GIÁO HỘI HIỆN THẾ

_______

 THỨ TƯ 11/10/2006

 TUẦN XXVII THƯỜNG NIÊN

 

?  Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư  4/10/2006 - Giáo Lý về Giáo Hội Hiệp Thông - Bài 20: Tông Đồ Batholomew

?  Đức Thánh Cha Biển Đức XVI ghi chú về những lời trích dẫn của mình trong diễn văn được ngài ngỏ ở Đại Học Đường Regensburg ngày 12/9/2006

?   Giáo Hội có thêm 4 vị Thánh vào Chúa Nhật 15/10/2006

 

 

? Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư  4/10/2006 - Giáo Lý về Giáo Hội Hiệp Thông - Bài 20: Tông Đồ Batholomew

 

Anh Chị Em thân mến:

 

Trong một loạt các vị tông đồ được Chúa Giêsu kêu gọi trong cuộc sống trần gian của Người, hôm nay chú trọng tới Tông Đồ Bartholomew. Trong các bản liệt kê danh sách 12 Vị thì ngài bao giờ cũng đứng trước Thánh Mathêu, trong khi tên của một vị đứng trước ngài được thay đổi: trong một vài trường hợp đó là Thánh Philiphê (x Mt 10:3; Mk 3:18; Lk 6:14) hay Thánh Tôma (x Acts 1:13).

 

Tên của ngài hiển nhiên là theo tên cha, như nó liên quan tới tên gọi của người cha này. Nó là tên gọi có lẽ mang những đặc tính Aramic, “bar Talmay”, tức là “con của Talmay”.

 

Chúng ta không có những chi tiết quan trọng về Tông Đồ Bartholomew. Thật vậy, tên gọi của ngài bao giờ cũng ở trong và chỉ trong các danh sách của 12 Vị được tôi đề cập tới trước đây; bởi vậy, ngài không phải là nhân vật chính trong bất cứ một trình thuật nào. Tuy nhiên, theo truyền thống, ngài được đồng hóa với Nathanael: một danh xưng có nghĩa là “được Thiên Chúa ban”. Nathanael này là người bản xứ ở Cana (x Jn 21:2); bởi vậy, có thể ngài đã chứng kiến thấy “dấu lạ” cả thể được Chúa Giêsu thực hiện ở nơi đó (x Jn 2:1-11).

 

Việc đồng hóa của hai nhân vật này có lẽ là ở chỗ Nathanael được đặt cạnh Tông Đồ Philiphê, trong bối cảnh liên quan tới ơn kêu gọi được Phúc Âm Thánh Gioan thuật lại, tức là ở vị trí Tông Đồ Bartholomew có trong các bản danh sách tông đồ được các Phúc Âm đề cập tới. Chính với Tông Đồ Nathanael này mà Tông Đồ Philiphê đã nói rằng ngài “da94 gặp Đấng được Moisen viết trong lề luật, cũng như được các vị tiên tri nói rới, đó là Đức Giêsu, con ông Giuse, ở Nazarét” (Jn 1:45).   

 

Như chúng ta đều biết, Nathanael đã có một thành kiến sâu nặng đối với Người: “Ở Nazarét chẳng lẽ lại có gì tốt hay sao?” (Jn 1:46a). Lời phát biểu này đối với chúng ta là những gì hệ trọng. Nó khiến chúng ta thấy rằng, theo những niềm trông đợi của người Do Thái thì Đấng Thiên Sai không thể xuất phát từ một thứ làng mạc vô danh tiểu tốt như thế, như ở Nazarét ấy (cũng xem Jn 7:42).

 

Tuy nhiên, nó cũng cho thấy quyền tự do của Thiên Chúa, Đấng làm cho những niềm đợi trông của chúng ta bị ngỡ ngàng, khi tỏ mình ra ở chính nơi đó, nơi chúng ta ít trông mong Người xuất hiện. Ngoài ra, chúng ta biết rằng, thực sự Chúa Giêsu không phải hoàn toàn xuất thân “từ Nazarét”, thế nhưng Người đã được hạ sinh ở Bêlem (x Mt 2:1; Lk 2:4). Bởi thế, việc cự nự của Tông Đồ Nathanael không có gía trị gì cả, vì nó được căn cứ vào chi tiết không trọn vẹn như thường xẩy ra.

 

Trường hợp của Nathanael cống hiến cho chúng ta một ý tưởng khác, đó là, trong mối liên hệ với Chúa Giêsu, chúng ta không được chỉ chấp nhận ngôn từ mà thôi.  Qua việc trả lời của mình, Tông Đồ Philiphê đã nêu lên một lời mời gọi gợi ý cho Nathanael là: “Hãy đến mà xem” (Jn 1:46b). Kiến thức của chúng ta về Chúa Giêsu trước hết cần phải có một cảm nghiệm sống động: Chứng từ của người khác là những gì thực sự quan trọng, như cuộc sống Kitô hữu của chúng ta nói chung được bắt đầu bằng việc được một hay vài chứng nhân loan báo cho chúng ta. Thế nhưng, chính chúng ta tự mình cần phải tham dự vào mối liên hệ thân mật và sâu xa với Chúa Giêsu nữa.

 

Cũng một cách thức như thế, những người dân làng Samaritanô, sau khi nghe thấy chứng từ của một người đồng quê được gặp gỡ Chúa Giêsu ở bờ giếng Giacóp, đã trực tiếp nói với Người, và sau cuộc nói chuyện ấy, họ nói cùng người phụ nữ rằng “Chúng tôi không tin vì lời của chị; vì đích thân chúng tôi đã nghe, và chúng tôi biết đó thật là vị cứu tinh của thế giới” (Jn 4:42).

 

Trở về với cảnh ơn gọi trên đây, vị thánh ký nói cho chúng ta hay rằng, khi Chúa Giêsu thấy Nathanael tiến đến với Người thì Người kêu lên rằng: “Đây thật là một người Yến Duyên. Nơi người này không có gì là giả dối” (Jn 1:47). Đó là lời ca ngợi nhắc lại câu nói của một bài thánh vịnh: “Phúc thay những ai Chúa không trách tội, lòng trí không có gì là gian dối” (Ps 32:2), thế nhưng đó là lời lại gợi tính tò mò của Nathanael, người cảm thấy ngỡ ngàng đáp lại rằng: “Làm sao Ngài lại biết tôi?” (Jn 1:48a). Trước tiên, câu trả lời của Chúa Giêsu mới đầu chẳng hiểu được. Người nói với ngài rằng: “Trước khi Philiphê gọi anh thì Tôi đã thấy anh ở dưới cây vả rồi” (Jn 1:48b).

 

Ngày nay, khó có thể nhận thức được một cách chính xác ý nghĩa của những lời vừa rồi. Theo những gì được các chuyên gia nói thì có thể như thế này, nếu vào thời ấy các cây vả được đề cập tới như thứ cây được các vị tiến sĩ luật ngồi bên dưới gốc để đọc và giảng dạy Thánh Kinh, thì Người có ý ám chỉ loại công việc được Nathanael thi hành ở lúc ngài được kêu gọi.

 

Dù sao, điều đáng kể nhất trong trình thuật này của Thánh Gioan đó là lời tuyên xưng được Nathanael phát biểu một cách minh bạch vào lúc cuối cùng: “Thưa Thày, Thày là Con Thiên Chúa; Thày là Vua Yến Duyên!” (Jn 1:49). Mặc dù lời tuyên xưng này không đạt tới mức hệ trọng như lời tuyên xưng của Tông Đồ Tôma là những gì kết thúc Phúc Âm Thánh Gioan: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi!” (Jn 20:28), lời tuyên xưng của Nathanael có nhiệm vụ mở ra lãnh giới cho Phúc Âm thứ bốn này.

 

Ở lời tuyên xưng của Tông Đồ Nathanael bước đầu tiên và quan trọng đã được thực hiện trên con đường gắn bó với Chúa Kitô. Những lời của Tông Đồ Nathanael cho thấy một khía cạnh dưỡng diện và bổ xung về căn tính của Chúa Giêsu: Người được nhìn nhận bởi mối liên hệ đặc biệt giữa Người với Thiên Chúa Cha mà Người là Con duy nhất của Ngài, cũng như bởi mối liên hệ với dân Yến Duyên là thành phần gọi Người là Vua, một phẩm tính xứng hợp với Đấng Thiên Sai được đợi trông.

 

Chúng ta không bao giờ được làm mất đi một trong hai yếu tố ấy, vì nếu chúng ta chỉ tuyên xưng chiều kích thiên quốc của Chúa Giêsu là chúng ta có nguy cơ làm cho Người thành một hữu thể siêu việt và phù du, trong khi đó, nếu chúng ta chỉ nhìn nhận vai trò cụ thể của Người trong lịch sử thì chúng ta có nguy cơ lơ là với chiều kích thần linh của Người, một chiều kích là dung diện xứng hợp của Người.

 

Chúng ta không có tài liệu chính xác về hoạt động tông đồ sau này của Tông Đồ Bartholomew-Nathanael. Theo tài liệu được sử gia Eusebius đề cập đến ở thế kỷ thứ 4, thì có những dấu vết hiện diện của Tông Đồ Bartholomew ở Panteno Ấn Độ (cf. "Ecclesiastical History," V, 10,3).

 

Theo một hậu truyền thống thì vào đầu Thời Trung Cổ, trình thuật về việc ngài qua đời vì bị lột da là những gì sau đó đã hết sức phổ thông trong dân chúng. Chỉ cần nghĩ đến cảnh tượng rất nổi tiếng trong Cuộc Chung Thẩm ở Nguyện Đường Sistine là cảnh được đại điêu khác gia Michelangelo trình bày cho thấy Thánh Batholomew cầm da của ngài nơi bàn tay trái, nơi nhà nghệ sĩ đã để bức chân dung của ngài ở đó.

 

Các di tích của ngài được tôn kính ở đây, ở Rôma này, ở nhà thờ được cung hiến cho ngài trên Đảo Tiber đây, nơi những dấu tích thánh ấy được Hoàng Đế Đức quốc là Otto III mang về từ năm 983. 

 

Tóm lại, chúng ta có thể nói rằng hình ảnh của Thánh Bartholomew, bất chấp tình trạng thiếu tài liệu, cũng nói với chúng ta rằng có thể cảm nghiệm được việc sống gắn bó với Chúa Giêsu và có thể làm chứng cho việc sống gắn bó này thậm chí không cần phải có các việc làm theo cảm giác. Chúa Giêsu là một Đấng siêu việt, là Đấng mỗi một người trong chúng ta được kêu gọi hy hiến sự sống và sự chết của mình vậy.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 4/10/2006

 

 

TOP

 

 

 ? Đức Thánh Cha Biển Đức XVI ghi chú về những lời trích dẫn của mình trong diễn văn được ngài ngỏ ở Đại Học Đường Regensburg ngày 12/9/2006

 

Thật vậy, là người dịch trực tiếp bài diễn văn này của ĐTC từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh Vatican http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2006/september/documents/hf_ben-xvi_spe_20060912_university-regensburg_en.html tôi đã đọc thấy ở phần cuối của bài nói có những chữ ghi chú là bản dịch (Anh ngữ) từ bài nói bằng nguyên Đức ngữ của Đức Thánh Cha chỉ là tạm thời và Đức Thánh Cha hứa sẽ cho thêm phần phụ chú những điểm được ngài trích dẫn trong bài nói của ngài. Đúng thế, vào ngày 9/10/2006, những lời ghi chú ấy đã xuất hiện ở cuối bài nói ấy, với những con số được ghi vào một số nơi trong bài cần được phụ diễn ở cuối bài, và trong 13 ghi chú cuối bài đó tất nhiên có những phụ chú liên quan tới các đoạn gây bấn loạn thế giới Hồi Giáo.

 

Có một chi tiết đã được dịch lại trong các bản dịch ngoại ngữ, nguyên văn ban đầu là "somewhat  brusquely " – “một cách sống sượng làm sao ấy”, đã được điều chỉnh thêm là "with a startling brusqueness, a brusqueness that we find unacceptable" – “một cách sống sượng ngỡ ngàng, một sự sống sượng khiến chúng ta cảm thấy bất khả chấp”.

 

Sau đây là nguyên văn 13 phụ chú được Đức Thánh Cha thêm vào bài diễn văn của ngài: 

1.      Từ tất cả 26 cuộc đàm đạo (διάλεξις – chữ này được tác giả Khoury chuyển dịch là “tranh luận”) trong cuộc đối thoại ấy (“Entretien”), tác giả T. Khoury xuất bản “cuộc tranh luận” thứ 7 với những ghi chú cùng lời giới thiệu dài về gốc tích của bản văn, về truyền thống của bản thảo và về bố cục của cuộc đối thoại, kèm theo những tóm tắt vắn gọn về “các cuộc tranh luận” không được bao gồm trong ấn bản; bản văn bằng Hy ngữ được kèm theo với một bản dịch Pháp ngữ là “Manuel II Paléologue, Entretiens avec un Musulman.  7e Controverse”,  được xuất bản bởi Sources Chrétiennes n. 115, Paris 1966. Trong khi đó, Karl Forstel đã xuất bản trong cuốn Corpus Islamico-Christianum (Series Graeca  ed. A. T. Khoury and R. Glei) một ấn bản của bản văn này bằng Hy ngữ và Đức ngữ kèm lời dẫn giải“Manuel II. Palaiologus, Dialoge mit einem Muslim”, bộ 3 cuốn, được xuất bản bởi Wurzburg-Altenberge 1993-1996. Từ đầu năm 1966,  E. Trapp đã xuất bản bản văn Hy ngữ với lời giới thiệu như là cuốn thứ hai của bộ Wiener byzantinische Studien. Tôi sẽ trích từ ấn bản của tác giả Khoury.

 

2.      Về nguồn gốc và việc biên soạn, xin xem Khoury ở các trang 22-29; các lời dẫn giải dài về vấn đề này cũng có thể được  thấy trong các ấn bản của tác giả Forstel và Trapp.

 

3.      Cuộc Tranh Luận, VII, 2c: Khoury, trang 142-143: Forstel, cuốn I, VII, Dialog 1.5, trang 240-241. Ở thế giới Hồi Giáo thì lời trích dẫn này rất tiếc đã được coi như là biểu hiện cho chủ trương của riêng tôi, bởi vậy đã làm bùng lên nỗi căm phẫn có thể hiểu được. Tôi hy vọng rằng độc giả của bài tôi nói đều có thể thấy ngay được rằng câu nói ấy không bày tỏ quan điểm riêng của tôi về Sách Qur’an là cuốn sách thánh của một tôn giáo lớn được tôi kính trọng. Trong việc trích dẫn bài của Hoàng Đế Manuel II, tôi chỉ có ý muốn rút ra mối liên hệ thiết yếu giữa đức tin và lý trí. Về điểm này, tôi đồng ý với hoàng đế Manuel II, nhưng không tán thành  việc luận chiến của ông.

 

4.      Controversy VII, 3 b–c:  Khoury, pp. 144-145;  Fưrstel vol. I, VII. Dialog 1.6, pp. 240-243.

 

5.      Hoàn toàn vì lời phát biểu này mà tôi đã trích dẫn cuộc đối thoại giữa Manuel và vị đàm đạo Ba Tư của ông. Từ lời phát biểu ấy xuất phát đề tài được tôi chia sẻ sau đó.

 

6.      Cf. Khoury, p. 144, n. 1.

 

7.       R. Arnaldez, Grammaire et théologie chez Ibn Hazm de Cordoue, Paris 1956, p. 13;  cf. Khoury, p. 144. Vấn đề các chủ trương khả sánh xẩy ra nơi thần học vào cuối Thời Trung Cổ sẽ được nói tới ở phần sau của bài tôi nói.

 

8.        Về việc dẫn giải được rộng rãi bàn luận về đoạn bụi gai bốc cháy, tôi căn cứ vào cuốn sách Nhập Môn Kitô Giáo của tôi, được nhà xuất bản Luân Đôn  phát hành năm 1969, trang 77-93 (cuốn sách này đầu tiên được xuất bản bằng Đức ngữ là Einfuhrung in das Christentum, do Munich xuất bản năm 1968; N.B. những trang được trích dẫn liên quan tới toàn chương mang tựa đề “Niềm Tin vào Thiên Chúa theo Thánh Kinh “). Tôi nghĩ rằng những lời phát biểu của tôi trong cuốn sách này, cho dù có những khai triển sau đó về cuộc bàn luận  ấy, vẫn còn đúng cho tới ngày hôm nay.

 

9.      Cf. A. Schenker, “L’Écriture sainte subsiste en plusieurs formes canoniques simultanees”, in L’Interpretazione della Bibbia nella Chiesa.  Atti del Simposio promosso dalla Congregazione per la Dottrina della Fede, Vatican City 2001, pp. 178-186.

 

10.  Về vấn đề này, tôi đã tự diễn đạt chi tiết hơn trong cuốn sách của tôi mang tựa đề Tinh Thần Phụng Vụ, do San Francisco xuất bản năm 2000, trang 44-50.

 

11.  Trong số vô vàn bản văn về đề tài giải thể văn hóa Hy Lạp, tôi muốn đề cập tới trước hết là A. Grillmeier, “Hellenisierung-Judaisierung des Christentums als Deuteprinzipien der Geschichte des kirchlichen Dogmas”, in idem, Mit ihm und in ihm.  Christologische Forschungen und Perspektiven,  Freiburg 1975, pp. 423-488.

 

12.  Mới được phát hành với lời dẫn giải của Heino Sonnemans (ed.):  Joseph Ratzinger-Benedikt XVI, Der Gott des Glaubens und der Gott der Philosophen.  Ein Beitrag zum Problem der theologia naturalis, Johannes-Verlag Leutesdorf, 2nd revised edition, 2005.

 

13.  Cf. 90 c-d.  For this text, cf. also R. Guardini, Der Tod des Sokrates, 5th edition, Mainz-Paderborn 1987, pp. 218-221.

 

TOP

 

 

?  Giáo Hội có thêm 4 vị Thánh vào Chúa Nhật 15/10/2006

 

Văn phòng báo chí của Tòa Thánh hôm Thứ Ba 10/10/2006 đã chính thức thông báo rằng Đức Thánh Cha sẽ phong thánh cho 4 chân phước ở Quảng Trường Thánh Phêrô vào Chúa Nhật 15/10/2006 tới đây, trong 4 vị này, 2 nam và 2 nữ, có vị giám mục đầu tiên ở Mỹ Châu Latinh và vị sáng lập một trường đại học Hoa Kỳ. Sau đây là liệt kê danh sách của 4 vị thánh mới của Giáo Hội:

 

Chân phước Rafael Guízar Valencia, người Mễ Tây Cơ, Giám Mục giáo phận Veracruz, Mexico, vị giám mục đầu tiên ở Mỹ Châu Latinh (1878-1938).

Chân phước Filippo Smaldone, linh mục triều và là người Ý, sáng lập Dòng Nữ Tu Salesian Thánh Tâm (1848-1923).

Chân phước Rosa Venerini, người Ý, sáng lập Congregation of Religious Teachers Venerini (1656-1728).

Chân phước Teodora Grin, tên mẹ đẻ là Anne-Thérèse, người Pháp, sáng lập Congregation of the Sisters of Providence of St. Mary of the Woods College in the United States (1798-1856).

 

Trong việc loan báo này, Văn Phòng Cử Hành Phụng Vụ của Đức Thánh Cha giải thích rằng “bằng việc phong thánh này”, Giáo Hội “liệt kê vào danh sách các thánh và nêu gương cho tất cả mọi tín hữu một số con người nam nữ đã bỏ mọi sự để theo Chúa Kitô như vị sư phụ duy nhất và là Chúa của các vị, cống hiến cho thành phần bé mọn và nghèo khổ một kho tàng lớn lao của đức khôn ngoan thần linh”.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 10/10/2006

 

 

TOP

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ