vị giáo hoàng là người đầu tiên sử dụng thành ngữ “văn hóa sự chết” này đã đặt vấn đề hủy bỏ án tử ở khoản số 27, 55 và 56 như sau.

 

(còn tiếp)

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 TOP

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ