GIÁO HỘI HIỆN THẾ

_______

 THỨ SÁU 6/10/2006

 TUẦN XXVI THƯỜNG NIÊN

 

?  Lâm Bô có thực sự hiện hữu hay chăng? – Cảm nghĩ của nguyên Hồng Y Tổng Trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin Joseph Ratzinger

?  Đức Hồng Y Tổng Trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin Joseph Ratzinger về cuộc tranh hùng bá chủ văn minh giữa Hồi Giáo và Kitô Giáo trên đấu trường lịch sử thế giới

?  Tôn Sùng Thánh Tâm: Thiết Lập

 

 

? Lâm Bô có thực sự hiện hữu hay chăng? – Cảm nghĩ của nguyên Hồng Y Tổng Trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin Joseph Ratzinger

 

(tiếp hôm qua 5 Thứ Năm bài "Trẻ Em chết trước khi được lãnh nhận Phép Rửa có được rỗi hay chăng?")

 

Trong cuốn “The Ratzinger Report”, ấn bản Anh ngữ được nhà xuất bản Ignatius ấn hành năm 1985, một tác phẩm có nội dung là một cuộc phỏng vấn, bao gồm tất cả các câu vấn đáp liên quan đến mọi vấn đề, được đặt ra bởi chính ký giả Vittorio Messori sau này là nhân vật đã phỏng vấn Đức Gioan Phaolô II trong tác phẩm “Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” (xuất bản năm 1994).

 

Tác phẩm này như là một “bản tường trình của Đức Hồng Y Ratzinger” về tình hình Giáo Hội sau 20 năm bế mạc Công Đồng Chung Vatican II. Trong các vấn đề sôi nổi được bàn tới, chẳng hạn về chính Công Đồng Chung Vaticanô II, về cuộc khủng hoảng nơi ý nghĩ về Giáo Hội, về các vị linh mục và giám mục, về thảm kịch luân lý, về nữ giới, về phụng vụ, về đại kết, về thần học giải phóng v.v., có vấn đề về cánh chung, ở chương 10, dưới tựa đề “Về một số ‘Những Sự Sau Hết’”, bao gồm cả Luyện Ngục và Lâm Bô.

 

Riêng về vấn đề Lâm Bô, ở trang 147, vị nguyên tổng trưởng thánh bộ Tín Lý Đức Tin của Tòa Thánh Vatican bấy giờ đã chia sẻ cảm nhận cá nhân của ngài như sau:

 

“Lâm Bô không bao giờ là một sự thật xác quyết của đức tin cả. Theo cá nhân tôi – ở đây tôi nói với tư cách là một thần học gia chứ không phải là vị Tổng Trưởng của Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin – tôi không chấp nhận nó vì nó chỉ là một giả thiết theo thần học mà thôi. Nó là một thứ phụ đề nâng đỡ cho một sự thật tuyệt đối mang tính cách quan trọng trên hết đối với đức tin, đó là tầm quan trọng của phép rửa. Nếu nói theo những lời của Chúa Giêsu phán cùng Nicôđêmô thì ‘Thật vậy, thật vậy, Tôi nói cho ông hay, nếu con người không được tái sinh bởi nước và Thần Linh, thì họ không được vào Vương Quốc của Thiên Chúa’ (Jn 3:5). Người ta không được chần chừ trong việc từ bỏ ý nghĩ về ‘lâm bô’ nếu cần (và cũng đáng ghi nhận rằng chính các thần học gia cho rằng có ‘lâm bô’ cũng nói là thành phần cha mẹ có thể cứu con cái mình khỏi vào lâm bô bằng lòng khao khát cho con cái mình được lãnh nhận phép rửa và nhờ lời nguyện cầu); thế nhưng, cũng không được thoái lui trước mối quan tâm ở đằng sau ý nghĩ về lâm bô này. Phép rửa không bao giờ lại là vấn đề bên lề đối với đức tin; phép rửa không phải là hiện tại (now), cũng không phải thường tại (ever)”. 

 

Ở đây, qua câu phát biểu ngắn ngủi về một vấn đề cần phải bàn luận sâu rộng này, theo người đọc hiểu thì Đức Hồng Y Joseph Ratzinger là vị đương kim Giáo Hoàng Biển Đức XVI không chấp nhận thực tại Lâm Bô, nhưng vẫn không phủ nhận tầm quan trọng của Phép Rửa cứu độ. Bởi thế, vấn đề vẫn còn kẹt ở đây là: nếu chưa được lãnh nhận phép rửa, thì thành phần trẻ em chưa đủ trí khôn nói chung, nhất là thành phần sơ sinh hay còn là một bào thai bị phá hoặc bị chết trong lòng mẹ, như các bào thai bị phá chẳng hạn, sẽ đi đâu ngay sau khi chết. Vì bấy giờ họ tuy chưa có tư tội nhưng vẫn chưa được thanh tẩy cho khỏi nguyên tội? Xuống hỏa ngục thì cũng không phải mà lên thiên đàng cũng chẳng đáng? Vậy thì phải có một nơi cho họ chứ, một nơi mà cho tới nay tín hữu Công Giáo nói chung vẫn được truyền dạy và tin tưởng là Lâm Bô.

 

Theo thiển nghĩ của người viết thì Lâm Bô có hiện hữu, nhưng chỉ hiện hữu một cách tạm thời, cho tới ngày cánh chung mà thôi, như ngục tổ tông ngày xưa, cho tới khi Chúa Kitô hoàn tất công cuộc cứu chuộc của Người. Bởi vì, như các vị thời cựu ước vào ngục tổ tông chờ Chúa Kitô đến cứu chuộc xong mới được vào thiên đàng thế nào, thì các trẻ sơ sinh chết chưa được lãnh nhận phép rửa (và kể cả thành phần bị chậm phát triển - developmental disabilities, liên quan đến tình trạng bị chậm trí khôn - mental retardation, ngây ngô khờ khạo không biết gì), sẽ vào lâm bô chờ Chúa Kitô đến lần thứ hai để được vào thiên đàng như vậy.

 

Nếu Thiên Chúa muốn tất cả mọi người được cứu rỗi (1Tim 2:4), và Chúa Kitô đến lần thứ hai là để cứu những ai thiết tha trông đợi Người (x Heb 9:28), thì các linh hồn chết trong tình trạng nguyên tội thật sự cũng đang chờ được cứu độ, như toàn thể tạo sinh vẫn đang quằn quại chờ đợi cuộc tỏ hiện của con cái Thiên Chúa vậy (x Rm 8:21).

 

Chẳng lẽ thành phần trẻ em chết một cách vô tội trong tình trạng vẫn còn vướng mắc nguyên tội lại hư đi vào thời điểm cánh chung, thời điểm mà tất cả mọi sự sẽ được canh tân (x. Rev 21:5), để cuối cùng “Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự” (x 1Cor 15:28). Thành phần trẻ em còn mắc nguyên tội, dù theo lý luận tự nhiên, chứ chưa nói đến lòng thương xót Chúa và đức công minh của Ngài, không thể nào lại thuộc về thành phần bị chung số phận với ma quỉ, với con mãnh thú và với thành phần tiên tri giả (x Rev 20:10), đầy gian ác đã từng làm hại nhiều linh hồn, đáng chịu số phận bị quăng vào hồ lửa là cái chết lần thứ hai (x Rev 20:15) vĩnh viễn hư đi.

 

Trái lại, trường hợp thành phần trẻ em bị chết trước khi được lãnh nhận phép rửa cũng có thể cho là tương tự với trường hợp của thành phần trẻ em Do Thái ở Bêlem và các vùng lân cận bị quận vương Hêrôđê thảm sát khi Chúa Kitô mới giáng sinh (x Mt 2:16).

 

Nếu thành phần được Giáo Hội gọi là các Thánh Anh Hài, và được Giáo Hội cử hành Lễ kính vào những ngày ngay sau Lễ Chúa Kitô Giáng Sinh, 28/12 hằng năm, chết lúc chưa có trí khôn và lúc đang mắc nguyên tội, thì thành phần trẻ em chưa lãnh nhận phép rửa cũng thế, cũng chết vào lúc chưa có trí khôn và chưa được lãnh nhận ơn cứu độ.

 

Nếu thành phần các Thánh Anh Hài đã được Chúa Giêsu xuống ngục tổ tông cứu độ sau khi Người hoàn tất công cuộc cứu độ của Người trên Thánh Giá thế nào, thì thành phần trẻ em vẫn còn mắc nguyên tội, tức vẫn còn đang mong chờ ơn cứu độ của Chúa Kitô, chẳng lẽ không được Người cứu độ khi Người đến lần thứ hai ban ơn cứu độ cho những ai thiết tha trông đợi Người hay sao!

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

 

TOP

 

 

 ? Đức Hồng Y Tổng Trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin Joseph Ratzinger về cuộc tranh hùng bá chủ giữa Hồi Giáo và Kitô Giáo trên đấu trường lịch sử thế giới

 

“Việc Hồi Giáo liên kết toàn cầu có nghĩa là gì  đối với Kitô Giáo?” là một câu hỏi được đặt ra cho Đức Hồng Y Joseph Ratzinger trong cuốn “Salt of The Earth” (Muối Đất), ấn bản Anh ngữ do Ignatius xuất bản năm 1997, trang 245-246, trong chương “Priorities of the Church’s Development – Những điều ưu tiên trong Việc Phát Triển của Giáo Hội”. Và ngài đã trả lời như sau:

 

“Việc liên kết này là một hiện tượng muôn mặt. Về một phương diện thì các yếu tố tài chính góp phần vào việc này. Quyền lực về tài chính có được nơi các quốc gia Ả Rập là một quyền lực giúp cho họ có thể xây dựng các đền thờ lớn lao khắp nơi, để bảo đảm về sự hiện diện của các cơ cấu văn hóa Hồi Giáo cùng với những điều khác đại loại như thế. Thế nhưng, chắc chắn đó không phải là một yếu tố duy nhất. Yếu tố khác nữa đó là một căn tính được gia tăng, một tâm thức mới về mình.

 

“Trong bối cảnh về văn hóa của thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, cho đến thập niên 1960, cái trổi vượt của các quốc gia Kitô Giáo về kinh tế, văn hóa, chính trị và quân sự quá lớn mạnh đến nỗi thực sự đẩy Hồi Giáo vào hạng thứ yếu, và Kitô Giáo, có thể nói, các nền văn minh theo căn gốc Kitô Giáo có thể tỏ ra mình như là một quyền lực chiến thắng trong lịch sử thế giới. Thế nhưng, vào lúc ấy lại xẩy ra một cuộc khủng hoảng đại thể về luân lý nơi thế giới Tây phương, một thế giới mang tính cách là một thế giới Kitô Giáo. Trước những tương phản sâu xa về luân lý nơi Tây phương cùng với sự bất lực nội tại của nó – một nỗi bất lực đột nhiên nghịch lại với một quyền lực mới về kinh tế của các quốc gia Ả Rập – hồn sống của Hồi Giáo đã bừng lên. Chúng tôi cũng là một nhân vật nào đó nữa chứ; chúng tôi biết được mình là ai mà; tôn giáo của chúng tôi đang vững mạnh đây; các người không còn thứ tôn giáo như thế nữa. 

 

“Đó thực sự là cái cảm thức hôm nay nơi thế giới Hồi Giáo: ở chỗ, các quốc gia Tây phương không còn khả năng giảng dạy một sứ điệp về luân lý nữa, mà chỉ có một thứ kiến thức về kỹ thuật để cống hiến cho thế giới mà thôi. Kitô Giáo đã bị lịm tắt mất rồi; nó thực sự không còn hiện hữu như là một tôn giáo nữa; thành phần Kitô hữu không còn luân lý hay đức tin nữa; tất cả những gì còn lại đó là một ít vết tích của vài ý nghĩ minh tri tân thời mà thôi; chúng tôi có một thứ tôn giáo vững vàng chắc chắn.

 

“Bởi vậy thành phần tín đồ Hồi Giáo giờ đây đã ý thức rằng thực sự Hồi Giáo cuối cùng trở thành một tôn giáo cường tráng hơn, và họ có một cái gì đó để nói với thế giới, thực sự họ là một lực lượng về tôn giáo chính yếu cho tương lai. Trước đây, sharia (luật Hồi Giáo - chú thích của người dịch) và tất cả những thứ ấy đã biến mất trên hiện trường ở một nghĩa nào đó; giờ đây trở thành một niềm hãnh diện mới. Thế là một nhiệt tình mới, một cường độ mới về nhu cầu sống Hồi Giáo đã bừng lên. Đó là một quyền lực mạnh mẽ nơi Hồi Giáo: Chúng tôi có một sứ điệp về luân lý đã từng hiện hữu mà không bị lũng đoạn từ hồi các vị tiên tri, và chúng tôi sẽ nói cho thế giới biết cách sống sứ điệp này, trong khi Kitô Giáo chắc chắc không thể nào làm nổi. Dĩ  nhiên là cờ đã đến tay chúng tôi nhờ ở quyền lực nội tại này của Hồi Giáo, một thứ quyền lực thậm chí thu hút cả những lãnh vực về hàn lâm nữa”.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, nghiên cứu và chuyển dịch

 

 

TOP

 

 

?  Tôn Sùng Thánh Tâm: Thiết Lập

 

(ĐTC Piô II: Thông Điệp Haurietis Aquas ban hành ngày 15/5/1956, để kỷ niệm 100 năm ĐTC Piô IX truyền mừng kính lễ Thánh Tâm Chúa trong toàn thể Giáo Hội - Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo National Catholic Welfare Conference News Service

 

123.    ... Thánh Bộ Lễ Nghi, trong sắc lệnh đề ngày 25-1-1765, được vị tiền nhiệm của Ta là Đức Clementê XIII phê chuẩn ngày 6-2 cùng năm, đã ban phép cử hành thánh lễ phụng vụ cho các giám mục Ba-Lan cũng như cho Roman Archfraternity of the Sacred Heart.

 

125.     Việc chuẩn nhận đầu tiên này được ban phép theo thể thức của một đặc ân và hạn hẹp cho những vùng nào đó thôi. Sau gần một thế kỷ, một chuẩn nhận khác quan trọng hơn được ban cho, với những ngôn từ trịnh trọng. Ta đang nói đến, như Ta đã đề cập trước đây, sắc lệnh của Thánh Bộ Lễ Nghi ban hành ngày 23-8-1856. Qua sắc lệnh này, vị tiền nhiệm của Ta là Đức Piô IX, ưng thuận với những thỉnh cầu của các Giám Mục Pháp quốc cũng như của hầu hết thế giới Công Giáo, đã truyền cho lễ Rất Thánh Trái Tim Chúa Giêsu được phổ biến khắp Giáo Hội và phải được cử hành xứng đáng. Tín hữu phải luôn luôn nhớ đến sắc lệnh này, vì, như chúng ta đọc trong phụng vụ của lễ này: "Từ khi việc tôn sùng Rất Thánh Trái Tim Chúa Giêsu, phát xuất như một giòng suối mãnh liệt, đã lan truyền khắp thế giới, tẩy xoá đi mọi chướng ngại trong giòng nước của nó."

 

(Loạt bài về Thánh Tâm và Lòng Thương Xót Chúa liên tục vào các ngày thứ sáu hằng tuần từ 18/8)
 

 

 

TOP

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ