GIÁO HỘI HIỆN THẾ

_______

 THỨ BẢY 28/10/2006

 TUẦN XXIX THƯỜNG NIÊN

 

?  Tâm Điểm của Kinh Mân Côi là Chúa Kitô và Cầu Kinh Mân Côi là Tuyên Xưng Chúa Kitô

?  “Luận Về Lòng Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria” của Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort): ‘Ad Jesum per Mariam’ nhờ Mẹ Maria đến với Chúa Giêsu

?  Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Việt Nam

 

 

 

? Tâm Điểm của Kinh Mân Côi là Chúa Kitô và Cầu Kinh Mân Côi là Tuyên Xưng Chúa Kitô
 

Tâm Điểm của Kinh Mân Côi là Chúa Kitô

Theo tinh thần gắn bó với Giáo Hội, Phong Trào Thiếu Nhi Fatima luôn học hỏi những gì được Đức Thánh Cha nhắn nhủ và kêu gọi cho giới trẻ. Chẳng hạn Thiếu Nhi Fatima đã học hỏi các sứ điệp của ĐTC gửi cho riêng giới trẻ từ năm 1997 đến 1999 để sửa soạn Mừng Đại Năm Thánh 2000, sau đó, từ năm 2001, hằng năm Thiếu Nhi Fatima cũng lấy sứ điệp của Ngày Giới Trẻ Thế Giới hằng năm để làm đề tài cho Khóa Tĩnh Huấn cuối năm, như năm 2001 “Các con là muối đất, là ánh sáng thế gian”, đề tài cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới XVII ở Canada vào tháng 7/2002. Ngoài ra, trong buổi Tĩnh Tâm Mùa Chay hằng năm, Thiếu Nhi Fatima cũng lấy các sứ điệp của ĐTC về mùa chay trong năm đó để suy niệm và chia sẻ, như năm 2003 về đề tài “Cho đi phúc hơn nhận lãnh”.

Riêng Năm Mân Côi được bắt đầu từ ngày 16/10/2002 tới 19/10/2003, Thiếu Nhi Fatima cũng học hỏi Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Bằng cách có 5 đoàn, mỗi đoàn phụ trách một phần của bức Tông Thư, ba phần thân cùng với phần mở và kết. Đoàn nào tới phiên tổ chức Thứ Bảy Đầu Tháng tại đoàn mình sẽ phụ trách trình bày và chia sẻ phần Tông Thư được chỉ định. Ngày Thứ Bảy Đầu Tháng Thánh Tâm 7/6/2003 tới phiên Đoàn Thiếu Nhi Fatima Đức Mẹ Mân Côi Pomona trình bày và chia sẻ phần Mở Đầu của Bức Tông Thư. Em huynh trưởng đại diện đoàn đã không nói hoàn toàn trong giới hạn về phần Mở Đầu mà là nói đến điểm cốt lõi của Bức Tông Thư, điểm đã đánh động em, (vì em đã đọc hết văn kiện này bằng tiếng Anh), đó là vấn đề Chúa Kitô là Tâm Điểm của Kinh Mân Côi.

Lợi dụng dịp này, tôi cũng bổ túc thêm cho những gì em này cảm nhận và đồng thời cho chung các em Thiếu Nhi Fatima tham dự bấy giờ biết cách để chứng minh Chúa Kitô quả thực là Tâm Điểm của Kinh Mân Côi. Những đoạn tiêu biểu Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh cái cốt lõi của Kinh Mân Côi trong Bức Tông Thư của Ngài như sau:

•     “Mặc dù rõ ràng là mang đặc tính Thánh Mẫu, Kinh Mân Côi tự bản chất là một kinh nguyện có tâm điểm là Chúa Kitô. Nơi những yếu tố bình dị của mình, Kinh Mân Côi chất chứa tất cả những gì sâu xa của toàn thể sứ điệp Phúc Âm, có thể nói được rằng Kinh Mân Côi là một tổng hợp Phúc Âm (Pope Paul VI, Apostolic Exhortation Marialis Cultus [2 February 1974], 42: AAS 66 [1974], 153). Kinh này còn là tiếng vọng của lời Mẹ Maria cầu nguyện, đó là Ca Vịnh Ngợi Khen bất hủ của Mẹ về công cuộc của Việc Nhập Thể cứu chuộc được bắt đầu trong cung lòng trinh nguyên của Mẹ”.

•     “Có điều rõ ràng là, mặc dù Kinh Mân Côi lập đi lập lại được trực tiếp dâng lên Mẹ Maria, nhưng tác động yêu thương với Mẹ và nhờ Mẹ cuối cùng lại được nhắm đến Chúa Giêsu. Việc lập đi lập lại được nuôi dưỡng bằng ước muốn nên giống Chúa Kitô hoàn toàn hơn, một hoạt trình đích thực của đời sống Kitô hữu… Kinh Mân Côi giúp chúng ta nên giống Chúa Kitô mỗi ngày một hơn cho đến khi chúng ta đạt tới tầm mức thánh thiện thực sự” (đoạn 26).

Thế rồi, sau khi chứng thực cho các em thấy Chúa Kitô là Tâm Điểm của Kinh Mân Côi, tôi tiếp tục cho các em biết rằng Chúa Kitô là Tâm Điểm của Kinh Mân Côi có thể được chứng thực qua ba điều, thứ nhất qua cấu trúc của chính tràng hạt Mân Côi, thứ hai qua ý nghĩa hay nội dung của Kinh Kính Mừng, và thứ ba qua bố cục của Kinh Mân Côi.

Trước hết, Chúa Kitô là Tâm Điểm của Kinh Mân Côi qua cấu trúc của Tràng hạt Mân Côi, như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhận định trong Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria của Ngài về cây thánh giá vừa là khởi điểm vừa là qui điểm của tràng chuỗi Mân Côi như sau:

•     “Việc lần hạt Mân Côi từ trước đến nay vẫn được thi hành bằng việc sử dụng một cỗ tràng hạt. Nếu lần hạt mà chẳng để ý gì lắm thì các hạt chuỗi thường trở thành một cái máy thuần túy đếm thứ tự các Kinh Kính Mừng. Tuy nhiên, những hạt chuỗi này cũng có thể trở thành một biểu hiệu cho việc sâu xa chiêm niệm nữa. Ở đây, điều đầu tiên phải để ý là cách thức những hạt chuỗi này đồng qui nơi Cây Thánh Giá, nơi vừa mở ra lại vừa đóng lại cái tiến trình tỏ hiện của việc nguyện cầu. Đời sống và việc cầu nguyện của người tín hữu được tập trung vào Chúa Kitô. Hết mọi sự được bắt đầu từ Người, hết mọi sự đều qui về Người, hết mọi sự nhờ Người mà đến cùng Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần” (đoạn 36).

Sau nữa, Chúa Kitô là Tâm Điểm của Kinh Mân Côi ở chỗ ý nghĩa hay nội dung của Kinh Kính Mừng, một ý nghĩa và nội dung được tập trung nơi câu “Và Giêsu Con lòng bà gồm phúc lạ”. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đề cập đến điều này như sau:

•     “Trọng tâm nơi Kinh Kính Mừng, cái then chốt thực sự gắn nối hai phần của kinh này lại với nhau đó là tên của Chúa Giêsu. Đôi khi, vì vội vàng lần hạt chúng ta đã không để ý đến trọng tâm này cho lắm, và bởi thế cũng chẳng chú ý tới việc chiêm ngưỡng mầu nhiệm Chúa Kitô liên quan đến trọng tâm ấy. Tuy nhiên, chính việc chăm chú đến danh của Chúa Giêsu cũng như đến mầu nhiệm của Người là dấu hiệu chứng tỏ việc lần hạt Mân Côi có ý vị và hiệu quả” (đoạn 33.2).

Thật vậy, mở đầu Kinh Kính Mừng là lời Sứ Thần Gabiên chúc tụng Mẹ: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc”. Thế nhưng, tại sao Mẹ Maria được Đầy Ơn Phúc? Nếu không phải vì “Đức Chúa Trời ở cùng Bà”. Và tại sao “Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ”? Nếu không phải vì “Giêsu Con lòng bà gồm phúc lạ”.

Chưa hết, Mẹ Maria “đầy ơn phúc” không phải chỉ vì Mẹ được Thiên Chúa ở cùng, và “có phúc hơn mọi người nữ” không phải chỉ vì Mẹ được diễm hạnh thụ thai, cưu mang và cho Con Chúa Trời bú (x Lk 11:27), mà còn “có phúc vì đã tin những gì Chúa phán sẽ được thực hiện” (Lk 1:45). Đó là lý do, ở Mầu Nhiệm Mùa Thương, dù Con Mẹ có bị khổ nạn thế nào đi nữa, nhất là có bị đóng đanh trên thập giá chất vô cùng thảm thương và ô nhục mấy đi nữa, chúng ta vẫn chúc tụng Mẹ: “Kính mừng Maria đầy ơn Phúc”. Nếu chính bản thân và cả cuộc đời của Mẹ Maria tập trung vào Chúa Kitô và hiệp nhất với Chúa Kitô, “Giêsu Con lòng bà gồm phúc lạ”, như thế, thì quả thực Chúa Kitô chính là Tâm Điểm cho ý nghĩa và nội dung của Kinh Kính Mừng vậy, một Kinh tóm gọn tất cả mọi sự về Mẹ Maria, một kinh gói ghém tất cả Mầu Nhiệm Maria.

Chính vì thế, dù cả đời của mình, từng giây từng phút, chúng ta có lập lại lời Kinh Kính Mừng này, một lời kinh được Thánh Linh phát ngôn qua cửa miệng thần trời và thánh nhân, chúng ta, với tư cách cá nhân, cũng không xứng đáng và hoàn toàn chúc tụng Mẹ Maria cho đủ, vì Mẹ là kỳ công ân sủng tuyệt vời nhất của Thiên Chúa. Ðó là lý do chúng ta cứ phải lập đi lập lại Kính Mừng Maria mãi mãi để chúc tụng Mẹ. Tuy nhiên, khi chúng ta chúc khen Mẹ diễm phúc là chúng ta cùng với Mẹ chúc tụng chính Đấng toàn năng đã làm cho Mẹ những sự lạ lùng vậy (x Lk 1:49). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã bày tỏ cảm nhận này trong Tông Thư Kinh Mân Côi như sau:

•     “Khi hiểu đúng Kinh Kính Mừng, chúng ta sẽ thấy một cách rõ ràng là tính cách Thánh Mẫu của kinh này không nghịch lại với đặc tính Kitô học của kinh ấy, nhưng lại là đặc tính được kinh này thực sự nhấn mạnh và đề cao… Việc lập đi lập lại Kinh Kính Mừng nơi Kinh Mân Côi làm cho chúng ta được thông phần vào việc Thiên Chúa ngắm nghía và mãn nguyện, ở chỗ, chúng ta hân hoan thán phục nhìn nhận phép lạ cả thể nhất lịch sử loài người. Lời tiên tri của Mẹ Maria ở đây đã được nên trọn: ‘Từ nay hết mọi thế hệ sẽ khen tôi diễm phúc’ (Lk 1:48)” (đoạn 33.1).

Sau hết, Chúa Kitô là Tâm Điểm của Kinh Mân Côi ở bố cục của Kinh Mân Côi. Đúng thế, Kinh Mân Côi có hai phần rõ rệt, phần khẩu nguyện, với kinh chính yếu là Kinh Kính Mừng, và phần tâm nguyện, phần bao gồm 20 Mầu Nhiệm Chúa Kitô (kể cả 5 Mầu Nhiệm Ánh Sáng mới được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II thêm vào trong Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria từ đầu Năm Mân Côi 16/10/2002).

Theo Đức Thánh Cha Phaolô VI và Gioan Phaolô II thì bởi vì các Mầu Nhiệm Chúa Kitô là hồn sống của Kinh Mân Côi, mà Kinh Mân Côi tự bản chất là một kinh nguyện chiêm niệm, một yếu tố chiêm niệm mà nếu không được thực hiện thì việc lần hạt Mân Côi chẳng khác gì như một cái xác vô hồn.

•     “Chính vì được bắt nguồn từ cảm nghiệm riêng của Mẹ Maria, Kinh Mân Côi là một kinh chiêm niệm tuyệt hảo. Thiếu chiều kích chiêm niệm này, Kinh Mân Côi sẽ mất đi ý nghĩa của mình, như Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã tỏ tường vạch ra cho thấy điều ấy: ‘Thiếu chiêm niệm, Kinh Mân Côi là một cái xác không hồn, và việc lần hạt có nguy cơ sẽ trở thành một việc lập đi lập lại theo công thức như máy móc, một việc phạm đến lời cảnh cáo của Chúa Kitô: Khi cầu nguyện chớ lảm nhảm như kiểu của Dân Ngoại, vì họ nghĩ rằng cứ phải nhiều lời thì việc cầu nguyện của họ mới có công hiệu (Mt 6:7). Tự bản chất của mình, việc lần hạt Mân Côi đòi phải có một nhịp điệu nhẹ nhàng và một tốc độ chậm rãi, giúp cho con người nhờ đó có thể suy niệm về các mầu nhiệm của cuộc đời Chúa Kitô là những gì đã được nhìn thấy bằng ánh mắt của Vị ở gần Người nhất. Nhờ đó, kho tàng khôn thấu của các mầu nhiệm này mới được tỏ hiện’ (Apostolic Exhortation Marialis Cultus [2 February 1974], 47: AAS [1974], 156)”.

Tóm lại, chính vì Chúa Kitô là Tâm Điểm của Kinh Mân Côi mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã định nghĩa việc lần hạt Mân Côi hay cầu kinh Mân Côi là việc cùng Mẹ Maria chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô:

•     “Hãy chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô với Mẹ Rất Thánh của Người và tại học đường của Mẹ Người. Việc lần hạt Mân Côi không là gì khác ngoài việc cùng với Mẹ Maria chiêm ngưỡng dung nhan Chúa Kitô” (Tông Thư Kinh Mân Côi Trinh Nữ Maria, đoạn 3).

•     “Bằng việc đọc lên những lời của Thiên Thần Gabiên và của bà Thánh Isave trong Kinh Kính Mừng, chúng ta cảm thấy mình liên lỉ được thúc đẩy tìm kiếm lại nơi Mẹ Maria, nơi đôi cánh tay của Mẹ, cũng như nơi trái tim của Mẹ, ‘quả phúc của lòng Mẹ’” (đoạn 24).
 

Cầu Kinh Mân Côi là Tuyên Xưng Chúa Kitô

Cũng em huynh trưởng Thiếu Nhi Fatima trên đây, vào ngày 29/8/2003, đã gửi cho tôi một điện thư đặt vấn đề là Kinh Mân Côi là một kinh chiêm niệm tại sao lại đọc chung thành lời, vì làm như thế sẽ gây chia trí vì đã chiêm niệm thì cần phải trầm lặng? Sau đây là những gì tôi đã trả lời cho em.

Để hiểu rõ vấn đề có vẻ mâu thuẫn này cần phải thấu triệt được bản chất của chiêm niệm Kitô giáo cũng như kết cấu chuyên biệt của chính Kinh Mân Côi.

Bản Chất Chiêm Niệm Kitô Giáo

Trước hết, chiêm niệm là gì, nếu không phải là cảm nghiệm thần linh bằng tất cả tâm hồn của mình, chứ không phải chỉ bằng trí khôn qua việc suy niệm, hay bằng ký ức qua việc tưởng nhớ, hoặc bằng cảm tình qua việc cảm xúc nhất thời. Tuy nhiên, cảm nghiệm thần linh cần phải được phản ảnh qua các hoạt động tông đồ. Đây là đặc điểm chuyên biệt nơi vấn đề chiêm niệm của Kitô giáo, khác với việc chiêm niệm của các tôn giáo khác. Việc Kitô giáo chiêm niệm không dừng lại ở chỗ một mình hoan hưởng những tư tưởng cao siêu, mà là tiến đến chỗ hăng say truyền bá và phục vụ. Nếu "Thiên Chúa là ánh sáng" (1Jn 1:5) thì tâm hồn chiêm niệm, tâm hồn cảm nghiệm thần linh, hay cảm nghiệm ánh sáng, sẽ trở thành một thứ phản chiếu ánh sáng.

Đó là lý do chúng ta thấy, qua các Phúc Âm, bất cứ ai, kể cả thành phần ngoại giáo hay tội nhân, một khi được giao tiếp với Lời Nhập Thể, được giao tiếp với Vị Thiên Chúa thần linh nơi Con Người Giêsu Nazarét, tức một khi có được một cảm nghiệm thần linh thực sự, họ đều trở thành những nhà truyền giáo. Điển hình nhất là những người được Chúa Giêsu chữa cho lành bệnh đã không thể câm nín mà không tuyên dương chúc tụng Người dù đã được Người căn dặn phải giữ kín (x Mt 9:3-31; Mk 1:44-45), hay trường hợp của người phụ nữ Samaritanô sau khi bất ngờ được hội ngộ với Người bên bờ giếng Giacóp giữa buổi trưa nóng bức (x Jn 4:28-30), hoặc trường hợp của hai môn đệ chán chường đi về Emmau sau khi nhận ra Đấng Phục Sinh qua cử chỉ bé bánh của Người (x Lk 24:31-35). Một tâm hồn chiêm niệm, chính vì cảm nghiệm thần linh, cảm thấy Thiên Chúa vô cùng đáng yêu đáng mến, làm sao có thể không lên tiếng chúc tụng Ngài, không "rên lên những lời than khôn tả" (Rm 8:26), cũng như có thể ngồi yên không làm hết cách để Ngài được nhận biết và yêu mến.

Là đệ nhất mô phạm về chiêm niệm, Mẹ Maria đã chẳng vội vã lên đường đi thăm bà chị họ Isave của mình ngay sau khi Mẹ đã được thụ thai và cưu mang Con Đấng Tối Cao (x Lk 1:39-40) hay sao? Và việc chiêm niệm của Mẹ, việc Mẹ cảm nghiệm thần linh, cảm nghiệm Vị "Thiên Chúa là Thần Linh" (Jn 4:24) đang thực sự hiện diện một cách thể lý ngay trong lòng dạ của Mẹ cũng đã chẳng làm cho Mẹ không thể không cất tiếng ngợi khen chúc tụng Ngài hay sao: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và lòng trí tôi hân hoan trong Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi. Chúa đã thương đến phận thấp hèn tôi tớ của Ngài, nên từ nay muôn đời sẽ khen tôi diễm phúc. Vì Chúa đã làm cho tôi những điều trọng đại, danh Ngài là thánh" (Lk 1:46-48)?

Tóm lại, theo Kitô giáo, một Kitô hữu (đã tiến đến bậc cầu nguyện) chiêm niệm chính là một tông đồ. Các vị tông đồ được Chúa Giêsu tuyển chọn sống gần Người, nhờ đó có thể chiêm ngắm Người, có thể cảm nghiệm được Người một cách cụ thể (x 1Jn 1:1-2), là để các vị sau đó, sau khi Người từ trong kẻ chết sống lại, lên trời và sai Thánh Thần xuống, hiên ngang ra đi rao giảng tin mừng cho tất cả mọi tạo vật cho đến tận cùng trái đấy (x Mt 28:19; Mk 16:15; Acts 1:8). Đó là lý do Người đã căn dặn các vị ngay từ lần Người sai các vị đi truyền giáo tiên khởi cho thành phần "chiên lạc của nhà Yến Duyên" (Mt 10:6): "Những gì Thày nói với các con trong tăm tối, hãy nói ra trong ánh sáng. Những gì các con âm thầm nghe được hãy rao giảng trên mái nhà" (Mt 10:26-27). Thật vậy, tâm hồn chiêm niệm chỉ thực sự cảm nghiệm thần linh sau khi họ đã trải qua những đêm tăm tối đức tin, cũng như sau khi, nhờ đó, họ được Thiên Chúa mạc khải cho biết những điều cao siêu huyền nhiệm mà chính thành phần khôn ngoan thông thái nhất thế gian cũng không thể nào tự mình có thể thấu hiểu và chấp nhận (x Mt 11:25).

Căn cứ vào bản chất của vệc chiêm niệm theo Kitô giáo trên đây, chúng ta thấy chiêm niệm có tích cách sinh động và truyền đạt chứ không phải thụ động và chiếm thủ. Bởi thế, việc nội tâm chiêm niệm và miệng lưỡi chúc tụng nơi Kinh Mân Côi một lúc là tác động rất thích hợp với việc chiêm niệm.

Cấu Trúc Chuyên Biệt của Kinh Mân Côi

Không giống như tất cả mọi kinh nguyện khác, Kinh Mân Côi gồm có hai phần, khẩu nguyện (vocal prayer) và tâm nguyện (mental prayer). Khẩu nguyện là việc đọc các Kinh Mân Côi, nhất là Kinh Kính Mừng. Tâm nguyện là việc suy niệm các Mầu Nhiệm Mân Côi (vui, sáng, thương, mừng). Thiếu một trong hai phần này, hoặc khẩu nguyện hay tâm nguyện, đều không phải là Kinh Mân Côi. Sở dĩ Kinh Mân Côi vừa có cả khẩu nguyện lẫn tâm nguyện là vì khẩu nguyện liên quan đến đức tin cứu độ và tâm nguyện liên quan đến mạc khải thần linh.

Thật vậy, Mầu Nhiệm Mân Côi cũng chính là Mầu Nhiệm Chúa Kitô, bao gồm tất cả những gì Thiên Chúa muốn tỏ ra cho loài người biết qua Con Người Giêsu Nazarét, để loài người có thể nhờ đó mà được cứu độ bằng đức tin của mình, một đức tin được chứng thực bằng việc tuyên xưng "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16:16; x Jn 11:27). Thế nhưng, trong loài người ai đã tin tưởng Thiên Chúa, Đấng tỏ mình ra nơi Con Người Giêsu Nazarét cho bằng Mẹ Maria. Bởi vậy, theo ý nghĩa này, khi đọc Kinh Kính Mừng là Kitô hữu Công giáo chúng ta chẳng những tỏ ra khâm phục đức tin tuyệt đối của Mẹ, Đấng "có phúc vì đã tin" (Lk 1:45), Đấng luôn "đầy ơn phúc" (Lk 1:28), ở chỗ, đã theo Người cho đến cùng, đến khi đứng dưới chân thập giá của Người (x Jn 19:25), mà còn cùng với Mẹ Maria tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu Kitô.

Nếu Thiên Chúa tỏ mình ra là để cứu độ loài người thì Ngài còn mong gì hơn là được loài người tỏ ra tin tưởng chấp nhận Ngài. Cũng thế, nếu Mầu Nhiệm Mân Côi, hay Mầu Nhiệm Chúa Kitô, là những mầu nhiệm diễn đạt Mạc Khải Thần Linh, thì Mầu Nhiệm Mân Côi, Mầu Nhiệm Chúa Kitô không thể thiếu Kinh Nguyện Mân Côi nói chung và Kinh Kính Mừng nói riêng là kinh nguyện chất chứa đức tin của một đệ nhất tạo vật về ân sủng. Việc môi miệng đọc Kinh Kính Mừng, do đó, không thể thiếu trong việc nội tâm đồng thời cũng chiêm ngắm dung nhan Chúa Kitô qua các Mầu Nhiệm Mân Côi.

Tuy nhiên, vì thuộc về gia đình nhân loại mà mỗi một con người sinh vào trần gian đều nhiễm lây nguyên tội và phải lãnh chịu hậu quả của nguyên tội thế nào, theo lịch sử cứu độ, Thiên Chúa cũng muốn thực hiện dự án cứu độ của Ngài qua Cộng Đồng Dân Chúa là dân Do Thái, và muốn qui tụ con cái của Ngài phân tán khắp nơi lại thành Cộng Đồng Giáo Hội như vậy. Vì là Dân Chúa đã được cứu độ qua Bí Tích Rửa Tội, Kitộ hữu càng cần phải cùng nhau chẳng những tuyên xưng đức tin, nhất là qua việc cử hành Mầu Nhiệm Đức Tin là Thánh Lễ, mà còn cần phải cùng nhau truyền bá đức tin, cụ thể là việc bác ái xã hội của các dòng tu.

Nếu Kinh Kính Mừng, như đã nhận định, là kinh thể hiện đức tin cao cả của Mẹ Maria trước Mầu Nhiệm Chúa Kitô, thì việc đọc Kinh Mân Côi chung cũng là một cách hết sức thích hợp và chích đáng trong việc cùng nhau biểu lộ đức tin, tuyên xưng đức tin. Bởi thế, Kinh Mân Côi, tuy không phải là Kinh Phụng Vụ chính thức của Giáo Hội, làm cho Kitô hữu dù có đọc riêng theo cá nhân cũng vẫn có tác dụng đọc chung với tư cách của toàn thể Giáo Hội, một khi được đọc chung, bấy giờ Kinh Mân Côi mang tính cách Giáo Hội, tính cách của một Cộng Đồng Dân Chúa cùng nhau tuyên xưng đức tin. Đó là lý do Kinh Mân Côi chẳng những có thể đọc riêng mà còn nên đọc chung và cần phải đọc chung nữa.

Tình trạng chia trí khi đọc kinh Mân Côi chung hơn là đọc riêng không phải do chính kết cấu của Kinh Mân Côi, hay do đường lối thực hành kinh nguyện đặc biệt này, cho bằng, ngoài những lý do khác, còn do bởi tâm hồn cầu kinh nguyện ấy đi từ ngoài vào trong, chứ không phải từ trong ra ngoài. Nếu con người đi từ ngoài vào trong ở chỗ nhờ những lời kinh mà suy mầu nhiệm, một tác động, theo kinh nghiệm, dễ trở thành thuần túy "môi miệng" (x Mk 7:6), thì con người cầu kinh Mân Côi đi từ trong ra ngoài, từ lòng đầy mới trào ra ngoài miệng (x Mt 12:34), ở chỗ, nội tâm họ say sưa chiêm niệm Mầu Nhiệm Chúa Kitô rồi mới bật thành lời lập đi lập lại không ngừng Kinh Kính Mừng Maria!

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Thứ Bảy 6/7 và 30/8/2003

  

TOP

 

 

 ? “Luận Về Lòng Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria” của Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort): ‘Mẹ Maria là chi thể tuyệt hảo của Nhiệm Thể và là Mẹ Giáo Hội

 

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II:

Thư Gửi Chư Gia Đình Hội Dòng Montfort

Nhân Dịp Kỷ Niệm 160 Năm (1843-2003)

Xuất Bản Tác Phẩm “Luận Về Lòng Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria”

 

Gửi Tu Sĩ Nam Nữ Chư Gia Đình Montfort

 

5.         Theo những gì được Công Đồng Chung Vaticanô II viết thì Mẹ Maria ‘được trọng kính như là một chi thể tuyệt đẳng và hoàn toàn chuyên biệt của Giáo Hội, và như là một kiểu mẫu và là mô phạm trổi vượt của Giáo Hội về đức tin và đức mến’ (Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân, khoản 53). Người Mẹ này của Đấng Cứu Chuộc cũng được Người cứu chuộc một cách đặc biệt qua việc Hoài Thai Vô Nhiễm của Mẹ, và đã đi trước chúng ta trong việc kiên tâm trung thành chuyên chú lắng nghe Lời Chúa là những gì cho thấy Mẹ diễm phúc (cf. ibid., khoản 58). Bởi cả lý do này nữa mà Mẹ Maria ‘cũng liên kết chặt chẽ với Giáo Hội. Thánh Ambrôsiô dạy rằng, Người Mẹ Thiên Chúa này là một kiểu mẫu của Giáo Hội về phương diện đức tin, đức mến và hiệp nhất trọn vẹn với Chúa Kitô. Vì trong mầu nhiệm về Giáo Hội, một mầu nhiệm mà chính giáo hội thực sự được gọi là mẹ và là trinh nữ, thì Đức Trinh Nữ này là mẫu gương duy nhất nổi bật về cả việc làm người trinh nữ và làm mẹ’ (ibid. khoản 63). Chính Công Đồng chiêm ngưỡng Mẹ như ‘Người Mẹ của các chi thể Chúa Kitô’ (cf. ibid, khoản 53 và 62), nên bởi thế Đức Phaolô VI đã công bố Mẹ là Mẹ của Giáo Hội. Tín lý về Nhiệm Thể, một tín lý mạnh mẽ diễn tả nhất mối hiệp thông của Chúa Kitô với Giáo Hội, cũng có nền tảng thánh kinh về niềm xác tín này. Thánh Louis Marie đã nhắc nhở chúng ta rằng: ‘Đầu và các chi thể đều được hạ sinh bởi cùng một Người Mẹ duy nhất’ (Treatise on True Devotion, n. 32). Theo ý nghĩa ấy, chúng ta có thể nói rằng, nhờ hoạt động của Thánh Linh, các chi thể được liên kết và nên giống Chúa Kitô Thủ Lãnh, Người Con của Chúa Cha và của Mẹ Maria, ở chỗ ‘một người con thực sự của Giáo Hội cần phải có Thiên Chúa là Cha của mình và Mẹ Maria là Mẹ của mình’ (Treatise on True Devotion, n. 120). Trong Chúa Kitô, Người Con Duy Nhất của Chúa Cha, chúng ta thực sự là con cái của Chúa Cha, đồng thời cũng là những người con nam nữa của Mẹ Maria và Giáo Hội. Một cách nào đó chính toàn thể nhân loại được tái sinh nơi cuộc hạ sinh trinh nguyên của Chúa Giêsu. “Những lời này được qui cho Mẹ Chúa Kitô hơn là cho Thánh Phaolô nói về bản thân ngài: ‘Hỡi con cái bé nhỏ của cha, thành phần cha đã quằn quại tái sinh cho đến khi Chúa Kitô được hình thành nơi các con!’ (Gal 4:19). Hằng ngày Mẹ hạ sinh con cái của Thiên Chúa cho tới khi Chúa Giêsu Kitô Con Mẹ được hình thành trong họ với tầm vóc trọn vẹn của Người” (Treatise on True Devotion, n. 33). Tín lý này được bày tỏ hết sức tuyệt vời trong lời nguyện cầu sau đây: ‘Ôi Thánh Linh, xin hãy ban cho con lòng say mê tôn sùng Mẹ Maria là vị hôn thê trung thành của Chúa; xin ban cho con niềm cậy trông mạnh mẽ vào tấm lòng từ mẫu của Mẹ và ẩn náu nơi tình thương của Mẹ, để nhờ Mẹ Chúa có thể thực sự hình thành Chúa Giêsu Kitô nơi con’ (The Secret of Mary, p. 81).

 

Một trong những diễn đạt cao quí nhất về linh đạo của Thánh Louis Marie Grignion de Montfort đó là những gì liên quan tới tính cách đồng nhất giữa người tín hữu với Mẹ Maria trong việc họ yêu mến Mẹ vì Chúa Giêsu và việc họ phục vụ Mẹ cho Chúa Giêsu. LKhi suy niệm về câu nói thời danh của Thánh Ambrôsiô là ‘Xin linh hồn của Mẹ Maria ở trong mỗi người chúng con để ngợi khen Chúa, và xin thần trí của Mẹ Maria ở trong mỗi người chúng con để hân hoan trong Thiên Chúa’ (Expos. in Luc., 12, 26: PL 15, 1561), thánh nhân viết: ‘Một linh hồn thực sự hạnh phúc khi… nó hoàn toàn được chiếm hữu và cai trị bởi tinh thần của Mẹ Maria, một tinh thần hiền lành mà mãnh liệt, nhiệt tình mà khôn ngoan, khiêm tốn mà can đảm, tinh tuyền mà phong phú’ (Treatise on True Devotion, n. 258). Việc đồng hóa huyền diệu này với Mẹ Maria là những gì hoàn toàn hướng tới Chúa Giêsu, như thánh nhân nói trong lơờ nguyện sau đây: ‘Hỡi Mẹ chí ái, sau hết, nếu có thể, xin Mẹ làm cho con không còn thần trí nào khác ngoài thần trí của Mẹ, để con nhận biết Chúa Giêsu và ý muốn thần linh của Người; xin làm cho con không còn hồn sống nào khác ngoài linh hồn của Mẹ, để ca ngợi và tôn vinh Chúa; xin làm cho con không còn con tim nào khác ngoài con tim của Mẹ, để kính mến Thiên Chúa bằng một tình yêu tinh tuyền và nhiệt liệt như Mẹ’ (The Secret of Mary, pp. 71-72).

 

Thánh Thiện là Đức Ái Trọn Hảo

 

6.         Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Ánh Sáng Muôn Dân nói: ‘Thế nhưng, trong khi nơi Vị Trinh Nữ Rất Thánh này Giáo Hội đã đạt tới sự trọn lành mà nhờ đó Giáo Hội hiện hữu một cách tinh tuyền không tì ố (x Eph 5:27), thì tín hữu vẫn cố gắng chiến thắng tội lỗi và thăng tiến thánh đức. Bởi thế họ mới hướng về Mẹ Maria là vị chiếu soi toàn thể cộng đồng thành phần được tuyển chọn như là mô phạm của các nhân đức’ (khoản 65). Thánh thiện là sự trọn hảo của đức ái, của lòng mến yêu Thiên Chúa và tha nhân, một tình yêu là đối tượng của giới răn cao cả nhất do Chúa Giêsu truyền dạy (x Mt 22:38). Nó cũng là tặng ân cao cả nhất của Thánh Linh (x 1Cor 13:13). Bởi thế, trong các bài Ca Vịnh của mình, Thánh Luois Marie đã cho tín hữu thấy được nơi cấp trật này tính cách tuyệt hảo của đức ái (Ca Vịnh 5), ánh sáng của niềm tin (Ca Vịnh 6) và sự vững vàng của lòng trông cậy (Ca Vịnh 7).

 

Nơi linh đạo của Thánh Montfort, năng lực của đức ái được đặc biệt diễn tả bởi cái biểu hiệu của việc làm nô lệ tình yêu cho Chúa Giêsu, theo gương mẫu và với sự hỗ trợ từ mẫu của Mẹ Maria. Nó là vấn đề của mối hiệp thông trọn vẹn vào cuộc kenosishư không hóa bản thân của Chúa Kitô, một cuộc hiệp thông được Mẹ Maria sống, một cuộc hiệp thông hiện diện thân mật nơi các mầu nhiệm đời sống Con Mẹ. “Không có gì nơi Kitô hữu làm cho chúng ta hoàn toàn thuộc về Chúa Giêsu Kitô và Người Mẹ thánh của Người hơn là việc làm nô lệ của ý muốn, theo gương của chính Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã mace lấy thân phận tôi đòi vì yêu thương chúng ta” – forman servi accipiens – “cũng như theo gương của Vị Trinh Nữ thánh đức đã nhận mình là tôi tớ và nữ tì của Chúa (Lk 1:38). Thánh Tông Đồ nói về mình là ‘nô lệ của Chúa Kitô’ (servus Christi) như thể danh xưng này là một cái gì vinh dự vậy. Kitô hữu cũng thường được gọi như thế trong Sách Thánh” (cf. Treatise on True Devotion, n. 72). Thật thế, Người Con Thiên Chúa, Đấng đã đến thế gian vì vâng lời Cha nơi mầu nhiệm Nhập Thể (x Heb 10:7), sau đó đã hạ mình tuân phục cho đến chết và chết trên thập giá (x Phil 2:7-8). Mẹ Maria đã đáp lại ý muốn của Thiên Chúa bằng tất cả việc hiến dâng bản thân mình, cả xác lẫn hồn, vĩnh viễn, từ lúc Truyền Tin tới Thập Giá và từ Thập Giá tới Mông Triệu. Dĩ nhiên, việc tuân phục của Chúa Kitô và việc vâng lời của Mẹ Maria không phải là những gì cân xứng với nhau, vì tính cách khác biệt về bản thể giữa Ngôi Vị thần linh của Người Con và ngôi vị nhân loại của Mẹ Maria. Điều này cũng cho thấy tính cách duy nhất nơi tác hiệu cứu độ trọng yếu xuất phát từ việc tuân phục Chúa Kitô là Đấng nhờ Người mà Mẹ của Người đã nhận  được ân sủng để có thể hoàn toàn tuân phục Thiên Chúa và cộng tác vào sứ vụ của Con Mẹ.

 

Việc nô lệ tình yêu bởi thế cần phải được giải thích theo chiều hướng của việc trao đổi tuyệt vời này giữa Thiên Chúa và nhân loại trong mầu nhiệm Lời nhập thể. Đó là việc trao đổi thực sự của tình yêu giữa Thiên Chúa và tạo vật của Ngài trong cuộc hoàn toàn hiến mình cho nhau. ‘Tinh thần (của việc tôn sùng này) là ở chỗ: về bề trong chúng ta lệ thuộc vào Mẹ Maria Rất Thánh; chúng ta là thành phần nô lệ của Mẹ Maria, và qua Mẹ là nô lệ của Chúa Giêsu’ (The Secret of Mary, n. 44). Nghịch thường thay, ‘mối liên hệ đức ái’ này, ‘việc nô lệ tình yêu’ này, lại làm cho con người được hoàn toàn tự do, một thứ tự do thực sự của thành phần con cái Thiên Chúa (cf. Treatise on True Devotion, n. 169). Nó là vấn đề hoàn toàn hiến thân cho Chúa Giêsu, bằng việc đáp ứng thứ Tình Yêu được Ngài yêu thương chúng ta trước. Những ai sống trong tình yêu này có thể nói cùng với Thánh Phaolô rằng: ‘không phải là tôi sống nữa mà là Chúa Kitô sống trong tôi’ (Gal 2:20).

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch

 

(còn tiếp vào các ngày Thứ Bảy)

 

 

TOP

 

 

?  Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Việt Nam

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

(tiếp 27 Thứ Sáu bài Mạng Lưới Truyền Thông Công Giáo Việt Nam)

 

Như đã thông báo ở bài viết “Mạng Lưới Truyền Thông Công Giáo Việt Nam” hôm Thứ Sáu 27/10/2006, ngày ra mắt tân  cơ cấu hay hoạt động truyền thông này, tôi xin viết tiếp về những gì diễn tiến trong cuộc họp riêng của 16 vị được mời hay đại diện, tại một tư gia ở thành phố Westminster Giáo Phận Orange. Ở đây tôi không nói tới  Thánh lễ 5:30 chiều và tiệc mừng tại nhà hàng Seafood World sau Thánh Lễ, vì họp xong tôi phải về, bởi buổi phát thanh Tin Mừng Sự Sống của chúng tôi vào tối hôm đó hơi bị trục trặc, cần cứu vãn gấp tình thế.

 

Sáng chính ngày họp là Thứ Sáu 27/10, tôi đến trễ mất một tiếng, lúc buổi họp đã gần kết thúc việc chọn danh xưng chính thức cho cái trước đây, trong thiệp mời tham dự, được gọi là Mạng Lưới Truyền Thông Công Giáo Việt Nam. Bấy giờ, sau khi vị linh mục duy nhất từ Việt Nam sang phát biểu ý kiến, mọi người đã đồng ý với danh xưng mới, được đổi hai chữ đầu, đó là danh xưng Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Việt Nam. Tôi không hiểu lý do tại sao trước đó mọi người đã bàn cãi thế nào để cuối cùng không được gọi là Mạng Lưới nữa mà là Liên Hiệp, nhưng theo tôi suy đoán thì có thể các vị đã bàn tới những gì tôi nghĩ ở bài trước, nguyên văn như sau:

 

Phương tiện truyền thông nói chung bao gồm 4 lãnh vực, truyền thanh, truyền hình, truyền liệu (internet, website) và báo chí. Mà nói tới chữ “mạng lưới” là nói đến hay làm cho người ta liên tưởng tới ngay cách riêng phương tiện mạng lưới điện toán toàn cầu internet. Trong khi đó, theo thư mời, ngoài chính lãnh vực điện toán toàn cầu (tiêu biểu nhất là Vietcatholic Network, Mạng Lưới Truyền Giáo tại Đài Loan và Mạng Lưới Dũng Lạc, trong số cả ít lá 150 mạng lưới điện toán khác, trong đó có hai mạng được bắt đầu từ năm 2000, có thể nói được thịnh hành nhất, vừa thu hút về phương diện cả kỹ thuật và nghệ thuật vừa tương đối được nhiều lần viếng thăm nhất, một cho giới trí thức là mạng lưới điện toán toàn cầu là simonhoadalat.com của nhóm Thân Hữu tiểu chủng viện Simon Hòa Đà Lạt cho Giáo Phận Đà Lạt, và một cho giới bình dân của Chi Dòng Đồng Công Hoa Kỳ là dongcong.net), lại bao gồm cả các lãnh vực truyền thông khác, như báo chí (tiêu biểu là 3 tờ nguyệt san Dân Chúa, trong số cả gần chục tờ khác, như Trái Tim Đức Mẹ và Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp v.v.), truyền thanh (tiêu biểu là Đài Chân Lý Á Châu, trong cả gần chục chương trình phát thanh khác về Công Giáo, như Sống Đức Tin của Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam Giáo Phận Orange, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Việt Catholic Radio, Giờ Hồng Ân, Giờ Của Mẹ, Chân Thiện Mỹ, Tin Mừng Sự Sống v.v.), và truyền hình (tiêu biểu là Vietnamese Abroad Television, không phải chuyên về Công Giáo). Vậy, ý nghĩa của chữ “Mạng Lưới Truyền Thông Công Giáo Việt Nam” đây bao gồm những lãnh vực nào?”

 

Sau khi đã chọn danh xưng của tổ chức mới này, một tiếng cuối cùng còn lại của buổi họp ban sáng được giành cho việc chọn thành phần nhân sự, với một ban đại diện, ban giám đốc và các ủy ban. Tất nhiên là chỉ chọn thành phần tham dự viên bấy giờ mà thôi, một thành phần tham dự viên bao gồm những vị sau đây: 1- Đức Ông Nguyễn Văn Tài, Giám Đốc Đài Veritas Asia; 2- LM Nguyễn Ngọc Sơn, Thư Ký Văn Phòng Thường Trực Hội Đồng Giám Mục Việt Nam; 3- Đức Ông Phạm Xuân Thắng, Chủ Tịch Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam Hoa Kỳ; 4- LM Việt Châu, Chủ Nhiệm Báo Dân Chúa Mỹ Châu; 5- LM Nguyễn Hữu Quảng, SVD, Chủ Nhiệm Dân Chúa Úc Châu; 6- LM Trần Công Nghị, Giám Đốc VietCatholic Network; 7- Ông Trần Đức Nhã (VietChatholic Radio); 8- Kỹ Sư Đặng Minh An, VietCatholic; 9- Ông Nguyễn Long Thao, VietCatholic thay cho LM Trần Cao Tường, Mạng Lưới Dũng Lạc; 10- Bà Kim Loan, VietCatholic từ Iowa; 11- LM Nguyễn Ngọc Chuẩn, Giáo Phận Orange, thay LM Trương Văn Phúc, Mạng Lưới Truyền Giáo tại Đài Loan; 12- Ông Nguyễn Cần, Orange County thay cho LM Bùi Thượng Lưu, Chủ Nhiệm Dân Chúa Âu Châu; 13- Ông Trần An Bài từ San Jose California; 14- Bà Lương Bích Vi từ Houston Texas; 15- Ông Vũ Trọng Thanh, (Ca Sĩ Vũ Anh); 16-  Ông Phạm Hợp (HD Media, Inc), gia chủ. Tôi chỉ đóng vai quan sát viên, tham dự ké (do Cha Việt Châu mời rủ) vậy thôi.

 

Trong thành phần tham dự này, một Ban Đại Diện được hình thành gồm 5 vị, thứ tự như sau Đức Ông Nguyễn Văn Tài, LM Trần Công Nghị, KS Đặng Minh An, LM Nguyễn Hữu Quảng, và Bà Lương Bích Vi. Tuy nhiên, Ban giám đốc hay cố vấn (lại không cần có mặt) bao gồm các vùng như Âu Châu có LM Bùi Thượng Lưu, Á Châu có LM Trương Văn Phúc, Việt Nam có LM Nguyễn Ngọc Sơn, Hoa Kỳ có Đức Ông Phạm Xuân Thắng và LM Trần Cao Tường. Các ủy ban được kể đến như LM Trần Hữu Quảng, dòng Don Bosco, đặc trách giáo dục; LM Việt Châu, dòng Thánh Thể, đặc trách tu đức; Ông Nguyễn Long Thao, đặc trách tin tức; cố vấn pháp lý Ông Nguyễn Cần và Trần An Bài.

 

Sau bữa ăn trưa được Đài Little Sài Gòn Radio khoản đãi ở nhà hàng (tôi không tham dự nên không biết ở nhà hàng nào và ở đâu). Trước khi đi ăn trưa, phái đoàn đã chụp hình kỷ niệm (tôi cũng chỉ đứng ké 1 pô đầu, sau đó làm thợ chụp các tấm hình còn lại). Và sau bữa trưa, trong khi Đức Ông Nguyễn Văn Tài, Giám Đốc Đài Chân Lý Á Châu ở Manila Phi Luật Tân, và Linh Mục Nguyễn Đức Việt Châu, Giám Đốc Cơ Sở Truyền Thông Dân Chúa ở New Orleans Louisiana, được Đài Little phỏng vấn thì tại địa điểm họp ban sáng, diễn ra việc soạn thảo bản tuyên cáo, rút gọn từ bản đúc kết toàn phiên họp. Bản tuyên cáo đúc kết này đã được sửa chữa hết sức cẩn thận để phổ biến qua các phương tiện truyền thông sau đó. Tôi không tham dự vào tiểu ban soạn chỉnh bản tuyên cáo này, nên không biết nội dung ra sao. (Bấy giờ tôi phỏng vấn riêng từng vị, đầu tiên là Đức Ông Phạm Xuân Thắng, tới Đức Ông Nguyễn Văn Tài và sau cùng là LM Nguyễn Ngọc Sơn, như bài trước đã đề cập tới, cho chương trình phát thanh Tin Mừng Sự Sống của tôi, ở một phòng riêng trên lầu, vì chẳng mấy khi gặp được các vị từ xa tới đông đủ như thế, bởi vậy tôi cảm thấy hôm nay tôi đã lợi dụng cuộc họp này để làm việc cho chương trình phát thanh Tin Mừng Sự Sống www.tinmungsusong.org thì đúng hơn). Nhưng tôi có thể biết được nội dung của bản tuyên cáo, vì trong phiên họp chung ban sáng, mọi người đồng ý nhấn mạnh đến 3 điểm chính yếu cần được nói lên trong bản tuyên cáo, được LM Việt Châu gợi ý đề nghị, đó là, thứ nhất, lý do và mục đích thành lập tổ chức này, thứ hai, tóm ý các lời ngỏ cùng tổ chức mới này từ Đức Giám Mục Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, của Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn, và của Đức Cha Đệ, và thứ ba là công bố thành phần Ban Đại Diện.

 

Vì đến muộn và chính cuộc họp cũng không có nhiều giờ để bàn luận nhiều, nên tôi cũng không thể bày tỏ hết những gì tôi muốn nói như được bày tỏ trong bài viết trước. Tôi chỉ góp ý một chút về vấn đề giới trẻ theo kinh nghiệm của tôi qua mạng điện toán toàn cầu cho giới trẻ, khi các vị bàn đến vấn đề truyền thông cho giới trẻ, và ngay sau đó tôi cũng chỉ lướt qua vấn đề mạng điện toán Văn Hóa Sự Sống. Tôi cảm nhận thấy mục đích của tổ chức mới này có tích cách củng cố nội bộ (để hợp lực lại với nhau trong khối truyền thông Công Giáo hiện tại, và làm sao có một tiếng nói Công Giáo trung thực), hơn là có chiều hướng dấn thân truyền giáo trong việc đối thoại liên tôn và đối thoại văn hóa theo chiều hướng và lòng mong ước của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng như của vị đương kim Giáo Hoàng Biển Đức XVI. Hy vọng vấn đề hợp lực là khởi điểm của Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Việt Nam, nhưng chân trời của Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Việt Nam chính là sứ vụ loan truyền Tin Mừng Sự Sống!

 

TOP

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ