GIÁO HỘI HIỆN THẾ

_______

 THỨ NĂM 6/7/2006

 TUẦN XIII THƯỜNG NIÊN

 

?  Hướng Về Ngày Họp Thế Giới Các Gia Đình ở Tây Ban Nha 8-9/7/2006: Bài 17.- Tâm Linh Con Người 

?  Thế Giới Hồi Giáo với Hiện Tượng Khủng Bố Hiện Đại và Nỗ Lực Đối Thoại của Giáo Hội Công Giáo - Bài 6: Những Then Chốt Cần Thiết cho Việc Chung Sống giữa Người Hồi Giáo và Kitô Hữu

?  Giáo Hoàng Biển Đức XVI - Giáo Huấn Sống Chân Lý và Đức Tin: Bài 4 - Tác Dụng sống Sự Thật

 

 

? Hướng Về Ngày Họp Thế Giới Các Gia Đình ở Tây Ban Nha 8-9/7/2006: Bài 17.- Tâm Linh Con Người

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

 

Ngu Mê Giác Ngộ 

 

N

ói đến tâm lý là nói đến cơ cấu và hoạt động nội tâm của con người. Cơ cấu của nội tâm con người bao gồm hai tài năng chính là trí khôn và lòng muốn. Bởi thế, hoạt động nội tâm của con người phát xuất từ hai tài năng này, như tác động suy nghĩ, lập luận và phán đoán của trí khôn, cũng như tác động ước ao, chọn lựa và quyết định của lòng muốn. Ngoài ra, cơ cấu và hoạt động nội tâm của con người còn có thể kể đến ba tài năng được gọi là nội quan (so với ngũ quan của thân xác con người được gọi là ngoại quan). Những nội quan này, so với trí khôn và lòng muốn, được xếp vào thành phần thuộc hạ tầng nội tâm của con người. Đó là ký ức, trí tưởng và tình cảm nơi con người. Ký ức, liên quan đến quá khứ và lịch sử, với những tác động ghi nhận, nhớ nhung, tưởng niệm. Trí tưởng, liên quan đến tương lai và nghệ thuật, với những tác động tưởng tượng, sáng tạo, thưởng ngoạn. Tình cảm, liên quan đến hiện tại và giao tiếp, với những xúc động yêu thương, ghen ghét, mừng vui, buồn phiền, giận dữ, hãi sợ, tham lam, hy vọng, thất vọng, can đảm, nhát đảm.

 

Thế nhưng, nói đến tâm linh là nói đến một cái gì linh thiêng, một cái gì hết sức sâu xa, một cái gì thuộc về nhân vị, thuộc về bản ngã của con người. Tâm linh thực sự chính cốt lõi của nội tâm con người, là chính sự sống nội tâm của con người, là chính thực tại hiện hữu của con người. Bởi vì, tâm linh chính là ý thức của con người, một ý thức liên quan mật thiết đến chân lý, đến thực tại của tất cả mọi sự, nhất là thực tại về bản thân con người, một ý thức mà con người phải khó khăn lắm mới có được, thậm chí phải cả đời mới có được, hay trước khi vĩnh viễn qua đời mới có được. Và chính vì tâm linh là ý thức của con người nên nếu con người ý thức lệch lạc, họ sẽ sống sai trái. Mà con người sống sai trái là con người chưa thực sự sống hay chưa sống thật, tức chưa sống đúng với sự thật và không sống trong sự thật. Một con người chưa sống đúng với sự thật và không sống trong sự thật thì chẳng khác gì như một con người còn đang mơ ngủ, đang say rượu hay còn trẻ con ngây thơ khờ dại. Vị Sáng Lập Kitô Giáo đã dạy rất chí lý trong Bài Giảng Phúc Đức trên núi của Người là“con mắt là đèn soi thân thể. Nếu mắt của các con tốt thì thân thể của các con sáng sủa; nếu mắt của các con xấu thì thân thể của các con ở trong tăm tối. Mà nếu ánh sáng trở thành bóng tối thì sẽ tối tăm biết là chừng nào” (Mathêu 6:22-23).

 

Đó là lý do chính bản thân mỗi người chúng ta cũng cảm thấy và nhận thực được rằng mình mỗi ngày một khôn hơn, không dại khờ như trước nữa, không bậy bạ như trước nữa, không bất toàn như trước nữa. Có những lúc, nghĩ lại, chúng ta hay tự hỏi và vốn tự hỏi mình rằng, tại sao hồi đó tôi ngu thế nhỉ? Tại sao bấy giờ tôi không nghĩ ra điều ấy, để bây giờ trở nên nông nỗi này? Biết vậy tôi làm thế này có phải hay hơn không! Biết vậy tôi tránh đi thì đâu có chuyện gì xẩy ra! Biết vậy tôi thà chịu thiệt còn hơn mất cả vốn lẫn lời! v.v. Như thế, cuộc đời con người sống trên trần gian này quả thực chỉ là một cuộc hành trình đi tìm chân thiện mỹ, là một cuộc vượt qua sự chết mà vào sự sống, là một tiến trình đi từ tối tăm tiến ra ánh sáng lạ lùng, là một cuộc tỉnh giấc cho đến khi con người hoàn toàn biết mình và thực sự biết mình. Văn hóa nhân bản của loài người ngày nay là chứng cớ hiển nhiên cho thấy con người đã tỉnh giấc lạc hậu để sống trong thực tại văn minh.

 

Đến đây chúng ta mới thấy rõ tầm quan trọng của vấn đề giác ngộ theo chủ trương của Phật Giáo và Ấn Giáo. Nếu Phật Giáo cho rằng “si”, tức ngu si đần độn, trong bộ ba tham sân si, là căn khổ, tức căn nguyên gây ra đau khổ ở cuộc sống hiện sinh, “đời là bể khổ”, thì Ấn Giáo vốn cử hành một ngày lễ rất đặc biệt vào đầu tháng 11 hằng năm được gọi là Lễ Ánh Sáng (Diwali), một lễ mà Tín Đồ Ấn Giáo tin rằng vào ngày ấy quyền năng thần linh sẽ chế ngự bóng tối tăm trên thế giới. Vị Sáng Lập Kitô Giáo cũng tuyên bố với dân Do Thái đương thời bấy giờ rằng: “Tôi là ánh sáng thế gian, không một ai theo Tôi lại đi trong tăm tối, song họ sẽ được ánh sáng sự sống” (Goan 8:12). Ngài còn đồng hóa sự sống đời đời, sự sống vĩnh hằng với việc nhận biết: “Sự sống trường sinh là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Ngài sai là Đức Giêsu Kitô” (Gioan 17:3).

  

Ý Thức Tội Lỗi

 

Vì ý thức liên quan hết sức mật thiết đến ánh sáng, đến thực tại chân thực vĩnh hằng như thế, mà tất cả những gì con người làm, nhất là những việc tội lỗi, những việc sai trái, những việc không đúng với thực tại chân thiện mỹ, những việc vượt quá quyền hành của họ, đều là những hành động tỏ ra cho thấy con người đang mơ mộng, đang mộng du, đang phù du, hoàn toàn không biết việc mình làm. Điển hình thứ nhất là trường hợp của vua Solomon, vị vua thứ ba của dân Do Thái, một vị vua giầu sang phú quí và khôn ngoan đệ nhất thiên hạ thời ấy, vào năm 961 đến 922 trước Công Nguyên, có 700 hoàng hậu và 300 cung phi. Thế nhưng, cuối cùng cũng đã phải than lên ngay lời mở đầu của cuốn Sách Giảng Viên (Ecclesiastes) được cho là do ông viết: “Phù vân trên hết phù vân, tất cả mọi sự chỉ là phù vân” (1:2). Điển hình thứ hai là trường hợp dân Do Thái xưa, nhất là thành phần lãnh đạo của dân này, đã thực sự cố tình tìm cách sát hại nhân vật Giêsu quê ở Nazarét, đến độ đã áp đảo được cả Tổng Quyền Philatô là đại diện cho thẩm quyền đế quốc Rôma bấy giờ phải hạ lệnh đóng đanh nhân vật mà họ cho là lộng ngôn phạm thượng này. Thế nhưng, nhân vật lịch sử sáng lập Kitô Giáo ấy, trước khi chết trên cây thập giá giữa hai tử tội khác, vẫn cầu xin Thiên Chúa là “xin tha cho họ vì họ lầm không biết việc họ làm” (Luca 23:34).

 

Như thế, nếu tất cả nhưng gì sai trái và tội lỗi con người làm chứng tỏ họ đang ở trong tối tăm, lầm lạc, mơ màng, thì không có nghĩa là, vì con người còn đang ở trong tình trạng mơ ngủ không biết gì đến việc mình làm, tức chưa hoàn toàn tỉnh táo hay chưa ý thức được bản chất thực sự của những gì mình tác hành, như trường hợp dân Do Thái trước con mắt của Vị Sáng Lập Kitô Giáo, mà tất cả những gì họ làm, dù sai trái hay tội lỗi đến đâu, họ cũng không chịu trách nhiệm gì, tức họ không có tội gì cả. Bởi vì, dầu sao, tự bẩm sinh, đã là người, ai cũng có lương tri, cũng biết được những gì tối thiểu về lành dữ và từ đó biết được cả phận sự của mình là phải làm lành lánh dữ nữa. Lương tri thực sự chính là ánh sáng soi đường dẫn lối cho con người để họ có thể bước đi trên đường ngay nẻo chính. Bởi vậy, bất cứ khi nào con người không làm theo lương tri, bất chấp lương tri hay lấn át lương tri của mình là con người đã lỗi phạm, đã sai lầm, đã muốn sống trong tăm tối, một thứ tối tăm, ngược lại, đã khiến cho con người sống một cách mù quáng, thậm chí có những lúc điên loạn, mất hẳn tính người.

 

Đó là lý do Vị Sáng Lập Kitô Giáo đã khẳng định: “Việc luận phạt là như thế này, ánh sáng đã đến trong thế gian, nhưng con người yêu chuộng tối tăm hơn ánh sáng, vì những việc họ làm đều gian ác” (Gioan 3:19). Vậy, để có thể tỉnh mộng cuộc đời hoang đường phù du giả trá, tức để có thể sống trong sự thật, sống trong ánh sáng, trước hết và trên hết, con người cần phải sống theo lương tâm, bằng không, tối thiểu con người cần phải thành tâm thiện chí, cần phải biết nhìn nhận lầm lỗi nếu có của mình. Đó là lý do Vị Sáng Lập Kitô Giáo còn nói thẳng với thành phần Do Thái được chứng kiến thấy việc Người phục quang cho một người mù từ lúc mới sinh rằng: “Nếu quí vị bị mù lòa thì không mắc tội, nhưng tại quí vị cho rằng ‘chúng tôi thấy’ nên tội lỗi của quí vị vẫn còn đó” (Gioan 9:41). Chính vì cuộc đời con người là một tiến trình nên hoàn hảo, đi từ tối tăm ra ánh sáng, từ giả tới thật, từ lạc hậu đến văn minh, mà ý thức tội lỗi đóng một vai trò hết sức quan trọng. Đến nỗi, dù con người có văn minh về vật chất đến mấy đi nữa, có làm chủ vũ trụ này bằng những khám phá khoa học kỳ diệu cũng như bằng những phát minh kỹ thuật tân tiến đi nữa, một khi đã mất đi ý thức tội lỗi, không còn phân biệt được lành dữ, tới nỗi cho lành là dữ và dữ là lành như hiện nay, thì con người đang có cơ nguy tiến gần đến hố tự diệt rồi vậy!

 

Giáo Dục Tâm Linh

 

Bởi thế, nếu sự sống và tầm mức thành toàn của con người là ở chỗ ý thức, ở chỗ khôn ngoan, thì vấn đề giáo dục là vấn đề làm sao cho con người biết ý thức, làm sao cho con người mỗi ngày một khôn ngoan hơn. Tuy nhiên, ý thức ở đây không phải là kiến thức về tính cách lợi hại, tốt xấu nơi sự vật, nơi con người, và khôn ngoan ở đây không phải là vấn đề biết cách giải quyết tất cả mọi sự làm sao có lợi cho mình. Hơn thế nữa, ý thức ở đây là ý thức được chính bản thân mình, ý thức được trách nhiệm về vai trò của mình, ý thức được cốt lõi của các vấn đề thuộc nhân sinh quan, như lương tâm là ơn gọi làm người, tự do là quyền năng nên người, yêu thương là hiệp thông sự sống, hạnh phúc là viên mãn yêu thương. Và khôn ngoan ở đây được thể hiện qua việc con người biết chọn lựa những gì xứng hợp với thân phận và phẩm giá làm người của mình, qua việc họ biết mình biết người, tri kỷ tri bỉ, qua việc họ biết thương người như thể thương thân, ái nhân như kỷ, thậm chí qua việc họ biết cho đi hơn nhận lãnh, biết trở nên mọi sự cho mọi người, biết nhân ái thứ tha, từ bi hỉ xả, biết lấy thiện trị dữ v.v. Như thế, nếu ý thức đồng nghĩa với hiện hữu thì khôn ngoan đồng nghĩa với trọn hảo. Vậy giáo dục là phương pháp giúp cho con người hiện hữu một cách hoàn hảo.

 

Thế nhưng, thực tế cho thấy “nhân vô thập toàn”, chẳng có ai là hoàn toàn, và dám vỗ ngực tự cho mình là trọn hảo cả. Bởi thế, vấn đề ở đây là nếu chính thành phần giáo huấn chưa thành toàn thì làm sao có thể giáo dục thành phần thụ huấn nên thành toàn được! Không có lấy gì mà cho. Nguyên tắc triết học là như vậy. Tuy nhiên, tâm lý ứng dụng lại thấy rằng, chính khi nhận thực được mình bất toàn là con người đã thực sự ý thức được bản thân mình, đã sống trong sự thật và nhờ đó có khả năng để soi sáng, có thế giá để hướng dẫn người khác vậy. Một con người biết mình là một con người trưởng thành, là một con người thành nhân, một con người đáng kính phục. Ngoài ra, biết mình chẳng những làm cho thành phần giáo huấn có đủ tư cách giáo dục mà còn có dư khả năng giáo dục nữa. Ở chỗ, vì biết mình, thành phần giáo huấn mới có thể dễ dàng thông cảm với thành phần thụ huấn, mới tỏ ra dịu dàng nâng đỡ, mới có sức nhẫn nại chịu đựng, mới biết rộng lượng thứ tha v.v. nhờ đó, thành phần giáo huấn sẽ tránh được khuynh hướng tha hóa thụ huấn nhân, tức sẽ không đi đến chỗ hay xẩy ra là cloning thụ huấn nhân, biến thụ huấn nhân nên giống hệt như ý nghĩ, ý thích, ý muốn của cá thể giáo huấn nhân.

 

Về phần thụ huấn nhân, trong tiến trình phát triển của con người, giai đoạn quan trọng nhất là giai đoạn con người ở vào tuổi dậy thì. Bởi vì, ở giai đoạn dậy thì này, con người chẳng những phát trổ về sinh lý mà còn cả tâm lý nữa. Đúng thế, trong chính giai đoạn con người đạt đến mức độ có thể truyền đạt sự sống thể lý cũng là chính lúc họ đi vào lứa tuổi tâm lý, lứa tuổi biết yêu thương. Chưa hết, tâm lý phát triển còn cho thấy rằng, chính trong giai đoạn con người dậy thì bắt đầu biết yêu, biết tìm kiếm đối tượng để đi đến chỗ truyền đạt sự sống, cũng là giai đoạn con người ở vào lứa tuổi mơ mộng, đang tìm biết mình là ai, đang cố khám phá ra con người của mình. Sự kiện cùng một lúc con người vừa vào sâu trong nội tâm để tìm biết mình là ai, lại vừa vươn mình ra với đối tượng yêu thương bên ngoài, và họ chỉ gặp được bản thân mình khi họ bắt đầu biết yêu, tức khi họ tìm được một đối tượng có duyên với họ, thích hợp với họ, đã chứng tỏ cho thấy con người chỉ tìm thấy mình nơi người khác và nên trọn với người khác. Sự kiện tâm lý phát triển này đã được Thánh Kinh Do Thái Giáo ghi nhận nơi Sách Sáng Thế Ký qua trường hợp đệ nhất nam nhân Adong, người đã chìm vào một giấc ngủ say, như đi sâu vào nội tâm của mình, nhưng chàng chỉ tìm thấy mình, chỉ nhận ra mình sau khi thấy được đệ nhất nữ nhân Evà mà thôi, nhân vật mà chàng vừa thoạt thấy đã tuyên bố: “Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”, và sau đó đã nên một thân thể với nàng (xem Sáng Thế Ký 2:21,23). 

 

Như thế, vấn đề giáo dục liên quan đến tâm linh của con người cũng chính là vấn đề làm sao giúp cho con người ý thức được mối hiệp thông yêu thương trong xã hội, yếu tố duy nhất có thể làm cho con người nên trọn lành và là dấu chứng thực tầm mức thực sự trưởng thành của con người. Chưa hết, giáo dục về tâm linh của con người còn phải làm sao cho họ biết yêu một cách chân chính, một tình yêu làm cho con người hiệp thông với nhau và trở nên viên mãn, chứ không phải một tình yêu cô đơn và hẹp hòi. Tuy nhiên, để có thể đạt được tầm vóc trưởng thành ở chỗ yêu thương hiệp thông này, thành phần thụ huấn cần phải được giáo huấn nhân hết lòng yêu thương, nhất là chúng phải tìm thấy nơi thành phần giáo dục chúng một khuôn mẫu yêu thương, một động lực yêu thương, đặc biệt trong lúc chúng đang ở vào lứa tuổi dậy thì tôn sùng thần tượng. Bởi thế, cha mẹ ly dị không thể bảo con cái yêu thương được nữa. Họ không có khả năng giáo dục và đã đánh mất đi tư cách giáo dục. Họ chẳng những bị chứng liệt kháng Aids trong việc giáo dục con cái, mà còn làm cho cả con cái họ lây nhiễm hội chứng diệt vong này nữa.

 

(Bài ngày mai: Tác Hành Con Người)

 

 

TOP

 

 

 ? Thế Giới Hồi Giáo với Hiện Tượng Khủng Bố Hiện Đại và Nỗ Lực Đối Thoại của Giáo Hội Công Giáo - Bài 6: Những Then Chốt Cần Thiết cho Việc Chung Sống giữa Người Hồi Giáo và Kitô Hữu

Cha Samir Khalil Samir là tác giả của cuốn sách “Một Trăm Câu Hỏi Về Hồi Giáo”, một cuộc phỏng vấn dài bằng một cuốn sách do Giorgio Paolocci và Camille Eid thực hiện. Vị linh mục này là giáo sư dạy ở Đại Học Thánh Giuse nước Beirut và ở Học Viện Đông Phương của Tòa Thánh ở Rôma. Trong cuộc phỏng vấn được phổ biến trong cuốn sách này, vị linh mục giáo sư đã đề nghị những điểm khả dĩ có thể liên hệ với 12 triệu tín đồ Hồi Giáo thuộc Khối Hiệp Nhất Âu Châu.

Vấn     Câu hỏi nào quan trọng nhất người ta cần phải hỏi về Hồi Giáo?

Đáp     Câu hỏi đó giản dị thôi: Hồi giáo là gì? Hồi giáo là một tôn giáo vừa giống lại vừa khác với Kitô giáo. Nhiều giá trị chính yếu có những điểm giống với Kitô giáo.

Chúng ta đừng quên rằng Hồi Giáo được phát sinh trong một môi trường địa dư, văn hóa và lịch sử vốn đã có sự hiện hữu của Do Thái Giáo và Kitô Giáo. Có nhiều Kitô hữu ở Mecca, và nhiều người Do Thái ở Medina, thành phố thứ hai của Hồi Giáo.

Bối cảnh văn hóa Bedouin, trong môi trường Ả Rập, đã làm cho đường lối hiểu biết về Thiên Chúa và tôn giáo khác đi. Khi tôi nói khác nhau tôi không có ý nói đến phẩm chất; mà chỉ là vấn đề khác nhau mà thôi.

Đối với người Tây phương, có một khuynh hướng muốn đồng hóa Hồi giáo thành một hình thức của Kitô giáo, hay coi tôn giáo này như một cái gì đó hoàn toàn khác biệt. Nhưng không, không phải là một trong hai điều này. Chúng ta cần phải bắt đầu bằng việc nhận biết xem tôn giáo này là gì.

Vấn     Hồi giáo có tự coi mình là “truyền giáo” theo bản chất hay chăng?

Đáp     Kitô giáo quan trọng vấn đề truyền đạt Phúc Âm cho hết mọi người thế nào thì người Hồi Giáo cũng quan trọng vấn đề truyền đạt Sách Koran như thế. Cho đến chỗ này thì Hồi Giáo chính đáng và xác đáng.

Vấn đề xẩy ra đó là cách thức tiến hành lại hung hăng. Các thứ trục trặc xẩy ra khi một Kitô hữu, vì muốn rao giảng Đức Kitô và Phúc Âm cho toàn thế giới, lại thực hiện một cách, dù một chút xíu đi nữa, hung hăng hay tỏ ra khinh bỉ những ai không có cùng một vũ trụ quan với mình.

Khi tôi khám phá ra được một điều gì tuyệt vời rồi vì yêu thương và thân tình muốn truyền đạt nó thì không có vấn đề gì cả, bao lâu tôi làm điều này trong sự triệt để tôn trọng tự do của tất cả mọi người.

Vấn     Có người muốn làm điều này bằng những đường lối không ôn hòa cho lắm.

Đáp     Ngày nay chúng ta thường thấy cách thức được một số người muốn sử dụng để lan truyền Hồi Giáo bằng phương tiện không phải lúc nào cũng ôn hòa. Có lúc đã sử dụng đến cả chiến tranh.

Tôi nghĩ rằng khi chúng ta nói về chiến tranh chúng ta không được nói “Thế nhưng Kitô hữu cũng đã từng thực hiện những Cuộc Thánh Chiến”, vì, theo như tôi hiểu về lịch sử, đối tượng của các Cuộc Thánh Chiến không phải là để làm cho những người Hồi Giáo trở về Kitô Giáo; mục đích của những Cuộc Thánh Chiến này là tự vệ. Các mục tiêu đều là những gì về quân sự và xã hội, chứ không bao giờ nhắm đến việc làm cho các người Hồi Giáo trở lại cả. Trái lại, những Cuộc Thánh Chiến xẩy ra là để bênh vực các người Kitô hữu cũng như các đạo lộ được thành phần hành hương sử dụng trong việc đi đến các nơi thánh…

Hồi Giáo không chấp nhận nguyên tắc “sử dụng bạo lực vì bạo lực”, cũng như không sử dụng chiến tranh để truyền bá đức tin.

Đức tin của người Hồi Giáo được truyền bá trước hết nhờ những tay lái buôn, chỉ cần nghĩ đến Ấn Độ hay Mã Lai, cũng như nhờ những nhà thần bí. Hồi Giáo có một số phương pháp truyền bá: ước muốn truyền bá đức tin và việc chia sẻ đức tin là một hành động cao quí. Chúng ta phải nhìn thấy những gì đã được thực hiện để điều chỉnh quan niệm truyền bá này, một quan niệm đối với họ là “dawa” và đối với Kitô hữu là “truyền giáo”.

Vấn     Phải chăng bạo động và bất bạo động trong Sách Koran đều được coi như nhau?

Đáp     Bạo động có nói đến trong Sách Koran cũng như xẩy ra trong đời sống của giáo tổ Mohammed, nên ai nói ngược lại là chưa đọc Sách Koran và không biết gì về giáo tổ Mohammed. Những cuốn truyện đầu tiên của ông được gọi là những cuốn sách của các cuộc chiến thắng; đó là cách những người Hồi Giáo xưng mình.

Thế nhưng, trong lúc tôi nói rằng bạo lực có trong Sách Koran thì tôi cũng phải nói rằng bất bạo động cũng có trong sách này cũng như trong đời sống của giáo tổ Mohammed. Tôi không tự mẫu thuẫn đâu; đó là một thực tại.

Một mặt thì bạo động là một phần của Hồi Giáo sơ khai. Vấn đề sâu xa hơn nữa chúng ta cần phải tự hỏi mình đó là làm thế nào dung hòa được những biến cố bạo động hiện hữu trong Sách Koran và là những biến cố bắt buộc, phải, tôi nói là bắt buộc, hầu như phải ra tay sát hại trong một số trường hợp.

Đồng thời, ở những đoạn khác lại bắt buộc, tôi xin lập lại là bắt buộc, người ta không được gây thiệt hại gì và phải tôn trọng tính cách khác biệt. Đó là hai quan niệm chúng ta thấy được, và chỉ khi nào chúng ta tự hỏi mình về vấn đề này và tìm được câu giải đáp chúng ta mới bắt đầu hiểu được tất cả thực tại của người Hồi Giáo mà thôi.

Vấn     Các Kitô hữu càng ngày càng tỏ ra thắc mắc về Hồi giáo. Phải chăng những người Hồi giáo cũng tự hỏi nhau về Kitô hữu?

Đáp     Phải, Kitô hữu đang lấy làm thắc mắc về Hồi giáo. Sống trong một môi trường hỗn tạp ở Beirut, tôi phải nói rằng họ đang thắc mắc về Hồi Giáo, và ngược lại cũng thế. Thật sự là như thế, ở Lebanon họ luôn luôn nói với tôi rằng Kitô hữu chúng ta biết Hồi Giáo hơn là họ biết Kitô giáo. Thật vậy, chúng ta gặp khá nhiều khó khăn khi tổ chức những hội nghị mà muốn có một phát ngôn viên Hồi Giáo biết rõ về Kitô giáo.

Vấn     Phải chăng Hồi Giáo vẫn còn là một tôn giáo chưa đươc biết đến ở Âu Châu?

Đáp     Âu Châu không được phạm lỗi lầm vì không biết tới Hồi Giáo; Hồi Giáo là những gì tỏ tường. Thế nhưng, Âu Châu cũng không biết đến Phật Giáo hay các tôn giáo khác. Đối với tôi, vấn đề không phải ở tại chỗ không biết mà là ở chỗ muốn biết.

Cần phải tích cực cùng nhau làm việc, ở chỗ bình phẩm những gì chúng ta không thích về văn hóa của những người Hồi Giáo, tương tư như thế, họ cũng có quyền đối chất những khía cạnh của văn hóa Tây Phương họ không thích.

Chẳng hạn, họ nghĩ rằng quan niệm về chủ nghĩa biệt lập khỏi giáo hội dường như loại trừ hiện tượng đạo giáo, một hiện tượng dù sao vẫn tái xuất hiện. Đây là một lời phê bình đúng, và bởi thế cần phải đảo ngược lại.

Tôi xin nhắc độc giả là sự hiện diện của người Hồi Giáo ở Âu Châu là những gì mới có đây; thật là vô lý khi cho rằng các nguồn gốc của người Âu Châu là các nguồn gốc của tất cả mọi tôn giáo.

Theo quan điểm của tôi, sự hiện diện của những người Hồi Giáo ở Âu Châu có thể trở thành một ân phúc nếu hội đủ một số điều kiện: chẳng hạn, nếu trường hợp có một thứ Hồi Giáo Âu Châu được thiết lập thì phải là một tín đồ Hồi Giáo theo đức tin và là một người Âu Châu theo văn hóa tức là theo Kitô Giáo.

Như thế người ta sẽ đi đến chỗ đọc lại Sách Koran, bắt đầu bằng sự bình quyền giữa nam và nữ, giữa tín hữu và vô thần, bao gồm cả những nguyên tắc về dân chủ cũng như của nền văn minh Tây Phương, nhất là vấn đề phân biệt giữa tôn giáo và chính trị.

Vấn     Một số người đã phê bình cuốn sách của cha, cho rằng nó nhấn mạnh nhiều đến những khía cạnh tích cực của Hồi Giáo, chẳng hạn như khía cạnh Sufism (biệt chú của người dịch bản Việt ngữ đây, chữ này có nghĩa là “thần hiệp” bằng yêu mến và từ bỏ).

Đáp     Nhận định này cũng đúng; sự thật là tôi không nói về Sufism. Thế nhưng, sự thật là phái Hồi Giáo chính thống Sunni thấy nó như là một cái gì đó riêng tư, thậm chí như là một cái gì lệch lạc. Nó không có giá trị cho lắm.

Nếu chúng ta nhìn thấy những cuốn sách được phổ biến ở thế giới Hồi Giáo Ả Rập, chúng ta thực sự chẳng thấy gì về Sufis cả. Trái lại, ở Tây Phương lại có nhiều. Tại sao? Tại vì Tây Phương chú trọng đến những thứ khác bắt đầu là bản thân mình, và không muốn hiểu biết Hồi Giáo thực sự ra sao.

Nơi Hồi Giáo, những gì thiết yếu nơi các thứ giáo huấn cũng như trong đời sống là những gì thuộc về pháp lý. Đây không phải là một thứ cáo buộc hay là một khía cạnh tiêu cực mà là một thực tại, và người ta phải tôn trọng người khác theo thực chất của họ.

Để hiểu được thế giới của người Hồi Giáo, chúng ta cần phải biết đến nguồn gốc của thế giới này hơn là đến khía cạnh Thần Hiệp. Chẳng hạn biết đến “haddit” là những lời nói của Vị Tiên Tri giáo tổ, và những lời này thực sự không được chuyển dịch cho dù những lời ấy rất quan trọng.

Vấn     Phải chăng việc đọc lại Sách Koran là những gì khẩn trương?

Đáp     Điều quan trọng hiện nay là làm sáng tỏ cách thức đọc và giải thích Sách Koran ngày nay. Đáng buồn thay chỉ có một ít người Hồi Giáo nêu lên việc đọc lại Sách Koran mà thôi.

Kitô Giáo đã bắt đầu cẩn thận đọc các nguồn của Sách Koran này từ nhiều thế kỷ trước đây. Việc cẩn thận đọc lại này đã xẩy ra ở thế giới Hồi Giáo và trở thành một nhu cầu cần thiết.

Việc nghĩ lại Sách Koran không có nghĩa là thay đổi bản văn mà là ý nghĩa của sách này. Các nhà trí thức Hồi Giáo muốn làm điều này nhưng họ bất khả vì sức mạnh của đa số truyền thống quá ư là khổng lồ.

Điều này có thể xẩy ra ở Âu Châu, miễn là những nhóm cực thủ được các nước vùng Vịnh giầu có chăm nuôi không thắng thế; những gì họ làm là xuất cảng một thứ Hồi Giáo sang Âu Châu không phải là thứ Hồi Giáo được những người Hồi Giáo Âu Châu mong muốn.

Họ kiểm soát nhiều đền đài. Không phải những người di dân đã xây dựng những đền đài này mà là những tay cực thủ cùng với những kẻ giảng thuyết của họ từ Ả Rập tới hay từ những miền đất của các nhà thủ lãnh Hồi Giáo mà tới.

Vấn     Hồi Giáo là điều tự nhiên đối với cha, vì cha là một người Ả Rập Kitô Giáo. Cha có cảm thấy cha là một chiếc cầu nối hay chăng?

Đáp     Tôi rất thích những người Hồi Giáo, tôi thuộc về văn hóa này. Tôi là một người Ả Rập Kitô Giáo sống trong một nền văn hóa của người Hồi Giáo, song đức tin của tôi là Kitô Giáo, và tôi cảm thấy hạnh phúc với cả văn hóa Hồi Giáo lẫn niềm tin Kitô Giáo.

Dĩ nhiên Hồi Giáo đối với tôi là xa lạ. Những người Kitô Giáo Ả Rập chúng tôi đã biết cảm nhận được những khía cạnh tích cực và tiêu cực của việc chung sống. Chúng tôi cũng có thể giúp những người Kitô Giáo Tây Phương hiểu biết tất cả Hồi Giáo và chung sống với Hồi Giáo. Chúng tôi là một chiếc cầu nối và chúng tôi có thể đóng góp những gì chúng tôi đã nhận được như thành quả của một thứ kinh nghiệm ngàn năm của chúng tôi.

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu do Zenit phổ biến ngày 16-17/2/2004.

 

 

TOP

 

 

?   Giáo Hoàng Biển Đức XVI - Giáo Huấn Sống Chân Lý và Đức Tin: Bài 4 - Tác Dụng sống Sự Thật

(Huấn Từ ngỏ cùng Hội Nghị Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin 10/2/2006)

Chúa Giêsu Kitô là Sự Thật Được Nhân Cách Hóa, Đấng thu hút thế giới về với mình. Ánh sáng từ Chúa Giêsu chiếu tỏa là ánh quang chân lý. Hết mọi thứ sự thật khác là một mảnh của Sự Thật là Người và về Người này.

 

Chúa Giêsu là Ngôi Sao Bắc Đẩu của tự do con người: Không có Người, tự do bị mất đi cái cảm quan về chiều hướng, vì thiếu kiến thức về sự thật thì tự do bị suy thoái, trở thành cô lập và tác hành một cách vô công hiệu.

 

Với Người, tự do được tái nhận thức; nó được nhìn nhận là được dựng nên cho thiện ích của chúng ta và được thể hiện qua các hành động cùng cử chỉ bác ái. 

 

Bởi thế Chúa Giêsu làm cho con người nam nữ được hoàn toàn thân mật với sự thật và tiếp tục mời gọi họ hãy sống trong sự thật. Nó là sự thật được cống hiến như là một thực tại phục hồi con người đồng thời vượt trên con người và ở trên con người, như một Mầu Nhiệm bao gồm và đồng thời vượt quá khả năng của lý trí con người.

Không gì có thể thay thế được lòng mến yêu chân lý thúc đẩy con người hướng đến những  chân trời chưa được khám phá. Chúa Giêsu Kitô, Đấng là toàn chân, lôi kéo tâm hồn của mỗi một con người, mở rộng nó và làm cho nó tràn nay niềm vui. Thật vậy, chỉ một mình sự thật mới có thể chiếm đoạt tâm trí và làm cho nó trọn vẹn hân hoan.

Chính niềm vui này làm gia tăng các chiều kích của tâm can con người, làm cho nó thoát khỏi tính cách hẹp hòi của lòng vị kỷ và cống hiến cho nó khả năng yêu thương đích thực. Đó là cảm nghiệm của niềm vui thúc nay và thu hút con người đến việc tự do tôn thờ, không phải bằng việc quị lụy đê hèn mà bằng lòng kính tôn chân thành trước Chân Lý họ gặp gỡ.

Bởi vậy, việc phục vụ cho đức tin, tức việc làm chứng cho Đấng là tất cả Sự Thật, cũng là việc phục vụ niềm vui, và đó là niềm vui Chúa Kitô muốn làm tràn lan trên khắp thế giới: Nó là niềm vui của lòng tin tưởng nơi Người, của sự thật được Người truyền đạt, của ơn cứu độ xuất phát từ Người! Chính niềm vui này chúng ta cảm thấy trong lòng khi chúng ta tin tưởng quì xuống tôn thờ Chúa Giêsu!

Lòng mến yêu chân lý này cũng tác động và hướng dẫn Kitô hữu tiến tới với thế giới hiện đại và với cuộc dấn thân truyền bá phúc âm hóa của Giáo Hội, những đề tài được anh chị em bỏ giờ ra để bàn luận trong cuộc hội nghị này của mình.

Giáo Hội hân hoan tiếp nhận những khám phá đích thực của kiến thức con người, và nhìn nhận rằng việc truyền bá phúc âm hóa cũng đòi hỏi cần phải thấu triệt một cách xứng hợp những chân trời cùng với những thách đố được kiến thức tân thời khám phá thấy. Thật vậy, mức tiến bộ cả thể của kiến thức khoa học như chúng ta đã thấy trong thế kỷ vừa qua đã giúp chúng ta hiểu được mầu nhiệm tạo dựng hơn và có một tính cách nhận thức sâu xa về tất cả mọi dân tộc.

Tuy nhiên, những tiến bộ của khoa học đôi khi nhanh đến nỗi làm cho việc nhận thức trở thành khó khăn ở chỗ không biết rằng chúng có phù hợp với các chân lý về con người và về thế giới như Thiên Chúa mạc khải cho biết hay chăng. Có những lúc, có những chủ trương theo kiến thức khoa học chống lại các sự thật này. Điều này làm cho tín hữu bị lẫn loan cách nào đó, khiến cho việc loan báo và chấp nhận Phúc Âm trở thành khó khăn.

Bởi thế, hết mọi việc học hỏi nghiên cứu nhắn đến chỗ đào sâu kiến thức về những chân lý được lý trí khám phá ra đều là những gì hết sức quan trọng, với niềm xác tín rằng không có “vấn đề tranh chấp nhau giữa lý trí và đức tin” (Thông Điệp Đức Tin và Lý Trí, khoản 17).

Chúng ta không được sợ hãi khi phải đối diện đương đầu với thách đố này: Chúa Giêsu Kitô thật sự là Chúa của tất cả mọi tạo sinh và của tất cả lịch sử. Người tín hữu quá biết rằng “tất cả mọi sự được tạo doing nên nhờ Người và cho Người… và trong Người tất cả mọi sự được liên kết với nhau” (Col 1:16,17).

Bằng việc liên tục đào sâu kiến thức về Chúa Kitô, trung tâm của vũ trụ và của lịch sử, chúng ta có thể cho con người nam nữ trong thời đại chúng ta thấy được rằng niềm tin tưởng nơi Người là những gì quan trọng đối với tương lai của nhân loại: Thật vậy, nó là việc hoàn thành cho tất cả những gì là nhân loại chân thực. Chỉ ở nơi quan điểm này chúng ta mới có thể cung ứng những giải đáp thuyết phục cho con người đang tìm kiếm chân lý.

Việc dấn thân này là những gì hết sức hệ trọng cho việc loan báo và truyền đạt đức tin trong thế giới hiện đại. Thật thế, ngày nay công việc truyền bá phúc âm hóa là một ưu tiên khẩn trương và đòi phải thực hiện việc dấn thân tương xứng.

Cuộc đối thoại giữa đức tin và lý trí, giữa tôn giáo và khoa học, không những làm cho nó có thể tỏ cho con người trong thời đại của chúng ta thấy được cái hợp tình hợp lý của niềm tin tưởng nơi Thiên Chúa một cách hiệu nghiệm và thuyết phục bao nhiêu có thể, mà còn chứng tỏ là việc hoàn toàn mãn nguyện hết mọi ước vọng chân thực của con người chỉ có ở nơi Chúa Giêsu Kitô mà thôi. Về vấn đề này, nỗ lực nghiêm trọng truyền bá phúc âm hóa không thể nào bỏ qua được những vấn đề cũng xuất phát từ các khám phá của khoa học và triết học ngày nay.

Lòng ước mong tìm thấy chân lý là những gì thuộc về chính bản tính của con người. Toàn thể tạo thành là lời mời gọi mãnh liệt hãy tìm kiếm những câu giải đáp hướng lý trí con người tới câu đại giải đáp lu6on được nó kiếm tìm và trông đợi: “Chân lý của mạc khải Kitô Giáo, được thấy nơi Chúa Giêsu Nazarét, là những gí có thể giúp con người nam nữ thấm nhiễm ‘mầu nhiệm’ về chính cuộc sống của họ. Là sự thật tuyệt đối, nó kêu gọi con người hãy hướng tới siêu việt thể, trong khi đó, vẫn tôn trọng tính cách độc lập của một tạo vật và quyền tự do của họ. Về điểm này, mối liên hệ giữa tự do và sự thật mới trọn vẹn, và chúng ta mới hiểu được ý nghĩa hoàn toàn của những lời Chúa Kitô nói:

“Quí vị sẽ nhận biết sự thật và sự thật sẽ giải phóng quí vị” (Jn 8:32) (Thông Điệp Đức Tin và Lý Trí, đoạn 15).

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ văn khố điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

 

 

TOP

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ