GIÁO HỘI HIỆN THẾ

_______

 THỨ NĂM 18/1/2007

TUẦN  II THƯỜNG NIÊN

 

?   TIẾN TRÌNH ĐẠI KẾT KITÔ GIÁO giữa GIÁO HỘI CÔNG GIÁO RÔMA và CỘNG ĐỒNG HIỆP THÔNG ANH GIÁO

?  “Từ việc làm con cái của cha mẹ trần gian, các em cũng được trở nên con cái của Thiên Chúa nơi Người Con của V ị Thiên Chúa hằng sống”

?  Tòa Thánh Chỉ Trích Quyết Định của Quốc Hội Âu Châu về Công Việc Phôi Thai Nhân Bào

 

 

? TIẾN TRÌNH ĐẠI KẾT KITÔ GIÁO giữa GIÁO HỘI CÔNG GIÁO RÔMA và CỘNG ĐỒNG HIỆP THÔNG ANH GIÁO

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, tổng hợp 

 

     Phong trào Đại Kết Kitô Giáo giữa Giáo Hội Công Giáo Rôma và các Giáo Hội Kitô Giáo khác, như những Giáo Hội Chính Thống Giáo (ly khai từ năm 1054 ở Thổ Nhĩ Kỳ), những cộng đồng Cải Cách Tin Lành (ly khai từ năm 1517 ở Đức quốc), và Cộng Đồng Hiệp Thông Anh Giáo (ly khai từ năm 1535 ở Anh quốc), được bắt đầu bùng lên từ Công Đồng Chung Vaticanô II (11/10/1962-8/12/1965), với Sắc Lệnh về Hiệp Nhất Unitatis Redintegratio được ban hành ngày 21/11/1964, và được đẩy mạnh từ đầu giáo triều của vị đương kim Giáo Hoàng Biển Đức XVI, khi ngài công khai tuyên bố trong bài giảng cho hồng y đoàn tại Nguyện Đường Sistine ngày Thứ Tư 20/4/2005, sau ngày ngài được bầu làm giáo hoàng, về mối ưu tiên hàng đầu của giáo triều ngài là vấn đề đại kết Kitô Giáo:

 

     “Bằng tất c ý thức và vào lúc m đầu cho tha tác v của mình ở Giáo Hội Rôma là nơi Thánh Phêrô đã tm máu, v Thừa Kế này quyết tâm không ngng hot động hướng đến vic tái thiết mi hip nht trn vn và hu hình nơi tt c mọi thành phn môn đệ của Chúa Kitô. Đó là tham vng ca ngài, đó là nhim v bó buộc ca ngài. Ngài biết rng, để làm điều này, nhng bày t về cảm tình thin cm mà thôi chưa đủ. Cần phi có nhng c chỉ cụ thể để thấm nhp các tâm hn đánh động lương tâm, phn khích mi người tiến đến ch hoán cải ni tâm là điều căn bn cho tt c mọi th tiến b trên con đường đại kết….. V Thừa Kế Thánh Phêrô đây t cảm thy chính mình liên quan đến vn đề này và sẵn sàng làm tt c những gì trong khng ca mình để cổ võ lợi ích chính yếu cho vic đại kết. Theo nhng v tiền nhim ca mình, ngài nht định quyết tâm nâng đỡ bất c sáng kiến nào có v thích hợp vi vic đẩy mnh vic giao tiếp và tha hip vi nhng v đại din thuc các Giáo Hi khác và các cng đồng giáo hi khác”.

 

     Ở đây, nhân chuyến tông du nhắm đến đại kết trước hết của ngài ở Thổ Nhĩ  Kỳ vừa rồi (28/11-1/12/2006), và nhất là nhân dịp cử hành Tuần Hiệp Nhất hằng năm (18-25/1/2007) của Giáo Hội, chúng ta cùng nhau đặc biệt chú trọng tới tiến trình Đại Kết Kitô Giáo giữa Giáo Hội Công Giáo Rôma với Cộng Đồng Hiệp Thông Anh Giáo. Thật vậy, trước chuyến tông du đến Thổ Nhĩ Kỳ của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, vị Giáo Chủ Cộng Đồng Hiệp Thông Anh Giáo là Đức Tổng Giám Mục Rowan Williams ở Canterbury cùng phái đoàn đại biểu đã đến thăm Tòa Thánh Rôma, và đã triều kiến Đức Giáo Hoàng, để cùng ngài ký kết một Bản Tuyên Ngôn Chung về vấn đề đại kết giữa đôi bên. Trong bài diễn từ ngỏ cùng Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI, vị Giáo Chủ Cộng Đồng Hiệp Thông Anh Giáo đã cho thấy tiến trình đại kết thân thiện giữa thành phần lãnh đạo đôi bên như sau:

 

     “Trong lần gặp gỡ nhau đây, chúng ta cũng nhắc lại và mừng kỷ niệm 40 năm cuộc viếng thăm Đức Giáo Hoàng Phaolô VI 40 năm trước của vị tiền nhiệm tôi là Đức Tổng Giám Mục Michael Ramsey, một cuộc gặp gỡ giữa hai vị lãnh đạo Giáo Hội Anh Giáo và Công Giáo Rôma đã mở màn cho tiến trình hòa giải và thân hữu là những gì đã được tiếp tục cho tới ngày hôm nay. Chiếc nhẫn tôi đang mang hôm nay đây là chiếc nhẫn thuộc hàng giáo phẩm do Đức Giáo Hoàng Phaolô VI tặng cho Đức Tổng Giám Mục Michael, cây thánh giá này là tặng vật của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, biểu hiệu cho việc chúng ta cùng nhau dấn thân hoạt động thực hiện mối hiệp nhất hữu hình trọn vẹn của gia đình Kitô Giáo. Chính trong cùng tinh thần huynh đệ ấy mà tôi thực hiện cuộc viếng thăm này, vì cuộc hành trình thân hữu được các vị khởi đầu là một cuộc hành trình tôi tin rằng chúng ta cần phải cùng nhau tiếp tục. Tôi cảm thấy phấn khởi trước cách thức ngài tỏ ra, ngay từ khi bắt đầu thừa tác vụ làm Giám Mục Rôma của mình, đã nhấn mạnh tới tầm quan trọng của vấn đề đại kết nơi thừa tác vụ của ngài”.  

 

     Trong bài đáp từ của mình, vị Giáo Chủ của Giáo Hội Công Giáo Rôma cũng nhận định về tiến trình đại kết giữa đôi bên qua các cuộc đối thoại, giao tiếp và hợp tác như sau:

 

     “Chúng ta cần phải dâng lời tạ ơn về nhiều mối liên hệ của chúng ta trên 40 năm qua. Công việc của ủy ban đối thoại về thần học đã trở thành nguồn phấn khởi, vì các vấn đề về tín lý vẫn chia cách chúng ta trong quá khứ đã được nói lên. Mối thân hữu và các liên hệ tốt đẹp diễn tiến ở nhiều nơi giữa Kitô hữu Anh Giáo và Kitô hữu Công Giáo đã góp phần tạo nên một môi trường mới để nuôi dưỡng và tiến triển việc chúng ta cùng nhau làm chứng cho Phúc Âm của Chúa Giêsu Kitô. Những cuộc viếng thăm Tòa Thánh này của những vị Tổng Giám Mục ở Canterbury đã giúp vào việc củng cố những mối liên hệ ấy và đã đóng một vai trò quan trọng trong việc giải quyết những trở ngại làm cách ngăn chúng ta. Truyền thống này đã làm nẩy sinh một cuộc gặp gỡ xây dựng giữa các vị giám mục Anh Giáo và Công Giáo ở Mississauga, Canada, vào tháng Năm 2000, một cuộc gặp gỡ đã tiến tối chỗ đồng lòng thành lập một ủy ban hỗn hợp các vị giám mục để nhận thức những đường lối thích hợp trong việc thể hiện trong đời sống giáo hội mức tiến bộ đã đạt được. Chúng ta hãy dâng lời cảm tạ Thiên Chúa về tất cả những điều ấy”.

 

     Trong Bản Tuyên Ngôn Chung, tiến trình đại kết giữa Giáo Hội Công Giáo Rôma và Cộng Đồng Hiệp Thông Anh Giáo, từ cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa hai vị lãnh đạo 40 năm trước ấy, còn được thể hiện đặc biệt nơi việc đối thoại về thần học, một sự việc mang lại các thành quả đáng kể như sau:

 

     “Từ cuộc gặp gỡ ấy, Giáo Hội Công Giáo Rôma và Cộng Đồng Hiệp Thông Anh Giáo đã tiến tới một tiến trình đối thoại tốt đẹp, một cuộc đối thoại được đánh dấu bằng việc khám phá ra những yếu tố quan trọng của cùng một niềm tin … Trên 35 năm qua, Ủy Ban Quốc Tế Anh Giáo và Công Giáo Rôma (ARCIC: Anglican-Roman Catholic International Commission) đã phổ biến một số những văn kiện quan trọng là những gì tìm cách bày tỏ niềm tin chung của chúng ta. Trong vòng 10 năm, kể từ Bản Tuyên Ngôn Chung mới nhất được ký kết giữa Vị Giáo Hoàng này và Đức Tổng Giám Mục ở Canterbury, giai đoạn thứ hai của cơ cấu ARCIC đã hoàn thành trách vụ của mình, với việc phổ biến các văn kiện ‘Tặng Ân về Thẩm Quyền’ (1999) và ‘Mẹ Maria: Ân Sủng và Niềm Hy Vọng trong Chúa Kitô’ (2005)”.

 

     Cuộc đối thoại đại kết Kitô Giáo giữa Giáo Hội Công Giáo Rôma và Cộng Đồng Hiệp Thông Anh Giáo này, một cuộc đối thoại trước hết được Đức Phaolô VI và ĐTGM Michael Ramsey ở Canterbury năm 1966 kêu gọi thực hiện, và được thiết lập vào năm 1970. Giai đoạn đầu tiên của hoạt động do ủy ban ARCIC thực hiện (1970-1981) mang lại những bản văn về Thánh Thể, về thừa tác vụ và về hai bản công bố liên quan tới quyền bính trong Giáo Hội. Giai đoạn thứ hai của ARCIC (1983-2005) bao gồm những công bố về ơn cứu độ và đức công chính, về bản tính của Giáo Hội, về những điều luân lý, về thẩm quyền trong Giáo Hội một lần nữa, cuối cùng đến vai trò của Đức Trinh Nữ Maria nơi tín lý và đời sống Giáo Hội. Giai đoạn thứ ba chưa được bắt đầu, nhất là lại có những diễn tiến bất lợi từ phía Cộng Đồng Hiệp Thông Anh Giáo, như được Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI thẳng thắn nhận định và nêu lên, cũng trong cùng bài đáp từ của ngài, như sau:

 

     “Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, và nhất là trong một thế giới Tây phương bị tục hóa này, thành phần Kitô hữu và các cộng đồng Kitô Giáo đang bị chi phối rất nhiều bởi những ảnh hưởng và áp đảo tiêu cực. Trên 3 năm qua, ngài đã công khai nói về những trạng thái căng thẳng và những khó khăn cứ ám ảnh Cộng Đồng Hiệp Thông Anh Giáo, gây ra tình trạng bất định cho tương lai của chung Cộng Đồng Hiệp Thông này. Những diễn tiến mới đây, đặc biệt liên quan tới vấn đề thừa tác vụ thánh chức (biệt chú: phải chăng ở đây Đức Thánh Cha có ý nói tới việc truyền chức linh mục và giám mục cho nữ giới?) và một số giáo huấn về luân lý (biệt chú: phải chăng ở đây Đức Thánh Cha muốn nói tới vấn đề tấn phong giám mục đồng tính luyến ái ở Hoa Kỳ?), đã chi phối chẳng những các mối liện hệ nội bộ của Cộng Đồng Hiệp Thông Anh Giáo mà còn cả các mối liên hệ giữa Cộng Đồng Hiệp Thông Anh Giáo và Giáo Hội Công Giáo nữa”.

 

     Dù sao tiến trình đại kết Kitô Giáo giữa Giáo Hội Công Giáo Rôma và Cộng Đồng Hiệp Thông Anh Giáo cũng cần phải nỗ lực thắng vượt những trở ngại nội bộ, để có thể hiệu nghiệm đạt thành mục tiêu truyền giáo và phục vụ cộng đồng nhân loại, như những lãnh vực được Bản Tuyên Ngôn Chung liệt kê như sau:

 

     “Có nhiều lãnh vực làm chứng và phục vụ chúng ta có thể cùng nhau thực hiện, và là những gì thực sự cần đến việc hợp tác chặt chẽ hơn nữa giữa chúng ta, như việc theo đuổi hòa bình ở Thánh Địa cũng như ở các phần đất khác trong một thế giới bị tương tàn bởi xung đột và đe dọa khủng bố; việc cổ võ tôn trọng sự sống từ khi được thụ thai cho tới lúc tự nhiên qua đời; việc bảo vệ tính chất linh thánh của hôn nhân và phúc hạnh của trẻ em trong môi trường đời sống gia đình lành mạnh; việc tiến đến với thành phần nghèo khổ, bị áp bức và dễ bị tổn thương nhất, đặc biệt là những ai bị bách hại vì đức tin; việc nói lên những hậu quả tiêu cực của chủ nghĩa duy vật; và việc chăm sóc thiên nhiên tạo vật và môi trường sống của chúng ta. Chúng tôi cũng quyết tâm thực hiện việc đối thoại liên tôn để cùng nhau chúng tôi tiến tới với những người anh chị em ngoài Kitô Giáo của chúng tôi”.

 

  

Chiều Kích Đại Kết Thánh Mẫu Học “Mẹ Maria: Ân Sủng và Niềm Hy Vọng trong Chúa Kitô”  

 

Chúng ta cũng nên tìm hiểu thêm một chút về riêng văn kiện “Mẹ Maria: Ân Sủng và Niềm Hy Vọng trong Chúa Kitô” được đề cập tới trên đây, liên quan tới việc soạn thảo và nội dung của nó. Sau đây là chia sẻ của Cha Donald Bolen, linh mục Công giáo đồng thư ký của ủy ban ARCIC và là trợ tá cho ngành Tây Phương của Hội Đồng Tòa Thánh Đặc Trách Hiệp Nhất Kitô Giáo, trong cuộc phỏng vấn với mạng điện toán toàn cầu Zenit ngày 18-19/2005.

 

     Ủy ban soạn biên văn kiện Thánh Mẫu này gồm có 18 phần tử. ARCIC bắt đầu bàn đến Đức Maria vào cuộc họp năm 1999 của mình, và hoàn tất bản văn vào năm 2004. Những phần tử bên Anh Giáo được ĐTGM Canterbury chỉ định sau khi tham vấn với Văn Phòng Hiệp Thông Anh Giáo, trong khi đó các phần tử Công Giáo Rôma được chỉ định bởi Hội Đồng Tòa Thánh Đặc Trách Cổ Võ Hiệp Nhất Kitô Giáo. Hai vị đồng chủ tịch là Giám Mục Công Giáo Alexander Brunett ở Seattle và ĐTGM Anh Giáo Peter Carnlety ở Perth, vị cũng là giáo chủ ở Úc Châu.

 

     Bản Văn về Thánh Mẫu này là một bản văn đối thoại song phương quốc tế đầu tiên về chủ đề vai trò của Đức Maria trong Giáo Hội. Đoạn mở đầu của văn kiện này nói rằng ARCIC đã được các vị lãnh đạo Anh Giáo và Công Giáo Rôma yêu cầu sửa soạn một cuộc nghiên cứu về Đức Maria. Cho dù Đức Maria đều có một vị thế quan trọng nơi đời sống và phụng vụ của người Anh giáo lẫn Công Giáo Rôma, hai tín điều Thánh Mẫu và việc tôn sùng Thánh Mẫu ở Giáo Hội Công Giáo Rôma vẫn được coi là những gì phân rẽ giữa Cộng Đồng Hiệp Thông Anh giáo và Giáo Hội Công giáo Rôma.

 

     ARCIC đã nói một cách ngắn gọn về Đức Maria một lần trước đây, trong bản văn năm 1981 về “Thẩm Quyền trong Giáo Hội II”. Đoạn 2 của Bản Văn về Thánh Mẫu đã tóm tắt mức độ quan trọng của việc đồng ý về Đức Maria vào năm 1981, rồi trích dẫn bản văn trước đó về vấn đề liên quan đến những khác biệt vẫn còn đó, những khác biệt được bản văn đưa ra giải quyết, đặc biệt chú trọng tới các tín điều Thánh Mẫu: “Các tín điều Hoài Thai Vô Nhiễm và Mông Triệu đã gây ra một vấn đề trầm trọng đối với những người Anh giáo không coi những định tín của các tín điều này là những gì có đầy đủ chứng cớ trong Thánh Kinh”.

 

     Điểm hội tụ được đề ra trong hai phần đầu của bản văn này đã cống hiến những nền tảng cho việc bàn tới hai tín điều ấy. Phần thứ ba được bắt đầu bằng việc nhìn vào Đức Maria cũng như vào vai trò của Người trong lịch sử cứu độ theo chiều hướng của “một khoa thần học về ân sủng và hy vọng”. Bản văn nại tới bức thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma (8:30), trong đó, ngài đặt ra một thứ mẫu thức về ân sủng và niềm hy vọng liên quan tới mối liên hệ sinh động giữa Thiên Chúa và nhân loại: ‘Những ai Thiên Chúa đã tiền định thì Ngài cũng kêu gọi; những ai được Ngài kêu gọi thì Ngài cũng công chính hóa; và những ai được Ngài công chính hóa thì Ngài cũng tôn vinh’”.

 

     Mẫu thức này rõ ràng được thể hiện nơi đời sống của Đức Maria. Người đã “được chú ý từ ban đầu như là một người được tuyển chọn, được kêu gọi và ưu ái bởi Thiên Chúa qua Chúa Thánh Thần về công việc sau này của Người” (54). Nơi tiếng xin vâng hoàn toàn tự nguyện thốt lên – “xin hãy thực hiện nơi tôi theo như lời ngài” (Lk 1:38) – chúng ta thấy “hoa trái của việc Mẹ tỏ ra sẵn sàng trước đó, một thái độ sẵn sàng được thể hiện nơi việc sứ thần Gabiên xác nhận là Người ‘diễm phúc’” (55). Ở đoạn 59, bản văn này liên kết việc xác nhận ấy với những gì được tuyên xưng trong tín điều Hoài Thai Vô Nhiễm Tội của Mẹ Maria: “Theo ơn gọi là Mẹ Đấng Thánh của Người (x Lk 1:35), chúng ta có thể cùng nhau xác nhận là công cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô đã đạt đến ở nơi Đức Maria tầm mức sâu thẳm hữu thể của Người cũng như vào những giây phút ban đầu của Người. Điều này không ngược với giáo huấn của Thánh Kinh, và chỉ có thể hiểu được theo chiều hướng Thánh Kinh. Những người Công giáo Rôma có thể nhìn nhận nơi điều này những gì đã được tín điều ấy xác nhận – tức là vấn đề ‘được gìn giữ khỏi tất cả mọi tì vết nguyên tội’ và ‘từ giây phút đầu tiên khi Người được hoài thai’”.

 

     Bản văn kiện này còn đặt vấn đề là như ân sủng hoạt động vào lúc ban đầu của đời sống Đức Maria thế nào thì Thánh Kinh cũng có những chứng cớ vững chắc cho thấy rằng những ai trung thành theo những gì Thiên Chúa dự định sẽ được vào hưởng thiên nhan Ngài. Dù ”không có chứng cớ trực tiếp trong Thánh Kinh liên quan đến việc kết thúc cuộc sống của Đức Maria” (56), “Kitô hữu Đông Tây từ đời nọ đến đời kia vẫn nghĩ về công cuộc của Thiên Chúa nơi Đức Maria, họ đều ý thức một cách tin tưởng rằng… thật là xứng hợp việc Chúa đã triệu Người về với Ngài một cách trọn vẹn: trong Chúa Kitô, Người đã là một tạo vật mới…” (58). Một lần nữa, khi liên kết ý thức về ân sủng và niềm hy vọng này nơi đời sống của Đức Maria với tín điều Mông Triệu của Đức Maria, bản văn nhận định là: “chúng ta có thể cùng nhau xác nhận giáo huấn Thiên Chúa đã mang Đức Trinh Nữ Maria vào vinh quang tất cả con người của Người là những gì hợp với Thánh Kinh, và giáo huấn ấy thực sự chỉ hiểu được theo chiều hướng Thánh Kinh như thế mà thôi. Những người Công Giáo Rôma có thể nhìn nhận rằng giáo huấn này về Đức Maria được tuyên bố bằng một tín điều” (58).

 

     Ủy ban này không hoàn toàn giải quyết những sự khác biệt giữa người Anh giáo và Công giáo liên quan tới hai tín điều ấy, vì những đúc kết trên đây liên quan tới nội dung Thánh Mẫu về hai tín điều, chứ không liên quan tới thẩm quyền hai tín điều ấy được xác định. Tuy nhiên, thành phần soạn thảo của ARCIC tin tưởng nêu lên rằng nếu những lập luận ở trong văn kiện Thánh Mẫu này được chấp thuận bởi cả Cộng Đồng Hiệp Thông Anh Giáo lẫn Giáo Hội Công Giáo Rôma thì văn kiện này “sẽ đặt ra các vấn đề về thẩm quyền phát xuất từ hai cuộc định tín năm 1854 và 1950 theo chiều hướng mới của đại kết” (78; x. 61-63).

 

     Nếu vấn đề Tôn Sùng Thánh Mẫu vốn là vấn đề bất đồng trầm trọng giữa Giáo Hội Công Giáo Rôma với các cộng đồng Kitô giáo Cải Cách nói chung và Cộng Đồng Hiệp Thông Anh Giáo nói riêng, mà giờ đây, qua bản văn kiện “Mẹ Maria: Ân Sủng và Niềm Hy Vọng trong Chúa Kitô”, vai trò của Mẹ đã được anh chị em thuộc Cộng Đồng Hiệp Thông Anh Giáo, qua thành phần thần học gia đại diện của họ, công nhận theo chiều hướng hai tín điều Thánh Mẫu của Giáo Hội Công Giáo Rôma như thế, thì phải chăng, bất chấp những diễn tiến mù mịt đang xẩy ra nơi Cộng Đồng Hiệp Thông Anh Giáo, (như được Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đề cập tới và được trích dẫn trên đây), ánh sáng cuối đường hầm đang tỏ hiện như rạng đông vươn lên ở chân trời Đại Kết Kitô Giáo giữa Giáo Hội Công Giáo Rôma và Cộng Đồng Hiệp Thông Anh Giáo!?

 

TOP

 

 

?  “Từ việc làm con cái của cha mẹ trần gian, các em cũng được trở nên con cái của Thiên Chúa nơi Người Con của V ị Thiên Chúa hằng sống”.

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI – Bài Giảng Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa Chúa Nhật 7/1/2007 tại Nguyện Đuờng Sistine

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Cả năm nay nữa, chúng ta gặp nhau để thực hiện một cử hành thực sự là gia đình, đó là việc Rửa Tội cho 13 em nhỏ trong Nguyện Đường Sistine tuyệt vời này, nơi mà nhờ tài sáng tạo của mình, điêu khắc gia Michelangelo và những nghệ sĩ nổi tiếng đã đạt được những tuyệt tác trình bày cho thấy những diệu kỳ của lịch sử cứu độ. 

 

Tôi muốn gửi lời chào ngay tới tất cả mọi anh chị em hiện diện nơi đây: cha mẹ, các bõ đỡ đầu, họ hàng thân thuộc và bạn hữu là tất cả những người hộ tống những bé sơ sinh đây ở giây phút quan trọng cho cuộc đời của các em cũng như cho Giáo Hội. Hết mọi con trẻ được hạ sinh đều mang lại cho chúng ta nụ cười của Thiên Chúa, và mời gọi chúng ta hãy nhìn nhận rằng sự sống là tặng ân của Ngài, một tặng ân cần phải được ưu ái đón nhận và cẩn thận bảo tồn, luôn mãi và từng giây từng phút.

 

Mùa Giáng Sinh, một mùa chấm dứt vào chính ngày hôm nay đây, đã giúp cho chúng ta chiêm ngưỡng Con Trẻ Giêsu trong hàng đá bần cùng ở Bêlem, được Mẹ Maria và Thánh Giuse âu yếm chăm sóc. Thiên Chúa ủy thác cho các vị phụ huynh hết mọi con trẻ được sinh ra, bởi thế mới thấy rằng quan trọng biết bao cơ cấu gia đình được xây dựng trên nền  tảng hôn nhân, cái nôi của sự sống và yêu thương!

 

Ngôi nhà Nazarét, nơi Thánh Gia đã sống là kiểu mẫu và là học đường của tính chất giản dị, nhẫn nại và hòa hợp cho tất cả mọi gia đình Kitô hữu. Tôi nguyện cầu Chúa cho gia đình của anh chị em cũng trở thành những nơi đón nhận để những em nhỏ này chẳng những được tăng trưởng lành mạnh về sức khỏe mà còn về cả đức tin và tình yêu kính Thiên Chúa, Đấng mà hôm nay, qua Phép Rửa, làm cho họ nên  con cái của Ngài.

 

Nghi Thức làm Phép Rửa cho những em bé này đang được cử hành vào ngày chúng ta cử hành Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, một biến cố như tôi đã nói kết thúc Mùa Giáng Sinh.

 

Chúng ta đã nghe trình thuật của Thánh Ký Luca, vị trình bày Chúa Giêsu là Đấng vẫn ẩn mình trong đám đông khi Người tiến đến với Gioan Tẩy Giả để lãnh nhận phép rửa. Chúa Giêsu cũng đã lãnh nhận phép rửa và ‘cầu nguyện’ như Thánh Luca nói với chúng ta (3:21). Chúa Giêsu nói với Cha của Người. Và chúng ta tin chắc rằng Người đã chẳng những nói cho Người mà còn nói về chúng ta và nói cho chúng ta nữa; Người cũng nói về tôi, về mỗi một người trong chúng ta và cho mỗi một người trong chúng ta.

 

Rồi vị Thánh Ký này nói với chúng ta rằng Chúa Giêsu đang nguyện cầu thì Trời mở ra ở trên Người.

 

Chúa Giêsu đã giao tiếp với Cha thì Trời đã mở ra trên Người. Vào lúc này đây chúng ta có thể nghĩ rằng Trời cũng mở ra cả ở nơi đây nữa, trên những em nhỏ này của chúng ta, những em mà, nhờ Bí Tích Rửa Tội, được giao tiếp với Chúa Giêsu. Trời mở ra trên chúng ta nơi Bí Tích này. Chúng ta càng sống giao tiếp với Chúa Giêsu theo thực tại Phép Rửa của mình, Trời càng mở ra trên chúng ta. Và từ Trời – chúng ta hãy trở lại với bài Phúc Âm – hôm đó vang ra một tiếng nói cùng Chúa Giêsu rằng: ‘Con là Con yêu dấu của Cha’ (Lk 3:22).

 

Nơi Phép Rửa, Cha Trên Trời cũng lập lại những lời này với một một em nhỏ này. Ngài nói: ‘Con là con của Cha’. Phép Rửa là việc thừa nhận và gia nhập vào gia đình của Thiên Chúa, vào mối hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi, vào mối hiệp thông với Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Thần. Chính vì lý do này mà Phép Rửa cần phải được ban phát nhân Danh Thiên Chúa Ba Ngôi. Những lời này không phải chỉ thuần túy là một công thức; chúng là một thực tại. Chúng đánh dấu giây phút con cái của anh chị em được tái sinh làm con cái Thiên Chúa. Từ việc làm con cái của cha mẹ trần gian, các em cũng được trở nên con cái của Thiên Chúa nơi Người Con của V ị Thiên Chúa hằng sống.

 

Tuy nhiên, giờ đây chúng ta cần phải suy niệm về những lời của Bài Đọc Thứ Hai của phụng vụ hôm nay, nơi Thánh Phaolô nói với chúng ta rằng: ‘Người đã cứu độ chúng ta, không phải vì các công việc công chính chúng ta làm, mà bởi tình thương của Người, bằng việc tẩy rửa tái sinh và canh tân trong Thánh Linh’ (Ti 3:5).

 

Việc tẩy rửa tái sinh: Phép Rửa không phải chỉ là một lời nói, nó chẳng những là một cái gì đó thiêng liêng mà còn bao hàm cả chất thể nữa. Tất cả mọi thực tại trên trái đất này đều có liên hệ với chất thể. Phép Rửa không phải chỉ liên quan tới linh hồn. Tính chất linh thiêng của con người bao gồm toàn thể con người, cả xác lẫn hồn. Tác động của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô là một tác động có hiệu năng phổ quát. Chúa Kitô mặc lấy xác thịt, và điều này tiếp tục nơi các bí tích, trong đó chất thể được sử dụng và trở thành một yếu của tác động thần linh.

 

Giờ đây chúng ta có thể hỏi rằng tại sao nước lại là dấu hiệu cho tính cách toàn thể ấy. Nước là yếu tố của sự phì nhiêu phong phú. Không có nước cũng chẳng có sự sống. Bởi vậy, nơi tất cả mọi đại tôn giáo, nước đầu được coi như là biểu hiệu của vai trò làm mẹ, của việc sinh hoa kết trái. Đối với các vị Giáo Phụ của Hội Thánh thì nước trở thành biểu hiệu cho cung lòng từ mẫu của Giáo Hội.

 

Giáo phụ Tertullian, một văn hào của Giáo Hội thuộc thế kỷ thứ hai và thứ ba, đã nói một điều chưng hửng. Ông nói: ‘Không có nước cũng chẳng bao giờ có Chúa Kitô’. Với những lời ấy, giáo phụ Tertullian muốn nói rằng Chúa Kitô chẳng bao giờ lại không có Giáo Hội. Nơi Phép Rửa, chúng ta được Cha Trên Trời thừa nhận làm dưỡng tử, thế nhưng, trong gia đình này, Ngài cũng ấn định phải có một người mẹ, đó là Mẹ Giáo Hội. Con người không thể có Thiên Chúa là Cha, các văn hào Kitô Giáo xưa đã nói thế, trừ phi họ có Giáo Hội là mẹ.

 

Chúng ta nhận thấy một cách mới mẻ là Kitô Giáo không phải chỉ là một thực tại thiêng liêng cá nhân, chỉ là một quyết định chủ quan do tôi thực hiện, mà là một cái gì đó thực hữu và cụ thể, đến  nỗi chúng ta có thể nói là một cái gì đó chất thể. Việc thừa nhận làm con cái của Thiên Chúa, của Thiên Chúa Ba Ngôi đồng thời cũng là việc được chấp nhận vào gia đình của Giáo Hội, nó là việc chấp nhận làm anh chị em trong đại gia đình Kitô hữu. Và chỉ có thế, có là con cái Thiên Chúa, chúng ta mới được tháp nhập như anh chị em vào thực tại của Giáo Hội để có thể thân thưa ‘Lạy Cha Chúng Con’ với Cha Trên Trời của chúng ta. Lời cầu nguyện này bao giờ cũng chất chứa cái ‘chúng ta’ này của gia đình Thiên Chúa.

 

Tuy nhiên, giờ đây chúng ta hãy trở lại với bài Phúc Âm, trong đó, Thánh Gioan Tẩy Giả nói rằng: ‘Tôi lấy nước mà rửa cho các người, thế nhưng có Đấng quyền năng hơn tôi đang đến… Người sẽ lấy Thánh Thần và lửa mà rửa cho các người’ (Lk 3:16).

 

Chúng ta đã nhìn thấy nước; thế nhưng giờ đây câu hỏi bất khả tránh được đặt ra là: lửa được Thánh Gioan Tẩy Giả nói tới là ở chỗ nào? Để thấy được thực tại về lửa này, thực tại hiện hữu nơi Phép Rửa bằng nước, chúng ta cần  phải nhận định là phép rửa của Thánh Gioan là một cử chỉ nhân loại, một tác động thống hối, một khát vọng Thiên Chúa của con người, trong việc xin thứ tha tội lỗi và là cơ hội để bắt đầu một cuộc sống mới. Nó chỉ là một thứ ước muốn của con người, một tác động hướng về Thiên Chúa bằng nỗ lực của họ.

 

Giờ đây điều ấy vẫn không đủ. Khoảng cách thì quá lớn. Nơi Chúa Giêsu Kitô, chúng ta thấy rằng Thiên Chúa đến gặp gỡ chúng ta. Nơi Phép Rửa Kitô Giáo, được Chúa Kitô thiết lập, chúng ta không chỉ tác hành bằng ước muốn được tẩy sạch nơi lời nguyện cầu xin ơn tha thứ.

 

Nơi Phép Rửa, chính Thiên Chúa tác hành, Chúa Giêsu tác hành qua Thánh Linh. Ngọn lửa của Thánh Linh hiện hữu nơi Phép Rửa Kitô Giáo. Thiên Chúa tác hành chứ không phải chỉ có chúng ta. Thiên Chúa hiện diện ở đây hôm nay. Ngài nhận lấy con cái của anh chị em và làm cho chúng thành của Ngài. 

 

Thế nhưng, bình thường Thiên Chúa không tác hành một cách ma thuật. Ngài tác hành với tự do của chúng ta. Chúng ta không thể nào loại bỏ tự do của chúng ta. Thiên Chúa thách đố tự do của chúng ta, mời gọi chúng ta hãy cộng tác với ngọn lửa của Thánh Linh. Hai điều này cần phải đi đôi với nhau. Phép Rửa sẽ mãi là một tặng ân của Thiên Chúa suốt cuộc đời, Đấng đã đóng dấu ấn trên tâm hồn của chúng ta. Thế nhưng, bởi vậy mà việc hợp tác của chúng ta, việc tự do của chúng ta sẵn sàng đáp ‘xin vâng’ là những gì làm cho tác động thần linh được hiệu năng.

 

Những em bé này của anh chị em, những em mà giờ đây chúng ta sẽ làm phép rửa cho, chưa thể hợp tác được, chưa thể bày tỏ niềm tin của mình. Đó là lý do việc hiện diện của anh chị em, anh chị em làm cha làm mẹ thân mến, hỡi anh chị em làm bõ đỡ đầu thân mến, có một giá trị và ý nghĩa đặc biệt. Hãy luôn luôn trông coi những em nhỏ này, nhờ đó chúng có thể nhận biết Thiên Chúa khi chúng lớn lên, biết mến yêu Ngài hết sức chúng và trung thành phụng sự Ngài. Chớ gì anh chị em là những nhà giáo dục đức tin tiên khởi của các em, cống hiến cho chúng kèm theo việc dạy dỗ của anh chị em gương lành của một cuộc đời Kitô hữu thiết tha gắn bó. Hãy dạy cho chúng nguyện cầu và cảm thấy như là phần tử sống động nơi gia đình cụ thể của Thiên Chúa, nơi Cộng Đồng Giáo Hội.

 

Việc chuyên chăm học hỏi cuốn Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo hay cuốn Tổng Lược sách Giáo Lý này là những gì có thể cống hiến cho anh chị em sự trợ giúp quan trọng. Nó chất chứa những yếu tố thiết yếu cho niềm tin của chúng ta và có thể là một phương tiện đặc biệt hữu dụng trực tiếp cho c hính bản thân anh chị em, trong việc gia tăng kiến thức về đức tin Công Giáo cũng như trong việc truyền đạt đức tin này một cách trọn vẹn và trung thành cho con cái của anh chị em. Nhất là đừng quên rằng chính chứng từ của anh chị em, chính gương lành của anh chị em, là những gì tác động nhiều nhất trong việc trưởng thành về nhân bản và tinh thần đối với tự do của con cái anh chị em. Cho dù có đôi khi bị quay cuồng theo những hoạt động thường nhật cũng đừng lơ là việc duy trì việc nguyện cầu riêng tư cũng như trong gia đình, một việc nguyện cầu là bí mật cho việc kiên cường bền đỗ của Kitô hữu.

 

Chúng ta hãy ký thác những em bé này và gia đình của các em cho Vị Trinh Mẫu của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế của chúng ta, Đấng được cho thấy trong phụng vụ hôm nay là Người Con yêu dấu của Thiên Chúa: xin Mẹ Maria hãy trông coi các em và hỗ trợ các em luôn mãi, để các em có thể trọn vẹn thi hành dự án cứu độ được Thiên Chúa giành cho mỗi người. Amen.

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/homilies/2007/documents/hf_ben-xvi_hom_20070107_battesimo_en.html

 

 

TOP

 

 

? Tòa Thánh Chỉ Trích Quyết Định của Quốc Hội Âu Châu về Công Việc Phôi Thai Nhân Bào

 

Thứ Năm 30/11/2006, Quốc Hội Âu Châu đã chấp thuận Chương Trình Nghiên Cứu Nội Dung Thứ Bảy, bằng việc phân phối 54.5 triệu Đồng Âu (tức 72.7 Mỹ kim) trong thời khoảng 2007-2013 cho các lãnh vực từ kinh tế đến những thứ tân kỹ thuật, và từ môi trường đến sức khỏe.

 

Chương trình này, với ngân quĩ cao hơn 40% lần trước, được hiệu lực từ ngày 1/1/2007. Văn phòng báo chí của Quốc Hội Âu  Châu cho biết chi tiết là việc tài trợ cho những dự án liên quan tới các thứ tế bào thân từ phôi thai nhân bào chỉ được cho phép thực hiện bao lâu việc nghiên cứu ấy được ban phép bởi ngành lập pháp của quốc gia trong cuộc.

 

Tuy nhiên, Chương Trình Nghiên Cứu Nội Dung Thứ Bảy này sẽ khôn g tài trợ việc nghiên cứu nhắm tới chỗ tạo sinh sao bản con người cho mục sinh sinh sản, nhắm tới chỗ cải tiến gia sản di giống của con người, hay tới chỗ tạo nên những phôi thai bào con người chỉ hoàn toàn vì mục đích nghiên cứu hay có được những tế bào thân.

 

Bản thông cáo còn cho biết là cuộc nghiên cứu vấn đề sử dụng các thân bào con người – cả tế bào già lẫn tế bào từ phôi thai nhân bào, tùy thuộc vào nội dung của dự án khoa học cũng như phạm vị luật pháp của những quốc gia phần tử tương hợp – là những gì có thể được tài trợ.

 

Việc tạo các thân bào từ phôi thai nhân bào ‘dư thừa’ – kết quả từ việc thụ tinh ống nghiệm – là những gì được phép làm ở Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Hy Lạp, Tây Ban Nha và Low Countries.

 

Các nước Estonia, Hung Gia Lợi, Latvia và Tiệp Khắc không có qui luật đặc biệt về các thứ thân bào từ phôi thai nhân bào, thế nhưng cho phép thực hiện một cuộc nghiên cứu nào đó với những phôi thai nhân bào ‘dư thừa’.

 

Ý và Đức có hạn chế và không được phép có được những thứ thân bào mới từ phôi thai nhân bào, mặc dù hai nước này có thể nhập cảng những thứ thân bào này.

 

Áo, Lithuania và Balan cấm nghiên cứu các thứ thân bào từ phôi thâi nhân bào.

 

Bỉ, Hiệp Vương Quốc và Thụy Điển cho phép tạo sinh sao bản trị liệu, hiển nhiên bị loại khỏi Chương Trình của Cộng Đồng này.

 

Theo Đức Giám Mục Elio Sgreccia, chủ tịch Học Viện Tòa Thánh  Về Sự Sống, bày tỏ trên Đài Phát Thanh Vatican thì bản thông cáo này của Quốc Hội Âu Châu ‘rõ ràng cho thấy chủ trương tương đối về luân lý và đạo đức là những gì hiện đang chi phối Âu Châu.

 

‘Tôi nghĩ rằng yếu tính của việc cân nhắc này là ở chỗ hết mọi sự đều hợp lý – ngoại trừ việc tạo sinh sao bản sinh sản – chỉ có một giới hạn duy nhất là việc lập pháp của quốc gia’, những gì cho thấy rằng ‘ở Âu Châu, các quyền lợi căn bản không bình đẳng’

 

‘Nơi nào chỉ có một thứ luật duy nhất thì người ta được nhìn nhận là một con người từ khi thụ thai; trái lại, nơi nào có luật lệ khác, thì con người không còn được công nhận như thế. Bởi thế, tôi không còn thấy Âu Châu là nơi được bắt nguồn từ một bản hiến chương nhân quyền nữa’. 

 

Theo vị giám mục này thì quyết định trên đây có thể đưa đến thứ ‘chợ đen’ nơi loại nghiên cứu này, bởi Quốc Hội Âu Châu thiên về ước muốn thử nghiệm và thương mại, ‘vì thấy rằng người ta không thể ở Ý chẳng hạn trong việc tạo các th71 thân bào từ phôi thai nhân bào nhưng lại có thể mua những thứ thân bào ấy ở Anh quốc’.

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 4/12/2006

 

 

TOP

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ