GIÁO HỘI HIỆN THẾ

_______

 THỨ TƯ 23/8/2006

 TUẦN XX THƯỜNG NIÊN

 

?  Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư  2/8/2006 – với các em giúp lễ về việc làm tông đồ của/cho Chúa Kitô

?  “Chúa Giêsu thực sự muốn nói gì với Phêrô nơi những lời này? ‘Con là Đá, trên đá này Thày sẽ xây Giáo Hội của Thày’ (Mt 16:18)”

?   BÌNH MINH TRÊN QUÊ HƯƠNG VIỆT NAM - Một Việt Nam ... Thuyền Chờ Cập Bến!

 

 

 

? Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Buổi Triều Kiến Chung Thứ Tư  2/8/2006 – với các em giúp lễ về việc làm tông đồ của/cho Chúa Kitô

 

Giáo Hoàng Biển Đức XVI với 42 ngàn em Giúp Lễ Âu Châu trong buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 2/8/2006 về Việc Làm Bạn với Chúa Giêsu.  Trong số các em giúp lễ khắp Âu Châu này có 35 ngàn em người Đức. Đó là lý do, thay vì thói quen nói bằng tiếng Ý trong các buổi triều kiến chung hằng tuần như thế, ngài đã nói bằng tiếng Đức, rồi sau đó nói tóm gọn lại bằng tiếng Ý, Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Balan và 7 ngôn ngữ khác. Tất cả con số qui tụ ở quảng trường Thánh Phêrô cho buổi triều kiến chung hằng tuần này là 55 ngàn người, vào một ngày nóng ẩm. Ngài nói với các em gíup lễ rằng các em đang ở vào thời điểm loạt bài giáo lý về Giáo Hội liên quan tới các vị tông đồ.

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Cám ơn anh chị em nghênh đón! Tôi hết sức ưu ái chào tất cả anh chị em. Sau một thời gian ở Aosta Valley, hôm nay tôi trở lại với các buổi triều kiến chung. Và tôi đang bắt đầu bằng một buổi triều kiến chung thật là đặc biệt, vì tôi hân hoan tiếp đón nhiều Phái Đoàn Hành Hương của Thành Phần Giúp Lễ ở Âu Châu.

 

Các em trai, em gái và giới trẻ thân mến, chào mừng các em. Vì hầu hết các em giúp lễ qui tụ lại quảng trường này hôm nay đây nói tiếng Đức, tôi sẽ nói với các em ấy trước bằng tiếng mẹ đẻ của tôi.

 

Các em Giúp Lễ thân mến,

 

Tôi sung sướng thấy rằng, sau thời gian nghỉ hè ở dẫy núi Alps, buổi triều kiến chung đầu tiên của tôi xẩy ra với thành phần giúp lễ các em, tôi thân ái chào từng người trong các em. Tôi cám ơn vị mục tử của các em là Đức Giám Mục phụ tá Martin Gachter ở Basle, về những lời lẽ với tư cách là chủ tịch của Coetus Internationalis Ministrantium, đã mở đầu cho buổi triều kiến chung này, và tôi cũng cám ơn về cái khăn quàng cổ là những gì tôi lại được làm cậu bé giúp lễ một lần nữa. Vào năm 1935, hơn 70 năm trước đây, tôi đã bắt đầu là một chú giúp lễ; để rồi nó đã trở thành một cuộc hành trình dài theo con đường này.

 

Tôi thân ái chào Đức Hồng Y Christoph Schonborn, vị đã cử hành Thánh Lễ cho các em hôm qua, và nhiều vị giám mục và linh mục tới từ Đức, Áo, Thụy Sĩ và Hung Gia Lợi.

 

Các em giúp lễ thân mến, tôi muốn cống hiến cho các em – một cách vắn tắt, vì trời nóng bức – một sứ điệp có thể theo các em suốt cuộc đời của các em và việc các em phục vụ trong Giáo Hội.

 

Bởi thế, tôi muốn trở về với chủ đề tôi đang chia sẻ vào các buổi Giáo Lý trong những tháng gần đây. Có lẽ một số trong các em biết rằng vào các buổi triều kiến chung Thứ Tư hằng tuần tôi đang nói tới hình ảnh các vị tông đồ.

 

Trước hết là Simon, vị được Chúa Kitô gọi là Phêrô, người anh em của ngài là Anrê, đoạn tới một cặp anh em khác là Thánh Giacôbê được gọi là ‘Tiền’, vị tử đạo đầu tiên trong các tông đồ, và Gioan là một thần học gia và là vị Thánh Ký, rồi đến Giacôbê được gọi là ‘Hậu’. 

 

Tôi có ý định tiếp tục việc chia sẻ của tôi về từng vị tông đồ vào các buổi triều kiến chung tới đây, nơi các ngài Giáo Hội có thể nói trở thành cá biệt riêng tư.

 

Tuy nhiên, hôm nay, chúng ta chia sẻ về một đề tài chung, về các tông đồ thuộc loại người nào.

 

Nói tắt chúng ta có thể nói rằng các tông đồ là ‘bạn hữu’ của Chúa Giêsu. Chính Người đã gọi các vị như thế trong Bữa Tiệc Ly, khi phán: ‘Thày không gọi các con là tôi tớ nữa …. mà …. là bạn hữu’ (Jn 5:15).

 

Họ đã là và đã có thể là những vị tông đồ và là những chứng nhân của Chúa Kitô vì các vị gần gũi với Người. Các vị hiệp nhất với Người bằng một liên hệ yêu thương được Chúa Thánh Thần khơi động.

 

Theo chiều hướng ấy, chúng ta có thể hiểu được đề tài cho chuyến hành hương của các em, đó là ‘Spiritus vivificat’. Chính Thần Linh, Thánh Linh là Đấng ban sự sống. Chính Ngài là Đấng ban sự sống cho mối liên hệ của các em với Chúa Giêsu, ở chỗ mối liên hệ này không phải chỉ bề ngoài: ‘Chúng tôi biết rằng Người hiện hữu và Người hiện diện trong bí tích’, thế nhưng Ngài làm cho nó trở thành một mối thân hữu mật thiết, sâu xa và thực sự riêng tư có thể mang lại ý nghĩa cho mỗi một cuộc sống của các em. Và vì các em biết Người và biết Người một cách thân tình, các em mới có thể làm chứng cho Người và mang Người đến với kẻ khác.

 

Hôm nay, nhìn thấy các em ở đây trước mắt mình tại Quảng Trường Thánh Phêrô, tôi nghĩ tới các vị tông đồ và nghe thấy tiếng của Chúa Giêsu nói cùng các em rằng: Thày không gọi các con là tôi tớ mà là bạn hữu; hãy ở lại trong tình yêu của Thày và các con sẽ sinh dồi dào hoa trái (x Jn 15:9,16).

 

Tôi xin các em hãy lắng nghe tiếng nói này! Chúa Kitô không chỉ nói điều này 2000 năm trước đây; Người đang sống và đang nói như thế với các em lúc này đây. Hãy lắng nghe tiếng của Người một cách hết sức cởi mở; Người muốn nói điều gì đó với từng người trong các em. Có lẽ ngài đang nói với một số trong các em rằng: ‘Thày muốn con phục vụ Thày cách đặc biệt như là một linh mục, nhờ đó làm chứng nhân của Thày, làm bạn hữu của Thày và mang những người khác tới với mối thân hữu này’.

 

Bởi thế, các em hãy trung thành lắng nghe tiếng nói của Chúa Giêsu. Ơn gọi của mỗi người đều khác nhau, thế nhưng Chúa Kitô muốn làm bạn với hết mọi người, như Người đã làm như vậy với Simon, vị được Người gọi là Phêrô, với Anrê, Giacôbê, Gioan và các tông đồ khác.

 

Người đã ban cho các em lời của Người và tiếp tục ban lời của Người cho các em, để các em biết được sự thật, biết các sự vật thật sự như thế nào đối với con người, nhờ đó, các em biết con người phải sống một cách ngay chính như thế nào, con người phải đương đầu với cuộc đời ra sao để nó trở nên chân thực. Nhờ đó, mỗi một người trong các em, theo cách thế riêng của mình, mới có thể trở thành môn đệ và tông đồ của Người.

 

Các em thân mến, thực ra thì các bạn đã là các tông đồ của Chúa Giêsu rồi. Khi các bạn phục vụ bàn thờ là các bạn làm chứng cho tất cả mọi người rồi. Việc các em trầm ngập nguyện cầu, lòng sùng kính của các bạn xuất phát từ con tim và được bày tỏ qua các cử chỉ, bài hát và đối đáp: Nếu các em làm một cách đúng đắn và đừng chia trí, thì một cách nào đó, việc làm chứng của các em là việc tác động dân chúng  vậy.

 

Thánh Thể là nguồn mạch và là tột đỉnh của mối liên hệ thân tình với Chúa Giêsu. Các em rất gần gũi với Chúa Giêsu trong Thánh Thể, và đây là dấu hiệu quan trọng nhất nơi mối thân hữu của Người đối với từng người trong chúng ta. Đừng quên điều ấy.

 

Đó là lý do tại sao tôi xin các em đừng vô tình nhận lãnh tặng ân này, kẻo nó trở thành một thứ thói quen, biết cách thi hành và thi hành một cách máy móc tự động; trái lại, hãy khám phá mỗi ngày một cách mới mẻ là có một cái gì đó quan trọng đang xẩy ra, rằng vị Thiên Chúa hằng sống đang ở giữa chúng ta và các em có thể cận kề Người và giúp vào việc cử hành mầu nhiệm của Người và làm cho mầu nhiệm của Người chạm tới dân chúng.

 

Nếu các em không làm theo thói quen, nếu các em hết sức chuyên chú thi hành việc phục vụ của mình, thì các em mới thực sự là tông đồ của Người và làm trổ sinh hoa trái thiện hảo và phục vụ nơi mọi hoàn cảnh sống của các em: nơi gia đình, học đường, trong giờ rảnh rỗi.

 

Tình yêu thương mà các em lãnh nhận nơi phụng vụ ấy, hãy mang đến nhất là những con người mà các em thấy họ thiếu thốn yêu thương, họ không được đối xử tốt lành, họ bị khổ đau và cảm thấy cô đơn.

 

Với quyền năng của Chúa Thánh Thần, các em hãy mang Chúa Giêsu đến cho chính những người bị ruồng bỏ, những người không nổi danh lắm hay bị trục trặc. Chính ở những nơi đó mà các em cần phải mang Chúa Giêsu tới bằng quyền năng của Thánh Thần.

 

Có thế, tấm bánh mà các em thấy được bẻ ra trên bàn thờ là những gì sẽ được chia sẻ và hóa ra nhiều, và các em, như 12 Tông Đồ, sẽ giúp Chúa Giêsu phân phối bánh ấy cho dân chúng ngày nay ở các nẻo đường đời của họ.

 

Các em giúp lễ thân mến, vậy đây là những lời cuối cùng tôi muốn nói cùng các em, đó là chớ gì các em bao giờ cũng là những người bạn hữu và là những người tông đồ của Chúa Giêsu Kitô!


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 18/8/2006

 

 

TOP

 

 

 ? “Chúa Giêsu thực sự muốn nói gì với Phêrô nơi những lời này? ‘Con là Đá, trên đá này Thày sẽ xây Giáo Hội của Thày’ (Mt 16:18)”

 

(Giáo Hoàng Biển Đức XVI: Bài giảng Lễ Thánh Phêrô và Phaolô 29/6/2006)

 

(tiếp 22 Thứ Ba)

 

Giờ đây chúng ta hãy quay sang Phúc Âm theo Thánh Luca là Phúc Âm cho chúng ta biết rằng trong Bữa Tiệc Ly, một lần Chúa Chúa Kitô lại trao phó cho Phêrô một công việc đặc biệt (x 22:31-33).

 

Lần này, những lời lẽ của Chúa Kitô ngỏ cùng Simon xuất hiện ngay sau khi Người thiết lập Bí Tích Thánh Thể. Chúa Kitô vừa ban mình cho thành phần môn đề của Người dưới hình bánh và hình rượu. Chúng ta có thể thấy việc thiết lập bí tích Thánh Thể như là một tác động thiết lập Giáo Hội thực sự và xứng hợp.

 

Qua Thánh Thể, Chúa Kitô chẳng những ban mình cho thành phần riêng của mình mà còn ban cho các vị thực tại của một mối hiệp thông mới giữa họ với nhau, kéo dài qua thời gian, ‘cho đến tận thế’ (x 1Cor 11:26).

 

Nhờ Thánh Thể, các môn đệ trở thành nơi cư trú sống động của Người, như lịch sử cho thấy, một nơi cư trú phát triển như là một đền thờ mới mẻ và sống động của Thiên Chúa trên thế giới này. Bởi vậy mà ngay sau khi thiết lập Bí Tích này, Chúa Giêsu nói về việc làm môn đệ, về ý nghĩa của ‘thừa tác vụ’ này trong cộng đồng mới, ở chỗ, Người nói rằng nó là một cuộc dấn thân phục vụ, như chính Người là tôi tớ phục vụ giữa các vị vậy.

 

Bấy giờ Người ngỏ cùng Phêrô. Người nói rằng Satan muốn làm cho ngài bị sàng xẩy như thóc lúa. Điều này gợi lại đoạn trong Sách Ông Gióp, đoạn thuật lại việc Satan xin Chúa cho quyền hành hạ Gióp. Ma qủi – tên phỉ báng Thiên Chúa và loài người – bởi thế muốn chứng minh rằng không có một thứ cảm tình đạo nghĩa chân thực nào hết, mà nơi con người chỉ có mục đích là luôn nhắm tới vấn đề duy thực dụng.

 

Trong trường hợp của ông Gióp, Thiên Chúa cho Satan cái quyền tự do được yêu cầu ấy chính là để có thể nhờ đó bênh vực tạo vật của Ngài – là con người – và chính bản thân Ngài. Điều ấy cũng xẩy ra cả nơi thành phần môn đệ của Chúa Giêsu. Thiên Chúa ban cho Satan một thứ tự do nào đó ở mọi lúc.

 

Đối với chúng ta, thì Thiên Chúa thường cho Satan quá nhiều tự do, thì Ngài ban cho hắn quyền hành khổ chúng ta quá ư là kinh khủng; thì tình trạng này mạnh hơn quyền năng của chúng ta và đàn áp chúng ta quá ư là nặng nề. Chúng ta cứ tiếp tục kêu lên Thiên Chúa rằng: ‘Than ôi, xin hãy nhìn đến nỗi khgốn khổ của các môn đệ Ngài! A, xin hãy bảo vệ chúng tôi!’ Thật vậy, Chúa Giêsu tiếp tục phán: ‘Thày đã nguyện cầu cho con để con không bị mất đức tin’ (Lk 22:32).

 

Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu là những gì giới hạn quyền năng của ma quỉ. Lời nguyện cầu của Chúa Giêsu là những gì bảo vệ Giáo Hội. Chúng ta có thể tìm nương náu dưới việc bảo vệ ấy, gắn bó với nó để được an toàn. Thế nhưng, như Người nói trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cầu nguyện cách riêng cho Phêrô rằng ‘để con không bị mất đức tin’.

 

Lời nguyện cầu của Chúa Giêsu đồng thời cũng là một lời hứa hẹn và là một nghĩa vụ. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu bảo toàn đức tin của Phêrô, đức tin được ngài tuyên xưng ở Caesarea Philippi: ‘Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống’ (Mt 16:16). Bởi thế, đừng bao giờ để cho niềm tin này bị câm nín; hãy tiếp tục củng cố nó, cho dù có phải đối đầu với thập giá cũng như với tất cả những gì là nghịch phản của thế gian: đó là công việc của Phêrô.

 

Thế nên, vấn đề ở đây đó là Chúa Kitô chẳng những cầu nguyện cho niềm tin riêng của Phêrô mà còn cho đức tin của ngài trở thành việc phục vụ cho người khác nữa. Đó chính là những gì Người muốn nói khi phán: ‘Bao giờ con trở lại thì hãy củng cố an hem con’ (Lk 22:32).

 

‘Bao giờ con trở lại’: những lời này vừa là một lời tiên báo vừa là một lời hứa hẹn. Chúng tiên báo nỗi yếu hèn của Simon, người chối trước một nữ tỳ và một người tôi tớ rằng ngài chẳng hề biết Chúa Kitô. Qua việc sa ngã này, Thánh Phêrô – và cùng với ngài là Giáo Hội qua mọi thời đại – học biết rằng riêng sức mạnh của mình thôi không đủ để xây dựng và hướng dẫn Giáo Hội Chúa. Không ai thành đạt tự sức riêng của mình. Cho dù Phêrô có khả năng và tinh khéo đi chăng nữa – ngài đã sa ngã ngay từ giây phút đầu tiên của cuộc thử thách.

 

‘Bao giờ con trở lại’: Chúa Kitô, Đấng đã báo trước việc sa ngã của thánh nhân, cũng hứa làm cho ngài được hoán cải: ‘Và Chúa đã quay lại nhìn Phêrô…’ (Lk 22:61). Cái nhìn của Chúa Giêsu thực hiện việc biến đổi và trở thành ơn cứu độ cho Phêrô: ‘ngài đã ra đi và thảm thiết khóc’ (Lk 22:62).

 

Chúng ta hãy van xin ánh mắt cứu độ này của Chúa Giêsu hằng được lập lại: đối với tất cả những ai có trách nhiệm trong Giáo Hội; đối với tất cả những ai đang chịu đựng tình trạng hoang mang rối loạn của những thời buổi này; đối với người lớn và kẻ nhỏ: Lạy Chúa, xin hằng nhìn đến chúng con, xin hãy nâng chúng con dậy mỗi khi chúng con sa ngã và hãy gìn giữ chúng con trong bàn tay nhân lành của Chúa.

 

Chính nhờ lời hứa này ở việc Người nguyện cầu mà Người đã ủy thác cho Phêrô công việc đối với anh em. Trách nhiệm của Phêrô được gắn liền với lời nguyện cầu của Chúa Giêsu. Chính điều ấy đã hiến cho ngài niềm tin tưởng là ngài sẽ kiên trì vượt qua tất cả mọi nỗi khốn khổ của con người.

Và Chúa ủy thác công việc này cho ngài trong bối cảnh của Bữa Tiệc Ly, liên quan tới tặng ân Thánh Thể Rất Thánh Hảo.

 

Giáo Hội, được thiết dựng nơi việc lập Thánh Thể, tận thẳm cung của mình, là một cộng đồng Thánh Thể, bởi thể, là mối hiệp thông vào Thân Thể của Chúa Kitô. Công việc của Phêrô là chủ trì trên mối hiệp thông phổ quát này; là giữ cho nó hiện hữu trên thế giới như là một mối hiệp nhất hữu hình hiện thực.

 

Ngài, cùng với toàn thể Giáo Hội Rôma – như Thánh Ý Nhã thánh Antiôkia đã nói – cần phải chủ trì trong đức bác ái: chủ trì trên cộng đồng này bằng một tình yêu thương xuất phát từ Chúa Kitô và là một tình yêu thương hằng vượt trên những giới hạn của lãnh vực riêng tư trong việc mang tình yêu của Thiên Chúa đến tận cùng trái đất.

 

 

(Bài tiếp về chi tiết thứ ba liên quan tới quyền bính Phêrô)

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 12/7/2006

 

TOP

 

 

?   BÌNH MINH TRÊN QUÊ HƯƠNG VIỆT NAM - Một Việt Nam ... Thuyền Chờ Cập Bến!

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

  

Cái hình ảnh sâu đậm nhất về Việt Nam vẫn còn theo đuổi tôi cho đến nay, sau chuyến xuyên Việt 21 ngày vào đầu hè 2006 vừa rồi, và đã trở thành biểu hiệu cho cái Ấn Tượng Việt Nam trong tôi, đó là hình ảnh một nước Việt Nam hầu như toàn là xe “mô-tô”. Nhất là ở đường phố Hà Nội và Sài Gòn. Những chiếc xe mô-tô chạy ồ ạt, chạy loạn xạ, chạy đâm đầu vào nhau, chạy xoẹt qua mặt nhau, chạy chen lấn nhau, chạy không cho ai qua đường v.v.

 

Đúng thế, Việt Nam quê hương tôi, trước con mắt của một người Việt kiều như tôi, sau 31 năm tái ngộ, chẳng khác gì như một đàn chiên không chủ chăn về phương diện chính trị. Vâng, Ấn Tượng Việt Nam trong tôi đó là một nước Việt Nam cần có một vị chủ chiên. Chính vì thế, ngay từ khi Ấn Tượng Việt Nam này từ từ hiện hình nơi tôi trong chuyến xuyên Việt vừa rồi, tôi càng thiết tha khẩn cầu hơn cho quê hương tôi, cho dân tộc tôi, sớm được Đấng Quan Phòng Thần Linh là Chúa của lịch sử sai đến đất nước tang thương rách nát, bần cùng, hết sức tội nghiệp đáng thương của tôi, đang gắng gượng chỗi dậy về kinh tế, một Gioan Phaolô II và một Mikhail Gobarchev Việt Nam, để một Đông Âu sụp đổ không đổ máu năm 1989, và một Liên Sô giải thể tốt đẹp năm 1991, được mau chóng tái diễn ở Việt Nam.

 

Trước hết, nơi Ấn Tượng Việt Nam như đàn chiên không chủ chăn này trong tôi ấy, tôi đã thấy dân tộc tôi long đong lận đận quá sức. Trước khi rời Việt Nam về Mỹ hai ngày, tôi đã đến thăm một gia đình thật là giầu có ở Phú Nhuận, với căn nhà trị giá 400 ngàn Mỹ Kim nhiều năm trước đây, còn đắt hơn cả căn nhà của tôi đang ở Hoa Kỳ hiện nay, mới mua cuối năm 2000. Người chồng đã từng xuất ngoại trên 20 quốc gia. Tủ kính ở phòng khách trưng bày đầy những kỷ vật bốn phương. Tôi cũng có thấy những dinh thự khá sang trọng và độ sộ của tư nhân ở Hà Nội và Sài Gòn.

 

Thế nhưng, đấy chỉ là những đốm sáng trong một bầu trời đen tối nghèo nàn. Cũng vào mấy ngày cuối trước khi về lại Mỹ, tôi cũng đến thăm một thân nhân ở khu Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Sài Gòn. Gia đình 6 người lớn này được xây dựng trên vùng bùn lầy. Nhà thật là chật chội. Không cửa sổ. Ba chiếc xe mô-tô phải đậu ở ngay giữa nhà. Tối mới dám lên gác mở quạt ngủ không giường. Tất cả diện tích không bằng garage 3 xe của nhà tôi. Tôi đã thấy còn những căn nhà tranh vách đất và nhà tranh vách lá hơn một nửa thế kỷ trước đây, trên đoạn đường từ Sapa lên Bắc Hà thuộc miền thượng du Bắc phần.

 

Tôi đã thấy những thửa ruộng với những con người gò lưng cấy lúa hay nhổ mạ, thậm chí cầy ruộng bằng những con trâu con bò, trên đường từ Hà Nội đi Hạ Long. Tôi đã thấy khu chợ Bắc Hà ở miền thượng du Bắc Việt, hôi hám, bụi bặm, bẩn thỉu, có người ngồi bán mấy nhánh tỏi, vài trái ớt và dăm thứ rau, không biết có được nửa Mỹ Kim một buổi họp chợ như vậy hay chăng. Tôi đã thấy khu chợ nổi ở nhánh Tiền Giang thuộc đồng bằng Sông Cửu Long, đầy những chiếc thuyền bán trái cây, ngũ cốc, rau cỏ, từ các nơi tụ về. Tôi đã thấy những phụ nữ chèo thuyền bán rong trên biển, ghé vào chiếc du thuyền từ Hạ Long sang Cát Bà của nhóm du lịch chúng tôi.

 

Tôi đã hết sức xót xa trông thấy một em gái khoảng 9-10 tuổi, trong số những người phụ nữ bán rong trên biển ấy; đối với tôi, em chẳng chẳng khác gì như một con chim trong lồng, cho dù cái lồng chim thiên nhiên Hạ Long, với cả 3.000 thạch đảo, bao chiếm một vùng biển rộng 3.880 cây số, có được kể từ năm 1994 là di sản của thế giới đi nữa, cũng chỉ là những gì che khuất chân trời tương lai của em. Tôi đã thấy một trường học nhỏ xíu trên biển, được thiết lập cho nhóm các gia đình sống từng chùm trên biển. Tôi đã nghe một em trai, cũng khoảng 9-10 tuổi, ở bến xe và bến đò đưa đón khách tham quan Động Phong Nha, Tỉnh Quảng Bình, đã năn nỉ khách du lịch mua cho em một tập ảnh Phong Nha, 10 tấm, 10.000 đồng Việt Nam (khoảng 60 cents Mỹ), với những lời lẽ đứt ruột như sau: “Làm ơn mua cho con một bộ để con lấy tiền mua sách học”.

 

Tôi đã thấy đầy những anh xe thồ (hay xe ôm) săn đón, ngay trước mỗi khách sạn tôi ở, mời mọc để chở khách du lịch đi đây đi đó bằng chiếc xe mô-tô của họ, mỗi chuyến trung bình là 10.000 đồng Việt Nam, và mỗi ngày may mắn được 5 hay 6 chuyến, tức được khoảng 3 Mỹ Kim một ngày, một tháng quãng 100 Mỹ Kim. Tôi đã nghe các giáo viên ở Phan Rang cho biết, lương tháng của họ chỉ được tương đương với 100 Mỹ Kim. Tôi đã được các người tài xế du lịch cho biết lương của họ khá lắm vào khoảng tương đương từ 100 đến 150 Mỹ Kim một tháng.

 

Tôi đã nghe một người đầu bếp ở một khách sạn sang trọng tại Sài Gòn cho biết lương của anh hằng tháng tương đương với 100 Mỹ Kim. Tôi đã nghe tâm sự của một người canh gác (security officer), ở khu nghỉ mát Đen Giòn Ninh Chữ thuộc thị xã Phan Rang tỉnh Ninh Thuận, về số lương 12 tiếng một ngày, 7 ngày một tuần là 500.000 đồng Việt Nam, tương đương với 30 Mỹ Kim, tức mỗi ngày 1 Mỹ kim. Tôi thấy những người đánh giầy ở khu vực nhà ga Lào Cai thuộc miền thượng du Bắc phần, cắm cúi ngồi lau giầy cho khách du lịch, 5.000 đồng Việt Nam (hay 30 cents Mỹ) một đôi, mỗi ngày may mắn kiếm được số tiến tương đương với hai hay ba Mỹ kim.

 

Thế nhưng, cho dù nghèo nàn mấy đi chăng nữa, tôi cũng chỉ thấy một số rất ít người dân tôi đi “ăn xin”, ngoài mấy người tôi gặp, vì tật nguyền quả thực không còn làm gì được nữa mới đành vuốt mặt làm như thế. Bởi thế, tôi rất hãnh diện về tinh thần tự lực mưu sinh của dân tôi. Cho dù có phải đội thúng cát để xây cất trên đầu, rất nặng nề mệt nhọc, từ thuyền lên bờ như ở bến cảng Cát Bà, hay từ đồi xuống thung lũng, như ở Saba, không biết có được lấy một Mỹ kim một ngày hay chăng, song tôi cũng không thấy một người dân tôi lành lặn nào ở Việt Nam đứng đường “ăn xin” như ở Mỹ, vùng Los Angeles và Orange County California chẳng hạn, hầu như toàn Mỹ trắng, với tờ giấy giơ lên “work for food”. Trái lại, tôi đã gặp 2 em gái Hmong ở Saba, nhất định không lấy tiền cho không, mà chỉ lấy tiền bán đồ của các em mà thôi.

 

Thậm chí tôi cũng chẳng thấy, hoặc chưa thấy, những vụ cướp giật ngoài đường, suốt chuyến xuyên Việt của tôi. Trước khi về thăm quê hương, tôi đã được không ít người cảnh giác về tình trạng trộm cướp ở Việt Nam, nhất là nơi các thành phố. Họ khuyên chúng tôi mua sắm những thừ đeo cổ hay đeo bụng. Họ chỉ cho chúng tôi cách thức giấu tiền, giấu giấy tờ. Họ dặn chúng tôi đừng đi sát người nào hay để người nào đi sát mình. Đừng mở bóp hay ví trước mặt người khác v.v. Trái lại, tôi đã thấy ít là hai trường hợp hoàn toàn ngược hẳn lại, xẩy ra nơi giới trẻ, một ở giới trẻ trong nước và một ở giới trẻ Việt kiều, trong chuyến xuyên Việt hè 2006 này.

 

Thật vậy, có một em hướng dẫn viên du lịch (tour guide), khoảng hai mươi mấy tuổi, tuổi ra trường đại học ngành du lịch Việt Nam, trẻ như ba người hướng dẫn viên du lịch của tôi ở 3 miền bắc, trung, nam. Em dẫn một nhóm thanh niên nam nữ sinh viên ngoại kiều tham quan Vịnh Hạ Long. Họ là nhóm ngủ trên chiếc du thuyền nhóm chúng tôi đi ké vào ngày hôm sau, từ Cát Bà về Hạ Long. Tuy nhiên, chiếc du thuyền này đã ngừng lại ở ngoài khơi, nhất định không chịu vào bờ. Vì một chiếc chìa khóa bị gẫy, theo nhân viên của chiếc du thuyền, gây ra bởi một nam sinh viên của em hướng dẫn viên du lịch. Tuy người sinh viên này nói rằng chiếc chìa khóa ấy bị gẫy trước rồi, song anh ta vẫn sử dụng để đóng mở được cửa phòng như thường, như anh chứng minh cho nhân viên du thuyền thấy rõ điều ấy.

 

Nhưng chủ thuyền, khi được nhân viên lái thuyền gọi điện thoại di động về văn phòng trung ương xin giải quyết vấn đề, đã bắt người sinh viên này phải bồi thường 100.000 đồng Việt Nam (tương đương với 6 Mỹ kim). Bằng không, thuyền sẽ không vào bến. Bất kể các du khách khác có muốn lên bờ tiếp tục cuộc du hành. Nhưng anh chàng sinh viên ấy nhất định không trả, vì cảm thấy mình không có lỗi. Biết được đầu đuôi câu truyện, tôi đã nói với người lái thuyền rằng, tôi sẽ bồi thường cho chiếc chìa khóa. Nhưng ngay sau đó, tôi đã thấy chính em hướng dẫn viên du lịch đưa tiền cho người lái thuyền. Chiếc thuyền bắt đầu tiến vào bờ, khi người lái thuyền cho biết, số tiền bồi thường của em hướng dẫn viên du lịch ấy còn lớn hơn cả số tiền em làm một ngày nữa. Gia đình tôi và một gia đình Việt kiều khác, thấy vậy, đã góp nhau bù lại cho em trọn số tiền em đã hy sinh bỏ ra vì quyền lợi của tha nhân.

 

Cái gì đã làm cho chiếc du thuyến chạy lại, dù nó không bị hỏng - phải chăng vì khả năng của người lái tầu, hay vì sức mạnh của đồng tiền, của 6 Mỹ kim bồi thường? Đối với chủ chiếc du thuyền này thì đúng là vì tiền bạc vật chất. Song đối với khách du lịch thì chính là do bởi tinh thần dấn thân phục vụ của con người trẻ biết hy sinh sống cho tha nhân. Chớ gì chiếc tầu Việt Nam quê hương tôi, đang vẫn còn ngập ngừng lưỡng lự chưa muốn cập bến bờ tự do dân chủ trước mắt, tuy đã thực sự hướng về phía chân trời này rồi, vì những trục trặc nơi một số cá nhân nào đó hiện nay, cũng sẽ bị chi phối bởi sức mạnh tinh thần của một thiểu số nào đó hết sức yêu thương dân tộc. Nếu lịch sử được làm chủ bởi Đấng Quan Phòng Thần Linh, thì chắc chắn, nơi một số cá nhân nào đó được Ngài sử dụng và sai đến, như vẫn thường xẩy ra trong lịch sử loài người, với sức mạnh của tinh thần nơi họ, một quyền lực mạnh hơn sự chết, hơn tất cả mọi sự dữ, lịch sử chắc chắn sẽ được đổi thay, không sớm thì muộn, vào thời điểm thần linh của Ngài!

 

Ngoài ra, tôi còn thấy ‘hy vọng đã vươn lên’ cho một quê hương Việt Nam tôi, nơi một người trẻ Việt kiều trong nhóm du lịch xuyên Việt hè 2006 của tôi nữa. Đúng vậy, em này vừa ra trường ở đại học tiểu bang California ở Irvine UCI, với cấp bằng lưỡng cử nhân tâm lý và xã hội, hôm Thứ Bảy 17/6/2006, khi em mới 21 tuổi rưỡi. Cùng với hai em (1 trai 20 và 1 gái 15), cả ba đều sinh ở Mỹ, các em đã theo bố mẹ về thăm nguyên quán quê hương gốc Việt của các em. Hôm Thứ Năm ngày 6/7, phái đoàn Việt kiều  chúng tôi, trên đường từ Đà Lạt về Vũng Tầu, có chương trình đến thăm trại cùi Di Linh Lâm Đồng. Khi vừa gặp sơ điều hành trại cùi này ở phòng tiếp tân, người đại diện phái đoàn đã trao cho sơ 1.000 Mỹ kim (góp lại từ ba nơi, gia đình của 3 em trên đây, 1 người chồng vừa góa vợ đang ở Orange County, và 1 em gái vừa lập gia đình ở Tổng Giáo Phận Los Angeles), một số tiền được sơ nói ngay là ‘lớn quá’. Không ngờ, sau khi viếng thăm các nơi, được thấy tận mắt những con người đáng thương, cả già lẫn trẻ, cả nam lẫn nữ v.v. mà em chưa từng gặp, trước khi từ giả lên đường, em đã tự động âm thầm đến gặp riêng sơ điều hành, đưa cho sơ thêm 500.000 đồng Việt Nam (khoảng 33 Mỹ kim), số tiền được em cho biết là từ quà tặng ra trường của em. Sơ điều hành hết sức ngỡ ngàng cảm động trước đồng tiền bà góa so với số tiền 1.000 Mỹ kim của người lớn lúc đầu!

 

Chưa hết, mấy hôm sau, khi phái đoàn Việt Nam xuyên Việt hè 2006 chúng tôi đến thăm Vương Cung Chính Tòa Sài Gòn, chiêm ngưỡng pho tượng Đức Mẹ Hòa Bình, (với dung nhan không còn thấy những giọt nước mắt như phim ảnh quay chụp được hôm xẩy ra biến cố Thánh Mẫu Châu Lệ Sài Gòn ngày Thứ Bảy 29/10/2005), có ghé sang thăm khu nhà xứ ở ngay bên kia đường. Vì hôm ấy là Thứ Hai, 10/7/2006, nhà sách khá lớn ở trong khu này đóng cửa, chỉ có lớp dạy các em câm điếc là mở thôi. Bấy giờ, cũng đã hết giờ học. Có một số em nam nữ, trong thời gian đợi ở cổng, chờ người nhà đến đón về, đang chơi đùa với nhau một cách vui tươi hồn nhiên, như không hề cảm thấy cái bất hạnh của thứ tật nguyền câm điếc nơi các em. Người đàn ông đứng ở đấy bấy giờ, được hỏi chuyện, đã cho biết lớp học câm điếc này là do một nữ tu xuất khởi xướng và đảm trách, nhận được trợ cấp ít nhiều từ các nơi để phục vụ thành phần trẻ em xấu số này.

 

Con người trẻ mới ra trường về ngành tâm lý xã hội này đến làm quen với các em, bằng những cử điệu cố gắng diễn tả mối thân tình với các em. Khi phái đoàn sửa soạn sang Vương Cung Thánh Đường dự lễ hằng ngày vào buổi chiều, lúc 5 giờ 30, để tạ ơn cho chuyến đi, trước khi lên đường về lại Hoa Kỳ vào ngày hôm sau. Kiểm điểm người thì thấy thiếu con người trẻ này. Tìm mãi mới thấy em đang ở trên lầu hai, trong phòng khách của bà giám đốc sáng lập viên, người cho biết là em vừa tặng cho trường lớp câm điếc của bà một số tiền là 180.000 đồng Việt Nam, tương đương với 10 Mỹ kim. Tuy số tiền chẳng là bao nhiêu so với những nguồn trợ cấp bà nhận được từ trước tới nay, nhưng cũng không khỏi làm bà, như những lời bà bày tỏ bấy giờ, hết sức cảm kích trước cử chỉ cao đẹp rộng lượng của một em thanh niên Việt kiều đầy tình người này. Cái lớn lao ở đây không phải là tiền bạc mà là tinh thần quảng đại hy sinh bản thân cho người khác!

 

Về lại Mỹ quốc, người thanh niên Việt kiều này được cha mẹ tổ chức một bữa tiệc ra trường, vì khi em vừa ra trường thì phải lên đường về Việt Nam ngay, chưa kịp thực hiện. Bạn bè thân thiết cùng họ hàng thân quyến của em được mời đến tham dự. Chúng tôi cũng có mặt trong buổi mừng với con số trên 50 người này. Đối với tôi, cảm động nhất là lúc em mở quà. Em đã bóc một số bao thư có tiền ra, sau đó tuyên bố rằng em sẽ mở một saving account. Mẹ em nói rằng em đã có một trương mục tiết kiệm rồi mà. Em đáp cái saving account mới này là để giành “cho Việt Nam”.

 

Nếu quả thực giới trẻ là tương lai của Giáo Hội và xã hội, thì, qua hành vi cử chỉ hiệp thông đầy tình người của hai người trẻ tôi được hân hạnh gặp gỡ trên đây, hoàn toàn trái ngược với chủ nghĩa độc đảng ở Việt Nam và cá nhân chủ nghĩa ở Hoa Kỳ hiện nay, thì nơi mảnh đất quê hương đầy huyết lệ suốt giòng lịch sử của nó đang âm thầm nẩy lên những mầm sống chân thiện bất diệt, và tôi cảm thấy như bình minh đang le lói ở Chân Trời Việt Nam!  

 

 

TOP

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ