GIÁO HỘI HIỆN THẾ

_______

 THỨ TƯ 1/11/2006

 TUẦN XXX THƯỜNG NIÊN

LỄ TRỌNG KÍNH CHƯ THÁNH NAM NỮ

 

?  "Thánh Nhân chính là con người nam nữ, thành phần, bằng việc hân hoan và quảng đại đáp lại tiếng gọi của Chúa Kitô, lìa bỏ mọi sự để theo Người".

?  Bốn tân Thánh Nhân là những vị ... chúng ta thấy hiện thực cái cảm nghiệm của Thánh Phêrô: 'Này đây chúng con đã từ bỏ mọi sự mà theo Thày'”

?   “Thiên Chúa đã làm người để con người được trở thành Thiên Chúa” - Vấn đề Làm Người rồi mới Làm Thánh hay Làm Thánh rồi mới Làm Người? 

 

 

 

? "Thánh Nhân chính là con người nam nữ, thành phần, bằng việc hân hoan và quảng đại đáp lại tiếng gọi của Chúa Kitô, lìa bỏ mọi sự để theo Người".

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI - Bài Giảng ngày 15/10/2006 Phong 4 Hiển Thánh: Rafael Guízar Valencia (1878-1938); Filippo Smaldone (1848-1923); Rosa Venerini (1656-1728); và Théodore Guérin (1798-1856)

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Bốn tân Thánh Nhân hôm nay được Giáo Hội hoàn vũ nêu lên để tôn kính, đó là Rafael Guízar y Valencia, Filippo Smaldone, Rose Venerini và Théodore Guérin. Danh tánh của các ngài sẽ được muôn đời tưởng nhớ đến.

 

Ý nghĩ ngược hẳn lại với vấn đề danh tánh này liên quan tới “con người trẻ giầu có” được Phúc Âm vừa công bố nói tới. Con người trẻ này vẫn là một con người ẩn danh; nếu anh ta tích cực đáp lại lời kêu gọi của Chúa Giêsu thì anh ta trở thành môn đệ của Người và có lẽ vị Thánh Ký đã ghi nhận danh tính của anh ta rồi.

 

Từ sự kiện ấy người ta có thể thoáng nhìn thấy ngay đề tài cho Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật này, đó là nếu con người đặt tin tưởng của mình vào s75 giầu có ở đời này thì họ sẽ không đạt được hoàn toàn ý nghĩa của đời sống và niềm vui chân thực.

 

Trái lại, nếu tin tưởng vào Lời Chúa, anh ta từ bỏ chính mình và sản vật của mình vì Nước Trời, hiển nhiên là mất mát rất nhiều, thì thực ra anh ta lại chiếm được tất cả mọi sự.

 

Thánh Nhân chính là con người nam nữ, thành phần, bằng việc hân hoan và quảng đại đáp lại tiếng gọi của Chúa Kitô, lìa bỏ mọi sự để theo Người. Như Thánh Phêrô và các Tông Đồ khác, như Thánh Têrêsa Avila hôm nay nhắc nhở chúng ta cũng như vô số thành phần bạn hữu khác của Thiên Chúa, các vị tân Thánh Nhân cũng trải qua cuộc hành trình Phúc Âm gay go nhưng trọn vẹn ấy và đã lãnh nhận “gấp trăm” ở đời này, cùng với những thử thách và bách hại, và rồi sự sống đời đời.

 

Bởi thế, Chúa Giêsu có thể thực sự bảo đảm một cuộc sống hạnh phúc và sự sống đời đời, thế nhưng bằng một đường lối khác với những gì con người trẻ giầu có tưởng nghĩ: tức là, không phải bằng việc lành, một thứ trân trọng về luật lệ, mà là nơi việc chọn lấy Vương Quốc của Thiên Chúa như “hạt ngọc quí báu” là những gì xứng đáng với việc người ta cần phải bán đi tất cả sở hữu của họ (x Mt 13:45-46).

 

Con người trẻ giầu có không thể thực hiện điều ấy. Mặc dù con người trẻ này đã trở thành đối tượng trước ánh mắt trìu mến của Chúa Giêsu (x Mk 10:21), lòng của anh ta vẫn không thể thoát ly được nhiều sản vật anh ta có được.

 

Bởi vậy mới có lời răn các vị môn đệ rằng: “Khó vào Vương Quốc của Thiên Chúa biết bao cho những ai giầu có” (Mk 10:23).

 

Những thứ sang giầu trần gian chiếm đoạt và tiền chiếm tâm trí con người. Chúa Giêsu không nói rằng chúng là những gì xấu xa, nhưng chúng làm con người cách xa Thiên Chúa nếu chúng, có thể nói, không được “đầu tư” cho Vương Quốc của Thiên Chúa, tức là không được tiêu xài cho việc giúp đáp những ai nghèo khổ.

 

Hiểu được điều này là hoa trái của đức khôn ngoan được Bài Đọc Một nói tới. Như chúng ta đã nghe, đức khôn ngoan này là những gì quí hóa hơn cả vàng bạc, và đẹp đẽ hơn, lành mạnh hơn và tràn đầy ánh sáng, “vì nó không ngừng rạng ngời chiếu tỏa” (Wis 7:10).

 

Hiển nhiên là đức khôn ngoan này không thể biến thành một thứ chiều kích thuần tri thức. Nó còn hơn thế nữa; nó là “Sự Khôn Ngoan của cõi lòng”, như được nói đến trong bài Thánh Vịnh 89. Nó là tặng ân bởi trời (x Jas 3:17), từ Thiên Chúa, và có được nhờ nguyện cầu (x Wis 7:7).

 

Thật vậy, nó không xa cách con người; nó đến gần với tâm can con người (x Dt 30:14), dưới hình thức lề luật của Giáo Ước Thứ Nhất giữa Thiên Chúa và Dân Do Thái qua trung gian Moisen.

 

Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa được chất chứa nơi Bản Thập Điều. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu khẳng định trong Phúc Âm rằng “để vào sự sống” cần phải tuân giữ các giới răn (x Mk 10:19). Cần thiết song không đủ!

 

Thật vậy, như Thánh Phaolô nói, ơn cứu độ không xuất phát từ lề luật mà là từ Ân Sủng. Và Thánh Gioan nhắc nhở rằng lề luật được Moisen ban bố nhưng Ân Sủng và Chân Lý bởi Chúa Giêsu Kitô mà có (x Jn 1:17).

 

Để đạt được ơn cứu độ, bởi thế người ta cần phải tin tưởng mở lòng ra cho ân sủng của Chúa Kitô là Đấng dù sao khi kêu gọi cũng đưa ra một điều kiện gắt gao là “Hãy đến mà theo Thày” (Mk 10:21).

 

Các Thánh Nhân đã tỏ ra khiêm nhuợng và can đảm đáp tiếng “xin vâng”, và các vị đã từ bỏ tất cả mọi sự để làm bạn hữu của Người.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo

 

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/homilies/2006/documents/hf_ben-xvi_hom_20061015_canonioãazioni_en.html

 

(xin xem tiếp phần hai của bài giảng này dưới đây)

 

 

TOP

 

 

 ? Bốn tân Thánh Nhân là những vị ... chúng ta thấy hiện thực cái cảm nghiệm của Thánh Phêrô: 'Này đây chúng con đã từ bỏ mọi sự mà theo Thày'”

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI - Bài Giảng ngày 15/10/2006 Phong 4 Hiển Thánh: Rafael Guízar Valencia (1878-1938); Filippo Smaldone (1848-1923); Rosa Venerini (1656-1728); và Théodore Guérin (1798-1856)

 

Bốn tân Thánh Nhân là những vị chúng ta đặc biệt tôn kính hôm nay đây đã thực hiện như thế. Nơi các vị chúng ta thấy hiện thực cái cảm nghiệm của Thánh Phêrô: “Này đây chúng con đã từ bỏ mọi sự mà theo Thày” (Mk 10:28). Kho tàng duy nhất của họ ở trên trời, đó là Thiên Chúa.

 

Phúc Âm chúng ta đã nghe giúp chúng ta hiểu được hình ảnh của Thánh Rafael Guízar y Valencia, Giám Mục giáo phận Vera Cruz nơi Đất Nước Mễ Tây Cơ thân yêu, như một gương mẫu của người bỏ mọi sự để “theo Chúa Giêsu”.

 

Vị Thánh này đã trung thành với Lời thần linh, “sống động và linh động”, lời thấu suốt tâm can (x Heb 4:12). Theo gương Chúa Kitô nghèo, ngài đã từ bỏ các sản vật của mình và không bao giờ chấp nhận các thứ tặng vật của thành phần quyền thế, hay trái lại, ngài đã trả lại cho họ ngay. Đó là lý do tại sao ngài đã lãnh nhận “gấp trăm” và nhờ đó có thể giúp đỡ thành phần nghèo khổ, thậm chí giữa khôn cùng “bách hại” (x Mk 10:30).

 

Đức ái của ngài, một đức ái được sống ở mức độ anh hùng, đã làm cho ngài mang danh hiệu “Vị Giám Mục của người nghèo”. Nơi thừa tác vụ linh mục và giám mục sau đó, ngài đã là một vị giảng thuyết không biết mệt mỏi cho những tuần phòng phổ thông, một đường lối thích hợp nhất vào thời bấy giờ để truyền bá phúc âm hóa dân chúng, bằng việc sử dụng “Giáo Lý về Tín Lý Kitô Giáo” của riêng ngài.

 

Vì việc đào luyện linh mục là một trong những ưu tiên của mình, ngài đã tái mở chủng viện là những gì đưoơc ngài coi là “con ngươi của ngài”, và bởi đó ngài thường nói: “Một vị Giám Mục có thể hành động không có mũ giám mục, không có gậy giám mục và thậm chí không có cả vương cung thánh đường, nhưng ngài không thể hành động mà lại thiếu chủng viện, vì tương lai của Giáo Phận của ngài tùy thuộc vào đó”.

 

Với cảm quan sâu xa này về tính cách phụ thân của vị linh mục, ngài đã phải đương đầu với những cuộc bách hại mới và lưu vong mới, thế nhưng ngài luôn bảo đảm việc huấn luyện cho các sinh viên.

 

Gương của Thánh Rafael Guízar y Valencia là một tiếng gọi đối với các vị Giám Mục và linh mục anh em của ngài trong việc lấy làm chính yếu nơi các chương trình mục vụ, ngoài tinh thần khó nghèo và truyền bá phúc âm hóa, việc cổ võ ơn gọi linh mục và tu sĩ, và việc huấn luyện họ theo tâm can của Chúa Giêsu!

 

Thánh Filippo Smaldone, người con của Miền Nam Ý quốc, đã biết cách thấm nhập vào cuộc sống của mình những nhân đức cao cả làm nên đặc tính của miền đất của ngài.

 

Là một vị linh mục có một con tim cao cả được liên lỉ nuôi dưỡng bằng việc nguyện cầu và việc tôn thờ Thánh Thể, trước hết ngài là chứng nhân va àà tôi tớ của đức bác ái, một nhân đức được ngài thể hiện một cách siêu đẳng qua việc phục vụ người nghèo, đặc biệt là thành phần câm điếc, thành phần ngài đã hiến toàn thân cho họ.

 

Công cuộc được ngài bắt đầu ấy đã phát triển nhờ Dòng Chị Em Saledieng Thánh Tâm do ngài thành lập và lan ra ở các vùng khác nơi Ý quốc và trên thế giới.

 

Thánh Filippo Smaldone thấy được hình ảnh của Thiên Chúa nơi những người câm điếc, và ngài thường lập lại rằng, như chúng ta quì trước Thánh Thể thế nào chúng ta cũng phải quì xuống trước một người câm điếc như thế.

 

Theo gương của ngài, chúng ta hoan nghênh lời mời gọi hãy quan tâm tới tình yêu bất khả phân chia đối với Chúa Giêsu Thánh Thể và tình yêu đối với tha nhân của mình. Thế nhưng, khả năng thực sự để yêu thương anh em chỉ có thể xuất phát từ việc gặp gỡ Chúa Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể mà thôi.

 

Thánh Rose Venerini là một gương mẫu khác của một người môn đệ trung thành của Chúa Kitô, sẵn sàng từ bỏ tất cả để thực hiện ý muốn của Thiên Chúa. Ngài thích nói rằng: “Tôi cảm thấy mình thắt kết với ý muốn thần linh tới độ sống chết chẳng còn quan trọng gì nữa: Tôi muốn sống như Ngài muốn và tôi muốn phụng sự Ngài như Ngài muốn, ngoài ra không còn gì nữa” (Biografia Andreucci, p. 515).

 

Từ đó, từ việc phó mình như thế cho Thiên Chúa, đã xuất phát một công cuộc được ca ngợi lâu dài được ngài can đảm phát triển để thăng hóa về mặt tinh thần và thực sự giải phóng thành phần nữ giới trẻ tuổi trong thời điểm của ngài.

 

Thánh Rose không chỉ cung cấp cho những người em gái việc giáo dục thích đáng mà còn quan tâm tới việc bảo đảm vấn đề huấn luyện trọn vẹn của họ, được căn cứ vào những giáo huấn tín lý của Giáo Hội.

 

Kiểu mẫu tông đồ của riêng ngài tiếp tục làm nên đặc tính cuộc sống của Hội Dòng Các Thày Dạo Đạo Venerini do ngài thành lập. Và dịch vụ này hợp thời và quan trọng biết bao cho xã hội ngày nay, một dịch vụ đưa họ vào lãnh vực giáo dục, nhất là lãnh vực huấn luyện nữ giới. 

 

“Hãy đi, bán hết mọi sự mà trao tặng cho người nghèo… rồi hãy đến mà theo Tôi”. Những lời này đã tác động vô vàn Kitô hữu suốt giòng lịch sử của Giáo Hội bước theo Chúa Kitô sống cuộc đời thật bần cùng, tin tưởng vào Đấng Quan Phòng Thần Linh.

 

Giữa những người môn đệ quảng đại này của Chúa Kitô là một người nữ trẻ Pháp quốc, người đã dứt khoát đáp lại tiếng gọi của Vị Sư Phụ thần linh. Mẹ Théodore Guérin đã nhập Dòng Chị Em Đấng Quan Phòng năm 1923, và đã hiến mình cho việc giảng dạy ở các học đường. Bấy giờ, vào năm 1839, ngài được các Bề Trên yêu cầu sang Hoa Kỳ để làm đầu một cộng đồng mới ở Indiana.

 

Sau chuyến hành trình dài trên đất và biển, nhóm 6 nữ tu đã đến Saint Mary-of-the-Woods. Ở đó họ dựng một nguyện đường đơn sơ bằng ống gỗ dài ở giữa lòng khu rừng ấy. Họ đã quì xuống trước Thánh Thể mà tạ ơn, xin Chúa hướng dẫn việc thành lập mới ấy.

 

Hết lòng tin cậy vào Đấng Quan Phòng Thần Linh, Mẹ Théodore đã thắng vượt nhiều thách đố và đã kiên trì thực hiện công việc được Chúa gọi ngài làm. Vào thời điểm qua đời của mình là năm 1856, Các Nữ Tu này đã cai quản những học đường và những cô nhi viện khắp cả tiểu bang Indiana.

 

Theo lời của ngài thì “Lợi ích là chừng nào những gì đã được các Nữ Tu Saint Mary-of-the-Woods hoàn thành! Họ còn có thể mưu ích nhiều hơn thế nữa nếu họ trung thành với ơn gọi thánh thiện của mình!” 

 

Mẹ Théodore Guérin là một hình ảnh thiêng liêng đẹp đẽ và là một mô phạm cho đời sống Kitô hữu. Mẹ luôn luôn cởi mở trước những sứ vụ được Giáo Hội ủy thác cho mẹ, và mẹ đã tìm thấy sức mạnh và lòng gan dạ để thực hiện các sứ vụ bằng Thánh Thể, bằng nguyện cầu và bằng một niềm tin tưởng vô biên vào Đấng Quan Phòng Thần Linh. Sức mạnh nội tâm của mẹ đã hướng mẹ đặc biệt chú trọng tới người nghèo, nhất là tới trẻ em.

 

Anh chị em thân mến, chúng ta hãy tạ ơn Chúa về tặng ân thánh thiện hôm nay chiếu sáng trong Giáo Hội bằng một vẻ đẹp đặc biệt.

 

Chúa Giêsu cũng mời chúng ta, như những vị Thánh này, hãy theo Người để được hưởng gia sản sự sống trường sinh. Chớ gì chứng từ gương mẫu của các vị soi sáng và khích lệ đặc biệt giới trẻ, để bản thân họ cũng được Chúa Kitô chiếm đoạt bằng ánh mắt đầy yêu thương của Người.

 

Chớ gì Mẹ Maria, Nữ Vương Các Thánh, làm nổi lên trong dân Kitô Giáo, những con người nam nữ như các Thánh Rafael Guízar y Valencia, Filippo Smaldone, Rose Venerini và Théodore Guérin, sẵn sàng từ bỏ tất cả mọi sự vì Vương Quốc của Thiên Chúa; sẵn sàng chấp nhận lý lẽ tặng ban và phục vụ, một lý lẽ duy nhất cứu độ trần gian. Amen.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/homilies/2006/documents/hf_ben-xvi_hom_20061015_canonioãazioni_en.html 

 

 

TOP

 

 

?  “Thiên Chúa đã làm người để con người được trở thành Thiên Chúa” - Vấn đề Làm Người rồi mới Làm Thánh hay Làm Thánh rồi mới Làm Người? 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL - Hướng về Mầu Nhiệm Giáng Sinh 2006

       Thật vậy, nếu mục đích của việc Thiên Chúa nhập thể  là để con người có thể hiệp thông thần linh với Ngài, thì nơi câu nói thời danh “Thiên Chúa đã làm người để con người được trở thành Thiên Chúa” của Thánh Âu Quốc Tinh (Sermo 13 de Tempore: PL 39, 1097-1098), một trong những ý nghĩa của nó đó là việc con người được thần linh hóa, được thánh hóa, một đặc ân liên quan tới ơn gọi Nên Thánh của con người.

      Thế nhưng, việc Nên Thánh không phải là chuyện dễ, ai làm cũng được, chỉ cần trở thành Thánh Hiền, thành Chính Nhân Quân Tử là xong. Bởi vì Thánh Thiện là của Chúa chứ không phải ai muốn cũng tự nhiên Nên Thánh được. Và bởi vì Thánh Thiện là “nên trọn lành như Cha ở trên trời là Đấng trọn lành” chứ không phải chỉ làm người là đủ. Bởi vậy mới gọi là Thánh Hóa. Tức muốn Nên Thánh con người cần phải được Thánh Hóa. Mà ai Thánh Hóa con người được, nếu không phải chính Vị là Đấng Thánh, Vị đã phán: “Các người hãy Nên Thánh vì Ta là Đấng Thánh” (Levi 11:45).

      Chính vì con người được Thiên Chúa Thánh Hóa, chứ không phải tự mình Nên Thánh được, mà không cần muốn làm thánh phải làm người trước đã. Trường hợp điển hình là người trộm ở bên phải Chúa Giêsu trên đồi Canvê, cả cuộc đời tội lỗi, chẳng làm người gì cả, thế mà lại được Thánh Hóa trước khi chết, được lên Thiên Đàng đầu tiên (x Lk 23:42-43)!

      Ngược lại, dù đã tỏ ra làm người chưa chắc đã là thánh. Điển hình là trường hợp Phêrô hết lòng yêu mến Thày, đã sốt sắng can ngăn Thày đừng đi chịu chết, tức đã tỏ ra làm người hơn ai hết qua lòng sốt sắng của mình, nhưng lại bị chính Đấng ngài kính mến quở trách nặng lời: “Đồ Satan, hãy xéo cho khuất mắt Ta, vì người chỉ phán đoán theo kiểu cách loài người mà thôi, chứ không theo Thiên Chúa” (Mt 16:23). Chưa hết, cả trường hợp của Gioan là người tông đồ được Chúa Giêsu yêu, cũng bị Người quở trách khi vì Người bị dân làng Samaritanô hất hỉu đã yêu cầu Người cho phép ông sai lửa trời xuống thiêu đốt họ (x Lk 9:51-56). Nếu việc tỏ lòng tôn kính sư phụ của hai tông đồ Phêrô và Gioan, theo Khổng Giáo là những gì thuộc về tam cương (quân, sư, phụ) và ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín), tức là những gì cho thấy tính cách làm người trọn vẹn của các vị, mà còn trở thành những gì trêu ngươi Thiên Chúa, thì không phải Nên Thánh là một tiến trình con người được Thánh Hóa "trong tinh thần và chân lý" (Jn 4:24) hay sao?

      Nếu làm người trước hết là ở việc tuân giữ lề luật Thiên Chúa, như thành phần Pharisiêu, nhất là như người thanh niên giầu có đã chu tất mọi lề luật Chúa từ nhỏ, mà còn bị Chúa quở trách là "bọn Pharisiêu giả hình" (Mathêu đoạn 23), mà còn không thể theo Người được trên con đường trọn lành như người thanh niên giầu có tốt lành tự nhiên (x Mt 19:16-22), thì không phải điều kiện Nên Thánh hay yếu tố để được Thánh Hóa là ở chỗ chỉ cần muốn làm thánh phải làm người trước đã, theo tâm lý học ngày nay hoặc theo nhân sinh quan tự nhiên. Bởi đó, tầm vóc Làm Người trọn hảo nhất là Làm Thánh, và ơn gọi Làm Người là ơn gọi Làm Thánh vậy!

      Thật thế, Thánh Thiện là của Chúa, là những gì thuộc về Chúa, bởi đó việc con người Nên Thánh là việc con người được Thánh Hóa. Không phải hay sao, hai nguyên tổ loài người, ngay từ ban đầu khi mới được dựng nên trong tình trạng công chính nguyên thủy, trong tình trạng thánh hảo, không biết đến tội lỗi là gì, “trần truồng không biết xấu hổ” (Gen 2:25), mà còn chẳng những chưa Nên Thánh, thậm chí đã sa ngã phạm tội, đến nỗi đã cần phải được Thánh Hóa, qua lời hứa cứu độ của Thiên Chúa Hóa Công (x Gen 3:15), huống chi là loài người hậu sinh chúng ta, đã vướng mắc nguyên tội, cho dù là Kitô hữu chúng ta, thành phần đã được lãnh nhận Phép Rửa, đã được lãnh nhận ơn cứu độ, đã được Thánh Hóa về phương diện ân sủng.

      Phép Rửa, về mặt tiêu cực, chỉ tha nguyên tội, tha cả tư tội (trong trường hợp người lớn), tha hình phạt (nếu chết liền bấy giờ thì lên Thiên Đàng ngay, không bị vào luyện tội), và về mặt tích cực, làm cho con người tạo sinh được Thánh Hóa, ở chỗ, được hiệp thông sự sống Thần Linh và bản tính Thần Linh với Thiên Chúa Ba Ngôi, trở nên con cái Chúa Cha, nên anh em của Chúa Kitô, nên Đền Thờ của Chúa Thánh Thần, nên chi thể của Giáo Hội. Thế nhưng, thực tế vẫn cho thấy, Phép Rửa không làm mất đi mọi tì vết nguyên tội, bao gồm mọi đam mê nhục dục, mọi tính mê nết xấu, mọi khuyết điểm vụng về. Bởi thế, con người nói chung và Kitô hữu nói riêng mới cảm thấy cuộc chiến nội tâm vẫn liên lỉ diễn ra nơi bản thân mình, đúng như Thánh Tông Đồ Phaolô đã bày tỏ trong Thư gửi Giáo Đoàn Rôma: “Tôi thậm chí không thể hiểu được hành vi cử chỉ của mình nữa. Tôi không làm những gì tôi muốn, mà lại làm những gì tôi ghét… Điều xẩy ra đó là tôi không làm điều thiện tôi muốn mà là làm điều dữ tôi không muốn… Ôi, khốn cho tôi là chừng nào! Ai có thể giải phóng tôi khỏi quyền lực sự chết đây? (7:15, 19, 24).

      “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24), “là Đấng vô hình” (Col 1:15), bất khả thấu suốt, bất khả đạt, vì muốn Thánh Hóa con người, biết con người không tự động đến cùng mình được, đã tự động đến với con người, qua việc “Lời đã hóa thành nhục thể” (Jn 1:14) là Chúa Giêsu Kitô, để qua Chúa Giêsu Kitô “là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Jn 14:6) này, con người có thể đến cùng Ngài, tức có thể được Thánh Hóa, được đạt đến cùng đích làm người của họ là Hiệp Thông Thần Linh vinh phúc với Ngài. Chính vì Thiên Chúa đã nhập thể, đã đến với con người rồi, con người không cần phải lên trời để tìm Ngài nữa, một việc con người tuyệt đối không thể nào tự mình có thể làm nổi, mà con người chỉ cần “hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ” (Mt 18:3) là gặp được Ngài, là nhận ra Ngài, tức được “vào Nước Trời” vậy.

      Tiếc thay, thực tế cho thấy, ngay cả khi Thiên Chúa đã nhập thể, đã đến với con người như thế, tức con người chỉ cần tìm kiếm Ngài ở trên mặt đất này thôi, bằng việc sống như trẻ thơ, hạ mình xuống, con người cũng không thể nào tự mình làm nổi. Là vì, trước hết, chính bởi Thiên Chúa làm người mà con người lại không thể tưởng tượng nổi Thiên Chúa có thể làm như thế, có thể tin rằng một người nào đó trong họ là Thiên Chúa. Bởi đó, Ngài, qua "Con Người Giêsu Kitô" (1Tim 2:5) lịch sử, đã chẳng những bị thành phần Luật Sĩ, Pharisiêu và Tư Tế Do Thái phủ nhận, mà còn bị cả thành phần môn đệ của Ngài phản bội, chê chối và từ bỏ nữa.

      Đó là lý do chỉ có thành phần “hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ” mới được Cha trên trời mạc khải cho biết những điều sâu nhiệm, những điều mà thành phần thông thái khôn ngoan thế gian nhất trên trần gian cũng không thể nào biết nổi (x Lk 10:21-22). Mà “hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ” đây là gì, nếu không phải như lời Ngài kêu gọi: “Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11:29). Thế nhưng, cũng còn gì khó nhất cho con người vốn vướng mắc nguyên tội, một thứ nguyên tội xuất phát từ lòng kiêu ngạo muốn tự ý lên bằng Thiên Chúa (x Gen 3:1-6), một thứ nguyên tội càng văn minh hiện đại càng hiện lộ chân tướng rùng rợn kinh hoàng của mình hơn bao giờ hết, một thứ nguyên tội dù nơi thành phần đã được công chính hóa nhờ Phép Rửa cũng vẫn còn tì tích, hơn là việc con người sống hiền lành và khiêm nhượng trong lòng.

     Cho dù, theo lập luận tự nhiên, muốn làm thánh phải làm người trước đã, thì tình trạng làm người ở đây, theo Kitô Giáo, theo Phúc Âm Chúa Kitô, không phải là một con người công chính kiểu Pharisiêu khinh khi người khác, như trong dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện (x Lk 18:9-11), hay như kiểu chính nhân quân tử không thèm chấp tiểu nhân, sống tâm trạng quan liêu đế quốc, mà là tình trạng, cho dù vụng về trong cách đối xử theo nhân nghĩa lễ trí tín hay công dung ngôn hạnh, thậm chí cho dù tội lỗi đáng khinh bỉ trước mặt thế gian đi nữa, biết mình và tin tưởng vào Lòng Thương Xót Chúa như một trẻ thơ, như trường hợp của người thu thuế trong dụ ngôn với người Pharisiêu trên đây, một con người tội lỗi trước mắt cả Thiên Chúa và loài người, song lại là một con người được nên công chính trước nhan Thiên Chúa (x Lk 18:12-14).  

     Nếu Thánh Thiện và Thánh Hóa là những gì thuộc về Thiên Chúa, mà Thiên Chúa đã nhập thể, thì Thánh Thiện và Nên Thánh theo Kitô Giáo là ở chỗ Nên Giống Chúa Kitô, "vị trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người" (1Tim 2:5), Vị mà nơi Người mầu nhiệm về con người và ơn gọi của con người được hoàn toàn sáng tỏ (x Công Đồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Gaudium et Spes, 22). Và nên giống Chúa Kitô đây là gì, nếu không phải là “yêu thương nhau như Thày đã yêu thương chúng con” (Jn 13:34), ở chỗ, dám chết vì người mình yêu như Người  (x Jn 15:13), tức là dám "giặt áo mình trong máu Con Chiên” (Khải Huyền 7:14), hay dám "đi đến bất cứ nơi nào Con Chiên đến" (Rev 14:4), như một Mẹ Maria đã theo chân Người cho tới cùng, cho tới khi đứng dưới chân thập tự giá của Người (Jn 19:25), thì một con người con đầy kiêu căng tự ái, còn sống theo cá nhân chủ nghĩa vị kỷ, còn bị quay cuồng theo chiều hướng hưởng thụ chủ nghĩa, còn bị chi phối bởi chủ nghĩa duy thực dụng theo tương đối thuyết của con người văn minh hầu như tuyệt đỉnh ngày nay, còn sống theo chủ trương pro choice trong tất cả mọi sự, thì phần rỗi của họ còn khó bảo đảm nữa là việc họ Nên Thánh.

     Đó là lý do, càng ngày con người ngày nay càng “cần đến Lòng Thương Xót Chúa hơn” (Fatima 13/7/1917) là vậy. Và đó cũng là lý do Chúa Giêsu đã đến với Chị Thánh Faustina ở Balan (từ thập niên 1930) kêu gọi con người hãy hết lòng tin tưởng vào Lòng Thương Xót Chúa: "Lạy Chúa Giêsu, con tin nơi Chúa" (câu này được Người dạy viết ở dưới Bức Ảnh Chúa Tình Thương là bức ảnh Người muốn được trưng bày vào Lễ Chúa Tình Thương, Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh), và với bà Magariata ở Bỉ (từ thập niên 1960) để kêu gọi hãy thành lập một Đạo Binh Hồn Nhỏ của Tình Yêu Nhân Hậu Chúa Giêsu là vậy.

     Đúng thế, nếu Thiên Chúa là Đấng Thánh, là ngun mch Thánh Thiện, đã Nhp Th và Vượt Qua nơi mt bn tính đã b sa đọa ca con người, thì mt khi con người được Ngài là ngun mch Thánh Thiện đích thân Thánh Hóa bng Phép Ra, tc "được tái sinh bi trên cao" (Jn 3:3), "bi nước (là Li Nhp Th) và Thn Linh" (Jn 3:5), h còn phi Nên Thánh "trong tinh thn và chân lý" na, tc Nên Thánh trong Chúa Giêsu Kitô, trong tinh thn "hin lành và khiêm nhượng trong lòng" như Người, mt tinh thn "hoán ci và tr nên như tr nh" ca Người, mt tinh thn làm h đạt ti chân lý là chính Chúa Kitô (x Jn 14:6), là "tm vóc toàn vn ca Chúa Kitô là Đầu" (Eph 4:15).

     Và nếu Chúa Giêsu Kitô là Con Người hoàn ho nht, thánh thin nht, bi mu nhim Ngôi Hip, thì khi phàm nhân chúng ta nên ging Người là chúng ta tr thành mt con người tuyt vi nht, lý tưởng nht, là chúng ta thc s làm người đúng như ý định ca Thiên Chúa Hóa Công khi chúng ta được Ngài dng nên theo hình nh thn linh ca Ngài và tương t như Ngài (x Gen 1:26). Như thế, nếu các thánh nhân là nhng con người lý tưởng nht, đáng bt chước nht, thì không phi hay sao, nh được Thánh Hóa mà con người mi thành người, hơn là cn phi làm người đã ri mi có th làm thánh? Chính vì con người yếu hèn, c đời dù có hết sc c gng đi na, cũng vn là mt ti nhân không hơn không kém, h mi cn được Thánh Hóa, để h chng nhng Làm Thánh còn nh Làm Thánh mà Nên Người na. Đó là ý nghĩa và mc đích nơi d án cùng công cuc Cu Chuc ca Thiên Chúa, ca Mu Nhim Nhp Th và Vượt Qua Kitô Giáo, mu nhim biến đổi t phàm tc thành linh thánh, t bt toàn thành thin toàn, t chết thành sng, t hu hn thành vô hn.

     Nếu c đến vic Nên Thánh, sau khi đã được Thánh Hóa, mà con người cũng không th t mình làm được, cho dù đã được chỉ dạy cho biết linh đạo Nên Thánh duy nhất là "hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ", là "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng", thì còn một cách duy nhất để con người có thể được cứu độ, được Thánh Hóa một cách short cut - đốt giai đoạn, đó là tin tưởng vào Lòng Thương Xót Chúa, như người trộm bị đóng đanh bên hữu Đấng Tử Giá trên đồi Canvê mà thôi: "Lạy Chúa Giêsu, con tin nơi Chúa"! Thế nhưng, cả đến việc tin tưởng vào Lòng Thương Xót Chúa, được thể hiện qua tác động hòa giải xưng tội, cũng không phải là chuyện dễ đối với con người ngày nay, một con người đang sống vào thời điểm mất ý thức tội lỗi!

     Vậy thì Thiên Chúa sẽ cứu vớt con người ngày nay như thế nào đây? Chẳng lẽ Ơn Cứu Chuộc của Ngài bị vô hiệu hóa với con người ngày nay hay sao? Và chẳng lẽ con người càng văn minh càng vô thần nên không thể Nên Thánh được hay sao? 

     Vấn đề ở đây là, những gì con người không làm được thì mọi sự đều có thể đối với Thiên Chúa (x Lk 1:37; Mt 19:26). Sự dữ không thể nào là phán quyết cuối cùng. Chân trời cánh chung cho thấy kết thúc thì mọi sự sẽ được canh tân, trời cũ đất cũ sẽ vĩnh viễn qua đi, và một trời mới đất mới xuất hiện, nơi Thiên Chúa ở giữa loài người (Rev 21:1-5), theo đúng dự án nhập thể của Ngài: “Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14).

 

TOP

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ