GIÁO HỘI HIỆN THẾ

_______

 THỨ BA 27/6/2006

 TUẦN XII THƯỜNG NIÊN

 

?  Hướng Về Ngày Họp Thế Giới Các Gia Đình ở Tây Ban Nha 8-9/7/2006: Bài 8.- Vai Trò Làm Chồng

?  Tháng Sáu Kính Thánh Tâm Chúa với Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu:  Bài 8 - "Trong con mắt của Cha, một tội nhân tìm kiếm Cha thì không còn là một tội nhân nữa".

?  'Mặt Trời Khổ Ải' - Đức Gioan Phaolô II; 'Vinh Quang Oliu' - Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Bài 6 - Nhị vị Giáo Hoàng trước vị Giáo Hoàng cuối cùng của Giáo Hội?

 

 

 

? Hướng Về Ngày Họp Thế Giới Các Gia Đình ở Tây Ban Nha 8-9/7/2006: Bài 8.- Vai Trò Làm Chồng

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

 

Cảm Thức về Bản Chất và Ơn Gọi Làm Chồng 

 

T

hành phần làm chồng không thể nào sống đúng, hay nói theo ngôn ngữ kịch nghệ, đóng đúng vai của mình, nếu không ý thức được bản chất làm chồng hay ơn gọi làm chồng của mình. Nghĩa là, những thái độ, hành động hay cử chỉ của một người đóng vai làm chồng trong vở kịch hôn nhân phải làm sao hoàn toàn phản ảnh ơn gọi làm chồng hay bản chất làm chồng của mình, thì vở kịch hôn nhân mới hay, mới sống động, mới ý nghĩa, mới giá trị để đời. Vậy đâu là bản chất làm chồng hay ơn gọi làm chồng?

 

Tôi không thể nào quên được cảm giác lần đầu tiên khi nghe thấy mình được người vợ mới cưới chính thức giới thiệu là chồng của nàng trước mặt người khác. Hôm đó, cách đây 19 năm, tại phi trường Honolulu, người vợ mới được hai ngày của tôi nói với một người nào đó ở đấy rằng: "He is my husband". Dù đã trải qua nghi thức thành hôn, nhất là qua đêm động phòng với đệ nhất đồng loại của tôi ấy, bấy giờ tôi cũng vẫn giật mình khi chợt nghe nàng lần đầu tiên công khai giới thiệu tôi là chồng của nàng như thế. Lời giới thiệu của nàng ấy như bất ngờ đánh động tâm thức của tôi, nhắc nhở tôi rằng tôi đã thực sự làm chồng rồi đó, không còn độc thân nữa.

 

Vẫn biết, đối với nàng bấy giờ, "he is my husband" chỉ là một lời tuyên nhận về pháp lý về một con người nàng đã ưng ý lấy, sau bao nhiêu năm chọn lựa, sau cả chục người quen biết. Thế nhưng, tận thâm tâm của nàng nói riêng, và của tất cả mọi người làm vợ nói chúng, thì "he is my husband" còn có một ý nghĩa sâu xa về tinh thần hơn nữa. Vậy người vợ của tôi, cũng như những người đàn bà lập gia đinh khác, vẫn expect gì, mong đợi gì nơi con người mà họ công nhận "he is my husband"? Và phần tôi, cũng như những người được vợ mình nhìn nhận "he is my husband" như thế, đã ý thức ra sao về vai trò làm chồng của mình?

 

Riêng tôi, tôi còn nhớ, trong đêm vợ tôi sinh đứa thứ ba xong và còn ở lại nhà thương thêm một ngày, tôi nằm ngủ cùng giường với hai đứa con trai còn nhỏ của tôi, một đứa 6 tuổi và một đứa 4 tuổi. Thế nhưng, bấy giờ tôi vẫn cảm thấy thiêu thiếu làm sao ấy. Vẫn thấy một cái gì ấy trống trải lạ thường. Đấy là những giây phút tôi mới xa vợ một đêm, chứ chưa phải một đời.

 

Thật vậy, chính giây phút đó, nói đúng hơn, chính tâm tình cảm thấy thiếu hụt ấy bấy giờ, đã khiến tôi thấm thía ngay nơi bản thân mình ý định nguyên thủy sâu nhiệm của Đấng Hóa Công khi Ngài tạo dựng nên con người có nam có nữ, một ý định thần linh về con người duy nhất bấy giờ cũng là con người nam nhân đầu tiên đã được Thánh Kinh Do Thái Giáo ghi nhận ngay chương hai của Sách Sáng Thế Ký: "Con người ở một mình không tốt".

 

Đúng thế, sau khi Tạo Hóa đã dựng nên con người duy nhất, rồi sau đó Ngài đã đặt con người duy nhất này, cũng là con người nam nhân tiên khởi mang tên Adong ấy, vào vườn địa đường, nơi chẳng thiếu thốn một sự gì chung quanh con người này, kể cả sau khi Tạo Hóa đã mang tất cả loài sinh vật có thân xác như con người đến cho con người, con người vẫn không thỏa nguyện, vẫn cảm thấy lẻ loi cô độc.

 

Cho đến khi, phải, cho đến khi, theo Sách Sánh Thế Ký trình thuật, Tạo Hóa đã làm cho con người chìm vào một giấc ngủ say, rồi lấy một chiếc xương sườn của con người này ra, lấy thịt đắp vào chỗ xương sườn được lấy ra ấy. Không biết chỗ thịt thế vào chỗ xương sườn này có phải là yếu điểm của nam nhân đối với nữ nhân hay chăng, chỉ biết rằng, theo Sách Sáng Thế Ký, sau khi Đấng Tạo Hóa đã dựng nên con người nữ nhân đầu tiên là Evà từ chiếc xương sườn của Adong, và đem Evà đến cho Adong, thì Adong liền tỉnh dậy, chẳng những nhận ra ngay Evà là ai đồng thời cũng cảm thấy không còn cô đơn nữa, như câu nói đầu tiên con người bầy tỏ với nhau trước nhan Đấng Tạo Hóa: "Cuối cùng thì đây mới là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi" (Sách Khởi Nguyên 2:23).

 

Sau câu phát biểu thể hiện việc con người ý thức được bản thân mình như thế, Sách Sáng Thế Ký liền cho biết tiếp: "Thế rồi người nam lìa bỏ cha mẹ mình mà gắn bó với vợ, và cả hai trở nên một xác thịt" (x Gen 2:15,18-24).

 

Qua những chi tiết mạc khải thần linh của đoạn Sách Sáng Thế Ký trong bộ Thánh Kinh Do Thái Giáo vừa được trích dẫn trên đây, chúng ta thấy vai trò của người làm chồng ở đây, dù hôn nhân theo văn hóa nào đi nữa, thuộc thời điểm nào đi nữa, chính yếu vẫn là việc con người làm chồng bao giờ cũng cần phải nhận biết vợ mình và gắn bó với vợ mình, một khuynh hướng bẩm sinh nơi phái tính nam nhân, đồng thời cũng là vai trò của chồng đối với vợ.

 

Thật vậy, theo bản chất nam nhân tự nhiên của mình, ngay từ khi chưa lấy nhau, người chồng đã có khuynh hướng đi kiếm vợ, một khuynh hướng năng động nhất, sôi nổi nhất ở vào tuổi dậy thì và thành nhân của con người nam nhân, được ngôn ngữ của con người tự do luyến ái thời đại gọi là "đi cua gái", "đi tán gái", hay như trong cổ tục của con người ngày xưa còn được gọi là "đi hỏi vợ". Chỉ trừ một số rất hiếm văn hóa của các sắc dân thiểu số, chẳng hạn như nơi những người Thượng ở Việt Nam (theo tôi biết trước năm 1975), thì họ còn theo văn hóa hôn nhân mẫu hệ, nữ nhân nắm vai trò chính trong hôn nhân, với tục "đi bắt chồng".

 

Như thế, theo đa số văn hóa thuộc thế giới văn minh ngày nay, nhất là theo tâm lý nam nữ, thì ngay từ thuở ban đầu của tình yêu phái tính, không phải là việc vợ theo chồng mà là chồng theo vợ. Khuynh hướng và hành động theo đuổi con người nữ giới là vợ của mình ấy chứng tỏ người chồng chẳng những nhận biết vợ mà còn gắn bó với vợ của mình nữa. Ý thức nhận biết và tâm tình gắn bó với người vợ này thường được người chồng tỏ ra, chẳng những bằng chính việc vợ chồng, tác động thường được người chồng khởi động và năng động, mà còn bằng những tác động yêu thương khác nữa, như chiều chuộng vợ, âu yếm vợ, bao bọc vợ, bênh vực vợ và bao dung vợ.

 

Tác động yêu thương thứ nhất chứng tỏ vai trò làm chồng là nhận biết và gắn bó với vợ mình đó là việc chồng chiều chuộng vợ.

 

Người làm chồng trước khi lấy vợ thường tỏ ra gallant với vợ. Đi đâu cũng bao, cũng treat vợ. Không bao giờ tỏ ra keo kiệt với vợ. Không bao giờ dám để cho vợ thất vọng, hay buồn lòng. Vợ đòi cái gì cũng được. Nhiều khi mua quà tặng cho người vợ (chưa cưới) của mình còn đắt giá và quí giá hơn cả mua quà tặng cho chính người mẹ của mình nữa. Đến nỗi vợ thích cái gì chồng cũng thích cái đó. Niềm vui của vợ là niềm vui của chồng. Giá người làm chồng nào cũng tiếp tục sống gallant như thuở ban đầu lưu luyến ấy trong cuộc đời sống hôn nhân của mình thì chắc có lẽ tình trạng đổ vỡ hôn nhân cũng bớt đi được ít nhiều.

 

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, có những cái chồng không thể chiều vợ. Chẳng hạn như trường hợp các nàng, dù có thể đi làm để chia sẻ gánh nặng kinh tế với chồng, vì thấy lợi tức của chồng dồi dào, hay được chồng chiều chuộng thương hại không nỡ làm khổ vợ, các nàng chẳng những không cảm nhận tình yêu gallant hay công ăn việc làm của chồng, lại ở nhà tha hồ đi shopping mua sắm đủ thứ, không cần biết đến tiền bạc trong gia đình ra sao, miễn là mình duyên dáng và hợp thời trang là đủ.

 

Có một số trường hợp cho thấy những người vợ loại làm cảnh sang trọng này thường đi đến chỗ ngoại tình trong khi chồng đi làm. Nếu thái độ keo kiệt của chồng có thể gây ra đổ vỡ hạnh phúc hôn nhân thế nào, thì việc vợ phung phá cũng đã là nguyên nhân ly dị như vậy. Đó là lý do, nhiều người chồng giầu sang sau khi tỉnh ngộ và nhìn nhận đúng là "cái nết đánh chết cái đẹp" thì đã muộn mất rồi. Đó cũng là kinh nghiệm cho thấy tình yêu không bao giờ được đồng hóa với nhan sắc, bạc tiền, thế lực, mà là với chính con người, tức với chính phẩm giá của con người nói chung và với phẩm chất của con người nói riêng.

 

Tác động yêu thương thứ hai chứng tỏ vai trò làm chồng là nhận biết và gắn bó với vợ mình đó là việc chồng âu yếm vợ.

 

Việc âu yếm vợ không phải chỉ ở tại cử chỉ ve vuốt xác thịt của vợ, ấp ủ vợ, đấm bóp cho vợ, mà còn là việc luôn quan tâm đến vợ, để ý hỏi han đến mọi nhu cầu của vợ, và đáp ứng kịp thời những gì nàng cần, nhất là những gì nàng mong muốn, khát vọng song ngần ngại nói ra hay tế nhị không dám lên tiếng đòi hỏi. Tuy nhiên, có hai lúc người vợ cần được âu yếm nhất là trước khi trao thân và trong khi cưu mang.

 

Thật thế, trong việc giao hợp vợ chồng, ngoài thời gian trứng rụng, bình thường thân xác người vợ cần phải được âu yếm, được warm up, được đẫy đà mới có thể nhập cuộc và hoan hưởng cực lạc. Bằng không, các nàng có thể bị khó chịu thay vì cảm thấy kích thích, và nếu cứ xẩy ra nhiều lần như vậy, các nàngï sẽ sợ gần chồng và rất e ngại phải gần chồng. Đó là lý do chồng phải biết nghệ thuật âu yếm vuốt ve vợ để làm sao cho nàng hào hứng trao thân cho mình, để cả hai nên một xác thịt.

 

Ngoài ra, theo tâm lý lẫn thể lý, có lẽ người vợ cần âu yếm nhất vào lúc các nàng đang cưu mang, thời gian các nàng không cần người chồng giúp đỡ về các việc làm bề ngoài, như nấu nướng thay các nàng, cho bằng các nàng cần chồng thông cảm với tâm lý bất thường của các nàng bấy giờ, nhất là chồng đừng quá đòi hỏi và dằn vặt các nàng nhiều về vấn đề sinh lý trong thời gian này.

 

Tâm lý chung và thực tế cho thấy, người vợ cảm thấy rất cô đơn khi bị chồng bỏ bê trong thời gian các nàng đang mang bầu, ở chỗ, chồng chẳng những không chia sẻ cái nặng nề về thể lý của các nàng, mà còn kêu ca và đòi hỏi đủ thứ chuyện. Các nàng thậm chí cảm thấy hết sức uất hận, có thể đi đến chỗ phá thai vì chồng, một con người đểu giả chỉ biết chiếm đoạt và hưởng lạc, lạm dụng thân xác của các nàng như một thứ đồ mua vui, hay biến thân xác của các nàng thành một cái máy đẻ (theo cổ tục ngày xưa).

Đó là lý do, vấn đề ngừa thai tự nhiên rất có lợi trong những trường hợp này. Ở chỗ, việc vợ chồng không phải chỉ được thực hiện theo thúc động tình dục không thể cầm hãm của bản năng, đến nỗi, có những lúc người vợ cảm thấy mình bị hãm hiếp hơn là ân ái vợ chồng. Nếu tác động ân ái vợ chồng hoàn toàn và thực sự là tác động biểu lộ của một tình yêu chân chính cao thượng thì nó không thể nào lại bị biến thành một tác động chiếm đoạt thuần dục tính, mà phải là một tác động âu yếm nhẹ nhàng, vỗ về ấp ủ, chất ngất giao thân.

 

Tác động yêu thương thứ ba chứng tỏ vai trò làm chồng là nhận biết và gắn bó với vợ mình đó là việc chồng bao bọc vợ.

 

Văn hóa hôn nhân xưa kia, hay ở các nước còn chậm tiến ngày nay, việc chồng bao bọc vợ thường được tỏ ra bằng việc đi làm nuôi vợ, một người vợ có phận sự chính là nội trợ, tức ở nhà lo cơm nước, giặt quần áo cho chồng, và nhất là khi có con cái thì chăm sóc cho chúng nó. Tại các nước Âu Mỹ văn minh ngày nay, chẳng những vì nhu cầu sinh sống đòi hỏi, mà còn vì ý thức nhân bản liên quan đến vấn đề nam nữ bình quyền theo văn hóa thời đại, thường vợ chồng đều đi làm full time như nhau.

 

Do đó, vấn đề chồng bao bọc vợ về phương diện kinh tế đã trở thành lỗi thời. Chính vì vợ đi làm có tiền nên các nàng đi mua sắm gì cũng không cần phải xin chồng, cần phải được chồng gật đầu cho phép mới dám mua, mới dám gửi tiền về Việt Nam cho gia đình mình v.v. Về vấn đề lệ thuộc kinh tế chồng này có những trường hợp xẩy ra là các nàng thậm chí đi đến chỗ cần phải nịnh khéo chồng hay làm việc trao đổi ngay vào những lúc các chàng đòi hỏi về vấn đề sinh lý. Ngược lại, cũng có những trường hợp cho thấy vợ bao bọc chồng về vấn đề kinh tế, từ đó, quyền làm chủ trong gia đình tự nhiên nghiêng về vợ hơn chồng, nghiêng về tay của ai làm ra tiền. Người chồng bấy giờ bị mặc cảm, không dám lên mặt với vợ, mất hết uy tín với con cái.

 

Theo thống kê của tờ Divorce Magazine: US Divorce Statistics cho thấy, vào năm 2000, có 8 triệu 408 ngàn phụ nữ lập gia đình làm hơn chồng 5 ngàn Mỹ kim một năm, cũng như có 821 ngàn phụ nữ kiếm được 5 ngàn Mỹ kim một năm hơn bạn trai ngoại hôn của mình. Thế nhưng, nếu khéo léo, trong chính những trường hợp đảo lộn chính quyền bất đắc dĩ trong gia đình như thế, người chồng vẫn có thể, dù không bao bọc vợ con mình về kinh tế, nhưng ít là vẫn có thể giữ được uy tín của một người chồng chẳng may sa cơ thất thế. Ở chỗ, ngoài nỗ lực hết sức cố gắng đi kiếm việc làm, các chàng cần phải thay vợ phụ trách tất cả mọi việc nội trợ trong nhà, như coi con cái, chở chúng đi học, thu dọn nhà cửa, đi chợ nấu nướng, giặt giạ quần áo, làm lunch cho vợ xách đi làm v.v.

 

Một người vợ nếu chỉ biết chăm lo cho gia đình và thông cảm với chồng, chắc chắn sẽ không thể nào không cảm kích và mến phục chồng hơn nữa, khi thấy các chàng hạ mình làm những việc nội trợ của mình, và cùng mình chăm lo cho gia đình  như thế.

 

Bởi thế, việc chồng bao bọc vợ không phải chỉ giới hạn trong vấn đề cung cấp tài chính và bảo toàn kinh tế gia đình, mà còn cả ổ chỗ chia sẻ gánh nặng nội trợ với vợ, giúp vợ làm việc nhà. Chẳng lẽ cũng đi làm full time như mình, thân mệt mã, đầu căng thẳng như mình, mà chồng nỡ lòng để vợ một mình nai lưng ra làm đủ mọi việc trong nhà, còn chàng thì cứ enjoy TV, internet, đọc báo... Chưa hết, việc chồng bao bọc vợ còn phải bao gồm cả gia đình của vợ, nhất là trong hoàn cảnh bên vợ chật vật vật chất.

 

Tác động yêu thương thứ bốn chứng tỏ vai trò làm chồng là nhận biết và gắn bó với vợ mình đó là việc chồng bênh vực vợ.

 

Nói đến bênh vực vợ tôi nghĩ đến những cảnh hải tặc Thái Lan hãm hiếp những người vợ ngay trước mắt chồng mà chồng không làm gì được. Thật là nhục nhã cho vợ. Thật là quặn thắt cho chồng. Thế mà, có trường hợp sau này, dù không bênh vực được vợ trong những hoàn cảnh xẩy ra ngoài ý muốn và khả năng chống cự của vợ mình như thế, có một số người chồng vẫn đay nghiến vợ, vẫn ngần ngại trong việc gần gũi vợ, thậm chí tỏ ra khinh bỉ vợ, nhất là khi vợ có bầu với hải tặc v.v. Vấn đề chồng bênh vực vợ không phải chỉ liên quan đến vấn đề thể lý, vấn đề võ lực, khi vợ bị người đàn ông khác hiếp đáp, mà còn ở tại việc bênh vực cho vợ trước những lời dèm pha trách móc của người khác đối với vợ mình, dù nàng có thực sự như vậy chăng nữa. Đừng vào hùa với họ hàng hay những miệng lưỡi vốn không hợp với vợ mình, không ưa vợ mình, để đàn áp nàng, để chê bai nàng, để dồn nàng vào chân tường, để ép nàng phải thay đổi ý nghĩ, ý thích, ý muốn theo ý mình v.v.

 

Tôi đang phục vụ một thân chủ bị chậm phát triển, có người mẹ trẻ hầu như không được đi đâu ra khỏi nhà, trừ khi đi lo việc cho con cái, thậm chí không được hành đạo, lúc nào cũng bị họ hàng bên chồng và cả chính người chồng của mình đay nghiến và khinh thường vì đã sinh ra một đứa con khuyết tật về tâm trí như thế. Khi đứa con bị bại tính khí - autism của chị cũng là thân chủ của tôi lên cơn temper tantrum - khóc nhè phá phách của nó, thì người chồng đi ra ngoài hút thuốc, để mặc vợ loay hoay tìm cách dỗ con.

 

Dầu sao người chồng Việt Nam này, dù chê trách vợ, dù xấu hổ vì con, vẫn còn sống với vợ con như thế, trong một xã hội dễ dàng li dị này, cũng chứng tỏ anh còn một chút tình người. Tình trạng chậm phát triển của con anh ở trường hợp bị bại tính khí - autism này rất thịnh hành ở bên Mỹ, cho tới nay người ta vẫn chưa khám phá ra nguyên nhân của nó bởi đâu mà ra; người ta chỉ mới bắt đầu hồ nghi là do một thứ thuốc chích ngừa nào đó của trẻ em, chứ không phải do di truyền từ cha mẹ.

 

Bởi thế, giá anh chồng này biết được vợ chồng của anh hoàn toàn vô trách nhiệm trong tình trạng chậm phát triển của đứa con của mình, chứ không phải quan niệm ác quả ác báo theo gia đình anh yên trí, anh đã không hoàn toàn qui trách lỗi lầm cho một mình người vợ vô tội đáng thương của anh, trái lại, anh sẽ mạnh mẽ bênh vực vợ anh thì hay biết mấy, thì vợ anh cảm thấy an ủi biết bao.

Ngoài ra, việc chồng bênh vực vợ còn được thể hiện cả ở chỗ chồng không bao giờ tự động kêu ca than phiền về vợ của mình với bất cứ ai, không bao giờ trách móc hay mắng mỏ vợ mình ngay trước mặt người khác, nhất là trước mặt con cái. Đừng kéo con cái vào phe của mình để tấn công vợ. Trái lại, nghe con cái phiền trách mẹ chúng điều gì hãy bênh chữa cho nàng v.v.

 

Tác động yêu thương thứ năm chứng tỏ vai trò làm chồng là nhận biết và gắn bó với vợ mình đó là việc chồng bao dung vợ.

 

Thật vậy, tác động yêu thương vợ chồng chính thức là ở việc giao hợp, nhưng thực tế cho thấy, sau những cuộc giao hoan vợ chồng, chất ngất ái ân, con người vẫn đi đến chỗ ly dị, vẫn trao thân cho người khác ở những cuộc tái hôn sau đó. Vẫn biết vấn đề ly dị có nhiều lý do giữa vợ chồng với nhau, chẳng hạn về vấn đề kinh tế, vấn đề sinh lý, vấn đề tính nết, vấn đề va chạm.

 

Thống kê cho thấy, người vợ thường khởi động việc ly dị nhiều hơn người chồng. Tuy nhiên, có những trường hợp, người chồng có thể cứu vãn được tình thế nếu biết bao dung cho vợ.

 

Đúng thế, giao hợp là tác động yêu thương của vợ chồng, tác động làm nên vợ chồng, nhưng tác động yêu thương chân chính nhất và cao cả nhất, thực sự gắn bó vợ chồng lại với nhau trọn đời lại chính là bao dung tha thứ.

 

Thái độ bao dung tha thứ trước hết ở chỗ nhường nhịn vợ những gì cả hai đều nghĩ rằng mình đúng, mình hay. Thái độ bao dung sau nữa còn được tỏ ra ở chỗ cái gì chồng cũng phải đi trước vợ và làm hơn vợ. Thái độ bao dung tha thứ cũng bao gồm cả việc không được đoán bậy hay hồ nghi cho vợ mình những gì tiêu cực, nếu không có dấu hiệu khách quan rõ ràng và khả tín. Thái độ bao dung tha thứ còn ở chỗ thông cảm với những khiếm khuyết lỗi lầm của vợ, dù nàng chủ ý hay vô ý. Thái độ bao dung tha thứ còn được thể hiện ở chỗ không phải nàng phải quì xuống xin mình tha thứ mình mới thương hại tha thứ cho nàng nhưng không còn coi trọng nàng nữa.

 

Đến đây tôi nhớ đến một cặp vợ chồng rất quen thân với tôi qua việc giao tiếp làm ăn. Họ gặp nhau và lấy nhau khi người chồng có tài kinh doanh và đào hoa này ở vào lưng chừng tuổi tứ thập nhi bất hoặc và người vợ trẻ đẹp ở vào tuổi đôi mươi. Sau khi có hai đứa con, cuộc bùng nổ đã xẩy ra giữa hai vợ chồng họ. Người vợ có tâm hồn rất chân thành nhưng dễ nghe theo những lời bùi tai bắt đầu tỏ ra như nuối tiếc tuổi thanh xuân, chính thức nhiều lần lên tiếng chê chồng mình già, và không chịu đi chơi chung với chồng nữa.

 

Qua diễn tiến của cuộc bùng nổ này, tôi rất thông cảm với người vợ song không thể không cảm phục người chồng. Vì vợ, anh đã hai lần bị nhốt vào khám, mấy lần bị ra hầu tòa, hai lần chẳng những bị vợ bỏ đi chơi biệt tăm, mỗi lần cả tháng trời, còn bị nàng lấy cả mấy chục ngàn trong trương mục ra xài xả láng, trong khi ở nhà chàng vừa làm ăn vừa lủi thủi nuôi con. Thế mà, theo lời hứa sau lần ra khám lần nhất, chàng vẫn tiếp tục biếu ông già vợ mỗi tháng 500 Mỹ kim, vào ngày sinh nhật của vợ, chàng vẫn mua cho nàng một chiếc xe mới toanh gần 30 ngàn, nhất là chàng vẫn nhẫn nại chờ nàng về, miễn là, như chàng đớn đau tâm sự với tôi, "đừng mang cái bầu về", để cùng chàng và hai con sống cuộc sống gia đình yên vui hạnh phúc.

 

Tuy nhiên, tôi đã nói với người chồng này rằng, chắc chắn anh sẽ không thể nào bỏ được người vợ của anh, vì không ai hiểu nàng như anh, và bằng anh, người chồng của nàng, một người chồng chẳng những đã say mê nàng, một con người bề ngoài rất dễ thương, nhưng bề trong lại rất đáng thương. Bởi thế, tôi tin rằng, dù nàng có mang cái bầu về đi nữa, nếu nàng thật tâm nhìn nhận lỗi lầm và xin người chồng của mình tha thứ, chắc chắn anh cũng sẽ chấp nhận nàng. Theo tôi, nếu không ai chối bỏ bản thân của mình thế nào, dù nó có tật nguyền bệnh hoạn, có xấu xí đến mấy, có bị cùi bị hủi đến biến dạnh hình hài chăng nữa, thì cũng không ai sẽ phủ nhận người vợ mình như thế. Bởi vì vợ là chính bản thân của chồng, và chồng thực sự yêu vợ, yêu bản thân mình khi thực sự nhận biết vợ và gắn bó với vợ cho đến chết mà thôi.

 

(Bài ngày mai: Vai Trò Làm Vợ)

 

 

TOP

 

 

 ? Tháng Sáu Kính Thánh Tâm Chúa với Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu:  Bài 8 - "Trong con mắt của Cha, một tội nhân tìm kiếm Cha thì không còn là một tội nhân nữa".

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch

 

Nhiều thế kỷ qua Cha vẫn còn uống chén sầu thưông.

Mà con người được dựng nên theo hình ảnh Cha không nghe thấy những tiếng rên rỉ của Tình Yêu bò quằn quại đọa đầy.

Vậy thì, việc bản tính nhân loại không cảm thấu được ấy đã khinh khi ruồng rẫy tặng ân của Thiên Chúa như thế có nghóa là gì đây?

Cả bao năm rồi cũng không làm cho họ trở nên khôn ngoan hôn.

Thế nhưng, cho dù linh hồn có lầm lạc đến đâu đi nữa, Cha vẫn muốn nó biết rằng, nếu nó quay về với Cha, Cha sẽ không từ chối cho nó náu ẩn trong cánh tay Cha, để cứu lấy nó.

Hỡi đứa con nhỏ của Cha ôi, thử thách làm cho linh hồn trưởng thành và nhận được sức trợ giúp của Thiên Chúa, cùng với các ôn phúc của Người.

Nỗi thiết tha gắn bó của Thiên Chúa tình yêu là mục tiêu cho nhiều người nhạo báng và khinh khi. Xác thòt của họ thuộc về thế giới lạc thú, nên họ không thể nào nhận biết Cha.

Cha nói thật cho con hay, họ sẽ qua đi cùng với thế giới này, thế giới mà họ đã dùng để tạo nên cho mình một chủ tể độc dữ và khắc nghiệt.

Trái Tim của Cha được hình thành bởi tình yêu tan nát đớn đau vì thấy họ không chấp nhận Chân Lý. Họ hy vọng những thứ cao cả nôi con bò vàng của họ, họ hồ hởi tôn vinh con bò vàng này, những vinh dự được tạo nên bởi việc dung hoà cùng với thói hư tật xấu.

Cha phải cứu lấy một số nhiều hôn nữa. Song  vẫn chỉ là một phần nhỏ thôi.

Mất đi một trong các con cái của Cha đối với Cha là một bất hạnh lớn.

Cha đã đến vì họ mà Cha lại không thể cứu lấy họ... (10-12-1968)

 

Trong con mắt của Cha, một tội nhân tìm kiếm Cha thì không còn là một tội nhân nữa, mà là một linh hồn bò thưông tích đang trên đường tìm về Ánh Sáng và Chân Lý. (26-1-1969).

 

Không ai biết Chúa Cha nếu họ không biết Cha đã. Vì như Cha là một ở trong Chúa Cha, cũng thế, Người là một ở trong Cha.                

Hỡi con gái của Cha ôi, con có biết cái thảm bại của một vò Thiên Chúa là gì không? Đó là Người không thể cứu được hết tất cả mọi người bằng Hy Sinh của Người.

Con cũng có biết chăng thực tại có thể ẩn nấp trong một giấc mô. (18-5-1970)

 

Hỡi con cái của Cha ôi, Cha đến với các con vì các con không thể nào tìm thấy được Cha. (28-2-1972)

 

Những ý nghó của Cha (ở trên đồi Gôngôta) là những ý nghó thưông hại và thưông xót.

Họ không biết rằng, chỉ bằng một cử chỉ là Cha đã có thể hủy diệt họ đi rồi. Cha để cho họ tha hồ thỏa tay hành khổ Cha, vì trong thâm tâm của Cha, Cha đã chấp nhận Hy Sinh theo như Cha Cha muốn. Thế nhưng, nỗi sầu khổ của Cha đã tăng lên gấp bội, vì Cha đã biết rằng, cho dù Cha có mặc cho mình bò hành hình như vậy, Cha cũng không sao cứu được tất cả mọi con cái của Cha, và đối với nhiều đứa, Hy Sinh của Cha sẽ trở thành luống công vô ích.

Đây là giờ tăm tối. Một Thiên Chúa ở trong côn thống khổ và Tử Giá, một Thánh Giá vó đại được dựng lên trên thế giới. Ai là người vô thức đến nỗi dám đọ sức với Thiên Chúa tình yêu, và muốn chiếm chỗ của Người trong linh hồn con người?

Cha sẽ tỏ quyền năng của Cha và sẽ hủy diệt các ngẫu tượng của họ. Họ sẽ trở về với Cha trong ăn năn thống hối, những người hôm nay đây bật ngón tay tỏ vẻ khinh khi Cha, và lòng thưông hại của Cha sẽ thanh tẩy họ. Thế nhưng, khốn cho kẻ nào không chòu phục tùng lề luật tình yêu của Cha. Hắn sẽ bò triệt hạ thành tay không. (30-3-1972: Thứ Sáu Tuần Thánh)

 

(còn tiếp cho tới hết Tháng Thánh Tâm)

 

 

TOP

 

 

?   'Mặt Trời Khổ Ải' - Đức Gioan Phaolô II; 'Vinh Quang Oliu' - Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Bài 6 - Nhị vị Giáo Hoàng trước vị Giáo Hoàng cuối cùng của Giáo Hội?

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

Phải, nếu việc Chúa Kitô trở lại trần gian không phải là để xóa tội trần gian như lần đầu mà là để cứu độ những ai thiết tha trông đợi Người (x Heb 9:28), thì quả thực việc Người cần phải được làm cho nhận biết và yêu mến qua Mẹ Maria đây, đã cho thấy Thời Điểm Fatima chính là Mùa Vọng Cánh Chung, và Bí Mật Fatima là Dấu Báo Cánh Chung, liên quan tới vị giáo hoàng cuối cùng. Và trước khi vị giáo hoàng cuối cùng được tiên tri Malachy tiên báo là “Phêrô người Rôma – Petrus Romanus” xuất hiện, Đấng Quan Phòng Thần Linh đã sai đến với Giáo Hội và thế giới hai vị Giáo Hoàng tiền nhiệm: Đức Gioan Phaolô II như Mặt Trời Khổ Ải, với Thông Điệp “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần”, và Biển Đức XVI như Vinh Quang Oliu, với Thông Điệp “Thiên Chúa là Tình Yêu”!

 

Nếu Thông Điệp “Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần” của Đức Gioan Phaolô II đã cho thấy hình ảnh con người thời đại hết sức thảm thương và đáng thương, nhưng cần phải “đừng sợ, hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô”, Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần duy nhất có thể cứu họ cho khỏi bị tự diệt, thì Thông Điệp “Thiên Chúa Là Tình Yêu” của Giáo Hoàng Biển Đức XVI, vị trong Lễ Đăng Quang cũng kêu gọi con người “đừng sợ, hãy mở rộng cửa cho Chúa Kitô” như vị Tiền Nhiệm của mình, đã cho thấy Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần là Mạc Khải Tình Yêu Thiên Chúa và là Đấng tiếp tục yêu thương phục vụ con người qua hoạt động tông đồ bác ái của Giáo Hội Nhiệm Thể của Người, một đức bác ái Người sẽ đến để phán xét chung loài người trong Ngày Chung Thẩm (x Mt 25:31-46), và là một đức bác ái làm cho Giáo Hội trở nên diễm lệ để có thể nghênh đón Vị Hôn Phu của mình khi Người đến (x Rev 21:2), nhưng lại là một đức bác ái đẫm máu đức tin trước quyền lực văn hóa sự chết – Phải chăng hình ảnh Giáo Hội sống bác ái nhưng đẫm máu đức tin cho phần rỗi nhân trần như thế đã được tiên báo trong phần thứ ba của Bí Mật Fatima, phần Bí Mật Fatima liên quan tới ngày cùng tháng tận của con người?!

 

Nếu giáo triều Đức Gioan Phaolô II rạng ngời nhất lịch sử Giáo Hội trước nhân loại như thời điểm của Chúa Kitô vinh quang tiến vào Thành Giêrusalem, và nếu giáo triều của Giáo Hoàng Biển Đức thiên về nội tâm và hiệp thông như bầu không khí của Nhà Tiệc Ly khi Chúa Kitô lập Bí Tích Thánh Thể và nguyện cầu Hiệp Nhất, thì ‘Phêrô Người Rôma’ sẽ là vị Giáo Hoàng của Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, của một Chúa Kitô khổ nạn vậy. Và ‘Phêrô Người Rôma’ đây phải chăng là ám chỉ đến vị Giáo Hoàng sẽ bị tử nạn tại Rôma như vị Giáo Hoàng Đệ Nhất Phêrô ở Rôma hay chăng? Nếu thế thì Bí Mật Fatima phần thứ ba quả thực chẳng những là dấu chỉ về Vị Giáo Hoàng cuối cùng mà còn là dấu chỉ báo hiệu Chúa Kitô sắp tới trong vinh quang nữa.

 

Vì, sau Biến Cố Fatima, một biến cố chất chứa sứ điệp về Lòng Thương Xót Chúa là đến thời kỳ của chính Lòng Thương Xót Chúa. Đúng thế, Thời Điểm Fatima là Thời Điểm Thánh Mẫu mở màn cho Thời Điểm Lòng Thương Xót Chúa, ở chỗ, nếu ở Thời Điểm Fatima, thời điểm vào giữa Thế Chiến Thứ Nhất (1914-1918), Mẹ Maria đã kêu gọi loài người hãy trở về với Lòng Thương Xót Chúa khi kêu gọi 3 Thiếu Nhi Fatima bấy giờ rằng “sau mỗi một chục Kinh Mân Côi, các con hãy đọc ‘Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng con, xin cứu chúng con khỏi lửa hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần đến lòng Chúa thương xót hơn’”, và trước khi hoàn toàn kết thúc Biến Cố Fatima, vào lần hiện ra cuối cùng 13/10/1917, Mẹ Maria đã thảm thiết kêu gọi chung loài người hãy trở về với Lòng Thương Xót Chúa rằng: “Đừng xúc phạm đến Chúa là Thiên Chúa của chúng ta nữa, vì Người đã bị xúc phạm đến nhiều lắm rồi”, thì Thời Điểm Lòng Thương Xót Chúa được chính thức bắt đầu vào giữa Thế Chiến I và II, tức vào quãng đời tu trì của Thánh Faustina (khấn dòng 30/4/1926), vị Tông Đồ của Lòng Thương Xót Chúa, vị đã được Chúa Giêsu (và cả Mẹ Maria) dùng để cảnh giác thế giới về việc Người đến và dấu hiệu Người đến như sau:

 

"Ngày 25/3/1936. Ban sáng, trong lúc suy niệm, tôi được bao bọc bởi việc hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa, khi tôi thấy sự cao cả khôn lường của Thiên Chúa, đồng thời cả việc Ngài hạ mình xuống với các loài tạo vật của Ngài. Bấy giờ tôi thấy Mẹ Thiên Chúa, Đấng đã đã nói với tôi rằng: ‘Ôi, linh hồn trung thành đáp ứng tác động ân sủng của Ngài thì làm hài lòng Ngài biết bao. Mẹ đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại; còn phần con, con phải nói cho thế giới về tình thương cao cả của Người và sửa soạn thế giới cho Lần Đến Thứ Hai của Đấng sẽ đến không phải như một Đấng Cứu Thế nhân hậu nữa mà là một Thẩm Phán công minh. Ôi, khủng khiếp thay cái ngày ấy! Quyết liệt thay ngày công minh ấy, ngày giận dữ thần linh ấy. Các Thần Trời rùng mình trước ngày này. Hãy nói cho các linh hồn biết về tình thương cao cả này trong khi còn thời gian ban phát tình thương. Nếu giờ đây con câm nín thì con sẽ phải trả lẽ về rất nhiều linh hồn vào ngày kinh khiếp ấy’.” (Mẹ Maria với Chị Thánh Faustina: Nhật Ký, đoạn 635)

 

"Hãy nói cho thế giới biết về tình thương của Cha; tất cả loài người hãy nhân biết tình thương khôn dò của Cha. Đó là dấu hiệu cho ngày cùng tháng tận; sau đó sẽ là ngày của công lý” (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 848)

 

"Con hãy viết xuống như sau: trước khi Cha đến như một quan phán công chính, trước hết Cha mở rộng cửa tình thương của Cha. Ai không chiu qua cửa tình thương của Cha thì phải qua cửa công lý của Cha...” (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1146)

 

“Hôm nay Cha sai con đem tình thương của Cha đến với các dân tộc trên khắp thế giới. Cha không muốn trừng phạt một nhân loại đang bị nhức nhối, mà là muốn chữa lành cho nó, ghì lấy nó vào Trái Tim Nhân Hậu của Cha. Cha sử dụng việc trừng phạt khi nào họ buộc Cha phải làm như thế mà thôi; bàn tay của Cha lưỡng lự chần chờ nắm lấy thanh gươm công lý. Trước Ngày Công Lý Cha đang ban cho họ Ngày Tình Thương” (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1588)

 

"Từ Balan sẽ phát ra một tia sáng để sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha  (Chúa Giêsu với chị Thánh Maria Faustina: Nhật Ký, 1732).

(còn tiếp nhiều kỳ)

 

TOP

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ