GIÁO HỘI HIỆN THẾ

_______

 THỨ BA 5/7/2005

 

1) Bình thường hóa liên hệ giữa Tòa Thánh và Việt Nam?

2) Từ Đảng Viên Cộng Sản đến Việc Làm Linh Mục Chui

3) Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Tổ Chức Liên Hiệp Quốc: Lời Ngỏ Mở Đầu

 

 

Bình thường hóa liên hệ giữa Tòa Thánh và Việt Nam?

Hôm Thứ Bảy 2/7/2005, Tòa Thánh phổ biến tin tức cho biết là Việt Nam vừa gửi 1 phái đoàn đại biểu thuộc Ủy Ban Tôn Vụ (kể cả bộ ngoại giao) của nhà nước đến Vatican viếng thăm từ ngày 27/6 đến 2/7/2005. Bản văn phổ biến tin tức này cho biết:

“Phiên họp hoạt động ở Văn Phòng Quốc Vụ Khanh, được điều hợp trong bầu không khí thân ái tôn trọng và đối thoại tốt đẹp của Đức Ông phụ tá thư ký văn phòng liên hệ chư quốc Pietro Parolin, đã tập trung như thường lệ về một số khía cạnh liên quan đến sinh hoạt của Giáo Hội Công Giáo ở Việt Nam, khi bàn tới một số tiến hóa xẩy ra từ cuộc họp vừa rồi và những trục trặc vẫn chưa được giải quyết.

Chính phủ Việt Nam không cho phép Tòa Thánh trực tiếp bổ nhiệm các vị giám mục. Trái lại, họ đòi Tòa Thánh cho họ biết một số tên để nhà nước chọn lựa tùy nghi.

Nhà nước cũng quyết định về thành phần tuyển sinh vào chủng viện nữa, nơi phải dạy cả chủ thuyết Mát Xít, và về cả thành phần được thụ phong linh mục.

Bản văn viết tiếp rằng các vị giám mục Việt Nam “đặc biệt chú ý đến đạo luật mới được chính quyền ban hành về các niềm tin và tôn giáo hôm Tháng 11 năm ngoái”. Đến nỗi, như linh mục Hoàng Minh Thắng, vị làm việc cho Đài Phát Thanh Vatican đặc trách chương trình Việt ngữ, cho biết: “Nếu đạo luật này được áp dụng đúng như phác họa thì không còn quyền tự do tôn giáo gì nữa”.

Văn bản của Tòa Thánh cho biết thêm là các cuộc họp ở Rôma cũng phản ảnh “vấn đề liên hệ giữa Việt Nam và Tòa Thánh, hy vọng rằng vấn đề sẽ tiến triển nhanh chóng theo chiều hướng bình thường hóa của đôi bên”.

Đây là chuyến viếng thăm thứ hai của phái đoàn đại biểu chính quyền Việt Nam đến Vatican từ năm 1992. Các cuộc gặp gỡ hằng năm giữa Tòa Thánh và chính quyền cộng sản Việt Nam là để làm sáng tỏ những vấn đề cụ thể liên quan tới những mối liên hệ với nhau.

Bản văn của Tòa Thánh còn viết phái đoàn đại biểu của Việt Nam “đã có thể biết thực tại về Vatican trực tiếp hơn và sâu xa hơn”.

Phái đoàn đã được ĐTGM Giovanni Lajolo, bí thư văn phòng liên hệ chư quốc tiếp đón. Họ đã viếng thăm cả ĐHY Cresceszio Sepe, tổng trưởng thánh bộ truyền bá phúc âm hóa các dân tộc, cũng như Hội Đồng Công Lý và Hòa Bình và Hội Đồng Đối Thoại Liên Tôn.

Họ còn thăm chương trình tiếng Việt của Đài Phát Thanh Vatican và nói chuyện với các chủng sinh Việt Nam học ở Đại Học Urbanô ở Rôma.

Phái đoàn này cũng tham dự đại lễ hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô ở Đền Thờ Thánh Phêrô, và chứng kiến việc TGM Ngô Quang Kiệt TGP Hà Nội lãnh nhận giây choàng tông phẩm từ ĐTC BĐXVI.

Trong số 80 triệu dân Việt Nam, có 7 triệu Kitô hữu, trong đó có 6 triệu Công giáo, Phật giáo 50 triệu, và tín hữu Cao Đài 4 triệu.

Tâm Phương, theo Zenit ngày 3/7/2005

  

TOP

 

 

Từ Đảng Viên Cộng Sản đến Việc Làm Linh Mục Chui

 

Theo cơ quan Tín Vụ Á Châu thì ơn gọi linh mục và tu sĩ ở Trung Cộng đang tăng tiến, bất chấp việc tuyền truyền chủ nghĩa cộng sản vô thần và tình hình mất tự do tôn giáo.

 

Một cuộc nghiên cứu được thực hiện bởi Viện Các Khoa Xã Hội Học ở Bắc Kinh cho thấy trên 60% sinh viên ở Bắc Kinh và Thượng Hải tỏ ra thiên về Kitô giáo.

 

Ở vào một thời điểm Đảng Cộng Sản ở Trung Hoa đang trải qua cơn khủng hoảng về căn tính của nó thì chỉ còn một ít người tin tưởng vào những lý tưởng của Mao Trạch Đông mà thôi, chứ nhiều người thuộc đảng này đang âm thầm tỏ ra chú trọng tới tôn giáo và đức tin Kitô giáo.

 

Sau đây là một câu truyện có thật về một đảng viên cộng sản năng nổ, một sinh viên thuộc miền bắc xứ sở này, đã trở thành một vị linh mục Công giáo (vì mục đích an ninh nên các địa danh và tên tuổi xin được giữ kín).

 

(Nhân dịp Thủ Tướng Phan Văn Khải của nhà nước Việt Nam vừa chấm dứt chuyến viếng thăm Hoa Kỳ tuần thứ bốn của Tháng Sáu 2005 vừa rồi theo lời mời của Tổng Thống Bush, và việc phái đoàn đại biểu Việt Nam đến thăm Tòa Thánh Vatican dịp Lễ Thánh Phêrô và Phaolô, 27/6-2/7/2005, câu truyện đây được phổ biến vào lúc này thật là thích hợp, để cho thấy rằng hạnh phúc đích thực của con người nói riêng và của xã hội loài người nói chung không phải chỉ nguyên bởi bánh kinh tế và chính trị mà chính là bởi niềm tin, bởi Đấng Tối Cao, bởi Đấng làm chủ lịch sử loài người, Đấng được ĐTC GPII gọi là “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần”).

 

Tên tôi là Bao Yuanjin và là một linh mục ở miền bắc Trung Hoa. Tôi làm linh mục mấy năm trước đây. Tôi được rửa tội 11 năm trước. Trước đó, tôi là một người vô thần, và thực sự là một tay năng nổ của Đảng Cộng Sản Trung Hoa.

 

Ở đại học, tôi đã lãnh đạo các thành viên Cộng Sản trẻ thuộc phân khoa của tôi. Lòng tôi có nhiều dự án và tư tưởng cho tương lai, thế nhưng không có một sự nào trong những thứ ấy liên quan tới Thiên Chúa hết, bởi vì, đối với tôi, Ngài thậm chí không hiện hữu.

 

Gia đình tôi chỉ có bà của tôi theo Tin Lành mà thôi. Khi tôi còn là một đứa nhỏ, tôi đã có lần nghe bà nói về Giêsu: Bà nói rằng Giêsu là con Thiên Chúa. Thế nhưng tôi chẳng có chú ý gì tới tôn giáo. Vấn đề giáo dục theo vô thần là những gì bắt buộc ở Trung Hoa, từ tiểu học lên đến đại học.

 

Tâm trí của tôi đầy những lý thuyết về vô thần và tôi nghĩ rằng vấn đề tin tưởng vào Thiên Chúa là một cái gì đó trẻ con, thậm chí là một cái gì đó hơi ngu ngốc nữa.

 

Vào năm thứ tư đại học của mình, tôi đã gia nhập đảng Cộng Sản. Dân chúng ở Trung Hoag hi danh nhập đảng này theo niềm xác tín chẳng có bao nhiêu, hầu hết để “làm bạn” hầu một ngày kia có thể giúp họ tìm việc làm hay giúp họ khi họ gặp rắc rối.

 

Đời sống của tôi trong tổ Cộng Sản chẳng tốt cũng không xấu. Nhóm sinh viên chúng tôi tỏ ra tử tế với mọi người, chăm chỉ chuyên cần và khéo léo tổ chức tất cả mọi loại sinh hoạt.

 

Thế nhưng, tôi đã bị dội lại bởi sự kiện là, ở Đảng Cộng Sản này, tất cả những vấn đề ấy, cho dù là tốt đẹp đi nữa, vẫn thực hiện không phải cho người khác mà là cho chính mình mà thôi, cho việc thăng tiến nghề nghiệp của mình mà thôi. Rồi vấn đề dối trá nữa: đặc tính chính yếu của chúng tôi là dối trá, ở chỗ, hết mọi người đều nói dối và hết mọi người đều biết đến những thứ dối trá ấy, song tất cả chúng tôi vẫn cứ dối trá như nhau.

 

Chẳng hạn, ở hết mọi cuộc họp tổ đều có giây phút để thú nhận và tự kiểm (được gọi chính xác là “phê bình kẻ khác và phê bình bản thân”). Thực ra chẳng có vấn đề tự kiểm gì cả và cũng chẳng có ai thực sự là phê bình kẻ khác nữa.

 

Có một loại trao đổi chính thức đã được ấn định, một thứ trao đổi thậm chí có thể trở thành hình thức tâng bốc xua nịnh. Chẳng hạn, người ta có thể nói với người trưởng tổ rằng: ‘Thưa tổ trưởng, tôi cần phải phê bình một điều tổ trưởng không làm đúng. Tổ trưởng đã làm quá nhiều cho chúng tôi. Đúng thế, làm việclà điều quan trọng, nhưng sức khỏe của tổ trưởng cũng quan trọng nữa. Tổ trưởng cần phải để ý đến sức khỏe để còn làm việc hơn nữa cho cộng đồng”.

 

Vào những lúc như thế, từ lòng tôi vang lên tiếng nói: “Thật là điêu ngoa, đúng là dối trá!”. Thế nhưng, tôi cũng phải làm như vậy thôi.

 

(còn tiếp)

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo Zenit ngày 26/6/2005

 

 

TOP

 

Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Tổ Chức Liên Hiệp Quốc: Lời Ngỏ Mở Đầu

Trước hết, về nguồn gốc của chính Tổ Chức Liên Hiệp Quốc (The United Nations), cơ quan quốc tế này được thành lập ngày 24/10/1945 sau Thế Chiến Thứ Hai. Tổ Chức Liên Hiệp Quốc này được phỏng theo và tiếp nối tổ chức quốc tế đã được hình thành sau Thế Chiến Thứ Nhất, đó là Tổ Chức Liên Minh Chư Quốc (League of Nations). Tổ Chức Liên Minh Chư Quốc được các nước dự phần vào cuộc chiến thắng Đại Chiến Thứ Nhất là Pháp, Đại Anh Quốc, Ý , Nhật và Hoa Kỳ thành lập vào tháng Giêng năm 1920 với trụ sở chính ở Geneva Thụy Sĩ. Tổng Thống Woodrow Wilson Hoa Kỳ là người chủ chốt trong việc thành lập tổ chức quốc tế này, nhưng đã thất bại trong việc chinh phục Hoa Kỳ tham gia vào tổ chức này, một tổ chức bị giải tán vào tháng 6/1946, sau khi Tổ Chức Liên Hiệp Quốc thành hình. Tổ Chức Liên Hiệp Quốc cũng được đa số các nước sáng lập Tổ Chức Liên Minh Chư Quốc đứng ra thành lập. Đại diện của các nước này đã gặp nhau ở San Francisco vào tháng Tư năm 1945 để phác họa một dự án bảo vệ hòa bình thế giới, dự án được gọi là Hiến Chương Liên Hiệp Quốc (the Charter of the United Nations). Tháng 6/1945, đã có 50 nước ký nhận Bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc này và đã trở thành hội viên đầu tiên của Tổ Chức Liên Hiệp Quốc. Cho tới nay, các nước hội viên Liên Hiệp Quốc đã lên đến 159, trong đó có Việt Nam (gia nhập từ năm 1977). Trụ sở chính của Liên Hiệp Quốc được đặt tại Nữu Ước Hoa Kỳ. Lá cờ của Liên Hiệp Quốc cũng cho thấy mục đích phục vụ hòa bình của tổ chức này, đó là hình ảnh thế giới được bao đỡ bởi hai cành lá Olive tượng trưng cho hòa bình.

Mục đích chính của Tổ Chức Liên Hiệp Quốc, đó là phục vụ Hòa Bình Thế Giới và Nhân Phẩm Con Người. Mục đích phục vụ Hòa Bình Thế Giới của Liên Hiệp Quốc đã được xác nhận trong Bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc (the Charter of the United Nations), nhất là ở ngay phần Lời Ngỏ Mở Đầu của bản văn kiện này, do Jan Christiaan Smuts nước Nam Phi soạn thảo, và mục đích phục vụ Nhân Phẩm Con Người cũng đã được thể hiện nơi Bản Tuyên Ngôn Chung Về Nhân Quyền (the Universal Declaration of Human Rights).

“Các dân tộc thuộc Tổ Chức Liên Hiệp Quốc chúng tôi quyết định:


• Cứu vớt các thế hệ sau này khỏi những cuộc hoạn nạn chiến tranh đã hai lần mang lại trong thời đại của chúng tôi tình trạng buồn đau khôn tả cho loài người,
• Tái xác nhận niềm tin tưởng nơi các quyền lợi căn bản của con người, nơi phẩm vị cũng như giá trị của loài người, nơi quyền bình đẳng của con người nam nữ cũng như của các quốc gia lớn nhỏ,
• Thiết lập những điều kiện có thể bảo trì công lý và việc tôn trọng cần phải tỏ ra đối với những đòi buộc của các hiệp định cũng như của các nguồn khác thuộc công pháp quốc tế,
• Phát động tình trạng tiến bộ xã hội cùng với những qui chuẩn sống trong tự do thoải mái tốt đẹp hơn.

Và vì những mục tiêu sau đây:


• Thể hiện việc dung nhượng và chung sống hòa bình với nhau như là những cận nhân tốt lành,
• Hiệp nhất sức mạnh của chúng ta để bảo trì hòa bình và an ninh quốc tế,
• Bảo đảm lực lượng quân sự không được sử dụng nữa thì góp phần vào việc sinh lợi ích chung, bằng việc chấp nhận những nguyên tắc cũng như bằng việc thiết lập những phương pháp, và
• Sử dụng guồng máy quốc tế để đẩy mạnh tình trạng tiến bộ về kinh tế cũng như xã hội cho tất cả mọi dân tộc,

Chúng tôi đã quyết tâm hợp lực để hoàn thành những mục đích ấy. Bởi thế, những Chính Quyền hiện hành chúng tôi, qua các vị đại diện họp nhau ở thành phố San Francisco, những người có đầy đủ quyền hạn hiệu năng và xứng hợp, đã ưng thuận với Bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc này, để thiết lập một tổ chức quốc tế được gọi là Liên Hiệp Quốc này”.


Thực tế cho thấy, từ ngày thành lập đến nay, Tổ Chức Liên Hiệp Quốc đã phục vụ Hòa Bình Thế Giới qua những trường hợp điển hình sau đây:

Năm 1947, giải quyết Chiến Tranh Trung Đông giữa Dân Do Thái và Khối Palestine, bằng việc chia đất Palestine thành hai quốc gia, Do Thái và Ả Rập, nhưng Thành Giêrusalem trực thuộc Liên Hiệp Quốc. Khối Ả Rập chống lại dự án này, và ngay sau ngày khi quốc gia Do Thái hình thành, 14/5/1948, tới nay, giữa năm 2002, Chiến Tranh Trung Đông vẫn kéo dài, với những cuộc mắt đền mắt, răng đền răng, Palestine khủng bố tấn công, Do Thái tấn công khủng bố, hầu như không ai có thể can thiệp nổi.

Năm 1947, giải quyết cuộc Tranh Giành quyền trị giữa Cộng Hòa Nam Dương với Hòa Lan, nước muốn tái đô hộ Nam Dương nói chung và miền Đông Tân Giunê nói riêng sau Thế Chiến II, cuộc Tranh Giành đã được hoàn toàn ổn định vào năm 1963 và 1969.

Năm 1948, can thiệp vào cuộc xung đột giữa Ấn Độ và Pakistan xẩy ra từ năm 1947 về miền đất Kashmir, cuộc xung đột nhờ Liên Bang Nga đã tạm ổn vào năm 1966. Nhưng cho tới nay, giữa năm 2002, hai nước này vẫn chưa nguôi xung đột như giữa Dân Do Thái và Khối Palestine ở Trung Đông.

Năm 1948, nhúng tay vào Chiến Tranh Đại Hàn, bằng việc công nhận Cộng Hòa Nam Hàn và coi chính phủ Nam Hàn là chính phủ chính thức duy nhất của Đại Hàn; thế nhưng, Bắc Hàn đã tấn công Nam Hàn từ ngày 25/6/1950, và Liên Hiệp Quốc đã giúp Nam Hàn chống cộng từ ngày 7/7/1950, thế rồi vào tháng 10 cùng năm, Trung Cộng đã nhẩy vào vòng chiến cho tới ngày 27/7/1953. Tuy nhiên, cho tới nay Đại Hàn vẫn chưa hoàn toàn thống nhất.

Năm 1954, can thiệp vào Cuộc Xung Đột ở Cyprus, một nước bấy giờ đang thuộc quyền đô hộ của Anh và bao gồm hai sắc dân, Hy Lạp chiếm 80% muốn đảo Cyprus sát nhập vào Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ chiếm đa số trong 20% còn lại. Cuộc xung đột dữ dội vào tháng 2/1957 đã thúc LHQ yêu cầu ba nước Anh Quốc, Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ giải quyết vấn đề và nhờ đó đã giúp Cyprus trở thành một Nước Cộng Hòa ngày 16/8/1960. Tuy nhiên, sau đó, Cộng Hòa Cyprus vẫn tiếp tục là nơi xung đột giữa hai Nước Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, một lần vào tháng 12/1963, đến nỗi LHQ đã phải gửi quân tới để giữ an ninh cho đảo này, và một lần vào tháng 7/1974, kết quả là vào năm 1983, sau khi xâm chiếm Cyprus, Thổ Nhĩ Kỳ đã tuyên bố Cộng Hòa Thổ Nhĩ Kỳ Miền Bắc Cyprus, nhưng công bố này đã bị LHQ lên án.

Năm 1960, nhúng tay vào tình hình Congo, một nước đã được độc lập ngày 30/6/1960 sau 55 năm bị Bỉ đô hộ. Thế nhưng, sau khi Bỉ rút lui, nước này đã bùng nổ nội chiến. Quân Bỉ đã phải trở lại để giữ an ninh. Quân Congo yêu cầu LHQ giúp đỡ, một lực lượng đã phục hồi an ninh cho nước này và rút khỏi nước này ngày 30/6/1964. Thế nhưng, chi phí cho cuộc vãn hồi này lên đến 450 triệu Mỹ kim, một chi phí LHQ phải một mình gánh chịu vì Nga, Pháp và một số nước không đồng ý chung lưng gánh chịu.

Năm 1962, can thiệp vụ đầu đạn nguyên tử ở Vịnh Cuba. Ngày 22/10, Tổng Thống Hoa Kỳ Kennedy loan báo cho thế giới biết rằng Nga Sô đang thiết lập những căn cứ đầu đạn nguyên tử bí mật ở Cuba, nơi có thể tấn công Hoa Kỳ qua ngả Florida với khoảng cách độ 90 dặm. Ngày 24/10 LHQ đã yêu cầu hai cường quốc đệ nhất hoàn cầu giải quyết vấn đề với nhau. Ngày 28/10, hai bên đã giải quyết vấn đề ổn thỏa.
 

(còn tiếp)
 

Đaminh Maria Cao tấn Tĩnh, BVL
 

TOP

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ