GIÁO HỘI HIỆN THẾ

_______

 CHÚA NHẬT 25/6/2006

 TUẦN XII THƯỜNG NIÊN

 

?  Hướng Về Ngày Họp Thế Giới Các Gia Đình ở Tây Ban Nha 8-9/7/2006: Bài 6.- Ly Thân Ly Dị

?  Tháng Sáu Kính Thánh Tâm Chúa với Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu:  Bài 6 - "Bất kể các lỗi lầm của các con, các việc bất chính của các con, các con vẫn là những đứa con nhỏ bé của Cha các con trên Trời".

?  Ngày của Chúa – Dies Domini: “Ngày Hưu Lễ” - Việc nghỉ ngơi của Đấng Hóa Công

 

 

 

? Hướng Về Ngày Họp Thế Giới Các Gia Đình ở Tây Ban Nha 8-9/7/2006: Bài 6.- Ly Thân Ly Dị

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

 

K

hông ai có thể chối cãi được là, kể từ thập niên 1960, con người càng ngày càng văn minh tột bậc về phương diện khoa học và kỹ thuật. Thế nhưng, kèm theo những phát minh tân kỳ của khoa học về kỹ thuật từ đó, người ta còn thấy xuất hiện cả những phát minh lạ lùng đến quái dị liên quan đến cơ cấu hôn nhân và đời sống gia đình.

 

Chẳng hạn những trào lưu được luật pháp ủng hộ và cho phép thi hành như ly dị và phá thai, từ đó đưa đến những hiện tượng như mang thai mướn, tức làm cha hiến tinh trùng làm mẹ bằng tử cung; như việc cấy thai ống nghiệm; như quyền cha mẹ cùng phái tính; như thân phận của những đứa con nuôi của thành phần cha mẹ đồng tính, (hiện nay đang có một thương vụ muốn bảo trợ những đứa trẻ mồ côi ở Việt Nam sang Hoa Kỳ cho những cặp vợ chồng đồng tính này); như hoàn cảnh cha mẹ độc thân, single mother, single father, chứ không phải bị góa bụa; như những đứa con mồ côi bất đắc dĩ, còn cha còn mẹ mà không được chung sống với cả hai bố mẹ; như những anh em ruột cùng cha khác mẹ cùng mẹ khác cha gây ra bởi ly dị và tái hôn; như cảnh con cái được cha hay mẹ cấp dưỡng thay vì được cả hai trực tiếp nuôi dưỡng; như được quyền đa phu hay đa thê sau khi ly dị, một thứ quyền của thời con người còn lạc hậu cổ lỗ v.v.

 

Tại sao thế giới càng ngày càng văn minh về vật chất lại càng bại hoại về hôn nhân và gia đình như vậy? Phải chăng vì hai con người nam nữ đã không thực sự yêu nhau trước khi lấy nhau? Phải chăng vì con người văn minh ngày nay ý thức được nhân quyền của mình? Phải chăng vì con người được luật pháp cho phép hành sử quyền pro choice hôn nhân?

 

Ly Thân Ly Dị: Phải chăng vì hai con người nam nữ đã không thực sự yêu nhau trước khi lấy nhau?

 

Nếu kết hôn với nhau là hai con người nam nữ yêu thương “trở nên một thân thể”, thì có những việc vợ chồng làm trong đời sống hôn nhân hết sức phản trái với hôn nhân, như trường hợp ngoại tình và ly thân,  hoặc trường hợp ly thân rồi ngoại tình, nhất là hành động hoàn toàn hủy hoại hôn nhân, như trường hợp ly dị để lập gia đình khác, hoặc ly dị rồi lập gia đình khác.

 

Thật ra, so sánh giữa ly thân và ly dị, thì ly thân vẫn còn đỡ hơn ly dị, vì ly thân vẫn còn có thể cứu vãn được, còn ly dị thì kể như tận kết, tuyệt tình tuyệt nghĩa. Ngoài ra, trong một xã hội cho phép ly dị và được quyền ly dị mà hai vợ chồng còn chịu ly thân hơn là ly dị thì có nghĩa là họ vẫn còn nghĩ đến con cái, hay ít là còn nghĩ đến nhau: “tình chi thủy chung, chí tử bất hối”, tức yêu nhau trọn đời, tới chết không thôi.

 

Thế nhưng, thực tế cho thấy, ngày nay người ta có mấy ai ly thân, mấy ai thích hôn nhân “time out” như vậy. Động một tí là họ nghĩ đến ly dị liền. Thậm chí ly dị là một thứ bảo hiểm chẳng những để được vĩnh viễn ly thân, mà còn là một thứ bảo hiểm để được tái hôn dễ dàng. Do đó, có lấy nhầm cũng không sao, vì vợ chồng chẳng khác gì như món hàng mua ở tiệm đồ dùng department store về, nếu bị defect - hư hỏng gì, hay không thích hoặc không vừa với ý của mình nữa thì có quyền đem đổi hay trả lại cho tiệm tòa án.

 

Theo chiều hướng coi thường, lỏng lẻo và đổi chác như thế, hôn nhân tự bản chất vốn “bất khả phân ly” ngày nay đã trở thành một thứ trò chơi, vui thì ở dở thì đi, trở thành một thị trường buôn bán, lời thì nhào vô, lỗ thì dẹp tiệm, trở thành một trận đấu giá, ai cao giá hơn thì được. Không phải hay sao, hôn nhân ngày nay không phải là một cuộc đấu giá là gì, ở chỗ, ngày xưa, vì còn trọng tình trọng nghĩa, người ta tỏ ra rất sợ lấy những người ly dị, vì con người ly dị đó không “chí tử bất hối” đối với người phối ngẫu của họ, nhưng ngày nay, vì xu hướng tranh đoạt - competition, người ta lại thấy mình có giá mới được người khác bỏ vợ bỏ chồng mà lấy mình v.v. nên càng lấy nhau như thay quần đổi áo mới càng hợp thời trang.

 

Thế nhưng, thực tế phũ phàng ngày nay cho thấy, chính lúc con người ta không còn tục lệ “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” nữa, tức lúc con người được tự do luyến ái và thành hôn với nhau, họ lại bỏ nhau hơn bao giờ hết.

 

Theo thống kê trong cuốn Niên Giám Thế Giới 1987 (The World Almanac 1987, published for the Orange County Register), thì năm 1955 có 377 ngàn vụ ly dị, năm 1960 có 393 ngàn vụ, năm 1965 có 479 ngàn vụ, năm 1970 có 708 ngàn vụ và năm 1985 có 1 triệu 187 ngàn vụ. Nếu so sánh với số lượng đám cưới trong cùng những năm trên đây, thì nếu năm 1965 (năm này là thời điểm một năm trước khi luật pháp bắt đầu chính thức cho phép ly dị ở Mỹ) có 1 triệu 8 trăm ngàn đám, trong khi đó ly dị 479 ngàn vụ, tức tỉ số ly dị là 25%, hay 1/4; năm 1970 có 2 triệu 158 ngàn 802 đám cưới, trong đó có 708 ngàn vụ ly dị, tức tỉ số ly dị là 33%, hay 1/3; năm 1985 có 2 triệu 425 ngàn đám cưới, trong đó có 1 triệu 187 ngàn vụ ly dị, tức tỉ số là 50%, hay 1/2. Như thế, trào lưu ly dị đang tăng dần chứ không giảm. Ở chỗ, trong 5 năm (1965-1970) tăng từ ¼ đến 1/3, hay từ 25% đến 33%, tức tăng 8%, rồi trong 15 năm (1970-1985) tăng từ 1/3 đến ½, hay tăng từ 33% đến 50%, tức tăng 17%.

 

Thật vậy, căn cứ vào thống kê của Trung Tâm Quốc Gia Về Thống Kê Sức Khoẻ của Phân Bộ Về Sức Khỏe và Dịch Vụ Nhân Bản (National for Health Statistics, US Department of Health and Human Services), được cuốn Time The Almanac 2002 phổ biến, thì trong giai đoạn từ năm 1900 đến 1999, tỉ lệ ly dị cao nhất là năm 1980, với 52%, rồi tới năm 1982 với 51%, tới hai năm 1983 và 1985 xuống 50%. Từ đó tỉ lệ xuống dần, ba năm 1986, 1987 và1988, còn 48%, ba năm 1989, 1990 và1991 còn 47%, hai năm 1993 và 1994 còn 46%, hai năm 1996 và1997 còn 43%.

 

Tuy nhiên, chiều hướng ly dị có vẻ xuống này không phải là vì lòng con người đã được đổi thay theo chiều hướng tích cực, cho bằng con số thành hôn càng ngày càng giảm đi. Chẳng hạn, năm có tỉ số ly dị cao nhất là năm 1980, trong số những cuộc thành hôn là 2 triệu 406 ngàn 708, có 1 triệu 182 ngàn vụ ly dị, và năm có tỉ số ly dị thấp nhất từ đó là năm 1997, năm có 2 triệu 384 ngàn cuộc thành hôn, nhưng có 1 triệu 163 ngàn vụ ly dị. Tức năm 1980 người ta lập gia đình hơn năm 1997 tất cả là 22 ngàn 708 cuộc hôn nhân.

 

Tại sao lại có hiện tượng giảm số hôn nhân như vậy? Phải chăng trai gái không còn yêu nhau nữa? Hay người ta cảm thấy sợ lấy nhau? Hoặc người ta đã có cách sống vợ chồng tân kỳ hơn? Chỉ biết rằng, căn cứ vào các nguồn dữ liệu như U.S Census Bureau, National Center for Health Statistics, Americans for Divorce Reform, Institute for Equality in Marriage, American Association for Single People, Ameristat, và Public Agenda, Tờ Nguyệt San Ly Dị về Thống Kê Ly Dị Ở Hoa Kỳ (Divorce Magazine: US Divorce Statistics) có những chi tiết như sau: tỉ lệ của những cuộc hôn nhân lần đầu đi đến chỗ ly dị trong năm 1997 là 50%, và tỉ lệ của những cuộc tái hôn rồi lại ly dị cũng trong năm 1997 là 60%. Tỉ lệ cha mẹ không bao giờ lập gia đình trong năm 1998 là 35% nam và 42% nữ. Tỉ lệ chung cho tất cả mọi gia đình có cha mẹ không bao giờ lập gia đình trong năm 2000 là 48%.

 

Căn cứ vào những dự kiện được chính thức thống kê cho thấy trên đây, chúng ta có thể đi đến 4 kết luận như sau: thứ nhất, con người ta được dựng nên có nam có nữ không thể nào không yêu nhau. Thứ hai,  càng tự do yêu nhau, tự do luyến ái, người ta lại càng bỏ nhau. Thứ ba, một khi tự do yêu nhau mà lại còn chối bỏ nhau, tức là người ta chưa hoàn toàn nhận biết mình, chưa tìm thấy mình, giống như một đứa trẻ con hết thích đồ chơi này đến đồ chơi khác, chán cái này thì chơi cái kia. Thứ bốn, một khi con người còn chọn đi chọn lại mãi cho mình ý trung nhân màcũng không xong, tưởng như ý lại bị trái ý, tránh trái ý lại không được như ý, thì chứng tỏ con người văn minh ngày nay còn ấu trĩ trong quyền chọn lựa của mình.

 

Ly Thân Ly Dị: Phải chăng vì con người văn minh ngày nay ý thức được nhân quyền của mình?

 

Hồi còn ở Việt Nam, được chứng kiến thấy những cảnh chồng được quyền đánh đập vợ mình như con vật tôi cảm thấy hết sức đau lòng. Cho đến khi lập gia đình, trải qua những giây phút chất ngất ái ân, tôi lại càng không thể nào hiểu được tại sao người ta lại có thể phũ phàng hành hạ và tàn nhẫn đánh đập một con người mà họ chí tình ấp yêu khi làm việc vợ chồng như thế?

 

Nếu làm việc vợ chồng chỉ vì yêu thương nhau thật tình thì không thể nào người chồng lại có thể đi đến chỗ đầy đọa vợ mình như thế. Bằng không, người vợ sống với họ chẳng khác nào như một người đầy tớ, một người nữ tớ chẳng những để phục vụ nhu cầu tình dục của họ những lúc họ lên cơn, mà còn để hy sinh mang nặng đẻ đau cho gia đình nhà chồng, và hầu hạ nhu cầu cơm nước cho chồng, thậm chí cho cha mẹ chồng nữa, những việc mà không khéo sẽ bị họ cho ăn đòn nên thân v.v. Ôi thân phận phụ nữ ở một nước chậm tiến và ở vào thời văn hóa lạc hậu, hèn hạ là chừng nào và nhục nhã biết bao!

 

Chính vì thế, chẳng lạ gì, khi sang đến Mỹ, chúng ta thấy cả một nền văn hóa hôn nhân đảo ngược. Đến nỗi, hồi ấy, năm 1975, những người Việt mới qua Mỹ đều cảm thấy là ở Mỹ này đàn bà là nhất, “lady first”. Bởi vì, luập pháp Hoa Kỳ hết sức bảo vệ người phụ nữ. Chồng không có quyền đánh vợ. Bằng không, nếu bị tố cáo sẽ bị luật pháp can thiệp. Chẳng hạn, có những trường hợp chồng dọa hành hung vợ, vợ sợ quá báo cho công quyền để xin được bảo vệ, chồng liền bị tòa ra lệnh giới nghiêm lại “restricted order”, nghĩa là không cho chồng đến gần vợ bất cứ lúc nào một khoảng cách là bao nhiêu đó, chẳng hạn 100 feet, hay 100 bộ, 100 bước.

 

Không biết có phải chính vì người phụ nữ, nhất là để bảo về quyền lợi của giới nữ mà chính quyền Âu Mỹ mới lập những khoản luật ly di trước (đầu thập niên 1960) rồi phá thai sau (đầu thập niên 1970), thế nhưng, thực tế cho thấy, phụ nữ đã sử dụng quyền luật này nhiều hơn nam.

 

Tờ Nguyệt San Ly Dị về Thống Kê Ly Dị Ở Hoa Kỳ trên đây cho thấy rõ nhận định này như sau. Trong năm 2000, con số nam ly dị là 8 triệu 572 ngàn hay 8.3%, nhưng nữ là 11 triệu 309 ngàn hay 10.2%, tức hơn nữ ly dị hơn nam là 2 triệu 737 ngàn trong năm 2000. Tỉ lệ gia đình chỉ có mẹ độc thân - single mother mà không có bố là 9.2% trong khi đó tỉ lệ gia đình chỉ có bố mà không có mẹ là 1.9%, tức single mother nhiều hơn single father là 7.3%. Cũng trong năm 2000, trong số gia đình cha mẹ độc thân, có 2 triệu 40 ngàn người cha độc thân, nhưng có đến 9 triệu 680 ngàn người mẹ, tức con số mẹ độc thân nhiều hơn bố là 7 triệu 640 ngàn.

 

Chưa hết, cũng trong năm 2000, tổng số của những người cha độc thân vì ly dị là 913 ngàn, nhưng tổng số của những người mẹ độc thân vì ly dị là 3 triệu 392 ngàn, tức con số người mẹ độc thân vì ly dị hơn con số người bố độc thân vì ly dị là 2 triệu 479 ngàn.

 

Ngoài ra, tổng số của những người cha độc thân chưa bao giờ lập gia đình là 693 ngàn, nhưng tổng số của những người mẹ độc thân chưa bao giờ lập gia đình là 4 triệu 181 ngàn, tức mẹ độc thân chưa bao giờ lập gia đình hơn bố độc thân chưa bao giờ lập gia đình là 3 triệu 488 ngàn. Trong năm 2000, con số ly thân giữa nam và nữ như sau: nam là 1 triệu 181 ngàn hay 1.8%, và nữ là 2 triệu 661 ngàn hay 2.4%, tức nữ ly thân hơn nam 1 triệu 480 ngàn.

 

Thêm vào đó, nếu quyền ly dị hầu như liên quan đến quyền lợi của nữ giới hơn nam giới, một quyền lợi thực sự đã được nữ giới sử dụng tối đa như các dữ kiện trên đây cho thấy, thì quyền phá thai lại càng trực tiếp liên quan đến quyền lợi chuyên biệt của nữ giới hơn.

 

Cũng theo cuốn Time The Almanac 2002, thống kê cho biết con số phá thai được tường trình và được sổ sách ghi nhận như sau: từ năm 1972 (là thời điểm trước một năm luật pháp Hoa Kỳ chính thức hóa việc phá thai) đến năm 1997, con số phá thai cao nhất ở vào năm 1990, với 1 triệu 429 ngàn 577 vụ, trong đó, có 22.4% ở tuổi teen, tuổi dậy thì từ 19 trở xuống, 33.2% ở vào tuổi từ 20 đến 24, và 44.4% ở tuổi từ 25 trở lên, 21.7% trong hôn nhân, và 78.3% ngoài hôn nhân.

 

Tuy nhiên, ở vào năm 1997, tuy con số phá thai không cao bằng năm 1990, nghĩa là chỉ có 1 triệu 186 ngàn 39 vụ, tức ít hơn năm 1990 là 243 ngàn 538 vụ, nhưng so sánh cùng lứa tuổi và gia cảnh như năm 1990, chúng ta thấy chiều kích lứa tuổi lớn phá thai và ngoại hôn phá thai gia tăng trong năm 1997 như sau: tuổi teen dậy thì 20.1% (xuống 2.3%), tuổi từ 20 đến 24 ở 31.7% (xuống 1.5%), nhưng tuổi từ 25 trở lên lại là 48.2% (lên 3.8%), và phá thai trong hôn nhân năm 1997 là 19% (xuống 1.7%), thì phá thai ngoại hôn năm 1997 là 81% (lên 2.7%).

 

Những dữ kiện được thống kê trên đây, về cả khía cạnh ly dị lẫn phá thai, cho chúng ta thấy không phải là một cuộc cách mạng nữ giới đang xẩy ra mà là một cuộc trả thù đời của nữ giới thì đúng hơn. Hình như nữ giới đang cho thế giới biết mặt, biết rằng con người của họ không phải là để cho nam giới, và thân xác của họ không phải là để cho con cái. Và họ làm việc này không phải là lúc họ ở vào tuổi còn trẻ mà là tuổi đã lập thân.

 

Cũng theo Tờ Nguyệt San Ly Dị về Thống Kê Ly Dị Ở Hoa Kỳ, nếu trong năm 1997, tuổi trung bình trong việc lập gia đình là 29 (28.7) đối với nam giới và 26 (25.9) đối với nữ giới, thì tuổi trung bình trong việc họ ly dị cũng trong cùng năm 1997 này là 35 bên nam và 33 bên nữ, tức ở vào tuổi “tam thập nhi lập”. Tuổi phá thai nhiều nhất cũng từ 25 trở lên.

 

Theo tôi, không phải là nữ giới cách mạng hay trả thù đời, mà là chung con người văn minh vật chất ngày nay, tất nhiên trong đó có cả nữ giới, đang bị chi phối bởi một ý hệ sợ hãi và một tinh thần yếu nhược. Ở chỗ, những gì không hợp với cá nhân con người họ là họ tìm cách tránh né liền, tìm cách away from cho bằng được; họ không dám đối diện với khốn khó, không dám đương đầu với thử thách, nhất là những thử thách về luân lý là những gì làm cho họ xứng đáng làm người và thực sự nên người.

 

Thật ra, vì biết mình không thể thắng vượt được khốn khó, làm chủ được tình thế bất lợi, họ mới tìm cách tránh né. Thế nhưng, dù có tìm cách tránh né mấy đi nữa, họ cũng vẫn phải đối diện với sự thật phũ phàng, với người chồng hay người vợ mà họ không yêu thích nữa, không ưa chuộng nữa, với người con sinh ra tật nguyền, với bệnh nhân bất trị tốn kém v.v. Bởi đó, không né được thì chỉ việc tận diệt là xong, là tiện nhất. Với lập luận là thà không có thì hơn, bằng đã có thì phải ra có, phải có lợi cho nhân quần xã hội, đúng hơn có lợi cho chính bản thân cá nhân của họ mới đáng tồn tại.

 

Thế là, theo chủ thuyết tiến hóa - evolution, chủ nghĩa tranh đấu giai cấp của Cộng Sản, chủ trương duy thực dụng - unitarianism của thế giới tư bản, họ đã sử dụng đến thủ đoạn lạm quyền luân lý của họ, thủ đoạn đoạn tuyệt hôn nhân, thủ đoạn phá thai con cái v.v.

 

Thế nhưng, liệu con người văn minh đầy quyền lực về kỹ thuật cùng với quyền hạn về nhân quyền ngày nay có thể tận diệt được sự thật hay chăng, hay là, trái lại, sự thật vẫn là sự thật, vẫn ám ảnh họ, vẫn theo đuổi họ như hình với bóng, làm cho họ càng ngày càng sợ, càng bị ám ảnh,  bị paranoid, nếu họ không cương quyết nhìn thẳng vào sự thật, một sự thật duy nhất có toàn năng giải thoát họ.

 

Ly Thân Ly Dị: Phải chăng vì con người được luật pháp cho phép hành sử quyền pro choice hôn nhân?

 

Không phải chỉ có phá thai mới có quyền pro choice, còn ly dị thì không. Thật ra, vấn đề quyền tuyệt đối tự quyết có thể được áp dụng vào tất cả mọi khía cạnh của cuộc sống của con người. Điển hình nhất là trường hợp ly dị. Theo ý hệ tự do là muốn làm gì thì làm ngày nay, người ta cho rằng một khi tôi có quyền chọn lựa ý trung nhân thì tôi cũng có quyền bỏ họ nếu thấy rằng họ không còn hợp với tôi nữa, hay tôi thấy có ai ngon hơn họ, có thể mang lại hạnh phúc và thiện ích cho tôi.

 

Chẳng lẽ chọn lấy cho mình những gì tốt hơn lại là điều sai lầm hay sai quấy hay sao? Thật ra, không ai phủ nhận vấn đề con người có quyền chọn lựa. Thế nhưng, vấn đề ở đây là tự do của con người có giới hạn. Do đó, chọn gì thì chọn, chọn sao cũng được, miễn là việc chọn lựa của con người không được phi nhân bản, không được phản luân thường đạo lý, không được tác hại đến công ích. Thậm chí, nếu cần, việc chọn lựa của con người còn có thể đi đến chỗ hy sinh cho người khác, chấp nhận tất cả những gì người khác không hợp với mình, chấp nhận trở nên mọi sự cho mọi người, nhất là những người mà mình yêu thương như bản thân mình, như vợ chồng con cái trong gia đình mình.

 

Tại sao cái chọn lựa làm cho mình nên trọn lành hơn, nên người hơn, đoàn kết hơn, yêu thương hơn, hòa thuận an bình hơn chúng ta không chọn, lại pro choice những gì sặc mùi văn hóa sự chết.

 

Theo Tờ Nguyệt San Ly Dị về Thống Kê Ly Dị Ở Hoa Kỳ thì trong năm 1997, thống kê cho biết lý do ly dị vì vấn đề kinh tế là 4.2%, trong khi đó, tỉ lệ ly dị vì bất khả hóa giải là 80%. Kể từ năm 1997 tới năm 2000, con số ly dị mỗi năm là 2 triệu rưỡi người. Số năm trung bình vợ chồng chung sống với nhau cho đến khi ly dị vào năm 1997 là 11 năm.  

 

Sở dĩ có luật ly dị là vì con người lạm dụng quyền hành của mình, điển hình là chồng dùng quyền bắt nạt vợ, và sở dĩ luật phá thai có tác hiệu và càng ngày càng trở nên thịnh hành là vì con người ham chuộng nó và tôn sùng nó. Bởi thế, luật ly dị và phá thai, tự chúng sẽ trở thành bất lực, trở thành vô hiệu năng, nếu con người không ngó ngàng gì đến nó, coi thường nó.

 

Một khi con người còn lệ thuộc vào luật ly dị để sống hôn nhân thì không bao giờ họ thực sự cảm thấy thế nào là hạnh phúc hôn nhân. Chẳng khác gì như họ lệ thuộc vào thuốc ngừa thai hay phương pháp ngừa thai nhân tạo để kiểm soát sự sống vậy. Trước khi lấy nhau đã sợ ly dị, lấy nhau rồi lại sợ có con, thì hai con người nam nữ sẽ sống đời vợ chồng với nhau một cách ơ hờ tạm bợ, đụng một cái là tan liền.

 

Nếu quyền ly dị và phá thai không phải là thứ bảo hiểm hôn nhân thì chỉ còn chính tình yêu, yếu tố liên kết hai con người nam nữ có duyên lại với nhau mới làm cho họ được hạnh phúc mà thôi. Mà yêu thương là gì, nếu không phải là hiệp nhất nên một, là hy sinh nhịn nhục, là quảng đại thứ tha.

 

Phải, chỉ có một tình yêu viên mãn, tình yêu trọn lành như thế mới làm cho hai con người nam nữ sống đời vợ chồng với nhau được thực sự hạnh phúc và vĩnh viễn hạnh phúc mà thôi. Hạnh phúc là viên mãn yêu thương là thế! Hạnh phúc là viên mãn yêu thương chính là bảo hiểm nhân thọ duy nhất cho cuộc sống hôn nhân gia đình của con người và cho con người ở mọi nơi và trong mọi lúc.

 

Sau đây là 4 trong những câu vấn đáp cho buổi phát thanh Vui Mừng Và Hy Vọng 27, ngày 21/7/2002 

 

1.      Hiện tượng ly thân ly dị hiện nay có phải là một hậu quả tất yếu của hiện tượng vô luân của xã hội chúng ta hiện nay không?

 

Đáp: Hiện tượng ly thân ly dị hiện nay không phải là hậu quả tất yếu của hiện tượng vô luân của xã hội chúng ta hiện nay, vì hiện tượng ly thân ly dị hiện nay chính là hiện tượng vô luân của xã hội chúng ta rồi vậy. Tức là ly thân ly dị và vô luân đồng nghĩa với nhau. Do đó, vấn đề được đặt ra là nguyên nhân nào đã đưa đến tình trạng ly thân ly dị vô luân hiện nay? Trước hết, tôi xin xác định là ly thân khác với ly dị và tự bản chất không phải là việc vô luân, trừ phi ly thân để dễ dàng ngoại tình, hay cố ý ly thân để đi đến chỗ ly dị, hoặc không có ý tái hợp nữa. Sau nữa, tôi nhận thấy căn nguyên sâu xa gây ra tình trạng ly thân ly dị vô luân hiện nay là do con người đã yếu kém lòng đạo, đã coi thường nhân nghĩa.  

 

Thật vậy, ngay từ ban đầu, theo Thánh Kinh Do Thái Giáo, sau khi sa ngã phạm đến Đấng Hóa Công của mình, tức là không chịu theo ý định của Ngài, mà là theo ý riêng của mình, cặp uyên ương đầu tiên là Adong và Evà đã không còn sống trong tình trạng công chính nguyên thủy nữa, cả hai chỉ là một thân thể, ở chỗ trần truồng không biết xấu hổ, trái lại, đã ly thân, mỗi người bắt đầu nhận thấy mình khác người, và che đậy bộ phận phái tính của mình đi. Thực tế cũng cho thấy sở dĩ con người văn minh ngày nay ly dị là vì họ đã không còn trọng tình trọng nghĩa nữa. Ở chỗ, ngày xưa vì còn kính cha kính mẹ, con người dù không biết nhau hay yêu nhau trước, song họ vẫn có thể sống trọn đời vợ chồng với nhau. Trong cuộc sống hôn nhân, dù khổ đau, họ vẫn không bỏ nhau, không hẳn vì sợ xã hội theo luân lý cổ truyền chê cười nguyền rủa, cho bằng vì nghĩ đến con đến cái hơn đến bản thân mình.

 

Tóm lại, nguyên nhân sâu xa làm cho hôn nhân gia đình đổ vỡ, đưa đến tình trạng ly thân ly dị vô luân là vì con người văn minh vật chất ngày nay đã trở nên khô đạo, dửng dưng với tất cả những gì là siêu nhiên, là linh thiêng, không còn tin tưởng thần linh tối cao, và do đó cũng không còn nắm giữ những luân thường đạo lý làm người như xưa.  
 

2.      Xin anh vui lòng tóm lại một vài con số tiêu biểu trong những thống kê liên quan đến vấn đề ly thân ly dị ảnh hưởng và trực tiếp liên quan đến đời sống hôn nhân và gia đình hiện nay? 

 

Đáp: Câu hỏi này cũng như câu hỏi trên, con số thống kê tiêu biểu không ảnh hưởng và trực tiếp liên quan đến đời sống hôn nhân và gia đình hiện nay. Trái lại, chính đời sống hôn nhân và gia đình hiện nay đã đưa đến con số thống kê thảm bại này. Căn cứ vào những con số thống kê, tôi thấy có 6 vấn đề chính sau đây liên quan đến chiều hướng ly dị, đến lý do ly dị, đến thời hạn hôn nhân, đến thời điểm ly dị, cũng như đến khát vọng luyến ái phi hôn hay đa hôn.  

 

Thứ nhất, tỉ lệ ly dị càng ngày càng xuống: Thật vậy, căn cứ vào thống kê của Trung Tâm Quốc Gia Về Thống Kê Sức Khoẻ của Phân Bộ Về Sức Khỏe và Dịch Vụ Nhân Bản (National for Health Statistics, US Department of Health and Human Services), được cuốn Time The Almanac 2002 phổ biến, thì trong giai đoạn từ năm 1900 đến 1999, tỉ lệ ly dị cao nhất là năm 1980, với 52%, rồi tới năm 1982 với 51%, tới hai năm 1983 và 1985 xuống 50%. Từ đó tỉ lệ xuống dần, ba năm 1986, 1987 và1988, còn 48%, ba năm 1989, 1990 và1991 còn 47%, hai năm 1993 và 1994 còn 46%, hai năm 1996 và1997 còn 43%.  

 

Thứ hai, con người ly dị chỉ vì lý do bất khả hóa giải giữa vợ chồng với nhau hơn là vì các vấn đề khác. Theo Tờ Nguyệt San Ly Dị về Thống Kê Ly Dị Ở Hoa Kỳ thì trong năm 1997, thống kê cho biết lý do ly dị vì vấn đề kinh tế là 4.2%, trong khi đó, tỉ lệ ly dị vì bất khả hóa giải là 80%.

 

Thứ ba, con người ngày nay sống đời vợ chồng với nhau ngắn hạn chứ không trọn đời: Tờ Nguyệt San Ly Dị cho biết số năm trung bình vợ chồng chung sống với nhau cho đến khi ly dị vào năm 1997 là 11 năm. 
 

Thứ bốn, con người ly dị ở vào lúc con người ở vào tuổi lập thân “tam thập nhi lập”. Thật vậy, cũng theo Tờ Nguyệt San Ly Dị về Thống Kê Ly Dị Ở Hoa Kỳ, nếu trong năm 1997, tuổi trung bình trong việc lập gia đình là 29 (28.7) đối với nam giới và 26 (25.9) đối với nữ giới, thì tuổi trung bình trong việc họ ly dị cũng trong cùng năm 1997 này là 35 bên nam và 33 bên nữ.  

 

Thứ năm, con người ngày nay muốn sống tự do luyến ái, chứ không muốn bị ràng buộc vào cơ cấu hôn nhân ly dị nữa. Tờ Nguyệt San Ly Dị về Thống Kê Ly Dị Ở Hoa Kỳ (Divorce Magazine: US Divorce Statistics) đã liệt kê những chi tiết như sau: Tỉ lệ cha mẹ không bao giờ lập gia đình trong năm 1998 là 35% nam và 42% nữ. Tỉ lệ chung cho tất cả mọi gia đình có cha mẹ không bao giờ lập gia đình trong năm 2000 là 48%. 

 

Thứ sáu, con người ngày nay càng ngày càng đa thê đa phu. Cũng theo Tờ Nguyệt San Ly Dị về Thống Kê Ly Dị Ở Hoa Kỳ cho biết: tỉ lệ của những cuộc hôn nhân lần đầu đi đến chỗ ly dị trong năm 1997 là 50%, và tỉ lệ của những cuộc tái hôn rồi lại ly dị cũng trong năm 1997 là 60%.
 

3.      Hai môn thuốc chữa căn bệnh hiểm nghèo ly thân ly dị của thời đại chúng ta, về phần tích cực, là “tương kính như tân” và, về phần tiêu cực, là bỏ lối sống chồng chúa vợ tôi, trọng nam khinh nữ. Anh bằng lòng với hai môn thuốc này chăng? 

 

Đáp: Về ý hệ chồng chúa vợ tôi, trọng nam khinh nữ, đã được ý hệ nhân quyền giải độc. Bởi đó ngày nay nó hầu như đã biến mất trong ánh sáng văn minh vật chất và nhân bản hiện tại. Nếu ý hệ nhân quyền đã quân bình nam nữ, đã bình đẳng vợ chồng thì vấn đề “tương kính như tân” cũng đã hiện thực. Tuy nhiên, như tôi đã nhận định trong buổi phát thanh vừa rồi, chính trong lúc con người được quyền tự do luyến ái ngày nay lại là lúc con người ly thân ly dị nhiều nhất. Như thế có nghĩa là con người vẫn chưa “tương kính như tân” hay sao? Thật ra, vấn đề trọng kính nhau thường dính dáng đến vấn đề công bình. Công bình ở chỗ nếu anh đối xử tốt với tôi tôi cũng đối xử tốt với anh như thế. Bằng không thì cứ việc “mắt đền mắt răng đền răng”, “tình nghĩa đôi ta có thế thôi”. Công bằng thường còn ở chỗ tôi phải được đối xử tốt trước rồi mới đáp lại sau. Nếu sống đời vợ chồng với nhau “tương kính như tân” một cách công bình như thế thì chẳng khác gì sống với nhau như một bài toán cộng, 1 + 1 = 2. 

 

Thật vậy, như tôi đã chia sẻ trong bài Tình Nghĩa Vợ Chồng, “nếu vợ chồng mỗi người là 1 ngôi vị khác nhau, mà sống với nhau như một bài toán cộng thì sẽ thành 2 chứ không nên 1. Vợ chồng sống với nhau như bài toán cộng là ở chỗ mỗi người một account, một trương mục, chồng trả tiền nhà, vợ trả tiền những thứ chi phí khác, miễn là hai bên cân bằng với nhau trong vấn đề trang trải mọi sự trong nhà; nếu cần phải chi phí cho những thứ ngoại lệ theo tình nghĩa, như tới ngày Valentine, Giáng Sinh, Father Day hay Mother Day, Ngày Sinh Nhật của nhau thì lấy tiền của riêng mình mà mua quà tặng nhau, bao nhau ăn uống như bạn bè. Bởi thế, bởi sống một đời sống vợ chồng với nhau như một bài toán cộng 1 với 1 là 2 như thế, nên khi gặp trường hợp một trong hai người đụng đến quyền lợi của nhau, đụng đến đức công bằng đã được phân chia ranh giới, họ liền bất mãn và tỏ thái độ đòi hỏi công lý, đến độ, họ đi đến chỗ làm toán trừ, 1 trừ 1 thành 0, vợ trừ chồng hay chồng trừ vợ thành ly dị”.

 

Ngoài ra, về phương thế giải quyết vấn đề bất hòa vợ chồng để tránh ly dị, ở bên Mỹ này người ta thường “sit down and talk”. Thế nhưng, cuối cùng cũng vẫn chẳng giải quyết được gì, cũng vẫn cứ đem nhau ra tòa ly dị? Tại sao? Nếu không phải khi ngồi xuống nói chuyện người ta chỉ tìm cách thắng thế, hơn là tìm chân lý. Thật ra, nếu người ta tự đáy lòng biết thông cảm với nhau thì cũng chẳng cần gì phải sit down and talk cả. Vì họ đã tha cho nhau, hiểu nhau trước khi nói ra rồi. Vấn đề đối thoại chẳng qua cũng chỉ là phương thế giải quyết. Nếu người ta không có tinh thần cởi mở, phục thiện và tìm chân lý thì dù có talk đi talk lại cũng không work, không có công hiệu. Ở đây chúng ta lại thấy rằng, làm gì thì làm con người cũng phải có tinh thần trước, phải có lòng đạo đã, mới giải quyết được vấn đề. Bằng không, con người chỉ luẩn quẩn, lúc nào cũng cảm thấy bất mãn và bất an mà thôi, một tâm trạng càng làm cho con người dễ rối loạn và cuộc đời lúc nào cũng choáng váng ngả nghiêng chực ngã. 

 

4.      Để kết thúc cho buổi phát thanh hôm nay, xin được hỏi thêm một câu nữa là nếu có một lời khuyên nào cho cuộc sống lứa đôi hiện nay thì lời khuyên ấy như thế nào?  

 

Đáp: Cũng trong bài Tình Nghĩa Phu Thê, tôi đã chia sẻ thế này: “Để tránh hiện tượng hay thảm trạng vợ chồng sống với nhau như một bài toán cộng, một lối sống dễ đưa họ tới đáp số zero của một bài toán trừ nát tan phá sản về cả tình nghĩa, của cải lẫn con cái như vậy, họ cần phải sống với nhau theo đúng mục đích và bản chất của hôn nhân là hiệp nhất, được thể hiện qua tác động vợ chồng “nên một thân thể” hết sức linh thiêng cao quí. Nghĩa là, hai vợ chồng phải làm sao để chẳng những tránh những lối sống, hành vi, thái độ cộng và trừ giữa vợ chồng với nhau, mà còn phải liên lỉ sống làm sao để vợ chồng chỉ là 1, bằng cách sống theo bài toán nhân 1 x 1 = 1 hay theo bài toán chia, 1 / 1 = 1, những bài toán chứng tỏ họ giải quyết những khác biệt, bất đồng và đụng chạm, không thể tránh trong đời sống vợ chồng, thậm chí cả lầm lỗi phạm đến bản tính của hôn nhân, chỉ bằng tinh thần hy sinh, nhịn nhục và tha thứ cho nhau”.   

 

Trên đây là nội dung cuộc phỏng vấn về vấn đề Ly Thân Ly Dị cho buổi phát thanh Vui Mừng Và Hy Vọng (27 ngày 21/7/2002), một chương trình phát thanh Ơn Gọi Làm Người, do Nhóm Vào Đời chủ trương và thực hiện, qua Đài Tiếng Nói Việt Nam Hải Ngoại, hằng tuần từ 11 giờ 30 đến 12 giờ trưa Chúa Nhật, phát đi từ Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn đến 21 nơi thuộc 18 tiểu bang ngoài California.

 

(Bài ngày mai: Nền Tảng Xã Hội)

 

 

TOP

 

 

 ? Tháng Sáu Kính Thánh Tâm Chúa với Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu:  Bài 6 - "Bất kể các lỗi lầm của các con, các việc bất chính của các con, các con vẫn là những đứa con nhỏ bé của Cha các con trên Trời".

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch

 

Cha thích con chú ý đến Sự Hiện Diện của Cha.

Cha thích thấu nhập con bằng Thần Linh của Cha.

Cha thích cầm tay con cho nó nồng nàn vẽ lên những lời mà Cha linh hứng cho con. (13-4-1967)

 

Nếu có thể được thì tình yêu xót thưông của Cha sẽ xuống đến cả tận đáy hỏa ngục nữa kìa. Nhưng than ôi, cũng bằng thừa thôi. Vì những kẻ ở dưới đó có còn cứu vớt được đâu. (26-4-1967)

 

Cha nào có bao giờ bỏ con mồ côi đâu. Bí Tích Thánh Thể của Cha đủ chứng minh cho con thấy nỗi điên cuồng của tình yêu Cha rồi đó.

Cha về cùng Cha của Cha, song đồng thời Cha vẫn là tù nhân của con.

Còn gì thái quá hôn là tình Cha yêu thưông con nữa đây?

Một số con cái của Cha bước theo vết chân Cha.

Tại sao lại vì thế mà chê trách họ nhỉ?

Họ chỉ cố bắt chước Cha thôi mà.

Vì, hiến mình cho Tình Yêu thần linh là ôm lấy nỗi cuồng si của một vò Thiên Chúa vậy. (4-5-1967)

 

Cha cùng là một Giêsu đối với tất cả mọi người. Nếu Cha yêu chuộng một số linh hồn nào đó, thì không vì thế mà mất đi một mảy may yêu thưông mà Cha dành cho tất cả và đặc biệt là cho mỗi một linh hồn. (2-6-1967)

 

Cha là niềm an ủi cho kẻ sầu thưông, là niềm dòu hiền bao la khôn sánh cho người khiêm hạ.

Máu đã đổ ra đây là của các con.

Chính là Máu duỡng nuôi các con và ban sự sống cho các con.

Các con lại không yêu qúi máu của mình hay sao?

Vậy thì Máu của Cha đã trở nên máu của các con còn qúi hôn đến đâu?

Thế mà tại sao các con lại thường hay rôi vào trong tình trạng bò yếu nhược?

Chính là vì các con không muốn Mình và Máu của Cha.

Mà thứ máu chẳng bổ béo gì của các con đâu có mang lại sức mạnh cần thiết cho sự sống của linh hồn các con.

Thân xác không phải là linh hồn.

Linh hồn quan trọng hôn thân xác, vì nó nuôi dưỡng thân xác và hiến cho thân xác sự sống của mình.

Như thân xác có thể góp phần vào sự sống của linh hồn ở một mức độ nào đó, thì linh hồn lại càng góp phần vào sự sống của thân xác cho vinh quang của Thiên Chúa như vậy.

Các con là người yếu đau bệnh tật ư, hãy dâng hiến nỗi đớn đau của các con.

Còn các con là kẻ khỏe mạnh ư, hãy tạ ôn Thiên Chúa về việc Người sử dụng các con để phục vụ những người khác vì yêu mến Người.

Tất cả các con đều có thể góp phần vào việc Người đến... (25-6-1967)

 

Vì Cha nhân lành và xót thương nên Cha nghĩ đến việc lành làm cho Cha hơn là việc làm tổn hại cho Cha.

Phép công thẳng của Cha sung sướng xóa bỏ mình đi trước tình thưông của Cha.

Đó là lý do tại sao Cha mong muốn có một đạo binh hồn nhỏ thiết tha hiệp nhất, dưới sự canh giữ của Đức Mẹ Nữ Vưông, trong việc can thiệp giữa Cha với các tội nhân. (20-7-1967)

 

Cha không phải là một Thiên Chúa kềm kẹp con, mà là một Thiên Chúa làm cho con hoàn toàn phát triển theo ánh sáng của lòng con ưng thuận trước những ơn soi động của Cha.

Ngay cả khi Cha mong muốn con nên trọn lành, trong khi đó tình yêu của con vẫn cứ bất toàn, thì hỡi con nhỏ của Cha, Cha lại đã chẳng mặc lấy nhân tính của con làm như của Cha hay sao?...

Ngày gặp đêm rồi mất hút trong đêm thế nào.

Cũng vậy, từ ánh sáng mà ra, linh hồn đi sâu vào tăm tối.

Thế nhưng, ân sủng phát sinh một ngày mới còn tưôi sáng hôn cả ngày trước đó, vì nó giải cứu linh hồn khỏi bóng đêm phong tỏa nó. (19-8-1967)

 

Cha có, Cha ban phát.

Cha có, các con không có gì cả.

Cha ban phát khôn lường.

Mà các con lại nhận lãnh bằng một lòng vô ôn bội bạc như vậy.

Tại sao thế? Tại vì các con chỉ yêu bản thân các con thôi, hỡi những đứa con cái bất hạnh của Cha ôi.

Các con là gì? Chẳng là gì cả.

Mà Cha lại muốn nâng cái chẳng là gì này lên đến Cha.

Các con từ chối.

Thế nhưng Cha là sự sống của các con.

Các con có muốn Cha tạo các con thành những vò thánh không?

Hãy nói vâng đi thì Cha sẽ đến.

Rồi con mắt của các con sẽ mở ra trước thực tại và vẻ đẹp của Chân Lý.

Mắt các con sẽ nhắm lại trước sự hão huyền của cái làm cho các con khoái thú. Được yêu thưông rất nhiều, được Tình Yêu theo đuổi thật lâu, hỡi các con cái nhỏ bé của Cha, các con là những kẻ từ chối thuận phục lề luật của Tình Yêu, là những kẻ lạc bước trên những nẻo đường mòn, nôi mà các con cứ loay hoay lẩn quẩn với ảo tưởng quái gở hão huyền cùng những lạc thú giả tạo.

Linh hồn con người hướng về Tuyệt Đối.

Không gì có thể hoàn toàn thỏa mãn nó được cả, vì một mình Cha mới có thể ban cho các con niềm hạnh phúc này, niềm hạnh phúc mà các con hớn hở kiếm tìm như thế mà vẫn không gặp được.

Hãy đến tìm ôn tha thứ nôi Cha.

Cha sẽ an ủi các con.

Cha sẽ đổi mới các con.

Trái Tim Cha đang đợi chờ các con và yêu thương các con.

Bất kể các lỗi lầm của các con, các việc bất chính của các con, các con vẫn là những đứa con nhỏ bé của Cha các con trên Trời.

Vì tội lỗi của các con cũng không làm cho Người vĩnh viễn ngoảnh mặt đi khỏi các con đâu. (22-8-1967)

 

Nếu ai không nghe được Cha là vì họ từ chối nghe Cha.

Cha đã từng đến lay họ tỉnh lại để họ nhận ra cái tôi của họ.

Và họ chỉ có thể dâng cho Cha tình yêu mà Cha xin họ bằng việc quên chính bản thân mình đi... (5-9-1967)

 

(còn tiếp cho tới hết Tháng Thánh Tâm)

 

 

TOP

 

 

?   Ngày của Chúa – Dies Domini: “Ngày Hưu Lễ” - Việc nghỉ ngơi của Đấng Hóa Công

 

Tông Thư Dies Domini của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II

11.       Nếu trang đầu tiên của Sách Khởi Nguyên cho thấy “việc làm” của Thiên Chúa như là một mẫu gương cho con người thì “việc nghỉ ngơi” của Thiên Chúa cũng thế: “Vào ngày thứ bảy Thiên Chúa hoàn tất công việc Ngài đã thực hiện” (Gen 2:2). Cả ở đây nữa chúng ta thấy được thuyết nhân thể học đầy những ý nghĩa.

Thật là vô nghĩa khi giải thích “việc nghỉ ngơi” của Thiên Chúa như là một thứ “bất động” thần linh. Tự bản chất của mình, tác động tạo dựng làm nên thế giới là tác động liên lỉ không ngừng nghỉ và Thiên Chúa bao giờ cũng hoạt động, như chính Chúa Giêsu tuyên bố khi nói về qui định của Ngày Hưu Lễ: “Cha Tôi vẫn còn làm việc cho tới nay, và Tôi cũng đang làm việc” (Jn 5:17). Việc nghỉ ngơi của Thiên Chúa trong ngày thứ bảy không ám chỉ một Vị Thiên Chúa bất động, mà là nhấn mạnh đến tầm mức trọn vẹn của những gì Ngài đã hoàn thành. Nó thực sự nói về việc Thiên Chúa ngắm nghía trước công việc “rất tốt đẹp” (Gen 1:31) do tay Ngài làm nên, để ngắm nhìn nó bằng một ánh mắt tràn đầy vui thú. Đó là một ánh mắt “ngắm nghía” không phải những gì mới hoàn thành mà là hoan hưởng vẻ đẹp của những gì đã đạt được. Đó là ánh mắt Thiên Chúa nhìn ngắm tất cả mọi sự, đặc biệt là con người là vinh quang của thiên nhiên tạo vật. Đó là ánh mắt cho thấy một cái gì đó có bóng dáng phối ngẫu của mối liên hệ Thiên Chúa muốn thiết lập với tạo vật được dựng nên theo hình ảnh của Ngài, bằng cách kêu gọi loài tạo vật ấy tham dự vào giao ước yêu thương. Đó là những gì Thiên Chúa dần dần hoàn tất, trong việc cống hiến ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại nơi giao ước cứu độ với dân Do Thái được hoàn tất nơi Chúa Kitô. Chính Lời Nhập Thể, qua tặng ân Thánh Thần cánh chung cũng như qua hình tượng của Giáo Hội là Thân Thể và là Hiền Thê của mình, là Đấng sẽ ban phát cho cả loài người tặng ân thương xót và ơn gọi của tình yêu Chúa Cha.

12.       Nơi dự án của Đấng Hóa Công, có cả sự phân biệt lẫn liên hệ mật thiết giữa lãnh vực tạo sinh và lãnh vực cứu độ. Điều này được nhấn mạnh đến trong Cựu Ước, khi nó liên kết mệnh lệnh về “ngày hưu lễ” chẳng những với “việc nghỉ ngơi” mầu nhiệm của Thiên Chúa sau những ngày Ngài tạo dựng (x Ex 20:8-11), mà còn với ơn cứu độ được Ngài ban cho dân Do Thái nơi việc giải thoát họ khỏi cảnh làm tôi ở Ai Cập nữa (x Deut 5:12-15). Vị Thiên Chúa nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy, hân hoan nơi việc tạo thành của mình, cũng chính là Vị Thiên Chúa tỏ vinh quang của mình ra nơi việc giải thoát con cái của mình khỏi việc đàn áp của Pharaon. Người ta có thể nói rằng nơi cả hai trường hợp Thiên Chúa đều tỏ mình ra như là chàng rể trước cô dâu (x Hos 2:16-24; Jer 2:2; Is 54:4-8), khi họ chấp nhận hình ảnh vốn được các vị Tiên Tri yêu thích.

Như một số yếu tố nơi cùng truyền thống Do Thái cho thấy (12), để tiến đến tâm điểm của “ngày hưu lễ”, “ngày nghỉ ngơi” của Thiên Chúa, chúng ta cần nhận thấy nơi cả Cựu Ước lẫn Tân Ước tính chất phối ngẫu mãnh liệt đánh dấu mối liên hệ giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Tiên tri Hosea chẳng hạn đã diễn tả nó ở đoạn văn tuyệt vời như sau: “Vì các ngươi, Ta sẽ thực hiện một giao ước với các hoang thú đồng nội, chim trời trên không trung, và các thứ bò trên đất; và Ta sẽ hủy bỏ cung tên, gươm kiếm, và chiến tranh khỏi mặt đất; rồi Ta sẽ khiến cho các ngươi nằm xuống trong an toàn. Và Ta sẽ vĩnh viễn đính hôn với các ngươi; Ta sẽ đính hôn với các ngươi trong công minh chính trực, trong yêu thương bền vững và trong xót thương. Ta sẽ đính hôn với các ngươi trong thủy chung; và các người sẽ nhận biết Chúa” (2:18-20)

(còn tiếp vào mỗi Chúa Nhật)

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ văn khố điện toán toàn cầu của Tòa Thánh:

http://www.vatican.va/holy_father/john_paul_ii/apost_letters/documents/hf_jp-ii_apl_05071998_dies-domini_en.html

 

 

 

TOP

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ