GIÁO HỘI HIỆN THẾ

_______

 THỨ BẢY 2/7/2005

 

1) ĐTC/BĐXVI: Bài Giảng Lễ Trọng Kính Thánh Phêrô và Phaolô về Công Giáo Tính và Hiệp Nhất Tính của Giáo Hội Chúa Kitô (tiếp)

2) Khoa Giáo Hội Học Hiêp Thông của Hồng Y Joseph Ratzinger

3) Con Người: Tiến Trình Phá Sản Luân Lý với ĐTC GPII (tiếp)

 

 

ĐTC/BĐXVI: Bài Giảng Lễ Trọng Kính Thánh Phêrô và Phaolô về Công Giáo Tính của Giáo Hội Chúa Kitô (tiếp hôm qua Thứ Sáu 1)

 

Mối hiệp nhất của con người nơi đa dạng tính của họ có thể thực hiện vì Thiên Chúa, vị Thiên Chúa duy nhất của trời đất này, đã tỏ mình ra cho chúng ta; vì sự thật chính yếu của cuộc sống chúng ta, sự thật về việc chúng ta “từ đâu mà có?” và “sẽ đi về đâu?”, đã trở nên hữu hình khi Ngài tỏ mình cho chúng ta và nơi Chúa Giêsu Kitô Ngài đã cho chúng ta thấy dung nhan của Ngài, cho thấy chính Bản Thân của Ngài. Sự thật về yếu tính liên quan đến con người của chúng ta đây, đến việc chúng ta sống và việc chúng ta chết đây, sự thật nhờ Thiên Chúa đã trở thành hiện tỏ ấy, đã liên kết chúng ta và làm cho chúng ta trở nên anh em với nhau. Công giáo tính và hiệp nhất tính là những gì đồng hành với nhau. Và duy nhất tính có một nội dung đó là một đức tin đã được các vị tông đồ thay Chúa Kitô truyền đạt cho chúng ta.

 

Hôm qua, nhân dịp lễ Thánh Irenaeus và là áp lễ trọng kính Thánh Phêrô và Phaolô, tôi đã có thể cống hiến cho Giáo Hội một bản hướng dẫn mới để truyền đạt đức tin, bản hướng dẫn giúp chúng ta hiểu biết hơn nữa và sống tốt đẹp hơn nữa đức tin liên kết chúng ta, đó là cuốn Tổng Lược Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo. Những gì trong cuốn Giáo Lý lớn, với những chứng từ của các thánh thuộc mọi thế kỷ cùng với những suy tư thần học chín mùi được trình bày một cách chi tiết, đều được tóm gọn lại thành những gì thiết yếu trong cuốn tổng lược này, những điều sau đó được chuyển dịch thành ngôn ngữ của đời sống thường nhật và trở thành thực tiễn hơn.

 

Cuốn sách này được trình bày như một cuộc đối thoại với những câu vấn đáp; 14 bức hình liên quan tới các lãnh vực khác nhau của đức tin để mời gọi con người chiêm ngắm và suy niệm. Có thể nói rằng chúng tóm gọn một cách tượng hình những gì được lời lẽ diễn tả theo chi tiết. Mở đầu là một bức hình từ thế kỷ thứ sáu về Chúa Kitô, bức hình được thấy trên Núi Athos và tiêu biểu cho Chúa Kitô nơi phẩm vị là Chúa Tể Trái Đất của mình, thế nhưng cũng tiêu biểu cho Người như là vị rao giảng Phúc Âm Người cầm trong tay.

 

“Ta là Đấng Hiện Hữu” – tên gọi nhiệm mầu này được viết lên trong Cựu Ước – được nói đến trong cuốn sách này như là danh riêng của Ngài: bởi vì, hết mọi sự hiện hữu đều xuất phát từ Ngài; Ngài là nguồn mạch nguyên thủy của hết mọi hữu thể. Và vì Ngài là duy nhất mà Ngài bao giờ cũng hiện hữu, bao giờ cũng gần chúng ta song đồng thời đi trước chúng ta, như “Đấng ấn định” cho đường đi nước bước của đời chúng ta sống, Ngài tự mình thực sự là đường lối. Cuốn sách này không thể nào được đọc như là một cuốn tiểu thuyết. Nó phải được suy niệm một cách thâm trầm từng phần thì nội dung của nó, qua những hình ảnh, mới thấm vào tâm hồn được. Tôi hy vọng nó sẽ được đón nhận như thế và sẽ trở nên một bản hướng dẫn bổ ích trong việc truyền đạt đức tin.

 

Chúng ta đã nói rằng công giáo tính và hiệp nhất tính của Giáo Hội là những gì đi với nhau. Sự kiện là giữa hai tính chất này có những chiều kích được nói đến hữu hình đối với chúng ta nơi hình ảnh của các vị tông đồ đã cho chúng ta thấy đặc tính sau đó của Giáo Hội: một Giáo Hội tông truyền.

 

Điều này nghĩa là gì? Chúa đã thiết lập 12 Tông Đồ, để từ bấy giờ trở đi bao gồm tất cả mọi dân tộc, giống như 12 người con của Giacóp xưa, đối với Người là các chi tộc lãnh đạo Dân Chúa, một sự kiện bấy giờ đã trở thành phổ quát. Thánh Marcô đã nói cho chúng ta biết rằng Chúa Giêsu kêu gọi các vị tông đồ “đến ở với Người và sai các vị ra đi” (3:14). Điều này hầu như tương khắc nhau. Chúng ta có thể nói rằng: Một là các vị ở với Người hay là các vị được sai đi và lên đường.

 

Có một lời về các vị thiên thần được thánh Giáo Hoàng Gêgôriô Cả nói tới giúp chúng ta giải quyết được điều tương phản ấy. Ngài nói rằng các thiên thần bao giờ cũng được sai đi lại đồng thời lúc nào cũng ở trước nhan Thiên Chúa: “Bất cứ khi nào các vị được sai đi, bất cứ nơi nào các vị đến, bao giờ các vị cũng chuyển động trong cung lòng của Chúa Cha” (Homily 34,13). Mạc khải đã diễn tả các vị giám mục như là “các thiên thần” của Giáo Hội các vị, và bởi thế chúng ta áp dụng điều này như sau: các vị tông đồ cũng như các vị thừa kế các tông đồ lúc nào cũng phải ở với Chúa, và chỉ có như thế, bất cứ đi đâu, các vị cũng luôn hiệp thông với Ngài và sống cuộc hiệp thông này. 

 

Giáo Hội tông truyền vì Giáo Hội tuyên xưng đức tin của các vị tông đồ và tìm cách sống đức tin ấy. Chính mối hiệp nhất làm nên đặc tính của 12 Vị được Chúa Kitô kêu gọi, thế nhưng đồng thời cũng có một sự liên tục nơi sứ vụ tông đồ nữa. Trong Bức Thư Thứ Nhất của mình, Thánh Phêrô đã diễn tả mình là “anh cả” đối với những người anh được ngài gửi thư cho (5:1). Bằng lời lẽ ấy, ngài nói lên nguyên tắc của việc thừa kế tông đồ: cùng một thừa tác vụ ngài đã lãnh nhận từ Chúa giờ đây được tiếp tục trong Giáo Hội qua việc truyền chức tư tế. Lời Chúa không những được viết ra mà còn là một lời sống động qua những chứng từ được Chúa Kitô ở trong bí tích này đưa vào thừa tác vụ tông đồ.

(còn tiếp)


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, theo Zenit ngày 29/6/2005

 

 

TOP

 

Khoa Giáo Hội Học Hiêp Thông của Hồng Y Joseph Ratzinger

 

Theo tôi, kể cả tác phẩm vừa được xuất bản hôm 21/6/2005, ĐHY Joseph Ratzinger đã viết tới 54 tác phẩm về nhiều lãnh vực, nhưng có thể tóm lại trong 2 đề tài chính yếu, đó là đề tài về văn hóa thời đại nói chung và Âu Châu nói riêng, và đề tài về giáo hội học liên quan đến cả phụng vụ lẫn thần học và đại kết.

 

Đó là lý do, ngay khi ngài vừa lên làm Giáo Hoàng, tôi đã cảm thấy được khoa thần học về giáo hội hiệp thông của ngài, để rồi sau đó tôi đã soạn thảo và cho xuất bản tác phẩm bao gồm cả hai phương diện văn hóa thời đại (liên quan đến Âu Châu) và Giáo Hội (liên quan đến hiệp nhất Kitô giáo), một tác phẩm mang tựa đề: “Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Vị Giáo Hoàng của Hiệp Nhất Kitô Giáo và cho Một Tân Âu Châu”, phát hành vào ngày 13/5/2005, sau ngày (19/4/2005) ngài được bầu giáo hoàng gần 1 tháng.

 

Trong tác phẩm về ngài này, tôi đã phổ biến bài diễn giải rất hay của ngài về Khoa Giáo Hội Học của Công Đồng Chung Vaticanô II (Khoa Giáo Hội Học của Công Ðồng Chung Vaticanô II).

 

Trong cuốn “Được Kêu Gọi Hiệp Thông: Hiểu Biết Giáo Hội Ngày Nay”, hồng y Ratzinger đã nói tới nguồn gốc và yếu tính của Giáo Hội, vai trò giáo hoàng và quyền bính Thánh Phêrô, mối hiệp nhất và ‘hiệp thông’ của Thân Thể Chúa Kitô. 

 

Để hiểu rõ hơn về khoa giáo hội học này của vị tân giáo hoàng của chúng ta, cha Matthew Lamb, giám đốc trường thần học và giáo sư thần học ở Đại Học Ave Maria đã chia sẻ với mạng điện toán toàn cầu Zenit tổng quan về một số đề tài được đề cập tới trong tác phẩm trên của vị hồng y thần học gia vừa trổ thành giáo hoàng này.

 

Vấn:     Kiến thức của Hồng Y Ratzinger ra sao về nguồn gốc và yếu tính của Giáo Hội, như được phác họa trong tác phẩm của ngài?

 

Đáp:    Đọc cuốn “Được kêu gọi Hiệp Thông” là một niềm vui cho tâm trí.

 

Vào lúc phát hành cuốn sách này, ĐHY Ratzinger đã gọi nó là “cơ bản cho khoa giáo hội học Công Giáo”. Như những cuốn sách về thần học khác của mình, cuốn sách này đã tuyệt vời phục hồi cho thời đại của chúng ta truyền thống cao cả của Công Giáo về sự khôn ngoan, về mối hòa hợp với “toàn thể” sự hiện diện sáng tạo và cứu chuộc của Thiên Chúa Ba Ngôi.

 

“Công giáo” có nghĩa là sống “trọn vẹn” sự hiện diện thần linh này. Đường lối khôn ngoan ấy cho thấy Tân Ước đã kín múc từ và làm hoàn trọn giao ước với dân Do Thái ra sao. Dân Do Thái đã được chọn tuyển và được dẫn ra khỏi Ai Cập để tôn thờ Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, nhờ đó, làm chứng cho tất cả mọi dân nước.

 

Trong việc rao giảng, truyền dạy và hành động của mình, Chúa Giêsu Kitô đã làm hoàn tất những lời hứa thiên sai. Trong bữa tiệc ly, Chúa đã khởi xướng Tân Ước bằng mình máu chí thánh của mình. Đức Ratzinger đã viết trong tác phẩm “Được Kêu Gọi Hiệp Thông” rằng: “Chúa Giêsu loan báo việc sụp đổ của nghi lễ cũ và …. Hứa hẹn một việc tôn thờ mới cao cả hơn được tập trung nơi thân xác hiển vinh của Người”. 

 

Chúa Giêsu loan báo Vương Quốc Thiên Chúa hằng hữu như “hoạt động hiện tại của Thiên Chúa” nơi ngôi vị thần linh nhập thể của Người. Như Cha sai Chúa Giêsu Kitô thế nào, về phần mình, Chúa Giêsu cũng sai các tông đồ và môn đệ của Người như vậy.

 

Nguồn gốc của Giáo Hội là Chúa Giêsu Kitô, Đấng sai Giáo Hội đi như Cha đã sai Người. Các vị tông đồ và môn đệ, cùng với thành phần thừa kế của các vị qua giòng thời gian, làm nên Giáo Hội như một “ecclesia”, một cuộc qui tụ “dân Chúa”.

 

Trích dẫn từ luận án tiến sĩ của mình về Giáo Hội theo thần học của Thánh Âu Quốc Tinh, Đức Ratzinger cho thấy rằng dân Chúa là những gì được Thánh Phaolô gọi là “thân thể của Chúa Kitô”. Yếu tính của Giáo Hội là dân của Thiên Chúa như Thân Thể của Chúa Kitô, một Thân Thể gồm có đầu và các chi thể, nhờ Thánh Thần, hiệp nhất trong mối hiệp thông hữu hình với các vị thừa kế các Tông Đồ, hiệp nhất với Giáo Hoàng là vị thừa kế Thánh Phêrô.

 

Qua các thế hệ, Giáo Hội tiếp tục các sứ vụ hữu hình và vô hình của Con và Thánh Linh qua việc rao giảng và giảng dạy về Con và về Thánh Thần, bằng việc rao truyền và giảng dạy, bằng các bí tích thánh hóa và bằng việc quản trị thống nhất bởi mối hiệp thông của mình với vị thừa kế Thánh Phêrô.

 

Vấn:     Trong cuốn “Được Kêu Gọi Hiệp Thông”, ngài đã nghĩ gì về vai trò của Giáo Hoàng trong Giáo Hội?

 

Đáp:    “Còn là Đá và trên đá này Thày sẽ xây Giáo Hội của Thày… Thày sẽ trao cho con chìa khóa nước trời”. Trong Phúc Âm Mathêu đoạn 16:17-19, những lời chân thật này của Chúa Giêsu đã vượt lên trên những cuộc luận chiến theo niềm tin giáo phái. Từ những lời ấy Đức Ratzinger đã nêu lên vai trò của vị Giáo Hoàng.

 

Căn cứ vào sứ vụ Thánh Phêrô được ủy thác ngài thấy rằng thánh Phêrô được ủy thác cho sứ vụ thứ tha tội lỗi. Như ngài đã viết trong cuốn “Được Kêu Gọi Hiệp Thông”, nó là một sứ vụ ban phát “ơn tha thứ. Nó tạo nên Giáo Hội. Giáo Hội được xây dựng trên sự thứ tha. Chính bản thân Thánh Phêrô là biểu hiện cho sự thật này, vì ngài được phép trở thành người cầm giữ chìa khóa sau khi đã sa ngã, đã thú tội và đã lãnh nhận ơn tha thứ”.

 

Vấn:     ĐHY Ratzinger đã nhận định về tối thượng quyền Phêrô và mối hiệp nhất của Giáo Hội ra sao?

 

Đáp:    Trước hết ngài chứng tỏ cho thấy sứ vụ Phêrô trong toàn thể truyền thống Tân Ước. Yếu tính của vai trò làm môn đệ là ở việc làm chứng cho Chúa Giêsu phục sinh. Đức Ratzinger đã cho thấy thượng quyền Phêrô ở ngay vai trò này, như được chứng thực bởi Thánh Phaolô, vị thậm chí có lúc đối đầu với tông đồ Phêrô, cũng nhìn nhận trong Thư Thứ Nhất gửi giáo đoàn Côrintô 15:5 rằng Phêrô là ‘Cephas’ – tiếng Aramaic nghĩa là ‘đá’ – nơi việc tông đồ Phêrô làm chứng cho Chúa Kitô phục sinh.

 

Bởi thế tông đồ Phêrô là bảo viên của một Phúc Âm chung duy nhất. Tất cả các Phúc Âm nhất lãm đều đồng ý việc trao cho tông đồ Phêrô thượng quyền trong danh sách các vị tông đồ. Sứ vụ của Thánh Phêrô trước hết là hiện thực mối hiệp nhất nơi các vị tông đồ trong việc các vị làm chứng cho Chúa Kitô phục sinh cũng như trong sứ vụ của các vị được Người ủy thác cho.

 

Như Đức Ratzinger đã viết trong cuốn “Được Kêu Gọi Hiệp Thông”, sau đó những giáo phận hay tòa giám mục được đồng hóa với các vị tông đồ đã trở thành những gì nổi bật, và, như Thánh Irenaues đã chứng thực ở thế kỷ thứ hai, những giáo tòa này đã nhìn nhận tiêu chuẩn quyết liệt được thi hành bởi “Giáo Hội Rôma là nơi Thánh Phêrô và Phaolô tử đạo. Chính nhờ Giáo Hội này mà hết mọi cộng đồng đã đồng nhất; Rôma là tiểu chuẩn cho tất cả truyền thống tông đồ đích thực”.

 

(còn tiếp)


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, theo Zenit ngày 28/6/2005

 

 

TOP

 

 

Con Người: Tiến Trình Phá Sản Luân Lý với ĐTC GPII (tiếp hôm qua Thứ Sáu 1)

 

Đúng thế, trong tác phẩm “Hồi Niệm và Căn Tính” 2005, (Chương 2 về “Những Ý Hệ của Sự Dữ”, trang 7-12), vị giáo hoàng từng dạy triết lý ở Balan đã viết :

 ·        Qua năm tháng, tôi càng ngày càng thâm tín rằng các thứ ý hệ sự dữ được cắm rễ sâu trong lịch sử tư tưởng triết học Âu Châu. Ở đây tôi cần phải đề cập tới một số khía cạnh của lịch sử Âu Châu, nhất là các xu hướng văn hóa chủ chốt của nó. Khi bức thông điệp về Chúa Thánh Thần được ban hành (biệt chú của người dịch: bức thông điệp được ngài ký ngày 18/5/1986), đã xẩy ra một số phản ứng tiêu cực từ một số thành phần ở Tây Phương. Cái gì đã thúc động những phản ứng ấy? Chúng xuất phát từ cùng nguồn mạch được gọi là chủ nghĩa Minh Tri Âu Châu trên hai thế kỷ trước đó, nhất là Minh Tri Pháp quốc, mặc dù không nói đến các kiểu Minh Tri khác như Anh, Đức, Tây Ban Nha và Ý. Chủ nghĩa Minh Tri ở Balan theo đường lối riêng của mình. Tuy nhiên, Nga hoàn toàn thoát khỏi cuộc đột biến Minh Tri này. Ở Nga, cuộc khủng hoảng của truyền thống Kitô giáo xuất phát từ một hướng khác, được bùng lên vào đầu thế kỷ 20 một cách mãnh liệt hơn nữa nơi hình thức của cuộc cách mạng Mat-xít vô thần cực đoan.

 “Để hiểu rõ hơn về hiện tượng này, chúng ta cần phải trở về với giai đoạn trước Thời Minh Tri, nhất là với cuộc cách mạng gây ra bởi tư tưởng triết lý của Descartes. Câu cogito, ergo sum (tôi nghĩ nên tôi là) là những gì đã làm biến đổi tận gốc rễ đường lối thể hiện triết học. Vào giai đoạn trước Descartes thì triết lý, vấn đề phải nói là cogito (nghĩ tưởng) hay nói cách khác là cognosco (ý nghĩ), yếu tố thấp hơn esse (yếu tính) là yếu tố được coi là phải có trước. Thế nhưng, đối với Descartes, yếu tính lại là những gì thứ yếu, và ông cho cogito (nghĩ tưởng) là tiền hữu. Điều này chẳng những làm thay đổi chiều hướng triết lý hóa mà còn đánh dấu một cuộc dứt khoát loại trừ những gì triết lý vẫn có cho tới bấy giờ, nhất là triết lý của Thánh Tôma Aquinas được gọi là triết lý về esse (yếu tính). Trước đó, mọi sự đều được giải thích theo quan điểm yếu tính và việc giải thích mọi sự đều được căn cứ vào quan điểm này. Thiên Chúa, một Hữu Thể Toàn Mãn (Ens subsistens) được tin là căn nguyên thiết yếu của hết mọi ens non subsistens, ens participatum, tức là của tất cả mọi vật được tạo thành, bao gồm cả con người. Câu cogito, ergo sum đã đánh dấu một cuộc thoát ly từ chính giới tuyến suy nghĩ ấy. Giờ đây ens cogitans (vật nghĩ tưởng) đã chiếm phần ưu thế. Sau Descartes, triết lý trở thành một khoa học thuần nghĩ tưởng: tất cả esse (yếu tính) – nơi cả thế giới tạo sinh lẫn Hóa Công – đều ở trong phạm vi của cogito (nghĩ tưởng), như những gì được chất chứa nơi tâm thức con người. Triết học bấy giờ tự cho mình là các hữu thể qua (như) nội dung của tâm thức, chứ không phải các hữu thể qua (như) những gì hiện hữu tách biệt khỏi nó.

 “… Những diễn tiến về triết lý xẩy ra ở Tây Âu sau Thời Minh Tri. Trong các điều được nói tới, người ta nói về vấn đề ‘suy thoái của chủ nghĩa thực thể Tôma’, và vấn đề này được hiểu là bao gồm cả việc loại bỏ đi Kitô giáo là một thứ nguồn mạch cho việc triết lý hóa. Đặc biệt là ngay cả vấn đề có thể đạt tới Thiên Chúa cũng được xét lại. Theo lý lẽ của cogito, ergo sum thì Thiên Chúa trở thành một yếu tố trong tâm thức của con người; Ngài không còn được coi là ý nghĩa tối hậu cho cái sum (là) của con người nữa. Ngài cũng chẳng còn là Ens subsistens hay ‘Hữu Thể Toàn Mãn’ nữa, không còn là Đấng Hóa Công, là Đấng làm cho mọi sự hiện hữu, tệ nhất là Ngài không còn là Đấng ban mình nơi mầu nhiệm Nhập Thể, mầu nhiệm Cứu Chuộc và mầu nhiệm ân sủng nữa. Vị Thiên Chúa của Mạc Khải không còn hiện hữu như  ‘Thiên Chúa của các triết gia’ nữa. Tất cả những gì còn lại chỉ là ý tưởng về Thiên Chúa mà thôi, một đề tài tùy tâm tưởng con người khám phá.

 “Như thế, các nền tảng về ‘triết lý sự dữ’ cũng bị sụp đổ theo. Sự dữ, theo ý nghĩa thực thể thì nó chỉ hiện hữu trong tương quan với sự thiện, nhất là với Thiên Chúa, Sự Thiện tối cao. Đó là sự dữ được Sách Khởi Nguyên nói tới. Chính từ quan điểm này mới có thể hiểu được nguyên tội, cũng thế, mới có thể hiểu được tất cả mọi cá tội. Sự dữ này đã được Chúa Kitô cứu chuộc trên Thập Tự Giá. Nói một cách chính xác thì con người được cứu chuộc và thông phần vào sự sống của Thiên Chúa nhờ việc cứu độ của Chúa Kitô. Tất cả những điều ấy, toàn thể thảm kịch của lịch sử cứu độ ấy đã biến mất đối với chủ nghĩa Minh Tri. Chỉ còn lại một mình con người mà thôi: một mình con người đóng vai như là một tay làm nên lịch sử của họ cùng với văn minh của họ; một mình con người đóng vai như là một kẻ quyết định điều thiện sự ác, như là một kẻ muốn hiện hữu và tác hành như thể không có Thiên Chúa etsi Deus non daretur.

 “Nếu con người có thể tự mình quyết định, không cần Thiên Chúa, những gì là thiện và những gì là ác, thì họ cũng có thể quyết định hủy diệt cả một nhóm người. Những quyết định kiểu ấy đã được thực hiện, chẳng hạn, bởi những kẻ cầm quyền Third Reich (biệt chú của người dịch: tức Chế Độ Nazi ở Đức 1933-1945, sau hai đế quốc trước đó là Đế Quốc Đức 1871-1918 và Đế Quốc Rôma Thánh 962-1806) bằng đường lối dân chủ, trong việc chỉ lạm dụng quyền bính của mình để thực hiện những dự án gian ác của ý hệ Xã Hội Quốc Gia theo các nguyên tắc duy chủng tộc. Những quyết định tương tự cũng được thực hiện bởi đảng Cộng sản ở Nga Sô cũng như ở các xứ sở khác theo ý hệ Mát Xít. Đó là cái lý lẽ giành để diệt chủng người Do Thái, cùng các nhóm khác như nhân dân Romania, thành phần dân quê xứ Ukraine, và hàng giáo sĩ Chính Thống lẫn Công Giáo ở Nga, ở Belarus và cả ở bên ngoài rặng núi Urals (biệt chú của người dịch: một rặng núi ở Nga thường được coi là lằn biên phân chia ranh giới giữa Âu Châu và Á Châu). Cũng thế, tất cả những ai ‘không thuận lợi’ cho chế độ đều bị bách hại; chẳng hạn, thành phần không còn là chiến binh Tháng Chín 1939, những người lính thuộc Quân Đội Quốc Gia ở Balan sau Thế Chiến Thứ Hai, và những người thuộc thành phần trí thức không chấp nhận ý hệ Mát Xít hay Nazi. Bình thường cuộc bách hại này là việc bị loại trừ về thể lý, nhưng đôi khi bị loại trừ về luân lý nữa, ở chỗ, con người không nhiều thì ít bị cấm đoán hành sử các quyền lợi của mình…”

Trong tác phẩm “Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” của mình được xuất bản vào năm 1994 (ở chương ‘What Has Become of The ‘History of Salvation’, ấn bản Anh ngữ, trang 50-53), vị giáo hoàng triết gia nhân bản Kitô giáo Gioan Phaolô II còn cho thấy căn nguyên của cuộc khủng hoảng văn hóa, của tình trạng phá sản đạo nghĩa ở riêng Tây Phương và chung thế giới hiện đại, để rồi từ đó, ngài đã mở đường máu cho con người như sau:

·        Tại sao tất những điều ấy xẩy ra? Căn nguyên của những ý hệ hậu Chủ Nghĩa Minh Tri này là gì? Câu trả lời dễ thôi, ở chỗ: nó xẩy ra là vì việc phủ nhận Thiên Chúa qua (như) Vị Hóa Công, từ đó phủ nhận Ngài qua (như) nguồn mạch quyết định lành dữ. Nó xẩy ra là vì việc phủ nhận những gì tối hậu tạo nên chúng ta là con người, tức là loại trừ quan niệm bản tính con người là một ‘thực tại được ban tặng’; vị trí của quan niệm này đã bị thay thế bằng một ‘sản phẩm tư tưởng’ được tư do hình thành và tự do khả hoán theo hoàn cảnh. Tôi tin rằng nếu tìm hiểu kỹ lưỡng hơn nữa về vấn đề này chúng ta có thể vượt ra ngoài biên giới Descartes nữa. Nếu chúng ta muốn nói một cách hợp tình hợp lý về thiện ác, chúng ta cần phải trở về với Thánh Tôma Aquinas, tức là trở về với loại triết lý hiện thể. Chẳng hạn, với phương pháp hiện tượng học, chúng ta có thể học hỏi những kinh nghiệm về luân lý, tôn giáo, hay đơn giản như việc làm người ra sao, để nhờ những kinh nghiệm ấy kiến thức của chúng ta càng thêm phong phú. Tuy nhiên, chúng ta không được quên rằng, tất cả những phân tích này đã mặc nhiên nhận thức thực tại về Hữu Thể Tối Cao cũng như thực tại về con người là một tạo sinh. Nếu chúng ta không bắt đầu từ những nhận thức theo ‘chủ nghĩa thực thể’ ấy chúng ta sẽ đi đến chỗ trống rỗng mà thôi”.

 Tóm lại, theo ĐTC GPII, sở dĩ con người văn minh ngày nay nói chung và thế giới Tây Phương Kitô giáo nói riêng đi đến tình trạng bị khủng hoảng về văn hóa và đạo lý, đến nỗi đã thực hiện những hành động gian ác chưa từng thấy, như ra tay diệt chủng bởi cả hận thù lẫn luật pháp dân chủ trong thế kỷ 20, là vì con người đã trở thành vô thần, đã sống như không có Thiên Chúa, đã cho mình là chúa tể muốn làm gì thì làm, bởi thế, xã hội loài người càng băng hoại, cho đến khi con người, nhờ “hồi niệm” mà nhận ra “căn tính” của mình, và sống căn tính của mình, với sự thật làm người của mình trước nhan Thiên Chúa.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

TOP

 

 

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ